-
Thông tin
-
Quiz
Phân tích Đất Nước phần cuối - Ngữ Văn 12
Nguyễn Khoa Điềm là một trong những cây bút tiêu biểu của thế hệ nhà thơ trẻ trong những năm chống Mĩ cứu nước. Thơ ông giàu chất suy tư, cảm xúc lắng đọng, thể hiện tâm tư của người tri thức tham gia tích cực vào cuộc chiến đấu của nhân dân, mang màu sắc chính luận. Tiêu biểu là trường ca ‘’Mặt đường khát vọng’’, trong đó có đoạn trích “Đất Nước”. Tài liệu được sưu tầm giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao trong kì thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem !
Tài liệu chung Ngữ Văn 12 162 tài liệu
Ngữ Văn 12 0.9 K tài liệu
Phân tích Đất Nước phần cuối - Ngữ Văn 12
Nguyễn Khoa Điềm là một trong những cây bút tiêu biểu của thế hệ nhà thơ trẻ trong những năm chống Mĩ cứu nước. Thơ ông giàu chất suy tư, cảm xúc lắng đọng, thể hiện tâm tư của người tri thức tham gia tích cực vào cuộc chiến đấu của nhân dân, mang màu sắc chính luận. Tiêu biểu là trường ca ‘’Mặt đường khát vọng’’, trong đó có đoạn trích “Đất Nước”. Tài liệu được sưu tầm giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao trong kì thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem !
Chủ đề: Tài liệu chung Ngữ Văn 12 162 tài liệu
Môn: Ngữ Văn 12 0.9 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:
Tài liệu khác của Ngữ Văn 12
Preview text:
Phân tích Đất Nước ( phần cuối) Bài làm
Nguyễn Khoa Điềm là một trong những cây bút tiêu biểu của thế hệ nhà thơ trẻ trong
những năm chống Mĩ cứu nước. Thơ ông giàu chất suy tư, cảm xúc lắng đọng, thể hiện tâm tư
của người tri thức tham gia tích cực vào cuộc chiến đấu của nhân dân, mang màu sắc chính
luận. Tiêu biểu là trường ca ‘’Mặt đường khát vọng’’, trong đó có đoạn trích “Đất Nước”.
Đoạn trích đã thể hiện một cách sâu sắc vẻ đẹp của Đất Nước và tư tưởng lớn của thời đại “Đất
nước của nhân dân”. Tư tưởng ấy được thể hiện đậm nét qua đoạn thơ sau:
“Để đất nước này là của nhân dân
......................................................
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”
Trường ca ‘’Mặt đường khát vọng”, được ông sáng tác ở chiến khu Trị-Thiên năm 1971,
in xuất bản lần đầu năm 1974, viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ đô thị vùng tạm chiếm miền
Nam về trách nhiệm với non sông đất nước và sứ mệnh thế hệ mình , hơn cả là hòa mình với
cuộc đấu tranh chống Mĩ xâm lược. Đoạn trích “Đất nước” nằm ở phần đầu chương V của
trường ca. Đoạn thơ trên thuộc phần 2 của đoạn trích.
Đoạn thơ mở đầu bằng một lời khẳng định, lời khẳng định ấy là cảm hứng chung cho cả đoạn thơ:
“Để đất nước này là đất nước của nhân dân
Đất nước của nhân dân, đất nước của ca dao thần thoại”
Có thể nói, “Đất Nước” của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm là một khúc ca về sự nhận
thức nguồn gốc sâu xa của nhà thơ về đất nước, về trí tuệ, tâm hồn và ý chí của nhân dân. Để
từ đó, nhà thơ khẳng định :không ai khác, nhân dân chính là người làm nên đất nước. Chính vì
vậy, ngay từ câu thơ đầu, nhà thơ đã khẳng định chắc nịch “ Để đất nước này là đất nước của
nhân dân”, lời khẳng định ấy là cảm hứng cho cả đoạn thơ nói riêng và cho đoạn trích đất nước
nói chung. Ở đó còn là tình cảm chân thành, mãnh liệt của nhà thơ đối với đất nước. Hơn ai
hwts, nhà thơ hiểu rằng: Để có được đất nước trường tồn, vững mạnh như ngày hôm nay thì
nhân dân là những người đã trực tiếp đổ máu xương của mình để làm nên hình hài đất nước. Vì
thế đất nước không của riêng ai mà là của chung , của nhân dân và mãi mãi thuộc về nhân dân.
Ở câu thơ thứ hai, nhà thơ lại một lần nữa khẳng định “Đất nước của nhân dân, đất
nước của ca dao thần thoại”. Bằng cách điệp cụm từ “Đất nước của nhân dân” thêm một lần
nữa, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm như nhấn mạnh về sứ mệnh thiêng liêng của nhân dân đối với
đất nước. Bao lớp lớp thế hệ ông cha sẵn sàng lên đường bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn từng tấc đất
cho xứ sở thân yêu này, để làm được điều đó họ phải từ bỏ gia đình, quê hương để lên đường
chiến đấu. Vậy “ đất nước không của nhân dân” thì đất nước của ai?. Vế thứ hai ý thơ gợi “đất
nước của ca dao thần thoại”, nhắc đến ca dao thần thoại, ta lại càng nhớ đến nhân dân. Vì hơn
ai hết, nhân dân chính là người tạo ra văn hóa,sáng tạo ra ca dao thần thoại. Mà đất nước của ca
dao thần thoại nghĩa là Đất Nước tươi đẹp vô ngần như vầng trăng cổ tích, ngọt ngào như ca
dao, như nguồn sữa mẹ nuôi ta lớn nên người. Và không phải ngẫu nhiên tác giả nhắc tới hai
thể loại tiêu biểu nhất của văn học dân gian. “Thần thoại” thể hiện cuộc sống qua trí tưởng
tượng bay bổng của nhân dân. Còn “ca dao” bộc lộ thế giới tâm hồn của nhân dân với tình yêu
thương, với sự lãng mạn cùng với tinh thần lạc quan. Đó là những tác phẩm do nhân dân sáng
tạo, lưu truyền và có khả năng phản chiếu tâm hồn, bản sắc dân tộc một cách đậm nét nhất.
Và khi nói đến “Đất nước của Nhân dân”, một cách tự nhiên, tác giả trở về với cội
nguồn phong phú đẹp đẽ của văn hóa, văn học dân gian mà tiêu biểu là trong ca dao. Vẻ đẹp
tinh thần của nhân dân, hơn đâu hết, có thể tìm thấy ở đó trong ca dao, dân ca, truyện cổ tích. Ở
đây tác giả chỉ chọn lọc ba câu để nói về ba phương diện quan trọng nhất của truyền thống nhân dân, dân tộc:
“Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi
.............................................................
Đi trả thù mà không sợ dài lâu”
Chức năng của ca dao, nói như Nguyễn Khoa Điềm là “dạy”. Chức năng ấy cùng với ý
nghĩa của nó được thể hiện qua ba phương diện. Phương diện thứ nhất là tình cảm thủy chung
son sắt trong tình yêu thương giữa con người với con người, trong tình máu mủ ruột thịt, trong
tình yêu đôi lứa...từ ý tứ trong ca dao
“Yêu em từ thuở trong nôi
Em nằm em khóc, anh ngồi anh ru”
Nhà thơ đã viết nên lời thơ chân tình “Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi”.Ý thơ
khẳng định được một tình yêu thủy chung bền vững, gắn bó keo sơn không gì có thể đong đếm
được. Và đó cũng chính là lời dạy của nhân dân đối với chúng ta: con người phải biết yêu
thương, gắn bó, thủy chung, son sắt với tình yêu của mình.
Phương diện thứ hai là quan niệm sống: trên đời cần phải biết quý trọng tình nghĩa,
công sức của người khác. Ý thơ “ Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội”, được lấy từ ý ca dao
“Cầm vàng mà lội qua sông
Vàng rơi không tiếc tiếc công cầm vàng”]
Nhân dân đã dạy ta rằng: ở đời còn có thứ quý hơn vàng bạc, châu báu, đó là tình nghĩa
giữa con người với con người. Bởi vậy, nghĩa với tình còn nặng hơn nhiều lần so với giá trị vật chất.
Phương diện thứ ba là tinh thần yêu nước, yêu tổ quốc, đó chính là truyền thống kiên
cường, bất khuất trong quá trình đấu tranh chống giặc ngoại xâm
“Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thì mà không sợ dài lâu”
Vẻ đẹp của truyề thống anh hùng ấy cũng được làm nên từ những câu ca dao ca ngợi
tinh thần quật khởi của dân tộc
“Thù này chắc hẳn còn lâu
Trồng tre nên gậy, gặp đâu đánh què”
Hai câu thơ gợi lại biết bao cuộc kháng chiến oanh liệt, trường kì của nhân dân trong
cuộc chiến đấu bảo vệ tổ quốc từ thuở lập nước, giữ nước đến các cuộc chiến đấu giành độc
lập, tự do dài chục năm, trăm năm, thậm chí hàng nghìn năm nhung vẫn đứng lên, vẫn hiên
ngang đầy bất khuất. Từ đó có thể khẳng định: Nhân dân đã làm ra văn hóa, là ra đất nước
bằng chính lẽ sống tâm hồn của mình.
Bốn câu thơ cuối là hình ảnh người chèo đò, kéo thuyền vượt thác cất cao tiếng hát là
một biểu tượng nói lên sức mạnh Nhân dân chiến thắng mọi thử thách, lạc quan tin tưởng đưa
Đất Nước đi tới một ngày mai vô cùng tươi sáng:
“Ôi những dòng sô ng bắt nước từ đâu
..............................................................
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”
Câu thơ gợi cho ta hình ảnh của “những dòng sông”, những dòng sông không biết bắt
nguồn từ đâu, từ bến bờ nào nhung khi hòa vào đất việt, chảy vào mảnh đất cong cong hình
chữ s thân yêu này lại vang lên biết bao câu hát điệu hò. Nó làm ta nhớ đến những điệu hò
hùng tráng trên sông Mã, điệu ca Huế ngọt ngào trên sông Hương hay “Đẹp vậy thay tiếng hát
trên sông Đà” của Nguyễn Tuân. Và những “dòng sông” ấy không chỉ có ý nghĩa là dòng sông
của quê hương, đất nước mà còn mang ý nghĩa là dòng sông của văn hóa, dòng sông của lịch
sử ngân vang, của sử thi viết tiếp truyền thống cha anh. Là sự hòa ca của 54 dân tộc anh em trải
dài khắp mảnh đất này, là 54 dòng chảy văn hóa đa dạng phong phú gợi “trăm màu, trăm
dáng”. Và đó chính là sự đa dạng phong phú của văn hóa Việt Nam đã vun đắp phù sa qua bao
năm tháng thăng trầm để làm nên một đất nước đậm đà bản sắc dân tộc.
Đoạn thơ đã để lại âm hưởng ca dao, dân ca đặc sắc nhưng không lấy lại nguyên văn
mà sáng tạo làm nên một ý thơ riêng mềm mại, tài hoa và giàu tính triết lý. Điệp ngữ “Đất
Nước” được nhắc lại nhiều lần cùng với việc nhà thơ luôn viết hoa hai từ “Đất Nước” tạo nên
một tình cảm thiêng liêng xiết bao tự hào về non sông gấm vóc Việt Nam.
Tóm lại, đoạn thơ ta vừa phân tích đã thể hiện một cách rất thành công tư tưởng lớn của
thời đại “Đất Nước của nhân dân”. Cảm ơn nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã mang đến cho ta
một giọng thơ tài hoa và những câu thơ giàu tính triết lý để ta thêm hiểu, thêm yêu, thêm tin
vào sức mạnh của nhân dân và tin vào tình yêu Đất Nước của chính mình.