lOMoARcPSD| 58707906
lOMoARcPSD| 58707906
ỤC LỤC
MỤC LỤC .......................................................................................................................... 2
LỜI MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 4
I. KHÁI NIỆM, PHÂN LOẠI HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ ............................................... 5
1.1. Khái niệm hoạt động đầu tư .................................................................................. 5
1.1.1. Theo định nghĩa của kinh tế học ........................................................................ 5
1.1.2. Theo định nghĩa của tài chính ........................................................................... 5
1.1.3. Theo pháp luật quy định .................................................................................... 5
1.2. Phân loại các hoạt động đầu tư ............................................................................. 5
1.2.1. Theo lĩnh vực hoạt động của các kết quả đầu tư ............................................... 5
1.2.2. Theo đặc điểm hoạt động của các kết quả đầu tư ............................................. 6
1.2.3. Theo thời gian thực hiện và phát huy tác dụng để thu hồi đủ vốn đã bỏ ra ...... 6
1.2.4. Theo nguồn vốn đầu tư ...................................................................................... 6
1.2.5. Theo quan hệ quản lý của chủ đầu tư ................................................................ 6
II. KHÁI NIỆM, NỘI DUNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN ................................................ 6
2.1. Khái niệm đầu tư phát triển .................................................................................. 6
2.2. Nội dung của đầu tư phát triển ............................................................................. 7
2.2.1. Đầu tư phát triển tài sản vật chất ...................................................................... 7
2.2.2. Đầu tư phát triển tài sản vô hình ....................................................................... 7
III. KHÁI NIỆM TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ ............................................................. 8
IV. TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ ĐỐI VỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ .................... 8
4.1. Đầu tư tác động đến quy mô sản lượng của nền kinh tế .................................... 8
4.2. Một số mô hình lý thuyết chứng minh mối quan hệ giữa đầu tư và tăng ........ 9
trưởng kinh tế ................................................................................................................. 9
lOMoARcPSD| 58707906
4.2.1. Mô hình lý thuyết Keynes ................................................................................... 9
4.2.2. Mô hình David Ricardo ................................................................................... 10
4.2.3. Mô hình hai khu vực .........................................................................................11
4.2.4. Mô hình Robert Solow ..................................................................................... 12
4.2.5. Mô hình lý thuyết Tân cổ điển ......................................................................... 13
4.2.6. Mô hình Harrod Domar ................................................................................ 13
V. VAI TRÒ CỦA ĐẦU TƯ ĐỐI VỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ TẠI VIỆT ...... 14
NAM ................................................................................................................................. 14
5.1. Hoạt động đầu tư tại Việt Nam trước thời kỳ đổi mới ..................................... 14
5.2. Hoạt động đầu tư tại Việt Nam sau thời kỳ đổi mới ......................................... 15
5.2.1. Thời kỳ 1986 – 2000: Thực hiện đường lối đổi mới nền kinh tế ..................... 15
5.2.2. Thời kỳ 2001 – 2010: Đầu tư nước ngoài (FDI) trở thành nguồn vốn đầu tư 17
quan trọng ................................................................................................................... 17
5.2.3. Thời kỳ 2011 – 2020: Đầu tư tư nhân trong nước tăng trưởng mạnh mẽ ....... 18
5.2.4. Giai đoạn 2021 nay: Đầu phục hồi phát triển sau đại dịch COVID-
19................................................................................................................................. 19
VI. DỰ ÁN ĐƯỜNG CAO TỐC NỘI BÀI – LÀO CAI ............................................. 26
6.1. Tổng quan về hệ thống đường cao tốc Việt Nam ............................................... 26
6.2. Dự án Đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai .............................................................. 27
6.2.1. Giới thiệu chung .............................................................................................. 27
6.2.2. Khởi công, nhà thầu ......................................................................................... 27
6.2.3. Thống kê về số liệu........................................................................................... 28
6.3. Vai trò của dự án đối với tăng trưởng kinh tế ................................................... 28
VII. BÀI HỌC RÚT RA ................................................................................................ 31
KẾT LUẬN ...................................................................................................................... 33
TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................................. 34
lOMoARcPSD| 58707906
LỜI MỞ ĐẦU
Tăng trưởng kinh tế vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển của mỗi quốc
gia, điều kiện vật chất cần thiết để đảm bảo cho sự phát triển. Ngày nay, đã trở
thành mục tiêu động lực của nhiều quốc gia trên thế giới, nhất đối với các nước
đang phát triển như nước ta.
Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế lại phụ thuộc vào các yếu tố nguồn lực và khả năng huy
động, sử dụng các yếu tố đó vào quá trình sản xuất để tạo ra của cải vật chất cho hội.
Quá trình đó liên tục được tiếp diễn và tạo thành chu kỳ tái sản xuất với quy mô ngày càng
được mở rộng, đây là cơ sở và cũng chính là kết quả được tích lũy lại từ hoạt động đầu tư.
Như vậy, đầu tư có tác động trực tiếp đối với tăng trưởng kinh tế và phát triển của
một nền kinh tế. Kết quả của hoạt động đầu tư là làm gia tăng năng lực sản xuất, cung
ứng các sản phẩm vật chất, dịch vụ cho nền kinh tế, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế và chuyển giao công nghệ, từ đó tạo đà cho sự tăng trưởng và phát triển kinh
tế.
Trong những năm qua, nền kinh tế nước ta ngày càng phát triển, duy trì được mức tăng
trưởng cao n định so với nhiều nước trong khu vực trên thế giới, mức sống người
dân được cải thiện rõ rệt, chất lượng cuộc sống được nâng cao,… Để có được những thành
tựu đó, phải kể đến vai trò đặc biệt quan trọng của đầu tư. Với những chính sách nhằm thu
hút sử dụng hiệu quả vốn đầu trong ngoài nước, Việt Nam đang nâng cao uy
tín, vị thế của mình trên trường quốc tế.
Tuy nhiên, trong quá trình huy động sử dụng các nguồn lực cho hoạt động đầu tư để
tạo động lực cho tăng trưởng và phát triển nền kinh tế ở nước ta cũng bộc lộ nhiều hạn chế,
đòi hỏi chúng ta phải những đánh giá, nhận định đúng về quá trình thực hiện, rút ra
những vấn đề cần phải khắc phục đề ra biện pháp tổ chức thực hiện cho phù hợp với
tình hình thực tế nhằm đạt được những mục tiêu mong muốn.
Để giải quyết vấn đề này, trong phạm vi của bài thuyết trình, chúng em xin đưa ra một
số phân tích, đánh giá về tác động, vai trò của đầu đối với tăng trưởng kinh tế của Việt
Nam, từ đó đưa ra các kiến nghị, đề xuất và các giải pháp tổ chức thực hiện trong thời gian
tới.
lOMoARcPSD| 58707906
I. KHÁI NIỆM, PHÂN LOẠI HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ
1.1. Khái niệm hoạt động đầu tư
1.1.1. Theo định nghĩa của kinh tế học
Trong thuyết kinh tế hay kinh tế học mô, đầu số tiền mua một đơn vị thời
gian của hàng hóa không được tiêu thụ mà sẽ được sử dụng cho sản xuất trong tương lai.
Đầu thường được hình hóa như một hàm của thu nhập lãi suất, được đưa ra
bởi mối quan hệ I = f(Y, r). Một gia tăng trong thu nhập khuyến khích đầu tư cao hơn. Lãi
suất của đầu tư đại diện cho một chi phí cơ hội của đầu tư các quỹ này thay vì việc cho vay
ra số tiền đó để có tiền lãi.
1.1.2. Theo định nghĩa của tài chính
Trong tài chính, đầu tưviệc mua một tài sản hay mục với hy vọng rằng nó sẽ tạo ra
thu nhập hoặc đánh giá cao trong tương lai và được bán với giá cao hơn.
Các hoạt động đầu thường được thực hiện gián tiếp thông qua các tổ chức trung gian,
chẳng hạn như các quỹ hưu trí, ngân hàng, môi giới, và công ty bảo hiểm. Các tổ chức này
có thể hồ tiền nhận được từ một số lượng lớn các cá nhân vào các quỹ như các tín thác đầu
tư, tín thác đơn vị, SICAV,… để thực hiện đầu tư quy mô lớn. Mỗi nhà đầu tư cá nhân sau
đó yêu cầu gián tiếp hoặc trực tiếp đến tài sản đã mua, chịu các khoản phí áp bởi c
trung gian, có thể là lớn và đa dạng. Nó thường không bao gồm tiền gửi tại ngân hàng hay
tổ chức tương tự. Đầu thường liên quan đến đa dạng hóa tài sản để tránh rủi ro không
cần thiết và không hiệu quả.
1.1.3. Theo pháp luật quy định
Theo Luật đầu số: 59/2005/QH11, được Quốc hội nước Cộng hoà hội chủ nghĩa
Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 29/11/2005 chính thức hiệu lực từ
ngày 01/7/2006 thì: “Đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng các loại tài sản hữu hình hoặc
vô hình để hình thành tài sản tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của pháp luật”.
1.2. Phân loại các hoạt động đầu tư
1.2.1. Theo lĩnh vực hoạt động của các kết quả đầu tư
- Đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh.
- Đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật.
- Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng.
lOMoARcPSD| 58707906
1.2.2. Theo đặc điểm hoạt động của các kết quả đầu tư
- Đầu tư cơ bản: nhằm tái sản xuất các tài sản cố định.
- Đầu vận hành: nhằm tạo ra các tài sản lưu động cho các sở sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ mới hình thành hoặc thêm các tài sản lưu động cho các cơ sở hiện có.
1.2.3. Theo thời gian thực hiện và phát huy tác dụng để thu hồi đủ vốn đã bỏ ra
- Đầu tư trung hạn và dài hạn: là hình thức đầu tư có thời gian hoàn vốn lớn hơn một năm.
- Đầu tư ngắn hạn: là hình thức đầu tư có thời gian hoàn vốn nhỏ hơn một năm.
1.2.4. Theo nguồn vốn đầu tư
- Đầu tư trong nước: do Nhà nước hay các nhà đầu tư của một quốc gia bỏ vốn ra để
thực hiện hoạt động đầu tư trong lãnh thổ quốc gia đó.
- Đầu nước ngoài: do các Chính phủ hoặc các nhà đầu nước ngoài đóng góp vốn
cho hoạt động đầu tư tại một quốc gia khác.
1.2.5. Theo quan hệ quản lý của chủ đầu tư
- Đầu gián tiếp: hình thức đầu trong đó người bỏ vốn không trực tiếp tham
gia điều hành, quản quá trình thực hiện vận hành kết quả đầu tư. Ví dụ như mua cổ
phiếu, trái phiếu.
- Đầu tư trực tiếp: hình thức đầu trong đó người bỏ vốn trực tiếp tham gia điều
hành, quản quá trình thực hiện vận hành kết quả đầu tư. Ví dụ như các hành vi thôn
tính, sáp nhập hoặc đầu tư xây dựng mới các cơ sở sản xuất kinh doanh.
II. KHÁI NIỆM, NỘI DUNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN
hai loại đầu đầu dịch chuyển đầu phát triển, trong đó đầu dịch
chuyển chỉ đơn thuần dịch chuyển một lượng tài sản nhất định, không làm phát sinh thêm
tài sản mới, vì vậy chúng ta sẽ tập trung vào nghiên cứu về đầu tư phát triển.
2.1. Khái niệm đầu tư phát triển
Đầu phát triển một phương pháp đầu trực tiếp, trong đó quá trình đầu làm
gia tăng giá trị và gia ng năng lực sản xuất, năng lực phục vụ của tài sản. Thông qua hành
vi này, năng lực đầu tư và năng lực phục vụ của nền kinh tế cũng gia tăng.
Đầu phát triển thường mang những đặc điểm như: đòi hỏi nguồn vốn vật chất
nhân lực lớn; thời hoạt động đầu thường kéo dài lâu; thời gian vận hành dài chịu
tác động của các yếu tố chính trị, kinh tế, xã hội.
lOMoARcPSD| 58707906
Đầu phát triển đòi hỏi rất lớn các loại nguồn lực. Theo nghĩa hẹp, nguồn lực đó
tiền vốn. Theo nghĩa rộng, nguồn lực bao gồm tiền vốn, đất đai, lao động, y móc, thiết
bị, tài nguyên.
Đối tượng của đầu phát triển tập hợp các yếu tố được chủ đầu bỏ vốn thực hiện
nhằm đạt được những mục tiêu nhất định.
Kết quả của đầu phát triển sự gia ng thêm về tài sản vật chất, trí tuệ, tài sản
hình. Các kết quả đạt được của đầu góp phần làm tăng thêm năng lực sản xuất của
hội.
Hiệu quả của đầu phát triển phản ánh mối quan hệ so sánh giữa kết quả kinh tế
hội thu được với chi phí chi ra để đạt được kết quả đó.
Kết quả hiệu quả đầu phát triển cần được xem xét cả trên phương diện chđầu
hội, đảm bảo kết hợp hài hòa giữa các loại lợi ích. Thực tế, những khoản đầu
tuy không trực tiếp tạo ra tài sản cố định và tài sản lưu động cho hoạt động sản xuất kinh
doanh như đầu cho y tế, giáo dục… nhưng lại rất quan trọng để nâng cao chất lượng
cuộc sống và vì mục tiêu phát triển, do đó cũng được xem là đầu tư phát triển.
2.2. Nội dung của đầu tư phát triển
2.2.1. Đầu tư phát triển tài sản vật chất
Đầu tư xây dựng cơ bản: xây lắp và mua sắm máy móc thiết bị. Hoạt động này đòi hỏi
vốn lớn chiếm tỉ trọng cao trong tổng vốn đầu của đơn vị. Các hoạt động này nhằm
mục đích xây mới hoặc nâng cấp sở vật chất, nâng cao chất lượng của dây chuyền sản
xuất sản phẩm hoặc môi trường sản xuất, qua đó trực tiếp nâng cao chất lượng của hàng
hóa, phục vụ nhu cầu tăng cao của con người.
Đầu bổ sung hàng tồn trữ (bao gồm nguyên vật liệu, bán thành phẩm, thành phẩm
hoàn thành được tồn trữ): Tùy theo loại hình doanh nghiệp, quy mô cấu mặt hàng tồn
trữ thường khác nhau, tuy vậy đều thể coi việc dự trữ như một cách để tiết kiệm thi
gian sản xuất sản phẩm, giảm thiểu chi phí cơ hội phải bỏ ra.
2.2.2. Đầu tư phát triển tài sản vô hình
Đầu tư phát triển nguồn nhân lực (bao gồm đầu tư cho đào tạo, y tế, môi trường, điều
kiện làm việc của người lao động): trong quá trình sản xuất, yếu tố con người đóng vai trò
then chốt và quan trọng nhất vì tất cả hoạt động của dây chuyền sản xuất đều phục vụ nhu
cầu và mục đích của con người.
Đầu tư nghiên cứu và triển khai các hoạt động khoa học – công nghệ: sự phát triển của
khoa học đã đánh dấu bước tiến lớn của chất lượng dây chuyền sản xuất, không chỉ nhờ
lOMoARcPSD| 58707906
nâng cấp dây chuyền sản xuất đồng bộ n mà còn giảm thiểu sai sót, tăng năng suất, giảm
chi phí thuê lao động.
Đầu cho hoạt động marketing: với bối cảnh mạng xã hội chi phối đời sống của nhiều
người thế kỉ XXI, việc đầu cho quảng cáo, xúc tiến thương mại, xây dựng thương
hiệu... sẽ góp công lớn vào việc tăng lượng khách hàng, không chỉ nâng cao lợi nhuận từ
việc lượng khách mua hàng hóa tăng còn thúc đẩy cho các hoạt động nghiên cứu
phát triển ở lĩnh vực khác nhằm phục vụ cho cạnh tranh qua đó tự làm mới và tự cải thiện.
III. KHÁI NIỆM TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
Tăng trưởng kinh tế sự gia tăng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc tổng sản
lượng quốc n (GNP) hoặc quy sản lượng quốc gia tính bình quân trên đầu người
(PCI) trong một thời gian nhất định. Sự tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào 2 quá trình: sự
ch lũy tài sản (như vốn, lao động và đất đai) và đầu những tài sản này có năng suất hơn.
Tiết kiệm đầu trọng tâm, nhưng đầu phải hiệu quả thì mới đẩy mạnh tăng trưởng.
Chính sách Chính phủ, thể chế, sự ổn định chính trị kinh tế, đặc điểm địa lý, nguồn tài
nguyên thiên nhiên, trình độ y tế giáo dục, tất cả đều đóng vai trò nhất định ảnh hưởng
đến tăng trưởng kinh tế.
Để đo lường tăng trưởng kinh tế có thể dùng mức tăng trưởng tuyệt đối, tốc độ tăng
trưởng kinh tế hoặc tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm trong một giai đoạn. Mức tăng
trưởng tuyệt đối mức chênh lệch quy kinh tế giữa hai kỳ cần so sánh. Tốc độ tăng
trưởng kinh tế được tính bằng cách lấy chênh lệch giữa quy kinh tế kỳ hiện tại so với
quy kinh tế kỳ trước chia cho quy mô kinh tế kỳ trước. Tốc độ tăng trưởng kinh tế được
thể hiện bằng đơn vị %.
Biểu diễn bằng toán học, sẽ có công thức: y = dY/Y × 100(%)
Trong đó Y là quy mô của nền kinh tế, và y là tốc độ tăng trưởng. Nếu quy mô kinh tế
được đo bằng GDP (hay GNP) danh nghĩa, thì sẽ tốc độ tăng trưởng GDP (hoặc GNP)
danh nghĩa. Còn nếu quy kinh tế được đo bằng GDP (hay GNP) thực tế, thì sẽ tốc
độ tăng trưởng GDP (hay GNP) thực tế. Thông thường, tăng trưởng kinh tế dùng chỉ tiêu
thực tế hơn là các chỉ tiêu danh nghĩa.
IV. TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ ĐỐI VỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
4.1. Đầu tư tác động đến quy mô sản lượng của nền kinh tế
Trong nền kinh tế thị trường thì hàng hoá, dịch vụ được điều tiết thông qua quan hệ
cung, cầu. Do đó, tác động đến quy sản ợng của nền kinh tế của mỗi quốc gia
trong một thời kỳ nhất định. Trong khi đó, hoạt động đầu lại một bộ phận cấu thành
lên tổng cung, tổng cầu của nền kinh tế, cụ thể:
lOMoARcPSD| 58707906
Tác động đến tổng cầu: Do tổng cầu của nền kinh tế: AD = C + I + G + NX, tức
tổng cầu của nền kinh tế bao gồm: Chi tiêu của khu vực Chính phủ + Chi tiêu của các hộ
gia đình + Tiết kiệm (Đầu tư) + Chênh lệch xuất nhập khẩu.
vậy, đầu một yếu tố chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu, tác động đến tổng
cầu trong ngắn hạn và tác động một cách trực tiếp. Tức là, khi tổng cung chưa thay đổi t
sự tăng lên của đầu tư sẽ làm cho tổng cầu của nền kinh tế tăng lên. Khi đó sẽ làm cho quy
mô sản lượng cân bằng thay đổi trong ngắn hạn.
Tác động đến tổng cung: Tổng cung của nền kinh tế gồm hai nguồn chính cung trong
nước và cung từ nước ngoài. Bộ phận chủ yếu, cung trong nước là một hàm của các yếu tố
sản xuất: vốn (K), lao động (L), tài nguyên (R), công nghệ (T)… thể hiện qua phương trình:
Q = F (K, L, T, R…)
Như vậy, tăng quy mô vốn đầu tư là nguyên nhân trực tiếp làm tăng tổng cung của nền
kinh tế, nếu các yếu tố khác không đổi. Mặt khác, tác động của vốn đầu tư còn được thực
hiện thông qua hoạt động đầu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đổi mới công nghệ
Do đó, đầu tư lại gián tiếp làm tăng tổng cung của nền kinh tế.
Kết quả của hoạt động đầu tư là tài sản và năng lực sản xuất mới tăng thêm, vì vậy
tạo ra sự gia tăng về mặt sản lượng của nền kinh tế. Nhưng tác động của đầu tư là trong dài
hạn, khi đầu tăng sẽ làm cho sản lượng của nền kinh tế gia tăng, do đó sẽ làm cho sản
lượng tiềm năng tăng lên và giá cả sản phẩm giảm xuống. Đến lượt nó, khi giá cả giảm sẽ
kích thích, gia tăng tiêu dùng kích thích sản xuất phát triển, tăng quy đầu tư. Sản
xuất phát triển là nguồn gốc tăng tích lũy, phát triển kinh tế xã hội, tăng thu nhập cho người
lao động, nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội.
4.2. Một số mô hình lý thuyết chứng minh mối quan hệ giữa đầu tư và tăng
trưởng kinh tế
4.2.1. Mô hình lý thuyết Keynes
Lý thuyết kinh tế đề xướng bởi nhà kinh tế người Anh John Maynard Keynes (1883
1946) và những người theo sau. Keynes quan niệm rằng Chính phủ nên sử dụng sức mạnh
ngân sách để duy trì sự tăng trưởng và ổn định về kinh tế, và vượt qua những chu kỳ suy
thoái thường xảy ra trong đa số các nền kinh tế phương Tây.
Kinh tế học Keynes là một thuyết kinh tế về tổng chi tiêu trong nền kinh tế và những
ảnh hưởng của nó đến sản lượng và lạm phát. Kinh tế học Keynes đã được sử dụng để đưa
ra định nghĩa rằng hiệu quả kinh tế tối ưu thể đạt được sự suy thoái kinh tế được ngăn
lOMoARcPSD| 58707906
chặn bằng cách tác động đến tổng cầu thông qua chính sách của Chính phủ nhằm ổn định
hoạt động và can thiệp vào nền kinh tế.
Khi nghiên cứu tiêu ng cho đầu của các doanh nghiệp, Keynes cho rằng đầu
đóng một vai trò quyết định đến quy mô việc làm và theo đó là tăng trưởng kinh tế. Mỗi sự
gia tăng của đầu tư đều kéo theo sự gia tăng của cầu bổ sung công nhân, cầu về tư liệu sản
xuất. Nhờ đó, m tăng cầu tiêu dùng, tăng giá hàng, tăng việc làm cho công nhân. Tất cả
điều đó làm cho thu nhập tăng lên. Đến lượt nó, tăng thu nhập lại là tiền đề cho sự gia tăng
đầu tư mới. Đây là quá trình số nhân đầu tư: tăng đầu tư làm tăng thu nhập; tăng thu nhập
làm tăng đầu tư mới; tăng đầu tư mới làm tăng thu nhập mới – nền kinh tế tăng trưởng.
Số nhân đầu đại lượng thể hiện mối quan hệ giữa mức gia tăng thu nhậpmức
gia tăng đầu tư, sự gia tăng đầu sẽ làm thu nhập tăng như thế nào. Quá trình này được
tính toán như sau:
K = dR/dI Trong
đó: dR là gia tăng thu nhập
dI là gia tăng đầu tư
K là số nhân
Với giả thiết I = S ta có K = dR/dS = dR/(dR – dC) = 1/(1 – dC/dR)
(dC là gia tăng tiêu dùng, dS là gia tăng tiết kiệm)
4.2.2. Mô hình David Ricardo
Mô hình của David Ricardo đặt ra các giả định:
- Lao động là nguồn gốc tạo ra của cải.
- Yếu tố vốn yếu tố trực tiếp tăng sản lượng. vậy, không sự xuất hiện của
Chính phủ vì chi tiêu Chính phủ không sinh lời và làm giảm động lực tích lũy của doanh
nghiệp.
- Trong nền kinh tế truyền thống, nông nghiệp là yếu tố chi phối.
- Quy luật lợi tức biên giảm dần theo quy mô. Yếu tố công nghệ tác động yếu ớt coi
như bằng không.
Theo Ricardo, ba yếu tố tác động tới tăng trưởng là: lao động (L), vốn (K), đất
đai (R). Như vậy, có hàm sản xuất như sau: Y = f(L,K,R).
lOMoARcPSD| 58707906
Trong ba yếu tố nêu trên thì đất đai (R) là yếu tố quan trọng nhất, đất đai chính là giới
hạn của tăng trưởng. Vì khi sản xuất nông nghiệp gia tăng trên đất đai kém màu mỡ hơn
thì giá lương thực, thực phẩm sẽ tăng lên. Do đó, tiền lương danh nghĩa tăng lên, lợi nhuận
của nhà tư bản giảm. Cho tới khi đất đai đạt điểm dừng tại R
0
Y sẽ đạt đến sản lượng tối
đa, tại đó sẽ giới hạn của tăng trưởng. Khi đó, nền kinh tế chia làm hai khu vực, đó
khu vực nông nghiệp trì trệ tuyệt đối và khu vực công nghiệp. Như vậy, khi chưa đến điểm
dừng R
0
thì R là yếu tố quyết định tăng trưởng, khi đạt điểm dừng R
0
thì tích lũy cho khu
vực công nghiệp mới là yếu tố quyết định tăng trưởng.
4.2.3. Mô hình hai khu vực
hình hai khu vực tăng trưởng kinh tế dựa vào sự tăng trưởng hai khu vực nông
nghiệp công nghiệp trong đó chú trọng yếu tố chính lao động (L), yếu tố tăng năng
suất do đầu khoa học kỹ thuật c động lên hai khu vực kinh tế. Tiêu biểu cho
hình hai khu vực là mô hình Lewis.
Theo A. Lewis (1955) thì nền kinh tế các nước đang phát triển hai khu vực kinh
tế song song tồn tại đó là: khu vực kinh tế truyền thống chủ yếu là sản xuất nông nghiệp
và khu vực kinh tế hiện đại mà chủ yếu là sản xuất công nghiệp.
- Khu vực nông nghiệp tập trung ở nông thôn, nơi có sự dư thừa lao động. Lao động
thừa này năng suất cận biên bằng không thể được rút ra khỏi khu vực nông
nghiệp mà không làm giảm sản lượng ở khu vực nông nghiệp.
- Khu vực công nghiệp tập trungđô thị, có mức tiền công cố địnhcao hơn mức
tiền công khu vực nông nghiệp, nên thuê một phần lao động thừa khu vực nông
nghiệp làm cho sản lượng công nghiệp và lợi nhuận công nghiệp tăng lên.
Phần lợi nhuận này được tái đầu tư mở rộng sản xuất, lại thuê thêm một phần lao
động dư thừa ở khu vực nông nghiệp nữa làm cho sản lượng công nghiệp và lợi nhuận
tăng hơn nữa. Quá trình này sẽ tiếp tục cho đến khi thu hút được toàn bộ số lao động dư
thừa ở khu vực nông nghiệp.
lOMoARcPSD| 58707906
Như vậy, theo A. Lewis thì qtrình chuyển số lao động thừa tkhu vực nông
nghiệp sang khu vực công nghiệp cũng chính quá trình làm cho nền kinh tế chuyển từ
nền kinh tế nông nghiệp thành nền kinh tế công nghiệp. Nói cách khác, các nước đang phát
triển muốn nhanh chóng thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu bằng cách đẩy mạnh phát triển khu
vực công nghiệp không cần quan tâm đến khu vực nông nghiệp, bởi lẽ khu vực công
nghiệp sẽ thu hút dần lao động dư thừa ở khu vực nông nghiệp.
4.2.4. Mô hình Robert Solow
hình tăng trưởng kinh tế Solow hình thuyết tập trung o vai trò của những
thay đổi về công nghệ đối với quá trình tăng trưởng kinh tế. Đây là hình ng trưởng
ngoại sinh, một mô hình kinh tế về tăng trưởng kinh tế dài hạn được thiết lập dựa trên nền
tảng và khuôn khổ của kinh tế học tân cổ điển.
hình tăng trưởng kinh tế Solow được đưa ra để giải thích sự tăng trưởng kinh tế dài
hạn bằng cách nghiên cứu quá trình tích lũy vốn, lao động hoặc tăng trưởng dân số sự
gia tăng năng suất, thường được gọi là tiến bộ công nghệ.
hình Solow sử dụng một hàm sản xuất trong đó sản lượng một hàm của bản
lao động, với điều kiện bản thể thay thế cho lao động với mức độ hoàn hảo thay
đổi lợi suất giảm dần. Bởi vậy, nếu bản tăng so với lao động thì mức gia tăng sản
lượng ngày càng trở nên nhỏ hơn. Theo giả định như vậy về tỷ lệ sản lượng/tư bản thay
đổi, thì khi khối lượng tư bản của một nước tăng lên, quy luật lợi suất giảm dần sẽ phát huy
tác dụng và tạo ra mức tăng ngày càng nhỏ của sản ợng. Vì thế tăng trưởng kinh tế không
những đòi hỏi phải đầu để mở rộng khối lượng bản. Đặc biệt, tiến bộ công nghệ (kỹ
thuật, quy trình, phương pháp sản xuất mới và sản phẩm mới) đóng một vai trò quan trọng
trong việc đối phó với quy luật lợi suất giảm dần của tư bản khi khối lượng tư bản tăng lên.
lOMoARcPSD| 58707906
4.2.5. Mô hình lý thuyết Tân cổ điển
Theo hình thuyết Tân cổ điển, nguồn gốc của tăng trưởng y thuộc vào cách
thức kết hợp hai yếu tố đầu vào là vốn (K) và lao động (L).
thuyết ng trưởng tân cổ điển đặt ra rằng việc tích lũy vốn trong một nền kinh tế
và cách mọi người sử dụng vốn đó, là rất quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế. Hơn nữa,
mối quan hệ giữa vốn và lao động của một nền kinh tế quyết định sản lượng của nền kinh
tế. Cuối cùng, công nghệ làm tăng năng suất lao động tăng khả năng đầu ra của lao động.
Do đó, hàm sản xuất của thuyết tăng trưởng tân cổ điển được sử dụng để đo lường sự
tăng trưởng và cân bằng của một nền kinh tế. Hàm sản xuất là của hình này được biểu
diễn như sau:
Y = AF(K, L).
Trong đó: Y: tổng sản phẩm quốc nội GDP của một nền kinh tế
K: vốn trong một nền kinh tế
L: số lượng lao động phổ thông trong một nền kinh tế
A: định lượng mức độ công nghệ của nền kinh tế
Tuy nhiên, do mối quan hệ giữa lao động công nghệ, hàm sản xuất của nền kinh tế
thường được viết lại thành Y = F(K, AL).
4.2.6. Mô hình Harrod Domar
Dựa vào tư tưởng của Keynes, vào những năm 40 với sự nghiên cứu một cách độc lập,
hai nhà kinh tế học Roy Harrod Anh Evsay Domar Mỹ đã cùng đưa ra hình
giải thích mối quan hệ giữa sự tăng trưởng các nước phát triển. hình này cũng được
sử dụng rộng rãi c nước đang phát triển để xét mối quan hệ giữa tăng trưởng các
nhu cầu về vốn. nh này coi đầu ra của bất kỳ đơn vị kinh tế nào, là một công ty,
một ngành công nghiệp hay toàn bộ nền kinh tế phụ thuộc vào tổng số vốn đầu tư cho nó.
Cụ thể, mô hình Harrod – Domar đặt ra mối liên hệ giữa đầu tư và tăng trưởng kinh tế
dựa trên hệ số ICOR (Incremental Capital Output Ratio – tỷ số gia tăng của vốn so với
sản lượng). Đó là tỷ số giữa quy mô đầu tư tăng thêm với mức gia tăng sản lượng, hay
suất đầu tư cần thiết để tạo ra một đơn vị sản lượng (GDP) tăng thêm.
Hệ số ICOR được tính dựa trên các giả định chủ yếu sau: (1) Mọi nhân tố khác không
thay đổi. (2) Chỉ có sự gia tăng vốn dẫn tới gia tăng sản lượng.
Phương pháp tính hệ số ICOR như sau:
lOMoARcPSD| 58707906
ICOR
t
=
𝑉𝑡
𝐺𝑡−𝐺𝑡−1
Trong đó: V
t
: Vốn đầu tư thực hiện của năm nghiên cứu
G
t
: Tổng sản phẩm trong nước của năm nghiên cứu
G
0
: Tổng sản phẩm trong nước của năm trước năm nghiên cứu
Hệ số ICOR của nền kinh tế cao hay thấp chịu ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố.
Thứ nhất, do thay đổi cấu đầu ngành. cấu đầu ngành thay đổi ảnh hưởng
đến hệ số ICOR từng ngành, do đó, tác động đến hệ số ICOR chung.
Thứ hai, sự phát triển của khoa học công nghệ ảnh hưởng hai mặt đến hệ số
ICOR. Gia tăng đầu cho khoa học công nghệ, một mặt, làm cho tử số của công thức tăng,
mặt khác, sẽ tạo ra nhiều ngành mới, công nghệ mới, làm máy c hoạt động hiệu quả
hơn, năng suất cao hơn, kết quả đầu tăng lên (tăng mẫu số của công thức). Như vậy, hệ
số ICOR tăng hay giảm phụ thuộc vào xu hướng nào chiếm ưu thế.
Thứ ba, do thay đổi cơ chế chính sách phương pháp tổ chức quản lý. chế chính
sách phù hợp, đầu tư có hiệu quả hơn làm cho ICOR giảm và ngược lại.
V. VAI TRÒ CỦA ĐẦU TƯ ĐỐI VỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ TẠI VIỆT
NAM
5.1. Hoạt động đầu tư tại Việt Nam trước thời kỳ đổi mới
Tớc năm 1986, nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế có hai hình thức sở hữu, hai loại
hình kinh tế chủ yếu nghiệp quốc doanh tập thể, chỉ một ít loại hình kinh tế
cá thể, chưa có kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Kinh tế Nhà nước chiếm tỷ trọng rất lớn, với hàng chục nghìn nghiệp quốc doanh.
Gọi nghiệp quốc doanh, nhưng chưa thể gọi doanh nghiệp, bởi nghiệp gần như
không quyền tự chủ, mọi cái từ đầu vào (lao động, vốn đầu tư, nguyên nhiên vật liệu…),
sản xuất, kinh doanh (cái gì, bao nhiêu…), đầu ra (tiêu thụ ở đâu, giá cả ra sao…), đến kết
quả sản xuất, kinh doanh (lãi, lỗ…) đều do Nhà nước lo, Nhà nước chịu.
Kinh tế tập thể chiếm gần hết khu vực ngoài Nhà nước với hàng nghìn hợp tác
cũng thuộc đủ các ngành. Gọi là kinh tế tập thể dựa trên nguyên tắc tự nguyện nhưng
phương án ăn chia do Nhà nước duyệt, vật tư chủ yếu do Nhà nước cung cấp, sản phẩm
do Nhà nước thu mua và xã viên ăn theo định lượng.
lOMoARcPSD| 58707906
5.2. Hoạt động đầu tư tại Việt Nam sau thời kỳ đổi mới
5.2.1. Thời kỳ 1986 – 2000: Thực hiện đường lối đổi mới nền kinh tế
Nhận ra những bất cập của cơ chế kinh tế hiện hành, Nhà nước bắt đầu có một số thay
đổi trong chính sách quản lý kinh tế. Trong thời kỳ này, nước ta đã thực hiện đường lối đổi
mới, chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp sang nền kinh tế ng hóa
nhiều thành phần, hoạt động theo chế thị trường, sự quản của Nhà nước định
hướng hội chủ nghĩa. Năm 1987, Quốc hội chính thức thông qua Luật Đầu nước
ngoài, đây là văn bản pháp quan trọng nhất đối với đầu nước ngoài. Theo đó, Chính
phủ khuyến khích các công ty nước ngoài hoạt động kinh doanh tại Việt Nam, thu hút
nguồn lực bên ngoài, chuyển dịch nền kinh tế đất nước.
Việt Nam thực hiện Luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài trong bối cảnh phát triển kinh tế
- hội còn rất thấp: hạ tầng sở nghèo nàn, khoa học công nghệ lạc hậu, nguồn nhân lực
phần lớn chưa qua đào tạo,… Trong khi đó, nhu cầu phát triển luôn phải đối mặt với sức
ép cần vốn đầu tư, công nghệ tiên tiến, đẩy mạnh xuất khẩu,… để khai thác lợi thế so sánh
nhằm đạt được tốc độ tăng trưởng cao, giải quyết công ăn việc làm và ổn định đời sống xã
hội.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đã trở thành nguồn vốn đầuquan trọng, đóng góp
lớn vào tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cấu kinh tế hội nhập của Việt Nam. Trong
vòng 3 năm 1988 1990, Việt Nam đã cấp giấy phép 213 dự án đầu tư với tổng vốn đăng
gần 1,8 tỷ USD. Tuy nhiên nguồn vốn giải ngân thấp, do các nhà đầu vẫn đang đợi
chờ quá trình thay đổi và cam kết từ Chính phủ.
Từ sau năm 1990, quá trình mở cửa diễn ra mạnh mẽ, làn sóng đầu tư nước ngoài ồ ạt
vào Việt Nam. FDI đóng vai trò lớn trong đầu tư toàn xã hội; Cụ thể, vốn FDI chiếm 13,1%
tổng vốn đầu tư xã hội vào năm 1990 và tăng mạnh lên mức 32,3% trong năm 1995. Năm
1991, số vốn FDI đăng ký vào Việt Nam là 2,07 tỷ USD, trong đó số vốn FDI thực hiện là
428,5 triệu USD, đạt trên 20% vốn đăng ký. Trong giai đoạn 1991 2000, tổng vốn FDI
đạt 11,4 tỷ USD, chiếm 20% tổng vốn đầu tư tại Việt Nam.
Không chỉ vậy, đầu nhân trong nước ng tăng trưởng mạnh mẽ, góp phần vào
tăng trưởng kinh tế giải quyết việc làm. Trong giai đoạn này, tổng vốn đầu nhân
trong nước đạt 22,3 tỷ USD, chiếm khoảng 40% tổng vốn đầu tư tại Việt Nam.
Đầu tư công cũng đã góp phần thúc đẩy công cuộc đổi mới, duy trì tốc độ tăng trưởng
kinh tế, huy động và tập trung tối đa nguồn lực, kiểm soát bội chi ngân sách nhà nước, ổn
định và lành mạnh hóa nền tài chính quốc gia, giải quyết tốt những vấn đề bức xúc về xã
hội, giữ vững an ninh quốc gia.
lOMoARcPSD| 58707906
Đường lối đổi mới của Đảng nhanh chóng được sự hưởng ứng rộng rãi của quần chúng
nhân dân, khơi dậy tiềm năng sức sáng tạo của các loại hình kinh tế để phát triển sản
xuất, tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động, tăng sản phẩm cho hội. Giai đoạn
1986 – 2000, tổng sản phẩm trong nước bình quân mỗi năm tăng 6,51%; trong đó: khu vực
nông, lâm nghiệp thủy sản tăng 3,72%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 9,06%;
khu vực dịch vụ tăng 6,66%. Đầu tư trong giai đoạn này đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế của Việt Nam. GDP bình quân đầu người tăng từ 114 USD (1991) lên 312 USD
(2000) tỷ lệ thất nghiệp giảm từ 7,7% xuống 5,3%. Nếu so với tốc độ tăng chung của
kinh tế thế giới và sự giảm sút nhanh của các nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung Đông Âu
và Liên Xô khi chuyển sang kinh tế thị trường, thì các tốc độ tăng trên của nền kinh tế Việt
Nam là một kết quả đáng ghi nhận.
Một trong những thành tựu kinh tế to lớn của thời kđổi mới phát triển sản xuất
nông nghiệp, mà nội dung cơ bản là khoán gọn đến hộ nông dân, thừa nhận hộ nông dân là
đơn vị kinh tế tự chủ nông thôn, đánh dấu sự mở đầu của thời kđổi mới trong nông
nghiệp nông thôn nước ta. Ngành nông nghiệp đã giải quyết vững chắc vấn đề lương
thực, đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, đưa Việt Nam từ nước thiếu lương thực trở
thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai thế giới. Năm 2000, tổng sản lượng lương thực
hạt đạt 34,5 triệu tấn, gấp 2,1 lần năm 1986; lương thực hạt bình quân đầu người đạt
444,8 kg, gấp 1,6 lần; xuất khẩu gạo đạt 3.477 nghìn tấn, gấp hơn 26 lần.
Sản xuất ng nghiệp đi dần vào thế phát triển ổn định với tốc độ tăng bình quân mỗi
năm trong thời kỳ 1986 – 2000 đạt 11,09%. Những sản phẩm công nghiệp quan trọng phục
vụ sản xuất và tiêu dùng của dân cư đều tăng cả về số lượng và chất lượng. Sản lượng điện
năm 2000 gấp 4,7 lần so với năm 1986; sản lượng xi măng gấp 8,7 lần; thép cán gấp 25,6
lần; thiếc gấp 3,6 lần. Sản lượng dầu thô đã tăng từ 41 nghìn tấn m 1986 lên gần 7,1 triệu
tấn năm 1994 và 16,3 triệu tấn năm 2000. Các cơ sở sản xuất công nghiệp đã quan tâm hơn
đến chất lượng sản phẩm, không ngừng cải tiến mẫu mã, áp dụng công nghệ tiên tiến
thay đổi phương án sản xuất theo yêu cầu của thị trường.
Do sản xuất, kinh doanh hồi phục và có bước phát triển nên siêu lạm phát bước đầu đã
được kiềm chế đẩy lùi. Giá bán lẻ hàng hóa dịch vụ tiêu dùng tmức tăng 3 chữ số
mỗi năm trong 3 năm 1986 – 1988, hai chữ số mỗi năm trong thời kỳ 1989 – 1992 đã giảm
xuống chỉ còn tăng một chữ số trong thời kỳ 1993 – 2000. So với tháng 12 năm trước, chỉ
số giá tiêu dùng năm 1992 tăng 17,5% và năm 2000 giảm 0,6%.
Chính sách cải cách tiền ơng trong thời kỳ này đã thúc đẩy phát triển sản xuất làm
cho đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Thu nhập bình quân đầu người một tháng của
dân tăng từ khoảng 1.600 đồng m 1986 lên đến 295.000 đồng năm 1999. Thu nhập
tăng nhanh góp phần làm cho công cuộc xóa đói giảm nghèo của nước ta trong giai đoạn
này đạt được những kết quả đáng kể. Nếu như năm 1993, tỷ lệ nghèo chung của Việt Nam
lOMoARcPSD| 58707906
tính theo phương pháp của Ngân hàng Thế giới 58,1%, thì đến năm 1998 tỷ lệ nghèo này
giảm xuống còn 37,4%.
5.2.2. Thời kỳ 2001 – 2010: Đầu tư nước ngoài (FDI) trở thành nguồn vốn đầu tư
quan trọng
Trong mười năm 2001 – 2010, nền kinh tế nước ta tiếp tục vận hành theo mô hình tăng
trưởng chủ yếu dựa vào vốn đầu tư. Vốn đầu trở thành một trong những yếu tố đầu vào
có vai trò quyết định đối với sự phát triển kinh tế giải quyết các vấn đề hội. Do vậy,
trong những năm 2001 2010 các cấp, các ngành đã triển khai nhiều biện pháp huy động
các nguồn vốn đầu trong ngoài nước. nh chung 10 năm, tổng số vốn đầu thực
hiện theo giá thực tế đạt 4336,6 nghìn tỷ đồng, trong đó khu vực kinh tế Nhà ớc thực
hiện 1840,7 nghìn tỷ đồng, chiếm 42,5%; khu vực kinh tế ngoài Nhà nước thực hiện 1519,0
nghìn tỷ đồng, chiếm 35%; khu vực vốn đầu nước ngoài thực hiện 976,9 nghìn tỷ
đồng, chiếm 22,5%. Nếu tính theo giá so sánh năm 1994 thì vốn đầu tư thực hiện năm 2010
đã gấp 3,5 lần năm 2000, bình quân mỗi m trong ời năm 2001 2010 tăng 13,3%,
trong đó, khu vực Nhà nước gấp 2,6 lần, bình quân mỗi năm tăng 10,2%; khu vực ngoài
Nhà nước gấp 4,1 lần, bình quân mỗi năm tăng 15,1%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài
gấp 5,5 lần, bình quân mỗi năm tăng 18,5%. Như vậy, tốc độ tăng vốn đầu tư so với tốc độ
tăng tổng sản phẩm trong nước tính chung mười năm 2001 2010 gấp 1,83 lần, trong đó,
những năm 2001 – 2005 gấp 1,76 lần; những năm 2006 – 2010 gấp 1,91 lần.
Đáng chú ý sự kiện Việt Nam gia nhập Tchức Thương mại Thế giới (WTO) năm
2007 đã tạo ra một hích lớn cho nền kinh tế, mở ra cơ hội tiếp cận thị trường toàn cầu
cho các doanh nghiệp Việt Nam. Đồng thời, cũng tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các nhà
đầu tư nước ngoài đầu vào Việt Nam, làm gia tăng mạnh mẽ vốn FDI đăng ký vào Việt
Nam từ 21,35 tỷ USD năm 2007 lên đến 71,73 tỷ USD chỉ riêng năm 2008. Vốn FDI đã
trở thành một trong những động lực chính cho phát triển kinh tế của Việt Nam. Nếu như
những năm đầu của thời kỳ mở cửa, vốn FDI vào Việt Nam không đáng kể thì kể từ sau
năm 2007, lượng vốn FDI không ngừng tăng lên.
Năm 2008, nước ta đã ra khỏi nhóm nước vùng lãnh thổ thu nhập thấp để gia nhập
nhóm nước và vùng lãnh thổ thu nhập trung bình thấp, đất nước thoát khỏi tình trạng kém
phát triển, đó thành tựu nổi bật nhất trong sự nghiệp xây dựng phát triển đất ớc
trong thời kỳ này. Cùng với đó, Việt Nam có 2 lần xếp thứ 2 trong bảng xếp hạng các quốc
gia thu hút dòng vốn FDI lớn nhất trong khối ASEAN với vốn FDI đạt 9,58 tỷ USD vào
năm 2008 và 7,6 tỷ USD vào năm 2009.
FDI đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Tổng vốn FDI đăng
giai đoạn 2001 2010 đạt 58,497 tỷ USD, gấp 5,1 lần so với giai đoạn 1991 2000. Tốc
lOMoARcPSD| 58707906
độ tăng trưởng GDPnh quân giai đoạn 2001 – 2010 đạt 7,76%/năm, cao hơn so với giai
đoạn 1991 2000 0,2%/năm. Số lao động làm việc trong các doanh nghiệp FDI giai
đoạn 2001 2010 đạt 3,5 triệu người, chiếm 12% tổng số lao động làm việc trong các
doanh nghiệp. Thu nhập bình quân đầu người giai đoạn 2001 2010 tăng từ 312 USD lên
1.210 USD. Ngoài ra, các doanh nghiệp FDI đã sử dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại, góp
phần nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm và dịch vụ của các doanh nghiệp Việt Nam.
5.2.3. Thời kỳ 2011 – 2020: Đầu tư tư nhân trong nước tăng trưởng mạnh mẽ
Bước vào thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - hội 10 năm 2011 2020, nền
kinh tế tiềm ẩn nhiều rủi ro, lạm phát cao, ncông tăng nhanh, tỉ lệ nợ xấu cao; sản xuất
kinh doanh gặp nhiều khó khăn. Tác động, nh hưởng từ bên ngoài tăng, cạnh tranh ngày
càng gay gắt, trong khi độ mở của nền kinh tế cao, sức chống chịu còn hạn chế. Biến đổi
khí hậu, thiên tai, dịch bệnh diễn biến phức tạp hơn. Đặc biệt trong năm 2020, đại dịch
Covid-19 đã ảnh ởng rất nghiêm trọng đến hầu hết các ngành, lĩnh vực, các hoạt động
kinh tế, hội bị ngưng trệ, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn. Trước tình hình đó,
nhân dân cả nước đã chung sức, đồng lòng, nỗ lực vượt bậc, tập trung vừa phòng, chống
dịch bệnh, vừa duy trì, phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội, vượt qua khó khăn, thách thức
và đạt được nhiều thành tựu rất quan trọng, khá toàn diện trên hầu hết các lĩnh vực.
Việc huy động các nguồn lực cho đầu phát triển được đẩy mạnh, đầu khu vực
ngoài Nhà nước tăng nhanh chất lượng, hiệu quả được cải thiện. Vốn đầu phát triển
giai đoạn 2011 2020 đạt gần 15 triệu tỉ đồng (tương đương 682 tỉ USD), tăng bình quân
10,6%/năm, trong đó vốn ngân sách Nhà nước và trái phiếu Chính phủ là 3,1 triệu tỉ đồng
(144 tỉ USD), chiếm 20,8% tổng đầu tư xã hội, tập trung cho các công trình kết cấu hạ tầng
kinh tế - xã hội trọng điểm, nhất giao thông, thuỷ lợi, giáo dục, y tế, nông nghiệp, nông
thôn, giảm nghèo, an ninh, quốc phòng... góp phần quan trọng thay đổi diện mạo đất nước,
tạo động lực cho phát triển và thu hút các nguồn lực ngoài nhà nước.
Vốn đầu của khu vực nhân trong nước chiếm tỉ trọng ngày càng lớn trong tổng
đầu hội, tăng từ 36,1% năm 2010 lên 45,7% năm 2020. Một số tập đoàn, doanh nghiệp
nhân đã tham gia đầu tư, hoàn thành nhiều công trình, dự án lớn, góp phần thúc đẩy phát
triển sản xuất, kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh. Nhiều dự án hạ tầng theo phương
thức đối tác công – tư (PPP) được triển khai thực hiện, nhất là trong lĩnh vực giao thông.
Đầu tư tư nhân trong nước đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Tỷ
trọng đầu nhân trong nước trong tổng đầu toàn hội giai đoạn 2011 2020 đạt
66,7%, cao hơn so với giai đoạn 2001 – 2010 57,4%. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân
giai đoạn 2011 – 2020 đạt 6,6%/năm, cao hơn so với giai đoạn 2001 – 2010 là 0,9%/năm.
Cụ thể, trong giai đoạn 2011 2020, vốn đầu nhân trong nước vào lĩnh vực sản
xuất công nghiệp đạt 159,8 triệu tỷ đồng, chiếm 70,2% tổng vốn đầu tư nhân trong nước;
lOMoARcPSD| 58707906
vào lĩnh vực thương mại đạt 31,8 triệu tỷ đồng, chiếm 13,9%. Qua đó, khu vực kinh tế
nhân trong nước đạt tốc độ ng trưởng khá, chiếm tỷ trọng 43% GDP, thu hút khoảng 85%
lao động đang làm việc của nền kinh tế.
Giai đoạn 2011 2015, tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) đạt bình
quân 5,9%/năm, giai đoạn 2016 – 2019 tăng trưởng đạt 6,8%/năm, năm 2020 do dịch bệnh
Covid-19 tốc độ tăng trưởng ước đạt trên 2%, bình quân giai đoạn 2016 – 2020 đạt khoảng
5,9%/năm. Tính chung cả thời kỳ Chiến lược 2011 2020, tăng trưởng GDP dự kiến đạt
khoảng 5,9%/năm, thuộc nhóm các nước tăng trưởng cao trong khu vực trên thế giới.
Quy mô GDP tăng gấp 2,4 lần, từ 116 tỉ USD năm 2010 lên 268,4 tỉ USD vào năm 2020.
GDP bình quân đầu người tăng từ 1.331 USD năm 2010 lên khoảng 2.750 USD năm 2020.
Chất lượng tăng trưởng được cải thiện, năng suất lao động được nâng lên rệt. Tăng
trưởng kinh tế giảm dần phụ thuộc vào khai thác tài nguyên, mở rộng tín dụng; từng bước
dựa vào ứng dụng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Tỷ trọng giá trị xuất khẩu sản
phẩm công nghệ cao trong tổng giá trị xuất khẩu hàng hoá tăng từ 19% năm 2010 lên
khoảng 50% năm 2020. Đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng
trưởng tăng từ 33,6% bình quân giai đoạn 2011 2015 lên 45,2% giai đoạn 2016 2020,
nh chung 10 năm 2011 – 2020 đạt 39,0%, vượt mục tiêu Chiến lược đề ra (35%). Tốc độ
tăng năng suất lao động bình quân giai đoạn 2011 2015 4,3%/năm, giai đoạn 2016
2020 là 5,8%/năm. Hiệu quả đầu tư được nâng lên; hệ số ICOR giảm từ gần 6,3 giai đoạn
2011 – 2015 xuống còn khoảng 6,1 giai đoạn 2016 2019. Lạm phát bản giảm từ 13,6%
năm 2011 xuống khoảng 2,5% năm 2020.
Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hoá tăng 3,6 lần, từ 157,1 tỉ USD năm 2010 lên
517 tỉ USD năm 2019, năm 2020 do nh ởng nặng nề của dịch bệnh Covid-19 đạt khoảng
527 tỉ USD, tương đương trên 190% GDP. Xuất khẩu tăng nhanh, từ 72,2 tỉ USD năm 2010
lên khoảng 267 tỉ USD năm 2020, tăng bình quân khoảng 14%/năm, động lực quan trọng
cho tăng trưởng kinh tế. Thị trường xuất khẩu được mở rộng; nhiều doanh nghiệp tham gia
sâu rộng vào chuỗi giá trị khu vực, toàn cầu; góp phần nâng cao năng lực xuất khẩu và sức
cạnh tranh của nền kinh tế. Cán cân thương mại được cải thiện rệt, chuyển từ thâm hụt
12,6 tỉ USD năm 2010 sang cơ bản cân bằng và có thặng dư vào những năm cuối kỳ Chiến
lược. Cán cân thanh toán quốc tế thặng dư; dự trữ ngoại hối tăng từ 12,4 tỉ USD năm 2010
lên 28 tỉ USD năm 2015 và đạt trên 80 tỉ USD vào cuối kỳ Chiến lược.
5.2.4. Giai đoạn 2021 – nay: Đầu tư phục hồi và phát triển sau đại dịch COVID-19
Năm 2021 là năm đầu tiên thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 –
2025 trong bối cảnh tình hình thế giới trong nước những diễn biến phức tạp, khó
lường, nhất ảnh hưởng nặng nề bởi dịch Covid-19 với các biến chủng mới. Bên cạnh
những thuận lợi, nền kinh tế phải chống đỡ với khó khăn, thách thức rất lớn do dịch Covid19
lOMoARcPSD| 58707906
bùng phát lần thứ với biến chủng Delta có tốc độ lây lan nhanh, nguy hiểm, ảnh hưởng
nghiêm trọng đến sức khoẻ, tính mạng của người dân và các mặt đời sống kinh tế - xã hội.
Vốn đầu thực hiện toàn hội năm 2021 theo giá hiện hành đạt 2.891,9 nghìn tỷ
đồng, tăng 3,2% so với năm trước, bao gồm: Vốn khu vực Nhà nước đạt 713,5 nghìn t
đồng, chiếm 24,7% tổng vốn và giảm 2,9% so với năm trước; khu vực ngoài Nhà nước đạt
1.720,3 nghìn tỷ đồng, bằng 59,5% tăng 7,2%; khu vực vốn đầu trực tiếp nước
ngoài đạt 458,1 nghìn tỷ đồng, bằng 15,8% và giảm 1,1%.
Tổng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tính đến 31/12/2021 bao gồm vốn đăng ký
cấp mới, vốn đăng điều chỉnh giá trị góp vốn, mua cổ phần của nđầu ớc ngoài
đạt 38,9 tỷ USD, tăng 25,2% so với năm 2020. Trong đó, 1.818 dự án được cấp phép
mới với số vốn đăng ký đạt 18,9 tỷ USD, giảm 30,3% về số dự án và tăng 24,3% về số vốn
đăng so với m trước; 1.097 lượt dự án đã cấp phép từ các m trước đăng điều
chỉnh vốn đầu tăng thêm 12,8 tỷ USD, tăng 76%; 3.924 lượt đăng góp vốn, mua cổ
phần với tổng giá trị góp vốn 7,1 tỷ USD, giảm 16,7%. Vốn đầu trực tiếp nước ngoài
thực hiện tại Việt Nam năm 2021, ước đạt 19,7 tỷ USD, giảm 1,2% so với năm trước.
Tốc độ tăng GDP năm 2021 đạt 2,56% so với năm trước. Trong đó, khu vực nông, lâm
nghiệp và thủy sản tăng 3,27%, đóng góp 15,7% vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của
toàn nền kinh tế; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 3,58%, đóng góp 55,6%; khu vực
dịch vụ tăng 1,57%, đóng góp 28,7%. Về sử dụng GDP năm 2021, tiêu dùng cuối cùng tăng
2,33% so với năm 2020; tích lũy tài sản tăng 3,96%; xuất khẩu hàng hóa dịch vụ ng
13,85%; nhập khẩu hàng hóa dịch vụ tăng 15,83%. Đồng thời, GDP bình quân đầu người
theo giá hiện hành luôn đạt mức năm sau cao hơn năm trước. Năm 2021 đạt 3.717
USD/người, tăng 165 USD so với năm 2020. GDP theo giá hiện hành năm 2021 đạt 8.479,7
nghìn tỷ đồng (tương đương 366,1 tỷ USD); năm 2020 đạt 8.044,4 nghìn tỷ đồng (tương
đương 346,6 tỷ USD).
Kết quả sản xuất của khu vực nông, lâm nghiệp thủy sản m 2021 đã thể hiện
vai trò bệ đỡ của nền kinh tế, bảo đảm nguồn cung lương thực, thực phẩm, hàng hóa thiết
yếu, sở quan trọng để thực hiện an sinh, an dân trong đại dịch. Diện tích lúa cả năm
ước đạt 7,24 triệu ha, giảm 40 nghìn ha so với năm trước do chuyển đổi cơ cấu sản xuất và
mục đích sử dụng đất; năng suất lúa ước đạt 60,6 tạ/ha, tăng 1,8 tạ/ha; sản lượng lúa đạt
43,85 triệu tấn, tăng 1,1 triệu tấn. Các hoạt động sản xuất lâm nghiệp và thủy sản đạt được
kết quả tích cực, trong đó sản lượng gỗ khai thác đạt 18,4 triệu m
3
, tăng 7%; sản lượng thủy
sản nuôi trồng đạt 4.855,4 nghìn tấn, tăng 2,5%; khai thác đạt 3.937,1 nghìn tấn, tăng 1%.
Trong khu vực công nghiệp và xây dựng, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục
động lực tăng trưởng của toàn nền kinh tế với tốc độ ng 6,05%, đóng góp 1,51 điểm
phần trăm vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế. Ngành sản xuất

Preview text:

lOMoAR cPSD| 58707906 lOMoAR cPSD| 58707906 ỤC LỤC
MỤC LỤC .......................................................................................................................... 2
LỜI MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 4
I. KHÁI NIỆM, PHÂN LOẠI HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ ............................................... 5
1.1. Khái niệm hoạt động đầu tư .................................................................................. 5
1.1.1. Theo định nghĩa của kinh tế học ........................................................................ 5
1.1.2. Theo định nghĩa của tài chính ........................................................................... 5
1.1.3. Theo pháp luật quy định .................................................................................... 5
1.2. Phân loại các hoạt động đầu tư ............................................................................. 5
1.2.1. Theo lĩnh vực hoạt động của các kết quả đầu tư ............................................... 5
1.2.2. Theo đặc điểm hoạt động của các kết quả đầu tư ............................................. 6
1.2.3. Theo thời gian thực hiện và phát huy tác dụng để thu hồi đủ vốn đã bỏ ra ...... 6
1.2.4. Theo nguồn vốn đầu tư ...................................................................................... 6
1.2.5. Theo quan hệ quản lý của chủ đầu tư ................................................................ 6
II. KHÁI NIỆM, NỘI DUNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN ................................................ 6
2.1. Khái niệm đầu tư phát triển .................................................................................. 6
2.2. Nội dung của đầu tư phát triển ............................................................................. 7
2.2.1. Đầu tư phát triển tài sản vật chất ...................................................................... 7
2.2.2. Đầu tư phát triển tài sản vô hình ....................................................................... 7
III. KHÁI NIỆM TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ ............................................................. 8
IV. TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ ĐỐI VỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ .................... 8
4.1. Đầu tư tác động đến quy mô sản lượng của nền kinh tế .................................... 8
4.2. Một số mô hình lý thuyết chứng minh mối quan hệ giữa đầu tư và tăng ........ 9
trưởng kinh tế ................................................................................................................. 9 lOMoAR cPSD| 58707906
4.2.1. Mô hình lý thuyết Keynes ................................................................................... 9
4.2.2. Mô hình David Ricardo ................................................................................... 10
4.2.3. Mô hình hai khu vực .........................................................................................11
4.2.4. Mô hình Robert Solow ..................................................................................... 12
4.2.5. Mô hình lý thuyết Tân cổ điển ......................................................................... 13
4.2.6. Mô hình Harrod – Domar ................................................................................ 13
V. VAI TRÒ CỦA ĐẦU TƯ ĐỐI VỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ TẠI VIỆT ...... 14
NAM ................................................................................................................................. 14
5.1. Hoạt động đầu tư tại Việt Nam trước thời kỳ đổi mới ..................................... 14
5.2. Hoạt động đầu tư tại Việt Nam sau thời kỳ đổi mới ......................................... 15
5.2.1. Thời kỳ 1986 – 2000: Thực hiện đường lối đổi mới nền kinh tế ..................... 15
5.2.2. Thời kỳ 2001 – 2010: Đầu tư nước ngoài (FDI) trở thành nguồn vốn đầu tư 17
quan trọng ................................................................................................................... 17
5.2.3. Thời kỳ 2011 – 2020: Đầu tư tư nhân trong nước tăng trưởng mạnh mẽ ....... 18
5.2.4. Giai đoạn 2021 – nay: Đầu tư phục hồi và phát triển sau đại dịch COVID-
19
................................................................................................................................. 19
VI. DỰ ÁN ĐƯỜNG CAO TỐC NỘI BÀI – LÀO CAI ............................................. 26
6.1. Tổng quan về hệ thống đường cao tốc Việt Nam ............................................... 26
6.2. Dự án Đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai .............................................................. 27
6.2.1. Giới thiệu chung .............................................................................................. 27
6.2.2. Khởi công, nhà thầu ......................................................................................... 27
6.2.3. Thống kê về số liệu........................................................................................... 28
6.3. Vai trò của dự án đối với tăng trưởng kinh tế ................................................... 28
VII. BÀI HỌC RÚT RA ................................................................................................ 31
KẾT LUẬN ...................................................................................................................... 33
TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................................. 34 lOMoAR cPSD| 58707906 LỜI MỞ ĐẦU
Tăng trưởng kinh tế có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển của mỗi quốc
gia, nó là điều kiện vật chất cần thiết để đảm bảo cho sự phát triển. Ngày nay, nó đã trở
thành mục tiêu và là động lực của nhiều quốc gia trên thế giới, nhất là đối với các nước
đang phát triển như nước ta.
Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế lại phụ thuộc vào các yếu tố nguồn lực và khả năng huy
động, sử dụng các yếu tố đó vào quá trình sản xuất để tạo ra của cải vật chất cho xã hội.
Quá trình đó liên tục được tiếp diễn và tạo thành chu kỳ tái sản xuất với quy mô ngày càng
được mở rộng, đây là cơ sở và cũng chính là kết quả được tích lũy lại từ hoạt động đầu tư.
Như vậy, đầu tư có tác động trực tiếp đối với tăng trưởng kinh tế và phát triển của
một nền kinh tế. Kết quả của hoạt động đầu tư là làm gia tăng năng lực sản xuất, cung
ứng các sản phẩm vật chất, dịch vụ cho nền kinh tế, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế và chuyển giao công nghệ, từ đó tạo đà cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Trong những năm qua, nền kinh tế nước ta ngày càng phát triển, duy trì được mức tăng
trưởng cao và ổn định so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, mức sống người
dân được cải thiện rõ rệt, chất lượng cuộc sống được nâng cao,… Để có được những thành
tựu đó, phải kể đến vai trò đặc biệt quan trọng của đầu tư. Với những chính sách nhằm thu
hút và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư trong và ngoài nước, Việt Nam đang nâng cao uy
tín, vị thế của mình trên trường quốc tế.
Tuy nhiên, trong quá trình huy động và sử dụng các nguồn lực cho hoạt động đầu tư để
tạo động lực cho tăng trưởng và phát triển nền kinh tế ở nước ta cũng bộc lộ nhiều hạn chế,
đòi hỏi chúng ta phải có những đánh giá, nhận định đúng về quá trình thực hiện, rút ra
những vấn đề cần phải khắc phục và đề ra biện pháp tổ chức thực hiện cho phù hợp với
tình hình thực tế nhằm đạt được những mục tiêu mong muốn.
Để giải quyết vấn đề này, trong phạm vi của bài thuyết trình, chúng em xin đưa ra một
số phân tích, đánh giá về tác động, vai trò của đầu tư đối với tăng trưởng kinh tế của Việt
Nam, từ đó đưa ra các kiến nghị, đề xuất và các giải pháp tổ chức thực hiện trong thời gian tới. lOMoAR cPSD| 58707906
I. KHÁI NIỆM, PHÂN LOẠI HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ
1.1. Khái niệm hoạt động đầu tư
1.1.1. Theo định nghĩa của kinh tế học
Trong lý thuyết kinh tế hay kinh tế học vĩ mô, đầu tư là số tiền mua một đơn vị thời
gian của hàng hóa không được tiêu thụ mà sẽ được sử dụng cho sản xuất trong tương lai.
Đầu tư thường được mô hình hóa như một hàm của thu nhập và lãi suất, được đưa ra
bởi mối quan hệ I = f(Y, r). Một gia tăng trong thu nhập khuyến khích đầu tư cao hơn. Lãi
suất của đầu tư đại diện cho một chi phí cơ hội của đầu tư các quỹ này thay vì việc cho vay
ra số tiền đó để có tiền lãi.
1.1.2. Theo định nghĩa của tài chính
Trong tài chính, đầu tư là việc mua một tài sản hay mục với hy vọng rằng nó sẽ tạo ra
thu nhập hoặc đánh giá cao trong tương lai và được bán với giá cao hơn.
Các hoạt động đầu tư thường được thực hiện gián tiếp thông qua các tổ chức trung gian,
chẳng hạn như các quỹ hưu trí, ngân hàng, môi giới, và công ty bảo hiểm. Các tổ chức này
có thể hồ tiền nhận được từ một số lượng lớn các cá nhân vào các quỹ như các tín thác đầu
tư, tín thác đơn vị, SICAV,… để thực hiện đầu tư quy mô lớn. Mỗi nhà đầu tư cá nhân sau
đó có yêu cầu gián tiếp hoặc trực tiếp đến tài sản đã mua, chịu các khoản phí áp bởi các
trung gian, có thể là lớn và đa dạng. Nó thường không bao gồm tiền gửi tại ngân hàng hay
tổ chức tương tự. Đầu tư thường liên quan đến đa dạng hóa tài sản để tránh rủi ro không
cần thiết và không hiệu quả.
1.1.3. Theo pháp luật quy định
Theo Luật đầu tư số: 59/2005/QH11, được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 29/11/2005 và chính thức có hiệu lực từ
ngày 01/7/2006 thì: “Đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng các loại tài sản hữu hình hoặc
vô hình để hình thành tài sản tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của pháp luật”.
1.2. Phân loại các hoạt động đầu tư
1.2.1. Theo lĩnh vực hoạt động của các kết quả đầu tư
- Đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh.
- Đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật.
- Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng. lOMoAR cPSD| 58707906
1.2.2. Theo đặc điểm hoạt động của các kết quả đầu tư -
Đầu tư cơ bản: nhằm tái sản xuất các tài sản cố định. -
Đầu tư vận hành: nhằm tạo ra các tài sản lưu động cho các cơ sở sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ mới hình thành hoặc thêm các tài sản lưu động cho các cơ sở hiện có.
1.2.3. Theo thời gian thực hiện và phát huy tác dụng để thu hồi đủ vốn đã bỏ ra
- Đầu tư trung hạn và dài hạn: là hình thức đầu tư có thời gian hoàn vốn lớn hơn một năm.
- Đầu tư ngắn hạn: là hình thức đầu tư có thời gian hoàn vốn nhỏ hơn một năm.
1.2.4. Theo nguồn vốn đầu tư -
Đầu tư trong nước: do Nhà nước hay các nhà đầu tư của một quốc gia bỏ vốn ra để
thực hiện hoạt động đầu tư trong lãnh thổ quốc gia đó. -
Đầu tư nước ngoài: do các Chính phủ hoặc các nhà đầu tư nước ngoài đóng góp vốn
cho hoạt động đầu tư tại một quốc gia khác.
1.2.5. Theo quan hệ quản lý của chủ đầu tư -
Đầu tư gián tiếp: là hình thức đầu tư trong đó người bỏ vốn không trực tiếp tham
gia điều hành, quản lý quá trình thực hiện và vận hành kết quả đầu tư. Ví dụ như mua cổ phiếu, trái phiếu. -
Đầu tư trực tiếp: là hình thức đầu tư trong đó người bỏ vốn trực tiếp tham gia điều
hành, quản lý quá trình thực hiện và vận hành kết quả đầu tư. Ví dụ như các hành vi thôn
tính, sáp nhập hoặc đầu tư xây dựng mới các cơ sở sản xuất kinh doanh.
II. KHÁI NIỆM, NỘI DUNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN
Có hai loại đầu tư là đầu tư dịch chuyển và đầu tư phát triển, trong đó đầu tư dịch
chuyển chỉ đơn thuần là dịch chuyển một lượng tài sản nhất định, không làm phát sinh thêm
tài sản mới, vì vậy chúng ta sẽ tập trung vào nghiên cứu về đầu tư phát triển.
2.1. Khái niệm đầu tư phát triển
Đầu tư phát triển là một phương pháp đầu tư trực tiếp, trong đó quá trình đầu tư làm
gia tăng giá trị và gia tăng năng lực sản xuất, năng lực phục vụ của tài sản. Thông qua hành
vi này, năng lực đầu tư và năng lực phục vụ của nền kinh tế cũng gia tăng.
Đầu tư phát triển thường mang những đặc điểm như: đòi hỏi nguồn vốn vật chất và
nhân lực lớn; thời kì hoạt động đầu tư thường kéo dài lâu; thời gian vận hành dài và chịu
tác động của các yếu tố chính trị, kinh tế, xã hội. lOMoAR cPSD| 58707906
Đầu tư phát triển đòi hỏi rất lớn các loại nguồn lực. Theo nghĩa hẹp, nguồn lực đó là
tiền vốn. Theo nghĩa rộng, nguồn lực bao gồm tiền vốn, đất đai, lao động, máy móc, thiết bị, tài nguyên.
Đối tượng của đầu tư phát triển là tập hợp các yếu tố được chủ đầu bỏ vốn thực hiện
nhằm đạt được những mục tiêu nhất định.
Kết quả của đầu tư phát triển là sự gia tăng thêm về tài sản vật chất, trí tuệ, tài sản vô
hình. Các kết quả đạt được của đầu tư góp phần làm tăng thêm năng lực sản xuất của xã hội.
Hiệu quả của đầu tư phát triển phản ánh mối quan hệ so sánh giữa kết quả kinh tế xã
hội thu được với chi phí chi ra để đạt được kết quả đó.
Kết quả và hiệu quả đầu tư phát triển cần được xem xét cả trên phương diện chủ đầu
tư và xã hội, đảm bảo kết hợp hài hòa giữa các loại lợi ích. Thực tế, có những khoản đầu
tư tuy không trực tiếp tạo ra tài sản cố định và tài sản lưu động cho hoạt động sản xuất kinh
doanh như đầu tư cho y tế, giáo dục… nhưng lại rất quan trọng để nâng cao chất lượng
cuộc sống và vì mục tiêu phát triển, do đó cũng được xem là đầu tư phát triển.
2.2. Nội dung của đầu tư phát triển
2.2.1. Đầu tư phát triển tài sản vật chất
Đầu tư xây dựng cơ bản: xây lắp và mua sắm máy móc thiết bị. Hoạt động này đòi hỏi
vốn lớn và chiếm tỉ trọng cao trong tổng vốn đầu tư của đơn vị. Các hoạt động này nhằm
mục đích xây mới hoặc nâng cấp cơ sở vật chất, nâng cao chất lượng của dây chuyền sản
xuất sản phẩm hoặc môi trường sản xuất, qua đó trực tiếp nâng cao chất lượng của hàng
hóa, phục vụ nhu cầu tăng cao của con người.
Đầu tư bổ sung hàng tồn trữ (bao gồm nguyên vật liệu, bán thành phẩm, thành phẩm
hoàn thành được tồn trữ): Tùy theo loại hình doanh nghiệp, quy mô và cơ cấu mặt hàng tồn
trữ thường khác nhau, tuy vậy đều có thể coi việc dự trữ như một cách để tiết kiệm thời
gian sản xuất sản phẩm, giảm thiểu chi phí cơ hội phải bỏ ra.
2.2.2. Đầu tư phát triển tài sản vô hình
Đầu tư phát triển nguồn nhân lực (bao gồm đầu tư cho đào tạo, y tế, môi trường, điều
kiện làm việc của người lao động): trong quá trình sản xuất, yếu tố con người đóng vai trò
then chốt và quan trọng nhất vì tất cả hoạt động của dây chuyền sản xuất đều phục vụ nhu
cầu và mục đích của con người.
Đầu tư nghiên cứu và triển khai các hoạt động khoa học – công nghệ: sự phát triển của
khoa học đã đánh dấu bước tiến lớn của chất lượng dây chuyền sản xuất, không chỉ nhờ lOMoAR cPSD| 58707906
nâng cấp dây chuyền sản xuất đồng bộ hơn mà còn giảm thiểu sai sót, tăng năng suất, giảm
chi phí thuê lao động.
Đầu tư cho hoạt động marketing: với bối cảnh mạng xã hội chi phối đời sống của nhiều
người ở thế kỉ XXI, việc đầu tư cho quảng cáo, xúc tiến thương mại, xây dựng thương
hiệu... sẽ góp công lớn vào việc tăng lượng khách hàng, không chỉ nâng cao lợi nhuận từ
việc lượng khách mua hàng hóa tăng mà còn thúc đẩy cho các hoạt động nghiên cứu và
phát triển ở lĩnh vực khác nhằm phục vụ cho cạnh tranh qua đó tự làm mới và tự cải thiện.
III. KHÁI NIỆM TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc tổng sản
lượng quốc dân (GNP) hoặc quy mô sản lượng quốc gia tính bình quân trên đầu người
(PCI) trong một thời gian nhất định. Sự tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào 2 quá trình: sự
tích lũy tài sản (như vốn, lao động và đất đai) và đầu tư những tài sản này có năng suất hơn.
Tiết kiệm và đầu tư là trọng tâm, nhưng đầu tư phải hiệu quả thì mới đẩy mạnh tăng trưởng.
Chính sách Chính phủ, thể chế, sự ổn định chính trị và kinh tế, đặc điểm địa lý, nguồn tài
nguyên thiên nhiên, và trình độ y tế và giáo dục, tất cả đều đóng vai trò nhất định ảnh hưởng
đến tăng trưởng kinh tế.
Để đo lường tăng trưởng kinh tế có thể dùng mức tăng trưởng tuyệt đối, tốc độ tăng
trưởng kinh tế hoặc tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm trong một giai đoạn. Mức tăng
trưởng tuyệt đối là mức chênh lệch quy mô kinh tế giữa hai kỳ cần so sánh. Tốc độ tăng
trưởng kinh tế được tính bằng cách lấy chênh lệch giữa quy mô kinh tế kỳ hiện tại so với
quy mô kinh tế kỳ trước chia cho quy mô kinh tế kỳ trước. Tốc độ tăng trưởng kinh tế được
thể hiện bằng đơn vị %.
Biểu diễn bằng toán học, sẽ có công thức: y = dY/Y × 100(%)
Trong đó Y là quy mô của nền kinh tế, và y là tốc độ tăng trưởng. Nếu quy mô kinh tế
được đo bằng GDP (hay GNP) danh nghĩa, thì sẽ có tốc độ tăng trưởng GDP (hoặc GNP)
danh nghĩa. Còn nếu quy mô kinh tế được đo bằng GDP (hay GNP) thực tế, thì sẽ có tốc
độ tăng trưởng GDP (hay GNP) thực tế. Thông thường, tăng trưởng kinh tế dùng chỉ tiêu
thực tế hơn là các chỉ tiêu danh nghĩa.
IV. TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ ĐỐI VỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
4.1. Đầu tư tác động đến quy mô sản lượng của nền kinh tế
Trong nền kinh tế thị trường thì hàng hoá, dịch vụ được điều tiết thông qua quan hệ
cung, cầu. Do đó, nó tác động đến quy mô sản lượng của nền kinh tế của mỗi quốc gia
trong một thời kỳ nhất định. Trong khi đó, hoạt động đầu tư lại là một bộ phận cấu thành
lên tổng cung, tổng cầu của nền kinh tế, cụ thể: lOMoAR cPSD| 58707906
Tác động đến tổng cầu: Do tổng cầu của nền kinh tế: AD = C + I + G + NX, tức là
tổng cầu của nền kinh tế bao gồm: Chi tiêu của khu vực Chính phủ + Chi tiêu của các hộ
gia đình + Tiết kiệm (Đầu tư) + Chênh lệch xuất nhập khẩu.
Vì vậy, đầu tư là một yếu tố chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu, nó tác động đến tổng
cầu trong ngắn hạn và tác động một cách trực tiếp. Tức là, khi tổng cung chưa thay đổi thì
sự tăng lên của đầu tư sẽ làm cho tổng cầu của nền kinh tế tăng lên. Khi đó sẽ làm cho quy
mô sản lượng cân bằng thay đổi trong ngắn hạn.
Tác động đến tổng cung: Tổng cung của nền kinh tế gồm hai nguồn chính là cung trong
nước và cung từ nước ngoài. Bộ phận chủ yếu, cung trong nước là một hàm của các yếu tố
sản xuất: vốn (K), lao động (L), tài nguyên (R), công nghệ (T)… thể hiện qua phương trình: Q = F (K, L, T, R…)
Như vậy, tăng quy mô vốn đầu tư là nguyên nhân trực tiếp làm tăng tổng cung của nền
kinh tế, nếu các yếu tố khác không đổi. Mặt khác, tác động của vốn đầu tư còn được thực
hiện thông qua hoạt động đầu tư nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đổi mới công nghệ…
Do đó, đầu tư lại gián tiếp làm tăng tổng cung của nền kinh tế.
Kết quả của hoạt động đầu tư là tài sản và năng lực sản xuất mới tăng thêm, vì vậy nó
tạo ra sự gia tăng về mặt sản lượng của nền kinh tế. Nhưng tác động của đầu tư là trong dài
hạn, khi đầu tư tăng sẽ làm cho sản lượng của nền kinh tế gia tăng, do đó sẽ làm cho sản
lượng tiềm năng tăng lên và giá cả sản phẩm giảm xuống. Đến lượt nó, khi giá cả giảm sẽ
kích thích, gia tăng tiêu dùng và kích thích sản xuất phát triển, tăng quy mô đầu tư. Sản
xuất phát triển là nguồn gốc tăng tích lũy, phát triển kinh tế xã hội, tăng thu nhập cho người
lao động, nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội.
4.2. Một số mô hình lý thuyết chứng minh mối quan hệ giữa đầu tư và tăng trưởng kinh tế
4.2.1. Mô hình lý thuyết Keynes
Lý thuyết kinh tế đề xướng bởi nhà kinh tế người Anh John Maynard Keynes (1883 –
1946) và những người theo sau. Keynes quan niệm rằng Chính phủ nên sử dụng sức mạnh
ngân sách để duy trì sự tăng trưởng và ổn định về kinh tế, và vượt qua những chu kỳ suy
thoái thường xảy ra trong đa số các nền kinh tế phương Tây.
Kinh tế học Keynes là một lý thuyết kinh tế về tổng chi tiêu trong nền kinh tế và những
ảnh hưởng của nó đến sản lượng và lạm phát. Kinh tế học Keynes đã được sử dụng để đưa
ra định nghĩa rằng hiệu quả kinh tế tối ưu có thể đạt được và sự suy thoái kinh tế được ngăn lOMoAR cPSD| 58707906
chặn bằng cách tác động đến tổng cầu thông qua chính sách của Chính phủ nhằm ổn định
hoạt động và can thiệp vào nền kinh tế.
Khi nghiên cứu tiêu dùng cho đầu tư của các doanh nghiệp, Keynes cho rằng đầu tư
đóng một vai trò quyết định đến quy mô việc làm và theo đó là tăng trưởng kinh tế. Mỗi sự
gia tăng của đầu tư đều kéo theo sự gia tăng của cầu bổ sung công nhân, cầu về tư liệu sản
xuất. Nhờ đó, làm tăng cầu tiêu dùng, tăng giá hàng, tăng việc làm cho công nhân. Tất cả
điều đó làm cho thu nhập tăng lên. Đến lượt nó, tăng thu nhập lại là tiền đề cho sự gia tăng
đầu tư mới. Đây là quá trình số nhân đầu tư: tăng đầu tư làm tăng thu nhập; tăng thu nhập
làm tăng đầu tư mới; tăng đầu tư mới làm tăng thu nhập mới – nền kinh tế tăng trưởng.
Số nhân đầu tư là đại lượng thể hiện mối quan hệ giữa mức gia tăng thu nhập và mức
gia tăng đầu tư, sự gia tăng đầu tư sẽ làm thu nhập tăng như thế nào. Quá trình này được tính toán như sau: K = dR/dI Trong
đó: dR là gia tăng thu nhập dI là gia tăng đầu tư K là số nhân
Với giả thiết I = S ta có K = dR/dS = dR/(dR – dC) = 1/(1 – dC/dR)
(dC là gia tăng tiêu dùng, dS là gia tăng tiết kiệm)
4.2.2. Mô hình David Ricardo
Mô hình của David Ricardo đặt ra các giả định:
- Lao động là nguồn gốc tạo ra của cải.
- Yếu tố vốn là yếu tố trực tiếp tăng sản lượng. Vì vậy, không có sự xuất hiện của
Chính phủ vì chi tiêu Chính phủ không sinh lời và làm giảm động lực tích lũy của doanh nghiệp.
- Trong nền kinh tế truyền thống, nông nghiệp là yếu tố chi phối.
- Quy luật lợi tức biên giảm dần theo quy mô. Yếu tố công nghệ tác động yếu ớt coi như bằng không.
Theo Ricardo, có ba yếu tố tác động tới tăng trưởng là: lao động (L), vốn (K), và đất
đai (R). Như vậy, có hàm sản xuất như sau: Y = f(L,K,R). lOMoAR cPSD| 58707906
Trong ba yếu tố nêu trên thì đất đai (R) là yếu tố quan trọng nhất, đất đai chính là giới
hạn của tăng trưởng. Vì khi sản xuất nông nghiệp gia tăng trên đất đai kém màu mỡ hơn
thì giá lương thực, thực phẩm sẽ tăng lên. Do đó, tiền lương danh nghĩa tăng lên, lợi nhuận
của nhà tư bản giảm. Cho tới khi đất đai đạt điểm dừng tại R0 và Y sẽ đạt đến sản lượng tối
đa, tại đó sẽ là giới hạn của tăng trưởng. Khi đó, nền kinh tế chia làm hai khu vực, đó là
khu vực nông nghiệp trì trệ tuyệt đối và khu vực công nghiệp. Như vậy, khi chưa đến điểm
dừng R0 thì R là yếu tố quyết định tăng trưởng, khi đạt điểm dừng R0 thì tích lũy cho khu
vực công nghiệp mới là yếu tố quyết định tăng trưởng.
4.2.3. Mô hình hai khu vực
Mô hình hai khu vực tăng trưởng kinh tế dựa vào sự tăng trưởng hai khu vực nông
nghiệp và công nghiệp trong đó chú trọng yếu tố chính là lao động (L), yếu tố tăng năng
suất do đầu tư và khoa học kỹ thuật tác động lên hai khu vực kinh tế. Tiêu biểu cho mô
hình hai khu vực là mô hình Lewis.
Theo A. Lewis (1955) thì nền kinh tế ở các nước đang phát triển có hai khu vực kinh
tế song song tồn tại đó là: khu vực kinh tế truyền thống mà chủ yếu là sản xuất nông nghiệp
và khu vực kinh tế hiện đại mà chủ yếu là sản xuất công nghiệp. -
Khu vực nông nghiệp tập trung ở nông thôn, nơi có sự dư thừa lao động. Lao động
dư thừa này có năng suất cận biên bằng không và có thể được rút ra khỏi khu vực nông
nghiệp mà không làm giảm sản lượng ở khu vực nông nghiệp. -
Khu vực công nghiệp tập trung ở đô thị, có mức tiền công cố định và cao hơn mức
tiền công ở khu vực nông nghiệp, nên thuê một phần lao động dư thừa ở khu vực nông
nghiệp làm cho sản lượng công nghiệp và lợi nhuận công nghiệp tăng lên.
Phần lợi nhuận này được tái đầu tư mở rộng sản xuất, lại thuê thêm một phần lao
động dư thừa ở khu vực nông nghiệp nữa làm cho sản lượng công nghiệp và lợi nhuận
tăng hơn nữa. Quá trình này sẽ tiếp tục cho đến khi thu hút được toàn bộ số lao động dư
thừa ở khu vực nông nghiệp. lOMoAR cPSD| 58707906
Như vậy, theo A. Lewis thì quá trình chuyển số lao động dư thừa từ khu vực nông
nghiệp sang khu vực công nghiệp cũng chính là quá trình làm cho nền kinh tế chuyển từ
nền kinh tế nông nghiệp thành nền kinh tế công nghiệp. Nói cách khác, các nước đang phát
triển muốn nhanh chóng thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu bằng cách đẩy mạnh phát triển khu
vực công nghiệp mà không cần quan tâm đến khu vực nông nghiệp, bởi lẽ khu vực công
nghiệp sẽ thu hút dần lao động dư thừa ở khu vực nông nghiệp.
4.2.4. Mô hình Robert Solow
Mô hình tăng trưởng kinh tế Solow là mô hình lý thuyết tập trung vào vai trò của những
thay đổi về công nghệ đối với quá trình tăng trưởng kinh tế. Đây là mô hình tăng trưởng
ngoại sinh, một mô hình kinh tế về tăng trưởng kinh tế dài hạn được thiết lập dựa trên nền
tảng và khuôn khổ của kinh tế học tân cổ điển.
Mô hình tăng trưởng kinh tế Solow được đưa ra để giải thích sự tăng trưởng kinh tế dài
hạn bằng cách nghiên cứu quá trình tích lũy vốn, lao động hoặc tăng trưởng dân số và sự
gia tăng năng suất, thường được gọi là tiến bộ công nghệ.
Mô hình Solow sử dụng một hàm sản xuất trong đó sản lượng là một hàm của tư bản
và lao động, với điều kiện tư bản có thể thay thế cho lao động với mức độ hoàn hảo thay
đổi có lợi suất giảm dần. Bởi vậy, nếu tư bản tăng so với lao động thì mức gia tăng sản
lượng ngày càng trở nên nhỏ hơn. Theo giả định như vậy về tỷ lệ sản lượng/tư bản thay
đổi, thì khi khối lượng tư bản của một nước tăng lên, quy luật lợi suất giảm dần sẽ phát huy
tác dụng và tạo ra mức tăng ngày càng nhỏ của sản lượng. Vì thế tăng trưởng kinh tế không
những đòi hỏi phải đầu tư để mở rộng khối lượng tư bản. Đặc biệt, tiến bộ công nghệ (kỹ
thuật, quy trình, phương pháp sản xuất mới và sản phẩm mới) đóng một vai trò quan trọng
trong việc đối phó với quy luật lợi suất giảm dần của tư bản khi khối lượng tư bản tăng lên. lOMoAR cPSD| 58707906
4.2.5. Mô hình lý thuyết Tân cổ điển
Theo mô hình lý thuyết Tân cổ điển, nguồn gốc của tăng trưởng tùy thuộc vào cách
thức kết hợp hai yếu tố đầu vào là vốn (K) và lao động (L).
Lý thuyết tăng trưởng tân cổ điển đặt ra rằng việc tích lũy vốn trong một nền kinh tế
và cách mọi người sử dụng vốn đó, là rất quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế. Hơn nữa,
mối quan hệ giữa vốn và lao động của một nền kinh tế quyết định sản lượng của nền kinh
tế. Cuối cùng, công nghệ làm tăng năng suất lao động và tăng khả năng đầu ra của lao động.
Do đó, hàm sản xuất của lí thuyết tăng trưởng tân cổ điển được sử dụng để đo lường sự
tăng trưởng và cân bằng của một nền kinh tế. Hàm sản xuất là của mô hình này được biểu diễn như sau: Y = AF(K, L).
Trong đó: Y: tổng sản phẩm quốc nội GDP của một nền kinh tế
K: vốn trong một nền kinh tế
L: số lượng lao động phổ thông trong một nền kinh tế
A: định lượng mức độ công nghệ của nền kinh tế
Tuy nhiên, do mối quan hệ giữa lao động và công nghệ, hàm sản xuất của nền kinh tế
thường được viết lại thành Y = F(K, AL).
4.2.6. Mô hình Harrod – Domar
Dựa vào tư tưởng của Keynes, vào những năm 40 với sự nghiên cứu một cách độc lập,
hai nhà kinh tế học là Roy Harrod ở Anh và Evsay Domar ở Mỹ đã cùng đưa ra mô hình
giải thích mối quan hệ giữa sự tăng trưởng ở các nước phát triển. Mô hình này cũng được
sử dụng rộng rãi ở các nước đang phát triển để xét mối quan hệ giữa tăng trưởng và các
nhu cầu về vốn. Mô hình này coi đầu ra của bất kỳ đơn vị kinh tế nào, dù là một công ty,
một ngành công nghiệp hay toàn bộ nền kinh tế phụ thuộc vào tổng số vốn đầu tư cho nó.
Cụ thể, mô hình Harrod – Domar đặt ra mối liên hệ giữa đầu tư và tăng trưởng kinh tế
dựa trên hệ số ICOR (Incremental Capital Output Ratio – tỷ số gia tăng của vốn so với
sản lượng). Đó là tỷ số giữa quy mô đầu tư tăng thêm với mức gia tăng sản lượng, hay là
suất đầu tư cần thiết để tạo ra một đơn vị sản lượng (GDP) tăng thêm.
Hệ số ICOR được tính dựa trên các giả định chủ yếu sau: (1) Mọi nhân tố khác không
thay đổi. (2) Chỉ có sự gia tăng vốn dẫn tới gia tăng sản lượng.
Phương pháp tính hệ số ICOR như sau: lOMoAR cPSD| 58707906 ICORt = 𝑉𝑡 𝐺𝑡−𝐺𝑡−1
Trong đó: Vt: Vốn đầu tư thực hiện của năm nghiên cứu
Gt: Tổng sản phẩm trong nước của năm nghiên cứu
G0: Tổng sản phẩm trong nước của năm trước năm nghiên cứu
Hệ số ICOR của nền kinh tế cao hay thấp chịu ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố.
Thứ nhất, do thay đổi cơ cấu đầu tư ngành. Cơ cấu đầu tư ngành thay đổi ảnh hưởng
đến hệ số ICOR từng ngành, do đó, tác động đến hệ số ICOR chung.
Thứ hai, sự phát triển của khoa học và công nghệ có ảnh hưởng hai mặt đến hệ số
ICOR. Gia tăng đầu tư cho khoa học công nghệ, một mặt, làm cho tử số của công thức tăng,
mặt khác, sẽ tạo ra nhiều ngành mới, công nghệ mới, làm máy móc hoạt động hiệu quả
hơn, năng suất cao hơn, kết quả đầu tư tăng lên (tăng mẫu số của công thức). Như vậy, hệ
số ICOR tăng hay giảm phụ thuộc vào xu hướng nào chiếm ưu thế.
Thứ ba, do thay đổi cơ chế chính sách và phương pháp tổ chức quản lý. Cơ chế chính
sách phù hợp, đầu tư có hiệu quả hơn làm cho ICOR giảm và ngược lại.
V. VAI TRÒ CỦA ĐẦU TƯ ĐỐI VỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ TẠI VIỆT NAM
5.1. Hoạt động đầu tư tại Việt Nam trước thời kỳ đổi mới
Trước năm 1986, nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế có hai hình thức sở hữu, hai loại
hình kinh tế chủ yếu là xí nghiệp quốc doanh và tập thể, chỉ có một ít là loại hình kinh tế
cá thể, chưa có kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Kinh tế Nhà nước chiếm tỷ trọng rất lớn, với hàng chục nghìn xí nghiệp quốc doanh.
Gọi là xí nghiệp quốc doanh, nhưng chưa thể gọi là doanh nghiệp, bởi xí nghiệp gần như
không có quyền tự chủ, mọi cái từ đầu vào (lao động, vốn đầu tư, nguyên nhiên vật liệu…),
sản xuất, kinh doanh (cái gì, bao nhiêu…), đầu ra (tiêu thụ ở đâu, giá cả ra sao…), đến kết
quả sản xuất, kinh doanh (lãi, lỗ…) đều do Nhà nước lo, Nhà nước chịu.
Kinh tế tập thể chiếm gần hết khu vực ngoài Nhà nước với hàng nghìn hợp tác xã
cũng thuộc đủ các ngành. Gọi là kinh tế tập thể dựa trên nguyên tắc tự nguyện nhưng
phương án ăn chia do Nhà nước duyệt, vật tư chủ yếu do Nhà nước cung cấp, sản phẩm
do Nhà nước thu mua và xã viên ăn theo định lượng. lOMoAR cPSD| 58707906
5.2. Hoạt động đầu tư tại Việt Nam sau thời kỳ đổi mới
5.2.1. Thời kỳ 1986 – 2000: Thực hiện đường lối đổi mới nền kinh tế
Nhận ra những bất cập của cơ chế kinh tế hiện hành, Nhà nước bắt đầu có một số thay
đổi trong chính sách quản lý kinh tế. Trong thời kỳ này, nước ta đã thực hiện đường lối đổi
mới, chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước và định
hướng xã hội chủ nghĩa. Năm 1987, Quốc hội chính thức thông qua Luật Đầu tư nước
ngoài, đây là văn bản pháp lý quan trọng nhất đối với đầu tư nước ngoài. Theo đó, Chính
phủ khuyến khích các công ty nước ngoài hoạt động kinh doanh tại Việt Nam, thu hút
nguồn lực bên ngoài, chuyển dịch nền kinh tế đất nước.
Việt Nam thực hiện Luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài trong bối cảnh phát triển kinh tế
- xã hội còn rất thấp: hạ tầng cơ sở nghèo nàn, khoa học công nghệ lạc hậu, nguồn nhân lực
phần lớn chưa qua đào tạo,… Trong khi đó, nhu cầu phát triển luôn phải đối mặt với sức
ép cần vốn đầu tư, công nghệ tiên tiến, đẩy mạnh xuất khẩu,… để khai thác lợi thế so sánh
nhằm đạt được tốc độ tăng trưởng cao, giải quyết công ăn việc làm và ổn định đời sống xã hội.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đã trở thành nguồn vốn đầu tư quan trọng, đóng góp
lớn vào tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và hội nhập của Việt Nam. Trong
vòng 3 năm 1988 – 1990, Việt Nam đã cấp giấy phép 213 dự án đầu tư với tổng vốn đăng
ký gần 1,8 tỷ USD. Tuy nhiên nguồn vốn giải ngân thấp, do các nhà đầu tư vẫn đang đợi
chờ quá trình thay đổi và cam kết từ Chính phủ.
Từ sau năm 1990, quá trình mở cửa diễn ra mạnh mẽ, làn sóng đầu tư nước ngoài ồ ạt
vào Việt Nam. FDI đóng vai trò lớn trong đầu tư toàn xã hội; Cụ thể, vốn FDI chiếm 13,1%
tổng vốn đầu tư xã hội vào năm 1990 và tăng mạnh lên mức 32,3% trong năm 1995. Năm
1991, số vốn FDI đăng ký vào Việt Nam là 2,07 tỷ USD, trong đó số vốn FDI thực hiện là
428,5 triệu USD, đạt trên 20% vốn đăng ký. Trong giai đoạn 1991 – 2000, tổng vốn FDI
đạt 11,4 tỷ USD, chiếm 20% tổng vốn đầu tư tại Việt Nam.
Không chỉ vậy, đầu tư tư nhân trong nước cũng tăng trưởng mạnh mẽ, góp phần vào
tăng trưởng kinh tế và giải quyết việc làm. Trong giai đoạn này, tổng vốn đầu tư tư nhân
trong nước đạt 22,3 tỷ USD, chiếm khoảng 40% tổng vốn đầu tư tại Việt Nam.
Đầu tư công cũng đã góp phần thúc đẩy công cuộc đổi mới, duy trì tốc độ tăng trưởng
kinh tế, huy động và tập trung tối đa nguồn lực, kiểm soát bội chi ngân sách nhà nước, ổn
định và lành mạnh hóa nền tài chính quốc gia, giải quyết tốt những vấn đề bức xúc về xã
hội, giữ vững an ninh quốc gia. lOMoAR cPSD| 58707906
Đường lối đổi mới của Đảng nhanh chóng được sự hưởng ứng rộng rãi của quần chúng
nhân dân, khơi dậy tiềm năng và sức sáng tạo của các loại hình kinh tế để phát triển sản
xuất, tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động, tăng sản phẩm cho xã hội. Giai đoạn
1986 – 2000, tổng sản phẩm trong nước bình quân mỗi năm tăng 6,51%; trong đó: khu vực
nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,72%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 9,06%;
khu vực dịch vụ tăng 6,66%. Đầu tư trong giai đoạn này đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế của Việt Nam. GDP bình quân đầu người tăng từ 114 USD (1991) lên 312 USD
(2000) và tỷ lệ thất nghiệp giảm từ 7,7% xuống 5,3%. Nếu so với tốc độ tăng chung của
kinh tế thế giới và sự giảm sút nhanh của các nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung Đông Âu
và Liên Xô khi chuyển sang kinh tế thị trường, thì các tốc độ tăng trên của nền kinh tế Việt
Nam là một kết quả đáng ghi nhận.
Một trong những thành tựu kinh tế to lớn của thời kỳ đổi mới là phát triển sản xuất
nông nghiệp, mà nội dung cơ bản là khoán gọn đến hộ nông dân, thừa nhận hộ nông dân là
đơn vị kinh tế tự chủ ở nông thôn, đánh dấu sự mở đầu của thời kỳ đổi mới trong nông
nghiệp và nông thôn nước ta. Ngành nông nghiệp đã giải quyết vững chắc vấn đề lương
thực, đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, đưa Việt Nam từ nước thiếu lương thực trở
thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai thế giới. Năm 2000, tổng sản lượng lương thực có
hạt đạt 34,5 triệu tấn, gấp 2,1 lần năm 1986; lương thực có hạt bình quân đầu người đạt
444,8 kg, gấp 1,6 lần; xuất khẩu gạo đạt 3.477 nghìn tấn, gấp hơn 26 lần.
Sản xuất công nghiệp đi dần vào thế phát triển ổn định với tốc độ tăng bình quân mỗi
năm trong thời kỳ 1986 – 2000 đạt 11,09%. Những sản phẩm công nghiệp quan trọng phục
vụ sản xuất và tiêu dùng của dân cư đều tăng cả về số lượng và chất lượng. Sản lượng điện
năm 2000 gấp 4,7 lần so với năm 1986; sản lượng xi măng gấp 8,7 lần; thép cán gấp 25,6
lần; thiếc gấp 3,6 lần. Sản lượng dầu thô đã tăng từ 41 nghìn tấn năm 1986 lên gần 7,1 triệu
tấn năm 1994 và 16,3 triệu tấn năm 2000. Các cơ sở sản xuất công nghiệp đã quan tâm hơn
đến chất lượng sản phẩm, không ngừng cải tiến mẫu mã, áp dụng công nghệ tiên tiến và
thay đổi phương án sản xuất theo yêu cầu của thị trường.
Do sản xuất, kinh doanh hồi phục và có bước phát triển nên siêu lạm phát bước đầu đã
được kiềm chế và đẩy lùi. Giá bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng từ mức tăng 3 chữ số
mỗi năm trong 3 năm 1986 – 1988, hai chữ số mỗi năm trong thời kỳ 1989 – 1992 đã giảm
xuống chỉ còn tăng một chữ số trong thời kỳ 1993 – 2000. So với tháng 12 năm trước, chỉ
số giá tiêu dùng năm 1992 tăng 17,5% và năm 2000 giảm 0,6%.
Chính sách cải cách tiền lương trong thời kỳ này đã thúc đẩy phát triển sản xuất làm
cho đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Thu nhập bình quân đầu người một tháng của
dân cư tăng từ khoảng 1.600 đồng năm 1986 lên đến 295.000 đồng năm 1999. Thu nhập
tăng nhanh góp phần làm cho công cuộc xóa đói giảm nghèo của nước ta trong giai đoạn
này đạt được những kết quả đáng kể. Nếu như năm 1993, tỷ lệ nghèo chung của Việt Nam lOMoAR cPSD| 58707906
tính theo phương pháp của Ngân hàng Thế giới là 58,1%, thì đến năm 1998 tỷ lệ nghèo này giảm xuống còn 37,4%.
5.2.2. Thời kỳ 2001 – 2010: Đầu tư nước ngoài (FDI) trở thành nguồn vốn đầu tư quan trọng
Trong mười năm 2001 – 2010, nền kinh tế nước ta tiếp tục vận hành theo mô hình tăng
trưởng chủ yếu dựa vào vốn đầu tư. Vốn đầu tư trở thành một trong những yếu tố đầu vào
có vai trò quyết định đối với sự phát triển kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội. Do vậy,
trong những năm 2001 – 2010 các cấp, các ngành đã triển khai nhiều biện pháp huy động
các nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước. Tính chung 10 năm, tổng số vốn đầu tư thực
hiện theo giá thực tế đạt 4336,6 nghìn tỷ đồng, trong đó khu vực kinh tế Nhà nước thực
hiện 1840,7 nghìn tỷ đồng, chiếm 42,5%; khu vực kinh tế ngoài Nhà nước thực hiện 1519,0
nghìn tỷ đồng, chiếm 35%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài thực hiện 976,9 nghìn tỷ
đồng, chiếm 22,5%. Nếu tính theo giá so sánh năm 1994 thì vốn đầu tư thực hiện năm 2010
đã gấp 3,5 lần năm 2000, bình quân mỗi năm trong mười năm 2001 – 2010 tăng 13,3%,
trong đó, khu vực Nhà nước gấp 2,6 lần, bình quân mỗi năm tăng 10,2%; khu vực ngoài
Nhà nước gấp 4,1 lần, bình quân mỗi năm tăng 15,1%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài
gấp 5,5 lần, bình quân mỗi năm tăng 18,5%. Như vậy, tốc độ tăng vốn đầu tư so với tốc độ
tăng tổng sản phẩm trong nước tính chung mười năm 2001 – 2010 gấp 1,83 lần, trong đó,
những năm 2001 – 2005 gấp 1,76 lần; những năm 2006 – 2010 gấp 1,91 lần.
Đáng chú ý là sự kiện Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) năm
2007 đã tạo ra một cú hích lớn cho nền kinh tế, mở ra cơ hội tiếp cận thị trường toàn cầu
cho các doanh nghiệp Việt Nam. Đồng thời, cũng tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các nhà
đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam, làm gia tăng mạnh mẽ vốn FDI đăng ký vào Việt
Nam từ 21,35 tỷ USD năm 2007 lên đến 71,73 tỷ USD chỉ riêng năm 2008. Vốn FDI đã
trở thành một trong những động lực chính cho phát triển kinh tế của Việt Nam. Nếu như
những năm đầu của thời kỳ mở cửa, vốn FDI vào Việt Nam không đáng kể thì kể từ sau
năm 2007, lượng vốn FDI không ngừng tăng lên.
Năm 2008, nước ta đã ra khỏi nhóm nước và vùng lãnh thổ thu nhập thấp để gia nhập
nhóm nước và vùng lãnh thổ thu nhập trung bình thấp, đất nước thoát khỏi tình trạng kém
phát triển, đó là thành tựu nổi bật nhất trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước
trong thời kỳ này. Cùng với đó, Việt Nam có 2 lần xếp thứ 2 trong bảng xếp hạng các quốc
gia thu hút dòng vốn FDI lớn nhất trong khối ASEAN với vốn FDI đạt 9,58 tỷ USD vào
năm 2008 và 7,6 tỷ USD vào năm 2009.
FDI đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Tổng vốn FDI đăng ký
giai đoạn 2001 – 2010 đạt 58,497 tỷ USD, gấp 5,1 lần so với giai đoạn 1991 – 2000. Tốc lOMoAR cPSD| 58707906
độ tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 2001 – 2010 đạt 7,76%/năm, cao hơn so với giai
đoạn 1991 – 2000 là 0,2%/năm. Số lao động làm việc trong các doanh nghiệp FDI giai
đoạn 2001 – 2010 đạt 3,5 triệu người, chiếm 12% tổng số lao động làm việc trong các
doanh nghiệp. Thu nhập bình quân đầu người giai đoạn 2001 – 2010 tăng từ 312 USD lên
1.210 USD. Ngoài ra, các doanh nghiệp FDI đã sử dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại, góp
phần nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm và dịch vụ của các doanh nghiệp Việt Nam.
5.2.3. Thời kỳ 2011 – 2020: Đầu tư tư nhân trong nước tăng trưởng mạnh mẽ
Bước vào thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011 – 2020, nền
kinh tế tiềm ẩn nhiều rủi ro, lạm phát cao, nợ công tăng nhanh, tỉ lệ nợ xấu cao; sản xuất
kinh doanh gặp nhiều khó khăn. Tác động, ảnh hưởng từ bên ngoài tăng, cạnh tranh ngày
càng gay gắt, trong khi độ mở của nền kinh tế cao, sức chống chịu còn hạn chế. Biến đổi
khí hậu, thiên tai, dịch bệnh diễn biến phức tạp hơn. Đặc biệt trong năm 2020, đại dịch
Covid-19 đã ảnh hưởng rất nghiêm trọng đến hầu hết các ngành, lĩnh vực, các hoạt động
kinh tế, xã hội bị ngưng trệ, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn. Trước tình hình đó,
nhân dân cả nước đã chung sức, đồng lòng, nỗ lực vượt bậc, tập trung vừa phòng, chống
dịch bệnh, vừa duy trì, phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội, vượt qua khó khăn, thách thức
và đạt được nhiều thành tựu rất quan trọng, khá toàn diện trên hầu hết các lĩnh vực.
Việc huy động các nguồn lực cho đầu tư phát triển được đẩy mạnh, đầu tư khu vực
ngoài Nhà nước tăng nhanh và chất lượng, hiệu quả được cải thiện. Vốn đầu tư phát triển
giai đoạn 2011 – 2020 đạt gần 15 triệu tỉ đồng (tương đương 682 tỉ USD), tăng bình quân
10,6%/năm, trong đó vốn ngân sách Nhà nước và trái phiếu Chính phủ là 3,1 triệu tỉ đồng
(144 tỉ USD), chiếm 20,8% tổng đầu tư xã hội, tập trung cho các công trình kết cấu hạ tầng
kinh tế - xã hội trọng điểm, nhất là giao thông, thuỷ lợi, giáo dục, y tế, nông nghiệp, nông
thôn, giảm nghèo, an ninh, quốc phòng... góp phần quan trọng thay đổi diện mạo đất nước,
tạo động lực cho phát triển và thu hút các nguồn lực ngoài nhà nước.
Vốn đầu tư của khu vực tư nhân trong nước chiếm tỉ trọng ngày càng lớn trong tổng
đầu tư xã hội, tăng từ 36,1% năm 2010 lên 45,7% năm 2020. Một số tập đoàn, doanh nghiệp
tư nhân đã tham gia đầu tư, hoàn thành nhiều công trình, dự án lớn, góp phần thúc đẩy phát
triển sản xuất, kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh. Nhiều dự án hạ tầng theo phương
thức đối tác công – tư (PPP) được triển khai thực hiện, nhất là trong lĩnh vực giao thông.
Đầu tư tư nhân trong nước đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Tỷ
trọng đầu tư tư nhân trong nước trong tổng đầu tư toàn xã hội giai đoạn 2011 – 2020 đạt
66,7%, cao hơn so với giai đoạn 2001 – 2010 là 57,4%. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân
giai đoạn 2011 – 2020 đạt 6,6%/năm, cao hơn so với giai đoạn 2001 – 2010 là 0,9%/năm.
Cụ thể, trong giai đoạn 2011 – 2020, vốn đầu tư tư nhân trong nước vào lĩnh vực sản
xuất công nghiệp đạt 159,8 triệu tỷ đồng, chiếm 70,2% tổng vốn đầu tư tư nhân trong nước; lOMoAR cPSD| 58707906
vào lĩnh vực thương mại đạt 31,8 triệu tỷ đồng, chiếm 13,9%. Qua đó, khu vực kinh tế tư
nhân trong nước đạt tốc độ tăng trưởng khá, chiếm tỷ trọng 43% GDP, thu hút khoảng 85%
lao động đang làm việc của nền kinh tế.
Giai đoạn 2011 – 2015, tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) đạt bình
quân 5,9%/năm, giai đoạn 2016 – 2019 tăng trưởng đạt 6,8%/năm, năm 2020 do dịch bệnh
Covid-19 tốc độ tăng trưởng ước đạt trên 2%, bình quân giai đoạn 2016 – 2020 đạt khoảng
5,9%/năm. Tính chung cả thời kỳ Chiến lược 2011 – 2020, tăng trưởng GDP dự kiến đạt
khoảng 5,9%/năm, thuộc nhóm các nước tăng trưởng cao trong khu vực và trên thế giới.
Quy mô GDP tăng gấp 2,4 lần, từ 116 tỉ USD năm 2010 lên 268,4 tỉ USD vào năm 2020.
GDP bình quân đầu người tăng từ 1.331 USD năm 2010 lên khoảng 2.750 USD năm 2020.
Chất lượng tăng trưởng được cải thiện, năng suất lao động được nâng lên rõ rệt. Tăng
trưởng kinh tế giảm dần phụ thuộc vào khai thác tài nguyên, mở rộng tín dụng; từng bước
dựa vào ứng dụng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Tỷ trọng giá trị xuất khẩu sản
phẩm công nghệ cao trong tổng giá trị xuất khẩu hàng hoá tăng từ 19% năm 2010 lên
khoảng 50% năm 2020. Đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng
trưởng tăng từ 33,6% bình quân giai đoạn 2011 – 2015 lên 45,2% giai đoạn 2016 – 2020,
tính chung 10 năm 2011 – 2020 đạt 39,0%, vượt mục tiêu Chiến lược đề ra (35%). Tốc độ
tăng năng suất lao động bình quân giai đoạn 2011 – 2015 là 4,3%/năm, giai đoạn 2016 –
2020 là 5,8%/năm. Hiệu quả đầu tư được nâng lên; hệ số ICOR giảm từ gần 6,3 giai đoạn
2011 – 2015 xuống còn khoảng 6,1 giai đoạn 2016 – 2019. Lạm phát cơ bản giảm từ 13,6%
năm 2011 xuống khoảng 2,5% năm 2020.
Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hoá tăng 3,6 lần, từ 157,1 tỉ USD năm 2010 lên
517 tỉ USD năm 2019, năm 2020 do ảnh hưởng nặng nề của dịch bệnh Covid-19 đạt khoảng
527 tỉ USD, tương đương trên 190% GDP. Xuất khẩu tăng nhanh, từ 72,2 tỉ USD năm 2010
lên khoảng 267 tỉ USD năm 2020, tăng bình quân khoảng 14%/năm, là động lực quan trọng
cho tăng trưởng kinh tế. Thị trường xuất khẩu được mở rộng; nhiều doanh nghiệp tham gia
sâu rộng vào chuỗi giá trị khu vực, toàn cầu; góp phần nâng cao năng lực xuất khẩu và sức
cạnh tranh của nền kinh tế. Cán cân thương mại được cải thiện rõ rệt, chuyển từ thâm hụt
12,6 tỉ USD năm 2010 sang cơ bản cân bằng và có thặng dư vào những năm cuối kỳ Chiến
lược. Cán cân thanh toán quốc tế thặng dư; dự trữ ngoại hối tăng từ 12,4 tỉ USD năm 2010
lên 28 tỉ USD năm 2015 và đạt trên 80 tỉ USD vào cuối kỳ Chiến lược.
5.2.4. Giai đoạn 2021 – nay: Đầu tư phục hồi và phát triển sau đại dịch COVID-19
Năm 2021 là năm đầu tiên thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 –
2025 trong bối cảnh tình hình thế giới và trong nước có những diễn biến phức tạp, khó
lường, nhất là ảnh hưởng nặng nề bởi dịch Covid-19 với các biến chủng mới. Bên cạnh
những thuận lợi, nền kinh tế phải chống đỡ với khó khăn, thách thức rất lớn do dịch Covid19 lOMoAR cPSD| 58707906
bùng phát lần thứ tư với biến chủng Delta có tốc độ lây lan nhanh, nguy hiểm, ảnh hưởng
nghiêm trọng đến sức khoẻ, tính mạng của người dân và các mặt đời sống kinh tế - xã hội.
Vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội năm 2021 theo giá hiện hành đạt 2.891,9 nghìn tỷ
đồng, tăng 3,2% so với năm trước, bao gồm: Vốn khu vực Nhà nước đạt 713,5 nghìn tỷ
đồng, chiếm 24,7% tổng vốn và giảm 2,9% so với năm trước; khu vực ngoài Nhà nước đạt
1.720,3 nghìn tỷ đồng, bằng 59,5% và tăng 7,2%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài đạt 458,1 nghìn tỷ đồng, bằng 15,8% và giảm 1,1%.
Tổng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tính đến 31/12/2021 bao gồm vốn đăng ký
cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài
đạt 38,9 tỷ USD, tăng 25,2% so với năm 2020. Trong đó, có 1.818 dự án được cấp phép
mới với số vốn đăng ký đạt 18,9 tỷ USD, giảm 30,3% về số dự án và tăng 24,3% về số vốn
đăng ký so với năm trước; 1.097 lượt dự án đã cấp phép từ các năm trước đăng ký điều
chỉnh vốn đầu tư tăng thêm 12,8 tỷ USD, tăng 76%; 3.924 lượt đăng ký góp vốn, mua cổ
phần với tổng giá trị góp vốn 7,1 tỷ USD, giảm 16,7%. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
thực hiện tại Việt Nam năm 2021, ước đạt 19,7 tỷ USD, giảm 1,2% so với năm trước.
Tốc độ tăng GDP năm 2021 đạt 2,56% so với năm trước. Trong đó, khu vực nông, lâm
nghiệp và thủy sản tăng 3,27%, đóng góp 15,7% vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của
toàn nền kinh tế; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 3,58%, đóng góp 55,6%; khu vực
dịch vụ tăng 1,57%, đóng góp 28,7%. Về sử dụng GDP năm 2021, tiêu dùng cuối cùng tăng
2,33% so với năm 2020; tích lũy tài sản tăng 3,96%; xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng
13,85%; nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 15,83%. Đồng thời, GDP bình quân đầu người
theo giá hiện hành luôn đạt mức năm sau cao hơn năm trước. Năm 2021 đạt 3.717
USD/người, tăng 165 USD so với năm 2020. GDP theo giá hiện hành năm 2021 đạt 8.479,7
nghìn tỷ đồng (tương đương 366,1 tỷ USD); năm 2020 đạt 8.044,4 nghìn tỷ đồng (tương đương 346,6 tỷ USD).
Kết quả sản xuất của khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản năm 2021 đã thể hiện rõ
vai trò bệ đỡ của nền kinh tế, bảo đảm nguồn cung lương thực, thực phẩm, hàng hóa thiết
yếu, là cơ sở quan trọng để thực hiện an sinh, an dân trong đại dịch. Diện tích lúa cả năm
ước đạt 7,24 triệu ha, giảm 40 nghìn ha so với năm trước do chuyển đổi cơ cấu sản xuất và
mục đích sử dụng đất; năng suất lúa ước đạt 60,6 tạ/ha, tăng 1,8 tạ/ha; sản lượng lúa đạt
43,85 triệu tấn, tăng 1,1 triệu tấn. Các hoạt động sản xuất lâm nghiệp và thủy sản đạt được
kết quả tích cực, trong đó sản lượng gỗ khai thác đạt 18,4 triệu m3, tăng 7%; sản lượng thủy
sản nuôi trồng đạt 4.855,4 nghìn tấn, tăng 2,5%; khai thác đạt 3.937,1 nghìn tấn, tăng 1%.
Trong khu vực công nghiệp và xây dựng, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục
là động lực tăng trưởng của toàn nền kinh tế với tốc độ tăng 6,05%, đóng góp 1,51 điểm
phần trăm vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế. Ngành sản xuất và