





Preview text:
Phân tích dấu hiệu hậu quả trong mặt khách quan của tội phạm?
Mặt khách quan của tội phạm là những biểu hiện ra bên ngoài của tội phạm,
bao gồm những biểu hiện của tội phạm diễn ra và tồn tại bên ngoài thế giới
khách quan (hành vi, hậu quả, mối quan hệ nhân quả...).
* Hậu quả của tội phạm là thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra cho quan hệ xã
hội được luật hình sự bảo vệ bằng cách làm thay đổi trạng thái ban đầu của
đối tượng tác động. Đây chỉ là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm vật chất.
* Các dạng biểu hiện được coi là hậu quả của tội phạm:
+ Thiệt hại về thể chất: Là thiệt hại về tính mạng, về sức khoẻ của con người.
Ví dụ: Tội giết người, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác.
+ Thiệt hại về tinh thần: Là thiệt hại cho danh dự, nhân phẩm của con người;
thiệt hại cho quyền công dân được Hiến pháp thừa nhận. Đây là thiệt hại khó
xác định về mức độ. Do đó thiệt hại về tinh thần không được quy định trong cấu thành tội phạm.
+ Thiệt hại về vật chất: Là thiệt hại về tài sản như tài sản bị phá hoại, phá hủy,
hủy hoại, bị chiếm đoạt, bị chiếm giữ trái phép, bị sử dụng trái phép.
+ Sự biến dạng xử sự của con người: Hậu quả của tội phạm có thể là sự tự
biến dạng xử sự của chính chủ thể nhưng có thể làm biến dạng xử sự của
người khác. Ví dụ: Xúi giục người khác tự sát, bức tử, dụ dỗ người chưa thành niên phạm tội.
- Việc nghiên cứu dấu hiệu hậu quả của tội phạm có ý nghĩa thực tiễn sau:
+ Đối với tội có cấu thành vật chất, việc xác định hậu quả của tội phạm có ý
nghĩa đối với việc định tội.
+ Đối với trường hợp cấu thành tội phạm tăng nặng có dấu hiệu phản ánh
hậu quả (hoặc mức độ hậu quả), việc xác định hậu quả của tội phạm có ý
nghĩa đối với việc định khung hình phạt.
+ Đối với trường hợp khác, việc xác định mức độ hậu quả cũng luôn cần thiết
vì đó là căn cứ để đánh giá mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và do
vậy là căn cứ để quyết định hình phạt.
Luật Minh Khuê phân tích chi tiết như sau:
1. Mặt khách quan của tội phạm là gì?
Mặt khách quan của tội phạm là mặt bên ngoài của tội phạm. Bất kỳ tội phạm
nào cũng được thể hiện ra bên ngoài, phản ánh trong thế giới khách quan.
Mặt khách quan của tội phạm có những dấu hiệu: Hành vi nguy hiểm cho xã
hội, hậu quả tác hại do hành vi đó gây ra, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi
nguy hiểm và hậu quả tác hại, thời gian, địa điểm, phương pháp, phương tiện
và công cụ thực hiện tội phạm.
Hành vi khách quan và một số dấu hiệu khác trong mặt khách quan của tội
phạm như hậu quả, phương pháp, thủ đoạn phạm tội được phản án là dấu
hiệu bắt buộc. Việc nghiên cứu, xác định chúng có ý nghĩa về mặt định tội. Ví
dụ: Trong tội cướp tài sản, mặt khách quan của tội phạm phải biểu hiện hành
vi "dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm
cho người bị tán công lâm vào tình trạng không thể chống cự được" nhằm
chiến đoạt tài sản thì mới thỏa mãn tội phạm.
Mặt khách quan của tội phạm là tổng hợp tất cả những biểu hiện của tội
phạm diễn ra và tồn tại bên ngoài thế giới khách quan. Dĩ nhiên, không phải
mọi trường hợp phạm tội, các biểu hiện này đều hiện diện trên thực tế.
Các biểu hiện bên ngoài của tội phạm tạo thành mặt khách quan của tội
phạm bao gồm: Hành vi nguy hiểm cho xã hội; hậu quả nguy hiểm cho xã hội;
Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội và hậu quả; các điều kiện bên
ngoài khác của tội phạm (công cụ, phương tiện, phương pháp, thủ đoạn, thời
gian, địa điểm.. phạm tội)
Thứ nhất: Hành vi khách quan của tội phạm. Hành vi khách quan của tội
phạm là tất cả những xử sự của con người được biểu hiện ra thế giới khách
quan dưới những hình thức nhất định (hành động hoặc không hành động)
gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội được luật hình
sự bảo vệ. Hành vi giết người theo quy định tại Điều 123 bộ luật hình sự có
thể là hành vi hành động hoặc không hành động. Hành vi hành động để giết
người như người phạm tội thực hiện đánh, bóp cổ, treo cổ,.. với người bị hại.
Thứ hai: Hành vi gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Hành vi của người
phạm tội phải là hành vi gây ra hậu quả và hậu quả đó gây nguy hiểm cho xã
hội. Nếu hành vi không gây ra hậu quả tức hành vi chỉ trong suy nghĩ thì
không thể được coi là mặt khách quan của tội phạm được. Hành vi giết người
theo điều 123 đã xâm phạm tính mạng con người và gây ra cái chết cho nạn
nhân. Hậu quả xâm hại quan hệ xã hội là tính mạng con người được pháp luật bảo vệ.
Thứ ba: Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả. Hành vi khách quan
và trái pháp luật phải là nguyên nhân trực tiếp gây ra hậu quả. Ví như tội giết
người thì hành vi đâm, chém, bóp cổ,... gây ra chết người, tức là có mối quan
hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả. Thực tiễn xét xử không phải bao giờ
cũng dễ dàng xác định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả chết người.
Thứ tư: Các điều kiện bên ngoài khác của tội phạm như công cụ, phương tiện,
phương pháp, thủ đoạn, thời gian, địa điểm.. phạm tội. Các yếu tố này có thể
tùy thuộc từng tội phạm khác nhau mà biểu hiện khác nhau.
Như vậy, Mặt khách quan của tội phạm là những biểu hiện bên ngoài của tội
phạm. Biểu hiện cơ bản của mặt khách quan là hành vi khách quan có tính
gây thiệt hại cho xã hội mà thường được gọi là hành vi khách quan. Biểu hiện
thứ hai của mặt khách quan là hậu quả thiệt hại (do hành vi khách quan gây
ra) mà thường được gọi là hậu quả của tội phạm. Ngoài hai biểu hiện này,
còn có các biểu hiện khác của mặt khách quan là công cụ, phương tiện được
sử dụng, thời gian, địa điểm mà hành vi khách quan xảy ra... Tội phạm cụ thể
nào cũng đều có những biểu hiện của mặt khách quan được thể hiện ra bên
ngoài. Không có những biểu hiện ra bên ngoài đó thì không có những yếu tố
khác của tội phạm và do vậy cũng không có tội phạm.
2. Hậu quả của tội phạm là gì?
Hậu quả của tội phạm được hiểu là thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra cho
những quan hệ xã hội, là khách thể bảo vệ của luật hình sự. Theo khoản 1
điều 8 Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015, sửa đổi năm 2017 quy định như
sau: "Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong bộ luật
hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương
mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế,
nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp
pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã
hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải được xử lý hình sự".
Những khách thể trong các quan hệ xã hội được luật hình sự quy định thuộc
các dạng: Thiệt hại về vật chất; thiệt hại về thể chất và tinh thần.
Thiệt hại gây ra cho khách thể được thể hiện qua sự biến đổi tình trạng bình
thường do các bộ phận cấu thành quan hệ xã hội là khách thể của tội phạm.
Sự biến đổi có thể là sự biến đổi tình trạng bình thường của thực thể tự nhiên
của con người thường được gọi là thiệt hại về thể chất.
- Các thiệt hại này bao gồm thiệt hại về tính mạng (hậu quả chết người như
tội giết người), thiệt hại sức khỏe (hậu quả thương tích hoặc các tổn hại sức
khỏe) như ở tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác.
Ngoài thiệt hại về thể chất, hành vi phạm tội còn có thể gây ra những thiệt hại tinh thần
- Đó là những thiệt hại gây ra cho nhân phẩm, danh dự, sự tự do của con
người. Sự biến đổi tình trạng bình thường của các đối tượng vật chất là
khách thể của quan hệ xã hội được gọi là thiệt hại vật chất. Các thiệt hại này
có thể dưới dạng tài sản bị phá hoại, bị hủy hoại, hoặc dưới dạng tài sản bị
chiếm đoạt, bị chiếm giữ trái phép,..
Bất cứ một tội phạm nào cũng có thể gây ra những hậu quả nguy hiểm nhất
định cho xã hội, tức có thể gây ra sự biến đổi tình trạng bình thường của
những đối tượng chịu tác động. Vì vậy, trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình
sự, việc xác định, đánh giá hậu quả tội phạm được thực hiện thông qua việc
xác định, đánh giá đặc điểm của đối tượng tác động hoặc sự biến đổi tình
trạng bình thường của đối tượng tác động.
3. Dấu hiệu hậu quả trong mặt khách quan của tội phạm
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, do đó khi thực hiện, tội phạm luôn
gây ra hoặc đe dọa gây ra những thiệt hại trên thực tế. Để đánh giá đầy đủ
tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm, yếu tố hậu quả đóng vai trò rất quan trọng.
Hậu quả của tội phạm là thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra cho các quan hệ
xã hội được luật hình sự bảo vệ. Để xác định mức độ hậu quả của tội phạm,
chúng ta phải xác định mức độ làm biến đổi tình trạng bình thường của đối
tượng tác động của tội phạm. Đối tượng tác động của tội phạm ở thời điểm
trước và sau khi tội phạm xảy ra luôn có sự thay đổi về trạng thái tự nhiên
hoặc trạng thái pháp lý.
Hậu quả của tội phạm được biểu hiện ở các dạng như: Thiệt hại vật chất,
thiệt hại về thể chất, thiệt hại tinh thần, thiệt hại về phi vật chất.
Việc xác định hậu quả của tội phạm có ý nghĩa pháp lý quan trọng. Đối với
cấu thành tội phạm vật chất, việc xác định hậu quả của tội phạm có ý nghĩa
trong việc định tội, còn đối với cấu thành tội phạm tăng nặng phản ánh dấu
hiệu hậu quả của tội phạm, việc xác định chúng có ý nghĩa trong việc định
khung hình phạt. Ngoài ra, dấu hiệu hậu quả được phản ánh trong một số
tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ, việc xác định chúng có ý nghĩa trong việc
quyết định hình phạt của Tòa án.
Phân loại hậu quả trong vụ án hình sự:
Theo pháp luật hình sự Việt Nam thì hậu quả trong vụ án hình sự được phân làm 02 loại gồm:
- Hậu quả vật chất: Là những thiệt hại mà con người trực tiếp hoặc thông qua
các phương tiện kỹ thuật để xác định được một cách chính xác mức độ của
nó. Thiệt hại này có thể là thiệt hại về vật chất hoặc thiệt hại về thể chất.
Thiệt hại vật chất thường được thể hiện thông qua sự biến đổi tình trạng bình
thường của các đối tượng vật chất là khách thể của pháp luật hình sự. Ví dụ:
tài sản là phương tiện giao thông bị hủy hoại, chiếm giữ, sử dụng trái phép.
- Hậu quả phi vật chất: Là thiệt hại không thể đo đếm, tính toán được chính
xác bằng phương tiện kỹ thuật. Việc xác định thiệt hại chỉ được đánh giá
thông qua hoạt động tư duy của con người và chỉ mang tính tương đối. Thiệt
hại loại này có thể kể đến như: Danh dự, nhân phẩm, uy tín, quyền tự do, đạo đức...
4. Các dạng tồn tại nhân quả giữa hành vi nguy hiểm và hậu quả của tội phạm
Dạng quan hệ ngân quả đơn trực tiếp: là quan hệ nhân quả mà chỉ có một
hành vi trái pháp luật đóng vai trò là nguyên nhân của hậu quả tội phạm.
- Bản thân sự vận động nội tại của hành vi trái pháp luật này độc lập đã có
khả năng trực tiếp đưa đến hậu quả. Ví dụ, hành vi bóp cò súng bắn chết
người, lén lút vào nhà người khác trộm tài sản...
- Dạng quan hệ nhân quả kép trực tiếp: là quan hệ nhân quả trong đó có
nhiều hành vi trái pháp luật cùng đóng vai trò là nguyên nhân hậu quả của tội
phạm. Ví dụ: một người thợ săn bắn nhầm một người (người này núi trong
bụi cây, thợ săn ngỡ là thú) thủng dạ dày, đầu đạn đã được lấy ra coi như an
toàn, thoát chết. Không may, người nhà không biết bên cho ăn cơm, dạ dày
bị nhiễm trùng mà chết. Hậu quả chết người do hai nguyên nhân là bắn nhầm
và cho ăn cơm (người thợ săn phạm tội "vô ý gây thương tích", người nhà không có tội)
5. Ý nghĩa thực tiễn của nghiên cứu hậu quả của tội phạm
- Đối với tội phạm cấu thành vật chất, việc xác định hậu quả có ý nghĩa đối với việc định tội
- Đối với trường hợp cấu thành tội phạm tăng nặng có dấu hiệu phản ánh hậu
quả (mức độ hậu quả), việc xác định hậu quả thiệt hại có ý nghĩa đối với việc định khung hình phạt.
- Đối với trường hợp khác, việc xác định mức độ hậu quả cũng luôn cần thiết
vì đó là căn cứ để đánh giá mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và do
vậy là căn cứ quyết định hình phạt.
Document Outline
- Phân tích dấu hiệu hậu quả trong mặt khách quan củ
- 1. Mặt khách quan của tội phạm là gì?
- 2. Hậu quả của tội phạm là gì?
- 3. Dấu hiệu hậu quả trong mặt khách quan của tội p
- 4. Các dạng tồn tại nhân quả giữa hành vi nguy hiể
- 5. Ý nghĩa thực tiễn của nghiên cứu hậu quả của tộ