Phân tích, đánh giá Dục Thúy Sơn - Nguyễn Trãi Ngữ Văn 10 sách Kết Nối Tri Thức

Trên đây là bài viết Phân tích, đánh giá tác phẩm: Dục Thúy Sơn (Nguyễn Trãi). Hi vọng qua bài viết này bạn đọc có thêm nhiều tài liệu để học tập tốt hơn môn Ngữ văn 10 - bộ sách Kết nôi tri thức - tập 2

PHÂN TÍCH, ĐÁNH GIÁ DỤC THÚY SƠN - NGUYN TRÃI
Tình yêu thiên nhiên luôn mt ch đề, mt ngun cm hng lớn được rt nhiu
các nhà thơ trung đại hướng đến tìm tòi và khám phá, n sau bc tranh thiên nhiên đó
mt cm hng thế s hoài c sâu sc. Dc Thúy Sơn đưc rút t tp c Trai thi tp, viết
vào sau cuc kháng chiến chống quân Minh trưc khi Nguyn Trãi lui v n ti Côn
Sơn là một bài thơ tiêu biu cho ngun cm hng này.
M đầu bài thơ, tác giả đã giới thiu khái quát v ngn núi ca bin:
“Hi khu hu tiên san
Tiền Niên lũ vãng hoàn
(Ca bin có ngn núi tiên
Năm xưa ta đã nhiu ln qua lại nơi này)
Tác gi s dng t “tiên” - vốn mang ý nghĩa của những điều diu, thoát khi
chốn phàm thường giúp người đọc hình dung núi Dục Thúy như chốn bng lai tiên cnh,
là món quà vô giá và vĩnh cửu mà tiên gii ban tặng cho con ngưi.
V đẹp toàn cnh ca núi Dc Thúy hin lên cùng nét qua câu 3 4 t điểm
nhìn xa, có tm bao quát rng:
“Liên hoa phù thủy thưng
Tiên cnh try trần gian”
(Cảnh tiên nơi cõi tục
Mt nưc ni hoa sen)
Cnh núi Dc Thúy hiện lên như cảnh thn tiên trên cõi tc, được như một bông
hoa sen ni trên mặt nước, hình ảnh thơ bút pháp mới lạ, độc đáo. Nhà thơ không so
sánh trc tiếp biu th núi Dc Thúy với đóa sen. Hình nh hoa sen ý nghĩa biểu
ng, biểu trưng cho sự thoát tc, như là cõi tiên rơi xuống trn gian. Đó là vẻ đẹp thanh
cao, mang đm du ấn văn hóa tôn giáo đc bit Phật giáo. Đài sen nơi Đc Pht
ng ta, chng nhân ca bao sinh kiếp lượng Người đã ban xuống. Ngôn ng
thơ được s dng tinh tế, to ấn tượng sâu đậm cho người đc người nghe. Trong nguyên
văn, từ “phù” nghĩa là nổi nhưng lay động ti ch, t “try” có nghĩa là rơi rt t trên cao
xung, th hin s sng động trong miêu t.
Câu 5 câu 6 th hin du n riêng mnh m ca tâm hn Nguyn Trãi, hai câu thơ
miêu t cn cnh núi dc Thúy:
“Tháp nh trâm thanh ngc
Ba quang kính thúy hoàn”
(Bóng tháp hình trâm ngc
Gương sông ánh tóc huyền)
Tác gi so sánh bóng tháp như chiếc trâm ngọc màu xanh, ánh sáng sóng ớc như
đang soi chiếu vào mái tóc biếc… Trâm ngc xanh và mái tóc biếc gi hình nh tr trung,
trong sáng, tr tình nên thơ, thường được dùng đ miêu t v đẹp của ngưi con gái.
Thiên nhiên đưc so sánh vi v đẹp của con người. Ly v đẹp của người con gái để
hình dung bóng núi trên sóng biếc. S liên ng cùng hiện đại, đặc bit hiếm gp
trong thơ cổ. Nếu như thơ c dùng v đẹp thiên nhiên làm chun mc thì Nguyn Trãi li
ly v đẹp con người là thước đo. Điều đó cho thấy tâm hn trong sáng, nhy cm, tinh tế
ca nhà thơ.
Hai câu cuối bài thơ là nỗi nim hoài nim của nhà thơ:
“Hữu hoài trương Thiếu bo
Bi khc tiền hoa ban”
(Nh xưa Trương Thiếu bo
Bia khc du rêu hoen)
Trong phn kết ca nhng bài thơ viết v đề tài “đăng cao”, “đăng sơn”, thi nhân
xưa thường th hin chí khí hào hùng, khát vng ln lao, hoc nhn mnh s nh bé,
đơn của con người trưc núi sông kì vĩ.
“Việc cũ ngoảnh đầu ôi đã dứt
Dòng trôi tìm bóng d bâng khuâng’’
(Ca bin Bch Đng)
Hai câu thơ kết này cũng như những bài thơ khác cùng chủ đề ca Nguyn Trãi, là
s bc l những suy v con người, lch s, dân tc. Tác gi s dng t “hữu hoài”
mang nét nghĩa là nh v nhng điều xưa cũ, cụ th đây là hình ảnh ca bậc danh sĩ cao
khiết Trương Hán Siêu dưới triu Trần người đã đã được Vua Trn ban cho danh v cao
quý Thiếu bo. Tên tui ca ông gn lin vi Dục thúy sơn. Nguyễn Trãi không gọi đích
danh tên của Trương Hán Siêu gi danh v ca ông th hin s tôn kính, trng vng
với người xưa.Tác giả đứng trên núi Dc Thúy nhìn i ngắm tháp bùi ngùi thương
nh người xưa, hình ảnh Trương Thiếu bo còn phng phất đâu đây.
Nhà thơ đã khái quát lên mt quan nim, đó những thc th tri giác thì
tn tại vĩnh cửu, còn con người thì phi theo quy lut sinh - lão - bnh - t ca thi gian,
không th làm trái li. Nhng biến đi không ngng ngh của đất nước khiến mi th xy
ra quá nhanh, tựa như cát bụi thoáng qua.
Bng ngòi bút tài hoa, tác gi s dng th tđường luật ngũ ngôn bát , h
thng hình nh n dụ, so sánh, đối nhau th hin rõ nét v đẹp ca núi Dc Thúy. Bài thơ
miêu t v đẹp ca núi Dc Thúy thn tiên thoát tc, xen vào đó nỗi nim cm hoài v
người xưa của tác gi Nguyn Trãi. “Dc Thúy Sơn” đã phản ánh một tài năng lớn, mt
nhân cách văn hóa cao đẹp ca Đi Vit trong thế k XX.
| 1/3

Preview text:


PHÂN TÍCH, ĐÁNH GIÁ DỤC THÚY SƠN - NGUYỄN TRÃI
Tình yêu thiên nhiên luôn là một chủ đề, một nguồn cảm hứng lớn được rất nhiều
các nhà thơ trung đại hướng đến tìm tòi và khám phá, ẩn sau bức tranh thiên nhiên đó là
một cảm hứng thế sự hoài cổ sâu sắc. Dục Thúy Sơn được rút từ tập Ức Trai thi tập, viết
vào sau cuộc kháng chiến chống quân Minh và trước khi Nguyễn Trãi lui về ở ẩn tại Côn
Sơn là một bài thơ tiêu biểu cho nguồn cảm hứng này.
Mở đầu bài thơ, tác giả đã giới thiệu khái quát về ngọn núi cửa biển:
“Hải khẩu hữu tiên san
Tiền Niên lũ vãng hoàn”
(Cửa biển có ngọn núi tiên
Năm xưa ta đã nhiều lần qua lại nơi này)
Tác giả sử dụng từ “tiên” - vốn mang ý nghĩa của những điều kì diệu, thoát khỏi
chốn phàm thường giúp người đọc hình dung núi Dục Thúy như chốn bồng lai tiên cảnh,
là món quà vô giá và vĩnh cửu mà tiên giới ban tặng cho con người.
Vẻ đẹp toàn cảnh của núi Dục Thúy hiện lên vô cùng rõ nét qua câu 3 và 4 từ điểm
nhìn xa, có tầm bao quát rộng:
“Liên hoa phù thủy thượng
Tiên cảnh trụy trần gian”
(Cảnh tiên nơi cõi tục
Mặt nước nổi hoa sen)
Cảnh núi Dục Thúy hiện lên như cảnh thần tiên trên cõi tục, được ví như một bông
hoa sen nổi trên mặt nước, hình ảnh thơ và bút pháp mới lạ, độc đáo. Nhà thơ không so
sánh mà trực tiếp biểu thị núi Dục Thúy với đóa sen. Hình ảnh hoa sen có ý nghĩa biểu
tượng, biểu trưng cho sự thoát tục, như là cõi tiên rơi xuống trần gian. Đó là vẻ đẹp thanh
cao, mang đậm dấu ấn văn hóa tôn giáo đặc biệt là Phật giáo. Đài sen là nơi Đức Phật
ngự tọa, là chứng nhân của bao sinh kiếp vô lượng mà Người đã ban xuống. Ngôn ngữ
thơ được sử dụng tinh tế, tạo ấn tượng sâu đậm cho người đọc người nghe. Trong nguyên
văn, từ “phù” nghĩa là nổi nhưng lay động tại chỗ, từ “trụy” có nghĩa là rơi rớt từ trên cao
xuống, thể hiện sự sống động trong miêu tả.
Câu 5 và câu 6 thể hiện dấu ấn riêng mạnh mẽ của tâm hồn Nguyễn Trãi, hai câu thơ
miêu tả cận cảnh núi dục Thúy:
“Tháp ảnh trâm thanh ngọc
Ba quang kính thúy hoàn”
(Bóng tháp hình trâm ngọc
Gương sông ánh tóc huyền)
Tác giả so sánh bóng tháp như chiếc trâm ngọc màu xanh, ánh sáng sóng nước như
đang soi chiếu vào mái tóc biếc… Trâm ngọc xanh và mái tóc biếc gợi hình ảnh trẻ trung,
trong sáng, trữ tình và nên thơ, thường được dùng để miêu tả vẻ đẹp của người con gái.
Thiên nhiên được so sánh với vẻ đẹp của con người. Lấy vẻ đẹp của người con gái để
hình dung bóng núi trên sóng biếc. Sự liên tưởng vô cùng hiện đại, đặc biệt và hiếm gặp
trong thơ cổ. Nếu như thơ cổ dùng vẻ đẹp thiên nhiên làm chuẩn mực thì Nguyễn Trãi lại
lấy vẻ đẹp con người là thước đo. Điều đó cho thấy tâm hồn trong sáng, nhạy cảm, tinh tế của nhà thơ.
Hai câu cuối bài thơ là nỗi niềm hoài niệm của nhà thơ:
“Hữu hoài trương Thiếu bảo
Bi khắc tiền hoa ban”
(Nhớ xưa Trương Thiếu bảo
Bia khắc dấu rêu hoen)
Trong phần kết của những bài thơ viết về đề tài “đăng cao”, “đăng sơn”, thi nhân
xưa thường thể hiện chí khí hào hùng, khát vọng lớn lao, hoặc nhấn mạnh sự nhỏ bé, cô
đơn của con người trước núi sông kì vĩ.
“Việc cũ ngoảnh đầu ôi đã dứt
Dòng trôi tìm bóng dạ bâng khuâng’’
(Cửa biển Bạch Đằng)
Hai câu thơ kết này cũng như những bài thơ khác cùng chủ đề của Nguyễn Trãi, là
sự bộc lộ những suy tư về con người, lịch sử, dân tộc. Tác giả sử dụng từ “hữu hoài”
mang nét nghĩa là nhớ về những điều xưa cũ, cụ thể ở đây là hình ảnh của bậc danh sĩ cao
khiết Trương Hán Siêu dưới triều Trần người đã đã được Vua Trần ban cho danh vị cao
quý Thiếu bảo. Tên tuổi của ông gắn liền với Dục thúy sơn. Nguyễn Trãi không gọi đích
danh tên của Trương Hán Siêu mà gọi danh vị của ông thể hiện sự tôn kính, trọng vọng
với người xưa.Tác giả đứng trên núi Dục Thúy nhìn núi ngắm tháp mà bùi ngùi thương
nhớ người xưa, hình ảnh Trương Thiếu bảo còn phảng phất đâu đây.
Nhà thơ đã khái quát lên một quan niệm, đó là những thực thể vô tri vô giác thì
tồn tại vĩnh cửu, còn con người thì phải theo quy luật sinh - lão - bệnh - tử của thời gian,
không thể làm trái lại. Những biến đổi không ngừng nghỉ của đất nước khiến mọi thứ xảy
ra quá nhanh, tựa như cát bụi thoáng qua.
Bằng ngòi bút tài hoa, tác giả sử dụng thể thơ đường luật ngũ ngôn bát cú, hệ
thống hình ảnh ẩn dụ, so sánh, đối nhau thể hiện rõ nét vẻ đẹp của núi Dục Thúy. Bài thơ
miêu tả vẻ đẹp của núi Dục Thúy thần tiên thoát tục, xen vào đó là nỗi niềm cảm hoài về
người xưa của tác giả Nguyễn Trãi. “Dục Thúy Sơn” đã phản ánh một tài năng lớn, một
nhân cách văn hóa cao đẹp của Đại Việt trong thế kỉ XX.