Phân tích đây thôn vĩ dạ. Trường đại học Nguyễn Tất Thành

Nắng mới lên là nắng sớm buổi bình minh. Ánh sáng tinh khôi, rực rỡ ấy làm sáng bừng không gian rộng lớn, khoáng đạt của xứ Huế. Điệp từ “nắng” không chỉ thể hiện sự tràn ngập ánh sáng, sức sống mà còn bộc lộ tâm hồn luôn hướng về ánh sáng. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

lOMoARcPSD| 46090862
3)Tìm và phân tích t/d của bptt trong câu 2+3
+Điệp từ “Nắng” ->Nmột tiếng ngân khiến không gian tràn đầy ánh sáng. Ánh nắng
trong xanh của một ngày mới nơi xứ Huế thơ mộng. - Nắng hàng cau - nắng mới lên khiến
ta cảm giác ánh sáng như lan tỏa đầy dần trong khu vườn thôn Vĩ không gian rộng.
+Biện pháp tu từ so sánh "xanh như ngọc" ->Tái hiện vẻ đẹp chân thực sinh động của
những vườn cây miệt vườn. "Xanh như ngọc" làm tái hiện vẻ đẹp trong trẻo, mát lành của
những vườn cây vào sáng sớm bình minh khi những giọt sương vẫn còn đọng trên lá cây.
2. Những cách hiểu của câu thơ "Sao anh không về chơi thôn Vĩ?"
Thứ nhất, câu thơ có thể là câu hỏi của một cô gái xứ Huế, có thể là người yêu của Hoàng
Thị Kim Cúc của Hàn Mặc Tử. Nếu hiểu theo nghĩa này thì câu thơ mang sự trách móc,
hờn dỗi nhẹ nhàng; nhắc nhở cũng như mời mọc duyên dáng của người con gái.
Thứ haim câu thơ thể lời của chính tác giả. Tác giả dường như tự phân thân để chất
vấn mình, hàm ý trách mình, nhắc mình đã lâu không về thôn Vĩ. Câu thơ này như mang
dự cảm đau lòng về sự chia biệt xa cách của tác giả với người yêu: trước đã không về,
giờ không về sau này cũng không thể về. Với tác giả, mảnh đất Huế mảnh đất quen
thuộc ông từng học ở đây nên từ "về" được dùng một cách tự nhiên, như về nhà, về mảnh
đất yêu thương, mảnh đất người mình yêu. Câu thơ cũng gợi ra khát khao về với
Huế.
*Hàn Mặc Tử một nhà thơ tiêu biểu trong phong trào thơ mới 1932-1945 với những tác
phẩm tiêu biểu. Các nhà thơ đã hòa mình vào thiên nhiên, ngắm nhìn cảnh đẹp quê hương
đất nước dù ông đang phải trải qua những đau đớn của bệnh tật với mong muốn được gắn
lâu hơn với cuộc sống này. Đó một tinh thần đáng ngợi ca tâm trạng ấy đã được
khắc họa trong bài “Đây thôn Dạ”. Khổ 1 bức tranh thôn tươi đẹp cùng tâm
trạng tiếc nuối của tác giả.
Khổ thơ bắt đầu bằng một câu hỏi: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ” câu hỏi vang lên như
một lời trách thầm, nhắn nhủ của nhân vật trữ tình trong tâm trạng vời vợi nhớ mong. Câu
hỏi đó của ai lại vừa hỏi vừa trách c vừa nhớ mong nhất định không phải của
Hoàng Cúc, không phải của cô gái nào ở thôn Vĩ. Vậy có thể là của ai? Có thể là của Hàn
Mặc Tử tác giả đang phân thân để chất vấn chính mình. Câu hỏi đó như xác nhận một sự
thật đã lâu rồi tác giả không được về thôn Vĩ hay không biết đến bao giờ có thể trở lại thôn
Vĩ một lần nữa. Đó là cái cớ rất giàu chất thơ vừa nhẹ bẫng xót xa để gọi về những kỉ niệm
thôn Vĩ. Câu thơ bảy chnhưng có tới sáu thanh bằng, thanh trắc duy nhất vút lên cuối câu
như một nốt nhấn khiến cho lời thơ nhẹ nhàng mà thấm thía những nỗi niềm tiếc nuối vọng
lên da diết khôn nguôi. Từ niêm nhớ thương được khơi nguồn như thế, hình ảnh thôn
chợt sống dậy trong lòng nhà thơ:
lOMoARcPSD| 46090862
“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc Lá
trúc che ngang mặt chữ điền.”
Chỉ ba câu tHàn Mặc Tử đã khắc họa được những nét đặc trưng của thiên nhiên xứ Huế.
Mỗi câu thơ là một nét vẽ, mỗi chi tiết sống động tạo thành sự khắc họa sống động đẹp đẽ
của thôn trong hoài niệm. Trước tiên vẻ đẹp trong trẻo tinh khôi của buổi sớm mai:
nắng hàng cau nắng mới lên không phải là cái nắng chang chang dọc bờ sông trắng mà
cái nắng trong trẻo tinh khôi của một ngày. Chỉ miêu tả nắng thôi mà đã gợi lên trong lòng
người đọc bao nhiêu liên tưởng đẹp. Những cây cau mảnh dẻ vút cao vươn mình đón lấy
tia nắng ban mai trong lành ấm áp. Khung cảnh quen thuộc ấy ta thể bắt gặp bất cứ
góc sân khoảng trời nào từ miền quê đất Việt thân yêu. Phép luyến láy: nắng hàng cau nắng
mới lên làm cho cái nắng như lan tỏa hơn bừng sáng hơn. Điệp từ “nắng” đã vẽ ra một bức
tranh ánh nắng trong không gian nắng lan đến đâu vạn vật bừng sáng đến đó từ trên cao
tràn xuống thấp tràn đầy cả khu vườn, thôn như được khoác lên một chiếc áo mới
thanh tân, tươi tắn.
Đến câu thơ thứ ba là cảnh vườn tược được tắm đẫm trong nắng mai ngời sáng lên như một
viên ngọc xang diệu : Vườn ai mướt quá xanh như ngọc.” Câu tnhư một tiếng reo
đầy ngỡ ngàng thích thú, không phải xanh non xanh biếc xanh như ngọc. Còn
trong sáng và cao quý hơn ngọc. Cảnh giản dị thanh khiết cao sang cùng. Phải chăng
sương đêm đã gột rửa hết những bụi bặm để khoác lên cây lá tấm áo choàng trong suốt lấp
lánh khi nắng lên. Chữ “mướt” tác động mạnh mẽ vào giác quan người đọc ấn tượng vẻ
mượt loáng mướt của khu vườn. Nhưng cái thần của câu thơ lại dồn cả vào chữ “ai”
chỉ một chữ mà khiến cho cảnh đang gần gũi bỗng bị đẩy ra xa, hư thực khó nắm bắt. Âm
hưởng nhẹ bẫng của tiếng này khiến hơi thơ như thoáng xuôi về một cõi hư ảo mơ hồ. Với
Hàn Mặc Tử lúc này, đó là thế giới ở ngoài kia, của sự sống ngoài kia chứ không phải thế
giới của bệnh tật. rất tự nhiên theo mạch cảm xúc, nhắc đến “ailập tức nhà thơ nhớ
đến hình bóng con người:
“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Câu thơ kết đoạn là nét cách điệu hóa rất tài tình của Hàn Mặc Tử nhằm ghi lấy hồn Vĩ Dạ.
Có lẽ hình ảnh cành trúc đã trở nên quen thuộc khi nhắc đến con người nơi đây, mảnh đất
cố đô văn hiến. Con người như hòa vào, như ẩn vào thiên nhiên một vẻ đẹp kín đáo tao
nhã. Đó vẻ đẹp riêng trong mảnh đất cố đô nhưng ngay trong dòng cảm xúc miên man
ấy ta đã thấy nỗi buồn man mác xa nỗi thấm vào lòng người. Nhưng cũng có một điều đặc
biệt trong thơ Hàn Mặc Tử vừa ảnh hưởng thơ ca dân gian vừa sản phẩm của lối
thơ sáng tạo hay vẽ khuôn mặt sau hàng liễu được viết lên bởi mặc cảm chia lìa của con
người luôn tự nhận mình đứng ngoài cuộc vui.
Cảm nhận khổ 1 bài Đây thôn Dạ bức tranh cảnh người xứ Huế vừa trần thế vừa
trong sáng, tinh khôi trong tâm trí Hàn Mặc Tử. Qua đó thể thấy Hàn Mặc Tử một
tình yêu quê, yêu người tha thiết, và cũng vời vợi nỗi nhớ mong của thi hướng về cảnh
và người thôn Vĩ.
lOMoARcPSD| 46090862
Đọc bài thơ khơi gợi trong lòng người tình yêu quê hương, yêu thiên nhiên sâu sắc, yêu
con người cảnh vật nơi đây. Từ đó mà dạy chúng ta cách giữ gìn và bảo vệ những thứ xung
quanh mình.
*Hàn Mặc Tử một trong những nhà thơ sức sáng tạo mạnh mẽ nhất trong phong trào Thơ
mới. Tuy có cuộc đời nhiều bi thương nhưng qua hồn thơ phong phú, sáng tạo và đầy bí ẩn, người
đọc vẫn cảm nhận được một tình yêu đến đau đớn hướng về cuộc đời trần thế của ông. “Đây thôn
Dạ” một trong những sáng tác nổi tiếng của Hàn Mặc Tử đã để lại nhiều dấu ấn khó phai
trong lòng người đọc. Chính vậy, qua bao nhiêu thế hệ, người ta có ba ý kiến nhận định về bài
thơ: Đó là bài thơ về tiếng nói trăn trở của mối tình thầm kín; là lời yêu thương với một miền quê;
niềm khao khát được sống trong niềm sẻ chia, đồng cảm được trở về với cuộc đời. Đoạn thơ đầu
của thi phẩm đã thể hiện một cách thật tha thiết, xúc động những tâm tình ấy.
Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
“Đây thôn Vĩ Dạ” được Hàn Mặc Tử viết khi đang mắc bệnh nan y - bệnh phong, căn bệnh khiến
nhiều người xa lánh, hắt hủi ông nên ông luôn mang trong mình nỗi niềm khao khát được sẻ chia,
đồng cảm, muốn trở về với cuộc đời. Nằm trong bệnh viện và nhận được tấm bưu thiếp của người
con gái ông thầm thương trộm nhớ, Hàn Mặc Tử lấy đó làm cảm hứng để bài thơ được ra đời. Qua
đó, ông đã vẽ nên bức tranh phong cảnh và cũng là tâm cảnh, thể hiện nỗi niềm cô đơn của ông về
một mối tình đơn phương xa xăm vọng. Không chỉ vậy, bài thơ cũng là tấm lòng yêu tha thiết
của nhà thơ đối với thiên nhiên, cuộc sống, con người xứ Huế.
Mở bài bài thơ, tác giả đã sử dụng câu hỏi tu từ: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ ?” vừa như một
lời chào thân mật vừa như lời trách móc nhẹ nhàng của cô gái thôn Vĩ. Không thô lỗ, mà hết sức
ân cần, tế nhị. Vì thôn Vĩ có em, vì thôn Vĩ là quê hương anh, là nơi thân thiết của anh. Tuy nhiên,
thể hiểu đây lời tự nhủ, tự trách của tác giả. Ông tự hỏi bản thân sao bấy lâu nay không về
thăm lại vùng đất ấy, thôn quê ấy. Ông khao khát được về thăm quê hương, nỗi nhớ thương mảnh
đất ấy cứ đau đáu mãi. Ngặt nỗi, lúc ấy Hàn Mặc Tử đang bị bệnh, làm sao có thể trở về được mà
cũng có thể mãi không trở về được…
Qua ba câu thơ sau, khung cảnh thiên nhiên và con người hiện lên trong hoài niệm, tưởng tượng
của Hàn Mặc Tử rất đỗi bình dị, quen thuộc:
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
Nắng mới lên nắng sớm buổi bình minh. Ánh sáng tinh khôi, rực rỡ ấy làm sáng bừng không
gian rộng lớn, khoáng đạt của xứ Huế. Điệp từ “nắng” không chỉ thể hiện sự tràn ngập ánh sáng,
sức sống còn bộc lộ tâm hồn luôn hướng về ánh sáng, hướng về cuộc đời của Hàn Mặc Tử.
Câu thơ ấy đã vẽ nên một hàng cau đầy sức sống, mãnh liệt đang vươn lên đón lấy những tia sáng
đầu tiên của buổi sớm. Nhớ đến Vĩ Dạ, nhà thơ nhớ đến hàng cau đầu tiên. Bởi lẽ hình ảnh hàng
cau, vun vút cao quá đỗi quen thuộc đối với người dân thôn Vĩ. Nhịp thơ 1/3/3 như bước chân
khoan thai của bất kỳ vị khách nào, trầm ngâm nhìn nắng mới lên trên những hàng cau xanh biếc
rạng ngời.
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Câu thơ như lời khen ngợi, trầm trồ, ngạc nhiên thốt lên trước vẻ đẹp thanh tao, mơn mởn của cỏ
cây, thiên nhiên. Vườn ai? Phải chăng là vườn nhà em? Cảnh cũ người xưa nhưng lâu chưa về
lOMoARcPSD| 46090862
nên mới thốt lên ngỡ ngàng như vậy. Tác giả dùng biện pháp tu từ so sánh “xanh như ngọc” và từ
“mướt”, như vậy có thể thấy thôn Vĩ không chỉ xinh đẹp mà còn rất trù phú. Câu hỏi tu từ “Vườn
ai mướt quá” như tiếng reo của trẻ thơ, một tiếng reo trong sung sướng, một lời trầm trồ khen ngợi
buột ra tự nhiên khi chợt nhận ra vẻ đẹp bất ngờ của khu vườn. Tưởng chừng như nghe thấy tiếng
nhựa sống đang chảy trong cây. Tất cả đều rạo rực, đều đầy sức sống. Chỉ có vườn xuân mới xanh
mướt, phì nhiêu đến vậy. Hay chỉ có vườn nhà em mới đẹp đẽ, hữu hình đến thế. trúc che ngang
mặt chữ điền
Nhắc đến con gái Huế, người ta nghĩ ngay đến hình ảnh gái duyên dáng, thướt tha trong tà áo
dài tím mộng mơ cùng chiếc nón lá trắng, dịu dàng, yểu điệu mà tinh tế. “Mặt chữ điền” chỉ tướng
mạo phúc hậu, dịu dàng. “Lá trúc che ngang” một nét vẽ tài nh, gợi lên hình ảnh gương mặt
thấp thoáng của thiếu nữ. Một nét vẽ ấy đã miêu tả vẻ đẹp thanh tao, dịu dàng. Một nét vẽ ấy đã
vẽ ra dáng vẻ e lệ, ẩn sau lá trúc của người con gái. Và chính hình ảnh cô gái e lệ thấp thoáng sau
những lá trúc càng chứng tỏ “vườn ai” và vườn cô gái đứng chỉ là một. Thiên nhiên và con người
dưới ngòi bút đầy sắc sảo của Hàn Mặc Tử đã kết hợp hài hòa với nhau tạo nên một bức tranh
phong cảnh tươi đẹp, đầy sức sống và có sức hút lạ lùng.
Bằng âm điệu tha thiết, ngọt ngào, sâu lắng, Hàn Mặc Tử đã vẽ nên một bức tranh thôn Vĩ Dạ cho
người nghe cảm nhận khổ một bài Đây thôn Dạ thật mộng, bình dị. Qua đó cho thấy tình
yêu to lớn của ông đối với mảnh đất yên bình, trù phú này. Tuy nhiên, ẩn sau mỗi ý thơ nỗi niềm
luyến tiếc, vấn vương về người và cảnh nơi đây. Ông vấn vương, trăn trở về mối tình thầm kín của
mình với người con gái thôn Vĩ. Ông vấn vương, thương nhớ về cảnh sắc tươi đẹp của thôn Vĩ.
Nhưng tất cả đối với nhà thơ thời điểm ấy chỉ còn là hoài niệm.
Nếu ở khổ một là không gian vui tươi, đầy sức sống thì ở phần còn lại của bài thơ, giọng thơ chùng
xuống, ảm đạm hơn nhiều. Chính xác hơn, bắt đầu từ khổ hai, Hàn Mặc Tử đã bộc lộ tâm trạng
đau buồn, u uất của mình. Lúc bấy giờ, ông mắc bệnh phong, căn bệnh khiến ông bị mọi người xa
lánh. Sống trong lãnh cung của sự chia lìa, tác giả ao ước, khát khao một vị tri âm, tri kỷ. Ông
khao khát hơn bao giờ hết về sự sẻ chia, giao cảm. Ông khát khao tình người, tình đời, hạnh phúc.
Ông khát khao được trở về cuộc sống bình thường, được trở về thôn Dạ. Ông biết căn bệnh
hiểm nghèo của mình, biết thời gian minh còn rất ít. Vậy nên nhà thơ vừa như bồn chồn, lo lắng
vừa như hy vọng một cái đó sẽ rời xa. Đây chính nỗi niềm ao ước tha thiết cùng nỗi buồn
man mác khi tác giả hoài niệm của tác giả.
Với những hình ảnh biểu hiện nội tâm, bút pháp lãng mạn đầy sức gợi tả, ngôn ngữ tinh tế, giàu
liên tưởng, Hàn Mặc Tử đã họa nên bức tranh nên thơ, tươi đẹp của một miền quê. Và ẩn sau đó
không chỉ là tiếng nói trăn trở của mối tình thầm kín hay lời yêu thương với một miền quê mà còn
là nỗi niềm khao khát được đồng cảm, được trở về với cuộc đời.
“Đây thôn Dạ” là một bức tranh đẹp về một miền quê đất nước, tiếng lòng của một con người
tha thiết yêu đời, yêu người. Bài thơ như bông hoa rực rỡ giữa rừng hoa của văn học nước nhà.
Qua đó cho thấy tâm hồn thanh khiết, yêu đời trong lúc khổ đau, tuyệt vọng của Hàn Mặc
Tử.
*Trong bài thơ Đây thôn Dạ, khổ thơ đầu tiên đã tái hiện được bức tranh thiên nhiên
tươi đẹp của những khu vườn miệt vườn xứ Huế. Thật vậy, những hình ảnh trong khổ thơ
đều những hình ảnh chọn lọc của vườn cây trái. "Nắng mới lên" gợi ra hình ảnh của
những tia nắng đầu ngày, ấm áp dịu dàng, tươi rói đang chiếu rọi lên những hàng cau
xanh xanh. Sắc nắng hòa vào sắc xanh của những vườn cau xanh làm cho khung cảnh trở
nên rực rỡ và thơ mộng. Tiếp theo, câu t"Vườn ai mướt quá xanh như ngọc" có sử dụng
hình ảnh so sánh "xanh như ngọc" gợi ra vẻ đẹp của khu vườn vào sáng sớm bình minh.
lOMoARcPSD| 46090862
Khi ngày mới đến, những giọt sương long lanh vẫn còn đọng trên những cành cây kẽ thì
khu vườn càng trở nên sinh động giàu sức sống hơn. Tuy nhiên, bức tranh thiên nhiên
dường như chỉ bức tranh trong tâm tưởng của nhà thơ kể về mảnh đất xứ Huế ông
đang hướng về. Khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp nhưng cũng dự cảm những đau đớn
chia cách trong tình yêu ở những dòng thơ sau.
| 1/5

Preview text:

lOMoAR cPSD| 46090862
3)Tìm và phân tích t/d của bptt trong câu 2+3
+Điệp từ “Nắng” ->Như một tiếng ngân khiến không gian tràn đầy ánh sáng. Ánh nắng
trong xanh của một ngày mới nơi xứ Huế thơ mộng. - Nắng hàng cau - nắng mới lên khiến
ta cảm giác ánh sáng như lan tỏa đầy dần trong khu vườn thôn Vĩ không gian rộng.
+Biện pháp tu từ so sánh "xanh như ngọc" ->Tái hiện vẻ đẹp chân thực và sinh động của
những vườn cây miệt vườn. "Xanh như ngọc" làm tái hiện vẻ đẹp trong trẻo, mát lành của
những vườn cây vào sáng sớm bình minh khi những giọt sương vẫn còn đọng trên lá cây.
2. Những cách hiểu của câu thơ "Sao anh không về chơi thôn Vĩ?"
Thứ nhất, câu thơ có thể là câu hỏi của một cô gái xứ Huế, có thể là người yêu của Hoàng
Thị Kim Cúc của Hàn Mặc Tử. Nếu hiểu theo nghĩa này thì câu thơ mang sự trách móc,
hờn dỗi nhẹ nhàng; nhắc nhở cũng như mời mọc duyên dáng của người con gái.
Thứ haim câu thơ có thể là lời của chính tác giả. Tác giả dường như tự phân thân để chất
vấn mình, hàm ý trách mình, nhắc mình đã lâu không về thôn Vĩ. Câu thơ này như mang
dự cảm đau lòng về sự chia biệt và xa cách của tác giả với người yêu: trước đã không về,
giờ không về và sau này cũng không thể về. Với tác giả, mảnh đất Huế là mảnh đất quen
thuộc vì ông từng học ở đây nên từ "về" được dùng một cách tự nhiên, như về nhà, về mảnh
đất yêu thương, mảnh đất có người mà mình yêu. Câu thơ cũng gợi ra khát khao về với Huế.
*Hàn Mặc Tử một nhà thơ tiêu biểu trong phong trào thơ mới 1932-1945 với những tác
phẩm tiêu biểu. Các nhà thơ đã hòa mình vào thiên nhiên, ngắm nhìn cảnh đẹp quê hương
đất nước dù ông đang phải trải qua những đau đớn của bệnh tật với mong muốn được gắn
bó lâu hơn với cuộc sống này. Đó là một tinh thần đáng ngợi ca và tâm trạng ấy đã được
khắc họa rõ trong bài “Đây thôn Vĩ Dạ”. Khổ 1 là bức tranh thôn Vĩ tươi đẹp cùng tâm
trạng tiếc nuối của tác giả.
Khổ thơ bắt đầu bằng một câu hỏi: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ” câu hỏi vang lên như
một lời trách thầm, nhắn nhủ của nhân vật trữ tình trong tâm trạng vời vợi nhớ mong. Câu
hỏi đó là của ai mà lại vừa hỏi vừa trách móc vừa nhớ mong nhất định không phải của
Hoàng Cúc, không phải của cô gái nào ở thôn Vĩ. Vậy có thể là của ai? Có thể là của Hàn
Mặc Tử tác giả đang phân thân để chất vấn chính mình. Câu hỏi đó như xác nhận một sự
thật đã lâu rồi tác giả không được về thôn Vĩ hay không biết đến bao giờ có thể trở lại thôn
Vĩ một lần nữa. Đó là cái cớ rất giàu chất thơ vừa nhẹ bẫng xót xa để gọi về những kỉ niệm
thôn Vĩ. Câu thơ bảy chữ nhưng có tới sáu thanh bằng, thanh trắc duy nhất vút lên cuối câu
như một nốt nhấn khiến cho lời thơ nhẹ nhàng mà thấm thía những nỗi niềm tiếc nuối vọng
lên da diết khôn nguôi. Từ niêm nhớ thương được khơi nguồn như thế, hình ảnh thôn Vĩ
chợt sống dậy trong lòng nhà thơ: lOMoAR cPSD| 46090862
“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc Lá
trúc che ngang mặt chữ điền.”
Chỉ ba câu thơ Hàn Mặc Tử đã khắc họa được những nét đặc trưng của thiên nhiên xứ Huế.
Mỗi câu thơ là một nét vẽ, mỗi chi tiết sống động tạo thành sự khắc họa sống động đẹp đẽ
của thôn Vĩ trong hoài niệm. Trước tiên là vẻ đẹp trong trẻo tinh khôi của buổi sớm mai:
nắng hàng cau nắng mới lên không phải là cái nắng chang chang dọc bờ sông trắng mà là
cái nắng trong trẻo tinh khôi của một ngày. Chỉ miêu tả nắng thôi mà đã gợi lên trong lòng
người đọc bao nhiêu liên tưởng đẹp. Những cây cau mảnh dẻ vút cao vươn mình đón lấy
tia nắng ban mai trong lành ấm áp. Khung cảnh quen thuộc ấy ta có thể bắt gặp ở bất cứ
góc sân khoảng trời nào từ miền quê đất Việt thân yêu. Phép luyến láy: nắng hàng cau nắng
mới lên làm cho cái nắng như lan tỏa hơn bừng sáng hơn. Điệp từ “nắng” đã vẽ ra một bức
tranh ánh nắng trong không gian nắng lan đến đâu vạn vật bừng sáng đến đó từ trên cao
tràn xuống thấp và tràn đầy cả khu vườn, thôn Vĩ như được khoác lên một chiếc áo mới thanh tân, tươi tắn.
Đến câu thơ thứ ba là cảnh vườn tược được tắm đẫm trong nắng mai ngời sáng lên như một
viên ngọc xang diệu kì: “ Vườn ai mướt quá xanh như ngọc.” Câu thơ như một tiếng reo
đầy ngỡ ngàng thích thú, không phải xanh non xanh biếc mà là xanh như ngọc. Còn gì
trong sáng và cao quý hơn ngọc. Cảnh giản dị mà thanh khiết cao sang vô cùng. Phải chăng
sương đêm đã gột rửa hết những bụi bặm để khoác lên cây lá tấm áo choàng trong suốt lấp
lánh khi nắng lên. Chữ “mướt” tác động mạnh mẽ vào giác quan người đọc ấn tượng vẻ
mượt mà loáng mướt của khu vườn. Nhưng cái thần của câu thơ lại dồn cả vào chữ “ai”
chỉ một chữ mà khiến cho cảnh đang gần gũi bỗng bị đẩy ra xa, hư thực khó nắm bắt. Âm
hưởng nhẹ bẫng của tiếng này khiến hơi thơ như thoáng xuôi về một cõi hư ảo mơ hồ. Với
Hàn Mặc Tử lúc này, đó là thế giới ở ngoài kia, của sự sống ngoài kia chứ không phải thế
giới của bệnh tật. Và rất tự nhiên theo mạch cảm xúc, nhắc đến “ai” lập tức nhà thơ nhớ
đến hình bóng con người:
“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Câu thơ kết đoạn là nét cách điệu hóa rất tài tình của Hàn Mặc Tử nhằm ghi lấy hồn Vĩ Dạ.
Có lẽ hình ảnh cành trúc đã trở nên quen thuộc khi nhắc đến con người nơi đây, mảnh đất
cố đô văn hiến. Con người như hòa vào, như ẩn vào thiên nhiên một vẻ đẹp kín đáo tao
nhã. Đó là vẻ đẹp riêng trong mảnh đất cố đô nhưng ngay trong dòng cảm xúc miên man
ấy ta đã thấy nỗi buồn man mác xa nỗi thấm vào lòng người. Nhưng cũng có một điều đặc
biệt trong thơ Hàn Mặc Tử là vừa có ảnh hưởng thơ ca dân gian vừa có sản phẩm của lối
thơ sáng tạo hay vẽ khuôn mặt sau hàng liễu được viết lên bởi mặc cảm chia lìa của con
người luôn tự nhận mình đứng ngoài cuộc vui.
Cảm nhận khổ 1 bài Đây thôn Vĩ Dạ là bức tranh cảnh và người xứ Huế vừa trần thế vừa
trong sáng, tinh khôi trong tâm trí Hàn Mặc Tử. Qua đó có thể thấy ở Hàn Mặc Tử một
tình yêu quê, yêu người tha thiết, và cũng vời vợi nỗi nhớ mong của thi sĩ hướng về cảnh và người thôn Vĩ. lOMoAR cPSD| 46090862
Đọc bài thơ mà khơi gợi trong lòng người tình yêu quê hương, yêu thiên nhiên sâu sắc, yêu
con người cảnh vật nơi đây. Từ đó mà dạy chúng ta cách giữ gìn và bảo vệ những thứ xung quanh mình.
*Hàn Mặc Tử là một trong những nhà thơ có sức sáng tạo mạnh mẽ nhất trong phong trào Thơ
mới. Tuy có cuộc đời nhiều bi thương nhưng qua hồn thơ phong phú, sáng tạo và đầy bí ẩn, người
đọc vẫn cảm nhận được một tình yêu đến đau đớn hướng về cuộc đời trần thế của ông. “Đây thôn
Vĩ Dạ” là một trong những sáng tác nổi tiếng của Hàn Mặc Tử đã để lại nhiều dấu ấn khó phai
trong lòng người đọc. Chính vì vậy, qua bao nhiêu thế hệ, người ta có ba ý kiến nhận định về bài
thơ: Đó là bài thơ về tiếng nói trăn trở của mối tình thầm kín; là lời yêu thương với một miền quê;
là niềm khao khát được sống trong niềm sẻ chia, đồng cảm được trở về với cuộc đời. Đoạn thơ đầu
của thi phẩm đã thể hiện một cách thật tha thiết, xúc động những tâm tình ấy.
Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
“Đây thôn Vĩ Dạ” được Hàn Mặc Tử viết khi đang mắc bệnh nan y - bệnh phong, căn bệnh khiến
nhiều người xa lánh, hắt hủi ông nên ông luôn mang trong mình nỗi niềm khao khát được sẻ chia,
đồng cảm, muốn trở về với cuộc đời. Nằm trong bệnh viện và nhận được tấm bưu thiếp của người
con gái ông thầm thương trộm nhớ, Hàn Mặc Tử lấy đó làm cảm hứng để bài thơ được ra đời. Qua
đó, ông đã vẽ nên bức tranh phong cảnh và cũng là tâm cảnh, thể hiện nỗi niềm cô đơn của ông về
một mối tình đơn phương xa xăm vô vọng. Không chỉ vậy, bài thơ cũng là tấm lòng yêu tha thiết
của nhà thơ đối với thiên nhiên, cuộc sống, con người xứ Huế.
Mở bài bài thơ, tác giả đã sử dụng câu hỏi tu từ: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ ?” vừa như một
lời chào thân mật vừa như lời trách móc nhẹ nhàng của cô gái thôn Vĩ. Không thô lỗ, mà hết sức
ân cần, tế nhị. Vì thôn Vĩ có em, vì thôn Vĩ là quê hương anh, là nơi thân thiết của anh. Tuy nhiên,
có thể hiểu đây là lời tự nhủ, tự trách của tác giả. Ông tự hỏi bản thân sao bấy lâu nay không về
thăm lại vùng đất ấy, thôn quê ấy. Ông khao khát được về thăm quê hương, nỗi nhớ thương mảnh
đất ấy cứ đau đáu mãi. Ngặt nỗi, lúc ấy Hàn Mặc Tử đang bị bệnh, làm sao có thể trở về được mà
cũng có thể mãi không trở về được…
Qua ba câu thơ sau, khung cảnh thiên nhiên và con người hiện lên trong hoài niệm, tưởng tượng
của Hàn Mặc Tử rất đỗi bình dị, quen thuộc:
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
Nắng mới lên là nắng sớm buổi bình minh. Ánh sáng tinh khôi, rực rỡ ấy làm sáng bừng không
gian rộng lớn, khoáng đạt của xứ Huế. Điệp từ “nắng” không chỉ thể hiện sự tràn ngập ánh sáng,
sức sống mà còn bộc lộ tâm hồn luôn hướng về ánh sáng, hướng về cuộc đời của Hàn Mặc Tử.
Câu thơ ấy đã vẽ nên một hàng cau đầy sức sống, mãnh liệt đang vươn lên đón lấy những tia sáng
đầu tiên của buổi sớm. Nhớ đến Vĩ Dạ, nhà thơ nhớ đến hàng cau đầu tiên. Bởi lẽ hình ảnh hàng
cau, vun vút cao quá đỗi quen thuộc đối với người dân thôn Vĩ. Nhịp thơ 1/3/3 như bước chân
khoan thai của bất kỳ vị khách nào, trầm ngâm nhìn nắng mới lên trên những hàng cau xanh biếc rạng ngời.
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Câu thơ như lời khen ngợi, trầm trồ, ngạc nhiên thốt lên trước vẻ đẹp thanh tao, mơn mởn của cỏ
cây, thiên nhiên. Vườn ai? Phải chăng là vườn nhà em? Cảnh cũ người xưa nhưng vì lâu chưa về lOMoAR cPSD| 46090862
nên mới thốt lên ngỡ ngàng như vậy. Tác giả dùng biện pháp tu từ so sánh “xanh như ngọc” và từ
“mướt”, như vậy có thể thấy thôn Vĩ không chỉ xinh đẹp mà còn rất trù phú. Câu hỏi tu từ “Vườn
ai mướt quá” như tiếng reo của trẻ thơ, một tiếng reo trong sung sướng, một lời trầm trồ khen ngợi
buột ra tự nhiên khi chợt nhận ra vẻ đẹp bất ngờ của khu vườn. Tưởng chừng như nghe thấy tiếng
nhựa sống đang chảy trong cây. Tất cả đều rạo rực, đều đầy sức sống. Chỉ có vườn xuân mới xanh
mướt, phì nhiêu đến vậy. Hay chỉ có vườn nhà em mới đẹp đẽ, hữu hình đến thế. Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Nhắc đến con gái Huế, người ta nghĩ ngay đến hình ảnh cô gái duyên dáng, thướt tha trong tà áo
dài tím mộng mơ cùng chiếc nón lá trắng, dịu dàng, yểu điệu mà tinh tế. “Mặt chữ điền” chỉ tướng
mạo phúc hậu, dịu dàng. “Lá trúc che ngang” là một nét vẽ tài tình, gợi lên hình ảnh gương mặt
thấp thoáng của thiếu nữ. Một nét vẽ ấy đã miêu tả vẻ đẹp thanh tao, dịu dàng. Một nét vẽ ấy đã
vẽ ra dáng vẻ e lệ, ẩn sau lá trúc của người con gái. Và chính hình ảnh cô gái e lệ thấp thoáng sau
những lá trúc càng chứng tỏ “vườn ai” và vườn cô gái đứng chỉ là một. Thiên nhiên và con người
dưới ngòi bút đầy sắc sảo của Hàn Mặc Tử đã kết hợp hài hòa với nhau tạo nên một bức tranh
phong cảnh tươi đẹp, đầy sức sống và có sức hút lạ lùng.
Bằng âm điệu tha thiết, ngọt ngào, sâu lắng, Hàn Mặc Tử đã vẽ nên một bức tranh thôn Vĩ Dạ cho
người nghe cảm nhận khổ một bài Đây thôn Vĩ Dạ thật mơ mộng, bình dị. Qua đó cho thấy tình
yêu to lớn của ông đối với mảnh đất yên bình, trù phú này. Tuy nhiên, ẩn sau mỗi ý thơ là nỗi niềm
luyến tiếc, vấn vương về người và cảnh nơi đây. Ông vấn vương, trăn trở về mối tình thầm kín của
mình với người con gái thôn Vĩ. Ông vấn vương, thương nhớ về cảnh sắc tươi đẹp của thôn Vĩ.
Nhưng tất cả đối với nhà thơ thời điểm ấy chỉ còn là hoài niệm.
Nếu ở khổ một là không gian vui tươi, đầy sức sống thì ở phần còn lại của bài thơ, giọng thơ chùng
xuống, ảm đạm hơn nhiều. Chính xác hơn, bắt đầu từ khổ hai, Hàn Mặc Tử đã bộc lộ tâm trạng
đau buồn, u uất của mình. Lúc bấy giờ, ông mắc bệnh phong, căn bệnh khiến ông bị mọi người xa
lánh. Sống trong lãnh cung của sự chia lìa, tác giả ao ước, khát khao một vị tri âm, tri kỷ. Ông
khao khát hơn bao giờ hết về sự sẻ chia, giao cảm. Ông khát khao tình người, tình đời, hạnh phúc.
Ông khát khao được trở về cuộc sống bình thường, được trở về thôn Vĩ Dạ. Ông biết căn bệnh
hiểm nghèo của mình, biết thời gian minh còn rất ít. Vậy nên nhà thơ vừa như bồn chồn, lo lắng
vừa như hy vọng một cái gì đó sẽ rời xa. Đây chính là nỗi niềm ao ước tha thiết cùng nỗi buồn
man mác khi tác giả hoài niệm của tác giả.
Với những hình ảnh biểu hiện nội tâm, bút pháp lãng mạn đầy sức gợi tả, ngôn ngữ tinh tế, giàu
liên tưởng, Hàn Mặc Tử đã họa nên bức tranh nên thơ, tươi đẹp của một miền quê. Và ẩn sau đó
không chỉ là tiếng nói trăn trở của mối tình thầm kín hay lời yêu thương với một miền quê mà còn
là nỗi niềm khao khát được đồng cảm, được trở về với cuộc đời.
“Đây thôn Vĩ Dạ” là một bức tranh đẹp về một miền quê đất nước, là tiếng lòng của một con người
tha thiết yêu đời, yêu người. Bài thơ như bông hoa rực rỡ giữa rừng hoa của văn học nước nhà.
Qua đó cho thấy tâm hồn thanh khiết, yêu đời dù là trong lúc khổ đau, tuyệt vọng của Hàn Mặc Tử.
*Trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ, khổ thơ đầu tiên đã tái hiện được bức tranh thiên nhiên
tươi đẹp của những khu vườn miệt vườn xứ Huế. Thật vậy, những hình ảnh trong khổ thơ
đều là những hình ảnh chọn lọc của vườn cây trái. "Nắng mới lên" gợi ra hình ảnh của
những tia nắng đầu ngày, ấm áp và dịu dàng, tươi rói đang chiếu rọi lên những hàng cau
xanh xanh. Sắc nắng hòa vào sắc xanh của những vườn cau xanh làm cho khung cảnh trở
nên rực rỡ và thơ mộng. Tiếp theo, câu thơ "Vườn ai mướt quá xanh như ngọc" có sử dụng
hình ảnh so sánh "xanh như ngọc" gợi ra vẻ đẹp của khu vườn vào sáng sớm bình minh. lOMoAR cPSD| 46090862
Khi ngày mới đến, những giọt sương long lanh vẫn còn đọng trên những cành cây kẽ lá thì
khu vườn càng trở nên sinh động và giàu sức sống hơn. Tuy nhiên, bức tranh thiên nhiên
dường như chỉ là bức tranh trong tâm tưởng của nhà thơ kể về mảnh đất xứ Huế mà ông
đang hướng về. Khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp nhưng cũng dự cảm những đau đớn và
chia cách trong tình yêu ở những dòng thơ sau.