Phân tích điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa? | Đại học Sư Phạm Hà Nội
Phân tích điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa? | Đại học Sư Phạm Hà Nội với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả cao cũng như có thể vận dụng tốt những kiến thức mình đã học vào thực tiễn cuộc sống.
Môn: Kinh tế chính trị Mác - Lênin
Trường: Đại học Sư Phạm Hà Nội
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoAR cPSD| 40367505
Câu 1: Phân tích điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa?
a) Phân tích điều kiện ra đời
Lịch sử phát triển của nền sản xuất xã hội đã và đang trải qua hai hình thức tổ chức
kinh tế - xã hội cơ bản là: sản xuất tự cung tự cấp và sản xuất hàng hóa
Sản xuất tự cung tự cấp (kinh tế tự nhiên) là kiểu tổ chức kinh tế mà sản phẩm
được sản xuất ra để thỏa mãn nhu cầu của chính người sản xuất ra nó
Sản xuất hàng hóa (kinh tế hàng hóa) là kiểu tổ chức kinh tế mà sản phẩm sản xuất
ra để thỏa mãn nhu cầu của người khác thông qua trao đổi, mua bán So sánh kinh
tế tự nhiên và kinh tế hàng hóa: -
LLSX ở trình độ thấp, do đó sản xuất - LLSX đã phát triển đến một trình độ
của con người lệ thuộc chặt chẽ vào tự
nhất định, sản xuất bớt lệ thuộc vào tự nhiên nhiên -
Số lượng sản phẩm chỉ đủ cung ứng - số lượng sản phẩm vượt ra khỏi nhu
cho một nhóm nhỏ các cá nhân (sản cầu của người sản xuất, do vậy nảy sinh xuất
tự cung tự cấp, tự sản tự tiêu) quan hệ trao đổi, mua bán -
ngành sản xuất chính: săn bắn, hái
- ngành sản xuất chính: thủ công
nghiệp, lượm, nông nghiệp sản xuất nhỏ,... nông nghiệp sản xuất lớn, dịch vụ,...
Tuy nhiên, sản xuất hàng hóa là phạm trù mang tính lịch sử, nó chỉ ra đời khi
có dủ 2 điều kiện sau:
Phân công lao động xã hội
Phân công lao động xã hội là sự phân chia lao động xã hội thành các ngành, nghề
khác nhau. Phân công lao động xã hội tạo ra sự chuyên môn hóa lao động, do đó
dẫn đên chuyên môn hóa sản xuất. Do phân công lao động xã hội nên mỗi người
sản xuất chỉ tạo ra một hoặc một vài loại sản phẩm nhất định. Song cuộc sống của
mỗi người lại cần đến rất nhiều loại sản phẩm khác nhau. Để thỏa mãn nhu cầu, đòi
hòi họ phải có mối liên hệ phụ thuộc vào nhau, phải trao đổi sản phẩm cho nhau.
Tuy nhiên, phân công lao động xã hội mới chỉ là điều kiện cần nhưng chưa đủ để
sản xuất hàng hóa ra đời và tồn tại. C.Mác viết: "Trong công xã Ấn Độ thời cổ đại,
lao động đã có sự phân công xã hội, nhưng các sản phẩm lao động không trở thành
hàng hóa... Chỉ có sản phẩm của nhũng lao động tư nhân độc lập và không phụ lOMoAR cPSD| 40367505
thuộc vào nhau mới đối diện với nhau như là những hàng hóa". Vì vậy, muốn sản
xuất hàng hóa ra đời và tồn tại phải có điều kiện thứ hai.
Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế của các chủ thể sản xuất
Sự tách biệt này do các quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất, mà khởi thủy
là chế độ tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất, đã xác định người sở hữu tư liệu sản xuất
là người sở hữu sản phẩm lao động.
Như vậy, chính quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất đã làm cho những
người sản xuất độc lập, đối lập với nhau, nhưng họ lại nằm trong hệ thống phân
công lao động xã hội nên họ phụ thuộc lẫn nhau về sản xuất và tiêu dùng. Trong
điều kiện ấy người này muốn tiêu dùng sản phẩm cùa người khác phải thông qua
việc mua - bán hàng hóa, tức là phải trao đổi dưới những hình thái hàng hóa. Sản
xuất hàng hóa chỉ ra đời khi có đồng thời hai điều kiện nói trên, nếu thiếu một
trong hai điều kiện ấy thì không có sản xuất hàng hóa và sản phẩm lao động không mang hình thái hàng hóa.
Đó là hai điều kiện khách quan cần và đủ để sản xuất hàng hóa ra đời và tồn tại
Câu 2: Phân tích hai thuộc tính của hàng hóa. Lấy ví dụ minh họa và giải
thích vì sao hàng hóa có hai thuộc tính?
a) Phân tích hai thuộc tính của hàng hóa
Khái niệm hàng hóa
Hàng hóa là sản phẩm của lao động có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người
thông qua trao đổi, mua bán trên thị trường
Có rất nhiều tiêu thức phân chia hàng hóa. Hàng hóa có thể được phân chia thành
các loại như: hàng hóa thông thường và hàng hóa đặc biệt, hàng hóa hữu hình và
hàng hóa vô hình, hàng hóa cá nhân và hàng hóa công cộng...
Hai thuộc tính của hàng hóa
Thứ nhất, giá trị sử dụng của hàng hóa
Giá trị sử dụng của hàng hóa là công dụng của hàng hóa có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người lOMoAR cPSD| 40367505
Đặc trưng của giá trị sử dụng hàng hóa: -
Giá trị sử dụng là một phạm trù vĩnh viễn (vì nó do thuộc tính tự nhiên của hàng hóa quy đinh) -
Giá trị sử dụng của hàng hóa chỉ thể hiện khi tiêu dùng (tiêu dùng cho sản
xuất vàtiêu dùng cho cá nhân) -
Hàng hóa có thể có một hay nhiều công dụng (do sự phát triển của khoa học
kĩ thuật: ví dụ trước đây than chỉ được sử dụng làm nhiên liệu nhưng khi khoa học
kĩ thuật phát triển thì than còn được sử dụng để chế tạo rất nhiều sản phẩm...) -
Số lượng, chủng loại giá trị sử dụng ngày càng phong phú, đa dạng, hiện đại
và thuận tiện là do nhu cầu đòi hỏi và khoa học công nghệ cho phép -
Giá trị sử dụng của hàng hóa là giá trị sử dụng xã hội -
Trong nền sản xuất hàng hóa, giá trị sử dụng của hàng hóa là vật mang giá trị traođổi
Thứ hai, giá trị của hàng hóa
Muốn hiểu được giá trị của hàng hóa phải đi từ giá trị trao đổi - Giá trị trao đổi
Giá trị trao đổi là quan hệ tỷ lệ về lượng mà một giá trị sử dụng này được trao đổi
với những giá trị sử dụng khác
Ví dụ: 1m vải = 5kg thóc
Cơ sở chung: cả vải và thóc đều là sản phẩm của lao động, đều có lao động kết tinh
trong đó. Thực chất các chủ thể trao dổi hàng hóa với nhau là trao đổi lao động
chưa đựng trong các hàng hóa. Lao động hao phí để sản xuất ra hàng hóa là cơ sở
chung của trao đổi và nó tạo thành giá trị của hàng hóa
Giá trị hàng hóa là lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa
Đặc trưng của giá trị hàng hóa: lOMoAR cPSD| 40367505 -
Giá trị là một phạm trù lịch sử, nghĩa là nó chỉ tồn tại ở những phương thức
sản xuất có sản xuất và trao đổi hàng hóa -
Giá trị được thực hiện trong lĩnh vực trao đổi. Giá trị trao đổi chỉ là hình
thức biểu hiện của giá trị: giá trị là nội dung, là cơ sở của giá trị trao đổi. Giá trị
thay đổi thì giá trị trao đổi cũng thao đổi theo -
Giá trị hàng hóa biểu hiện quan hệ sản xuất xã hội, tức là những quan hệ
kinh tế giữa những người sản xuất hàng hóa
Mối quan hệ giữa hai thuộc tính của hàng hóa:
Hai thuộc tính của hàng hóa có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn với nhau. -
Mặt thống nhất: Mọi hàng hóa đều có hai thuộc tính: giá trị sử dụng và giá trị.
Thiếu một trong hai thuộc tính thì vật phẩm không phải là hàng hóa
-Mâu thuẫn: có 2 mâu thuẫn
Thứ nhất: Với tư cách là những giá trị sử dụng thì các hàng hóa khác nhau về chất,
nhưng với tư cách là những giá trị thì các hàng hóa lại đồng nhất về chất
Thứ hai: Tuy giá trị sử dụng và giá trị cùng đồng thời tồn tại trong một hàng hóa,
nhưng quá trình thực hiện chúng lại tách rời nhau cả về không gian và thời gian.
Giá trị được thực hiện trước trong lĩnh vực lưu thông, còn giá trị sử dụng được
thực hiện sau trong lĩnh vực tiêu dùng
Mâu thuẫn giữa giá trị sử dụng và giá trị của hàng hóa là một trong những nguyên
nhân dẫn đến khủng hoảng kinh tế
b) Mối quan hệ với tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa
Sở dĩ hàng hóa có hai thuộc tính là do lao động sản xuất hàng hóa có tính chất hai
mặt, vừa mang tính chất cụ thể (lao động cụ thể), lại vừa mang tính chất trừu tượng
(lao động trừu tượng). C.Mác là người đầu tiên phát hiện ra tính chất hai mặt của
lao động sản xuất hàng hóa. Trong đó lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng, còn lao
động trừu tượng chính là chất của giá trị hàng hóa lOMoAR cPSD| 40367505 -
Lao dộng cụ thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của những
nghề nghiệp chuyên môn nhất định
Mỗi một lao động cụ thể có mục đích, phương pháp, công cụ lao động, đối tượng
lao động và kết quả lao động riêng. Chính những cái riêng đó phân biệt các loại lao
động cụ thể khác nhau. Chẳng hạn, lao động của người thợ may và lao động của
người thợ mộc là hai loại lao động cụ thể khác nhau. Lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng của hàng hóa -
Lao động trừu tượng là lao động của người sản xuất hàng hóa đã gạt bỏ hình
thứcbiểu hiện cụ thể của nó để quy về các chung đồng nhất, đó là sự tiêu phí sức
lao động, tiêu hao sức cơ bắp, thần kinh của con người. Nếu lao động cụ thể tạo ra
giá trị sử dụng thì lao động trừu tượng tạo ra giá trị hàng hóa. Có thể nói, giá trị
của hàng hóa là lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hóa, kết tinh trong
hàng hóa. Đó cũng là mặt chất của giá trị hàng hóa
Câu 3: Phân tích khái niệm, ưu thế, khuyết tật của nền kinh tế thị trường?
Liên hệ với thực tiễn nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở VN? a) Khái niệm
Khi mà các quan hệ kinh tế thống nhất, móc nối với nhau thành một hệ thống nó
sẽ được gọi là nền kinh tế. Và khi các quan hệ kinh đó diễn ra cùng những chủ thể
mà xuất hiện hoạt động mua, bán, trao đổi hàng hóa, dịch vụ trên thị trường thì đó
gọi là nền kinh tế thị trường. Tức là người bán thì cần tiền, còn người mua thì cần
các dịch vụ hay hàng hóa mà người bán có.
Chúng ta khẳng dinh rằng kinh tế thị trường là một trong những cách tổ chức
nền kinh tế xã hội. Các hoạt động mua, bán giữa từng chủ thể tham gia (cá nhân
với cá nhân, cá nhân với tạp thể, tập thể với tập thể) cùng với thái độ của các chủ
thể để đảm bảo giao dịch được diễn ra, đem đến lợi ích cho từng cá thể, nó còn có
tác dụng dẫn dắt giá cả thị trường.
Kinh tế thị trường còn được hiểu là khi kinh tế hàng hóa đã đạt được mức phát
triển ở một trình độ cao. Lúc này đây, mọi quan hệ kinh tế nằm trong quá trình tái
sản xuất xã hội tất cả đã được tiền tệ hóa. Trong đó, các yếu tố để sản xuất như vốn
bằng vật chất, vồn bằng tiền, tài nguyên và đất đai, công nghệ và quản lý, sức lao lOMoAR cPSD| 40367505
động, chất xám, các sản phẩm dịch vụ đều trở thành đối tượng để các chủ thể mua bán, định giá.
Mọi hệ thống có khả năng tự điều chỉnh nền kinh tế thì đó là kinh tế thị trường.
Với việc điều chỉnh đó mang lại hiệu quả như là đảm bảo có năng suất, hiệu quả
cao, chất lượng tốt. Làm dư thừa cũng như phong phú thêm các loại hàng hóa. Các
dịch vị cũng được mở rộng và coi như là hàng hóa. Thị trường này luôn luôn có sự
đổi mới về mặt hàng, năng động và có sự ứng dụng của công nghệ hiện đại.
Nền kinh tế thị trường sẽ ngày một phát triển và được mở rộng hơn, Các hoạt
động trao đổi mua bán, giao dịch trong nền kinh tế đó luôn tuần hoàn đảm bảo sự
cân bằng giữa cung và cầu. Khi nền kinh tế phát triển theo hướng tích cực thì đời
sống con người ngày một nâng cao, ngày một hiện đại hơn. Ngược lại, khi nền
kinh tế đi xuống đó là minh chứng cho việc con người đang không có sự tiến bộ trong phát triển.
b) Những ưu điểm và hạn chế của nền kinh tế thị trường
Như chúng ta đã biết, bất cứ một sự vật, sự việc nào đều tồn tại hai mặt song
song. Bên cạnh những ưu điểm, những lợi ích tích cực thì cũng còn có không ít hạn
chế. Đối với kinh tế thị trường cũng vậy, chúng ta sẽ cùng đi tìm hiểu hai mặt đó
của kinh tế thị trường.
Về ưu điểm:
- Kinh tế thị trường là điều kiện để thúc đẩy các hoạt động sản xuất, trao đổi
mua bán diễn ra, thúc đẩy cho sự phát triển về vật chất của con người.
- Nền kinh tế thị trường là một nền kinh tế cho phép cạnh tranh một cách tự do.
- Kinh tế thị trường tạo ra động lực để các doanh nghiệp có thể đổi mới, phát
triển mình. Lý do là bởi, khi các doanh nghiệp đó muốn cạnh tranh và đáp ứng tốt
nhu cầu của thị trường thì đòi hỏi họ phải đổi mới về công nghệ, về quy trình sản
xuất, quản lý, về các sản phẩm của mình. Sự đổi mới đó không có giới hạn.
- Kinh tế thị trường cũng là tiền đề để có được một lực lượng sản xuất lớn cho
xã hội, tạo ra hàng hóa, sản phẩm dư thừa giúp thỏa mãn nhu cầu của tiêu dùng ở mức tối đa. lOMoAR cPSD| 40367505
- Ở nền kinh tế thị trường thì con người thỏa sức sáng tạo, với mong muốn
tìm ra phương án cải tiến cho phương thức làm việc, đúc rút cho bản thân nhiều kinh nghiệm.
- Là nơi để phát hiện, đào tạo, tuyển chọn, sử dụng con người, nâng cao quy
trình quản lý kinh doanh. Cũng là nơi để đào thải những quản lý chưa đạt được hiệu quả cao.
- Kinh tế thị trường làm ra một môi trường kinh doanh dân chủ, tự do, công bằng.
Hạn chế của nền kinh tế thị trường:
- Đi đôi với các ưu điểm thì kinh tế thị trường còn có một số hạn chế như là:
- Nền kinh tế này thường chú ý đến các nhu cầu có khả năng thanh toán nhiều
hơn là nhu cầu cơ bản của xã hội.
- Vì mong muốn có được lợi nhuận cao nên kinh tế thị trường thường tìm tới
những hoạt động giao dịch có lãi cao chứ những sản phẩm, dịch vụ không có nhiều
lãi thì không làm nên vấn đề “hàng hóa công cộng” đã bị hạn chế.
- Nền kinh tế thị trường làm nổi cộm lên sự phân biệt giàu nghèo. Có sự phân
chia giữa những người đã giàu thì lại càng nhanh chóng giàu hơn. Người nghèo thì
vẫn nghèo nên có ranh giới rất rõ rệt.
- Bên cạnh việc thúc đẩy cho xã hội tiến bộ hơn thì kinh tế thị trường đôi khi
cũng dẫn tới suy thoái, xung đột và khủng hoảng. c) Liên hệ
Xuất phát từ việc cần kíp phải đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế, Đảng
và Nhà nước ta đã chủ trương xóa bỏ nền kinh tế kế hoạch hóa, tập trung, bao cấp
chuyển sang nền KTTT và hội nhập quốc tế. Chủ trương đó nhanh chóng được các
nhà đầu tư trong, ngoài nước và đông đảo người sản xuất, tiêu dùng hưởng ứng.
Các doanh nghiệp tư nhân trong nước và có vốn nước ngoài xuất hiện ngày càng
nhiều, hộ nông dân chuyển sang kinh doanh hàng hóa, hộ tư thương phát triển
mạnh, thị trường hàng hóa và dịch vụ phát triển với quy mô ngày càng lớn, chủng
loại phong phú hơn. Thị trường tài chính, nhất là thị trường tín dụng và chứng
khoán phát triển khá nhanh. Thị trường bất động sản, thị trường lao động và khoa
học - công nghệ, dù còn chưa phát triển một cách chuẩn tắc, nhưng cũng đã hình
thành. Xuất khẩu, nhập khẩu phát triển mạnh, đưa nước ta trở thành nước có nền
kinh tế mở ở mức độ cao trong khu vực.
- Nhược điểm: Kinh tế vĩ mô tuy cơ bản ổn định nhưng chưa vững chắc, còn
phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Kinh tế phục hồi còn chậm, việc thực lOMoAR cPSD| 40367505
hiện tái cơ cấu tổng thể nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng gặp nhiều khó
khăn và chưa đáp ứng được yêu cầu. Những kết quả bước đầu của việc thực hiện
ba đột phá chiến lược chưa đủ để tạo ra sự chuyển biến về chất trong đổi mới mô
hình tăng trưởng. Chất lượng tăng trưởng chưa thật sự được nâng cao và duy trì
một cách bền vững. Các lĩnh vực văn hóa, xã hội còn nhiều hạn chế, yếu kém.
Công tác quản lý tài nguyên, môi trường còn nhiều bất cập. Công tác phòng, chống
tham nhũng, lãng phí chưa đạt yêu cầu, mục tiêu đề ra là ngăn chặn, từng bước đẩy
lùi. An ninh chính trị vẫn còn tiềm ẩn những nhân tố có thể gây mất ổn định; bảo
vệ chủ quyền quốc gia còn nhiều thách thức; trật tự, an toàn xã hội vẫn còn nhiều bức xúc.
- Ưu điểm: Thực tiễn cũng cho thấy, nền KTTT định hướng XHCN có sự
khác biệt với nền KTTT tư bản chủ nghĩa, thể hiện chính là ở chỗ ai làm chủ sức
mạnh kinh tế và sức mạnh chính trị trong một nước. Trong nền KTTT tư bản chủ
nghĩa: đó là giới chủ; trong nền KTTT định hướng XHCN: đó là đông đảo nhân
dân lao động.Đó là sự khác biệt duy nhất. Các mặt kỹ thuật và tổ chức còn lại của
KTTT như nguyên tắc trao đổi hàng hóa, kỹ thuật kiểm soát nền KTTT, kỹ thuật tổ
chức quản lý để nền kinh tế quốc dân nói chung, mỗi tổ chức kinh tế nói riêng hoạt
động ở trạng thái hiệu quả đều có thể chung nhau giữa hai loại nước (KKTT tư bản
chủ nghĩa và KTTT định hướng XHCN) vì đó là thành quả tiến hóa mang tính
nhận thức và khoa học của loài người.
Câu 4: Phân tích nội dung, yêu cầu và tác động của quy luật giá trị trong nền
kinh tế hàng hóa. Ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này?
a) Nội dung của quy luật -
Vị trí của quy luật giá trị: Sản xuất hàng hóa chịu sự tác động của rất nhiều
quy luật kinh tế như quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu, quy luật giá trị, quy
luật lưu thông tiền tệ...Trong đó, quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản
xuất và lưu thông hàng hóa, ở đâu có sản xuất và trao đổi hàng hóa thì ở đó có sự
hoạt động của quy luật giá trị -
Nội dung của quy luật giá trị là: sản xuất và trao đổi hàng hóa dựa trên cơ sở
giá trị của nó, tức là dựa trên hao phí lao động xã hội cần thiết lOMoAR cPSD| 40367505
b) Quy luật giá trị yêu cầu -
Thứ nhất, sản xuất hàng hóa phải dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết -
Thứ hai, trong trao đổi phải theo nguyên tắc ngang giá, nghĩa là phải đảm
bảo bù đắp được chi phí cho người sản xuất và bảo đảm có lãi để tái sản xuất mở rộng
c) Biểu hiện của sự hoạt động của quy luật giá trị
Quy luật giá trị biểu hiện sự hoạt động của nó thông qua sự biến động của giá cả.
Giá cả là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị. Ngoài giá trị, giá cả phụ thuộc vào các
yếu tố như: giá trị, cạnh tranh, cung cầu, sức mua của đồng tiền...Giá cả của hàng
hóa trên thi trường lên xuống xoay xung quanh giá trị
d) Tác động của quy luật giá trị: Có 3 tác động -
Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa
Điều tiết sản xuất thông qua cơ chế cung cầu và giá cả trên thị trường
+ Cung < cầu giá cả > giá trị có lãi tăng đầu tư tăng quy mô sản xuất
+ Cung > cầu giá cả < giá trị thua lỗ ngừng hoặc giảm sản xuất thu hẹp quy mô sản xuất Điều tiết lưu thông
+ Thông qua cơ chế cung cầu và giá cả mà nguồn hành, luồng hàng mặt hàng,
chủng loại hàng hóa...được điều hòa từ nơi giá thấp đến nơi giá cao, từ nơi thừa
hàng đến nơi nhiều hàng, góp phần làm cho hàng hóa giữa các cùng, các quốc gia
có sự cân bằng nhất định -
Kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, tăng năng suất lao động,
thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển
NSLĐ khối lượng hàng hóa giá trị 1 đơn vị hàng hóa giá cả cầu
tổng lợi nhuân thu được nhiều hơn. Do đó để nâng cao năng suất lao động, người
sản xuất phải tìm mọi cách để giảm giá trị cá biệt so với giá trị xã hội của hàng
hóa, qua đó mà thu lợi nhuận siêu ngạch. Muốn vậy, người lao động phải nâng cao lOMoAR cPSD| 40367505
trình độ, tay nghề, chuyên môn, nghiệp vụ; doanh nghiệp phải áp dụng khoa học,
công nghệ mới vào sản xuất..., tức là làm cho các nhân tố của lực lượng sản xuất phát triển -
Phân hóa những người sản xuất thành kẻ giàu, người nghèo
Kinh tế hàng hóa với cơ chế thị trường tự nó bình tuyển, sàng lọc yếu tố con người
của nền kinh tế. Dưới tác động của quy luật giá trị , những người đứng vững và
chiến thắng trong cạnh tranh sẽ trở thành các ông chủ giàu có; ngược lại, những
người không đứng vững trong cạnh tranh sẽ bị phá sản nghèo đi, trở thành lao động
làm thuê. Đây chính là một trong những nguyên nhân làm xuất hiện quan hệ sản xuất TBCN
Như vậy, trong nền sản xuất hàng hóa quy luật giá trị có tác động cả tích cực và
tiêu cực. Do đó cần tôn trọng sự hoạt động khách quan của quy luật giá trị, tạo điều
kiện cho quy luật giá trị phát huy các tác động tiêu cực, đồng thời cần tăng cường
sự quản lý của Nhà nước để hạn chế các tác động tiêu cực
e) Ý nghĩa thực tiễn -
Cần nhận thức sự tồn tại khách quan và phạm vi hoạt động rộng lớn của quy
luật giá trị trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở nước ta hiện nay -
Cần vận dụng tốt cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước để phát huy
vai trò tích cực của cơ chế thị trường và hạn chế mặt tiêu cực của nó để thúc đẩy
sản xuất phát triển, đảm bảo cân bằng xã hội
Câu 5: Phân tích hàng hóa sức lao động. Ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này
a) Khái niệm sức lao động
- C.Mác định nghĩa sức lao động là toàn bộ những năng lực thể chất, trí tuệ và
tinh thần tồn tại trong một cơ thể, trong một con người đang sống, và được người
đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị thặng dư nào đó. Sức lao động
là khả năng lao động của con người, là điều kiện tiên quyết của mọi quá trình sản
xuất và là lực lượng sản xuất sáng tạo chủ yếu của xã hội. Nhưng sức lao động mới
chỉ là khả năng lao động, còn lao động là sự tiêu dùng sức lao động trong hiện thực. lOMoAR cPSD| 40367505
b) Hàng hóa sức lao động và những điều kiện biến sức lao động thành hàng hoá
- Trong bất kỳ xã hội nào, sức lao động cũng đều là yếu tố hàng đầu của quá
trình lao động sản xuất. Nhưng không phải bao giờ sức lao động cũng là hàng hoá.
Sức lao động chỉ biến thành hàng hoá khi có hai điều kiện sau:
+ Một là người lao động phải được tự do về thân thể, do đó có khả năng chi
phối sức lao động của mình. Sức lao động chỉ xuất hiện trên thị trường với tư cách
là hàng hoá, nếu nó do bản con người có sức lao động đưa ra bán. Muốn vậy, người
có sức lao động phải có quyền sở hữu năng lực của mình. Việc biến sức lao động
thành hàng hoá đòi hỏi phải thủ tiêu chế độ chiếm hữu nô và chế độ phong kiến.
+ Hai là người lao động bị tước đoạt hết tư liệu sản xuất không thể tự tiến hành
lao động sản xuất. Chỉ trong điều kiện ấy, người lao động mới buộc phải bán sức
lao động của mình, vì không còn cách nào khác để sinh sống. Sự tồn tại đồng thời
hai điều kiện nói trên tất yếu đẫn đến chỗ sức lao động biến thành hàng hoá.
c) Giá trị hàng hóa sức lao động
- Giá trị hàng hóa sức lao độngkhác hàng hóa thông thường ở chỗ nó bao hàm
cả yếu tố tinh thần và yếu tố lịch sử, phụ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử của từng
nước, từng thời kì, phụ thuộc vào trình độ văn minh đã có, vào điều kiện lịch sử
hình thành giai cấp công nhân và điều kiện khí hậu, địa lí…
- Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động thể hiện ở quá trình sức lao động,
tức là quá tình sản xuất ra một hàng hóa dịch vụ nào đó. Trong quá trình lao động,
sức lao động tạo ra một lượng giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân nó, phần giá
trị dôi ra so với giá trị sức lao động là giá trị thặng dư.
d) Ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này
- Vạch ra nguồn gốc của giá trị thặng dư (lao đông không công của người
công nhân làm thuê tạo ra trong quá tình sản xuất và bị nhà tư bản lĩnh đoạt)
- Chỉ ra bản chất cơ bản nhất của xã hội tư bản đó là sự bóc lột tư bản đối với lao động làm thuê.
- Chỉ ra hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư như lợi nhuận, lợi nhuận bình
quân, lợi tức, địa tô…
- Chỉ ra nguồn gốc, bản chất tích lũy tư bản, và như vậy, lý luận hàng hóa sức
lao động chỉ ra quá trình phát triển, diệt vong của chủ nghĩa tư bản.
Câu 6: Vì sao sức lao động là hàng hóa đặc biệt? lOMoAR cPSD| 40367505
Cũng như mọi hàng hoá khác, hàng hoá - sức lao động cũng có hai thuộc tính:
giá trị và giá trị sử dụng.
- Giá trị hàng hoá sức lao động. Giá trị hàng hoá sức lao động cũng giống như
các hàng hoá khác được quy định bởi số lượng thời gian lao động xã hội cần thiết
để sản xuất và tái sản xuất ra sức lao động. Nhưng, sức lao động chỉ tồn tại trong
cơ thể sống của con người. Để sản xuất và tái sản xuất ra năng lực đó, người công
nhân phải tiêu dùng một số lượng tư liệu sinh hoạt nhất định.
- Giá trị sử dụng hàng hoá sức lao động. Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao
động cũng giống như các hàng hoá khác chỉ thể hiện ra trong quá trình tiêu dùng
sức lao động, tức là quá trình người công nhân tiến hành lao động sản xuất. Nhưng
tính chất đặc biệt của hàng hoá sức lao động được thể hiện đó là:
+ Thứ nhất, sự khác biệt của giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động so với
giá trị sử dụng của các hàng hoá khác là ở chỗ, khi tiêu dùng hàng hoá sức lao
động, nó tạo ra một giá trị mới lớn hơn giá trị của thân giá trị sức lao động. Phần
lớn hơn đó chính là giá trị thặng dư. Như vậy, hàng hoá sức lao động có thuộc tính
là nguồn gốc sinh ra giá trị.
+ Thứ hai, con người là chủ thể của hàng hoá sức lao động vì vậy, việc cung ứng
sức lao động phụ thuộc vào những đặc điểm về tâm lý, kinh tế, xã hội của người
lao động. Đối với hầu hết các thị trường khác thì cầu phụ thuộc vào con người với
những đặc điểm của họ, nhưng đối với thị trường lao động thì con người lại có ảnh
hưởng quyết định tới cùng
Câu 7: Phân tích các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư. Từ đó rút ra ý
nghĩa của việc nghiên cứu phương pháp này
Mục đích của các nhà tư bản là sản xuất ra giá trị thặng dư tối đa. Vì vậy, các
nhà tư bản dùng nhiều phương pháp để tăng tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư.
Khái quát có hai phương pháp để đạt được mục đích đó là sản xuất giá trị thặng dư
tuyệt đối và sản xuất giá trị thặng dư tương đối.
a) Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối Khái niệm:
- Là phương pháp sản xuất giá trị thặng dư thu được do kéo dài thời gian lao
động vượt quá thời gian lao động cần thiết, trong khi năng suất lao động, giá trị sưc
lao động và thời gian lao động cần thiết không thay đổi. lOMoAR cPSD| 40367505 VD:
Ngày lao động là 8h, thời gian lao động tất yếu là 4h, thời gian lao động thặng
dư là 4h, mỗi giờ công nhân tạo ra một giá trị mới là 10 đơn vị thì giá trị thặng dư
tuyệt đối là 40 và tỷ suất giá trị thặng dư là m’=4/40x100%=100%.
Nếu kéo dài ngày lao động thêm 2 giờ nữa một điều kiện khác vẫn như cũ, thì giá
trị thặng dư tuyệt đối tăng lên 60 và tỷ suất giá trị thặng dư cùng tăng lên thành m’=6/4x100%=150%
Như vậy trong điều kiện thời gian lao động tất yếu không thay đổi, ngày lao
động kéo dài tức là thời gian lao động thặng dư tăng lên và kéo theo tỷ suất giá trị
thặng dư cùng tăng theo. Bởi vậy mà các nhà tư bản đã tìm mọi cách kéo dài ngày
lao động nhằm mục đích sản xuất ra ở mức độ tối đa nhất.
Khi kéo dài tuyệt đối ngày lao động trong điều kiện thời gian lao động tất yếu
không thay đổi thì thời gian lao động thặng dư tăng lên, tỷ suất giá trị thặng dư
tăng lên. Phương pháp nâng cao trình độ bóc lột bằng cách kéo dài toàn bộ ngày
lao động một cách tuyệt đối gọi là phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối.
Bóc lột giá trị thặng dư tuyệt đối gặp phải giới hạn về thể chất và tinh thần,đồng
thời vấp phải sức đấu tranh càng mạnh mẽ của công nhân. Nhà tư bản luôn cố gắng
tìm mọi cách để kéo dài ngày làm việc của công nhân nhưng việc kéo dài ngày lao
động không thể vượt qua giới hạn sinh lý (vì công nhân còn phải có thời gian ngủ
nghỉ ngơi giải trí để phục hồi sức khỏe) thì gặp phải sự phản kháng gay gắt của giai
cấp công nhân đòi giảm giờ làm. Điều này cũng chính là hạn chế của việc kéo dài
ngày lao động của các nhà tư bản.
Khi độ dài ngày lao động không thay đổi, nhà tư bản sẽ nâng cao trình độ bóc
lột bằng việc tăng cường độ lao động. Thực chất tăng cường độ lao động cũng
giống như kéo dài ngày lao động. Vì vậy, kéo dài thời gian lao động, tăng cường độ
lao động là để sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối.
b) Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối Khái niệm: lOMoAR cPSD| 40367505
- Là giá trị thặng dư thu được do rút ngắn thời gian lao động tất yếu trong điều
kiện độ dài của ngày lao động không đổi nhờ đó tăng thời gian lao động thặng dư. VD:
Ngày lao động là 8h và nó được chia thành 4 giờ là thời gian lao động tất yếu
và 4 giờ là thời gian lao đọng thặng dư thì tỷ suất giá trị thặng dư là m’ = 4/4 x 100% =100%
Giả định rằng ngày lao động không thay đổi nhưng bây giờ công nhân chỉ cần
3h lđ đã tạo ra được một lượng giá trị mới bằng với giá trị sức lao động của mình.
Do đó tỷ lệ phân chia ngày lao động sẽ thay đổi 3h gọi là thời gian lao động tất yếu
và 3 thời gian là thời gian lao động thặng dư. Như vậy tỷ suất giá trị thặng dư đã tăng từ 100% lên 150%
Phương pháp sản xuất giá trị tương đối là phương pháp nâng cao trình độ bóc
lột, bằng cách rút ngắn thời gian lao động cần thiết để kéo dài thời gian lao động
thặng dư trong điều kiện độ dài của ngày lao động vẫn như cũ gọi là phương pháp
sản xuất giá trị thặng dư tương đối.
Muốn rút ngắn thời gian lao động tất yếu thì phải hạ thấp giá trị sức lao động
bằng cách giảm giá trị tư liệu sinh hoạt và dịch vụ của người công nhân.
Bởi vì việc kéo đai ngày lao động bị giới hạn về thể chất và tinh thần của người
lao động và vấp phải cuộc đấu tranh ngày càng mạnh mẽ của giai cấp công nhân.
Mặt khác,khi sản xuất TBCN phát triển trên giai đoạn công nghiệp cơ khí kỹ thuật
đã tiến bộ làm cho năng suất lao động tăng lên nhanh chóng thì các nhà tư bản
chuyển sang phương thức bóc lột dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động bóc lột giá
trị thặng dư tương đối
Lịch sử phát triển của lực lượng sản xuất và của năng suất lao động XH dưới
CNTB đã trải qua 3 giai đoạn hợp tác giản đơn, công trường thủ công và đại công
nghiệp cơ khí, đó cũng là quá trình nâng cao trình độ bóc lột giá trị thặng dư tương đối.
Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư nói trên được các nhà tư bản sử dụng
kết hợp với nhau để nâng cao trình độ bóc lột công nhân làm thuê. Dưới chủ nghĩa
tư bản, việc áp dựng máy móc không phải là để giảm nhẹ cường độ lao động của
công nhân mà trái lại tạo điều kiện để tăng cường độ lao động. Ngày nay việc tự lOMoAR cPSD| 40367505
đông hóa sản xuất làm cho cường độ lao động tăng lên, nhưng dưới hình thức mới,
sự căng thẳng của thần kinh thay thế cho cường độ lao động cơ bắp c) Ý nghĩa thực tiễn
- Quá trình nghiên cứu 2 phương pháp sản xuất giá trị thặng dư cho thấy khi
gạt bỏ mục đích và tính chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản thì sản xuất giá trị thặng
dư chính là khoa học sử dụng lao động có hiệu quả nhất mà bất kỳ xã hội nào cũng
cần phải quan tâm. Bởi vậy, các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư có thể vận
dụng trong các doanh nghiệp ở nước ta nhằm kích thích sản xuất tăng năng suất lao
động xã hội, sử dụng kĩ thuật mới, cải tiến tổ chức quản lí, tiết kiệm chi phí sản xuất.
- Đối với quá trình phát triển nền kinh tế quốc dân của nước ta, việc nghiên
cứu sản xuất giá trị thặng dư gợi ra cho nhà hoạch định chính sách phương thức
làm tăng của cải thúc đẩy phát triển kinh tế. Trong điều kiện điểm xuất phát của
nước ta còn thấp, để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cần tận dụng triệt để các nguồn
lực nhất là lao động và sản xuất kinh doanh. Về cơ bản lâu dài cần phải coi trọng
việc tăng năng suất lao động xã hội, đẩy manh công nghiệp hoa hiện đại hóa nền
kinh tế quốc dân là giải pháp cơ bản để tăng năng suất lao động xã hội.
- Quy luật giá trị thặng dư đã phát huy vai trò to lớn của nó đem lại những tiến
bộ vượt bậc và thành tựu kinh tế cho CNTB. Nước ta nói riêng và các nước XHCN
nói chung cần nỗ lực không ngừng trên con đường của mình để xây dựng XHCN
trên thế giới. Riêng nước ta, đang trong giai đoạn quá độ lên CNXH từ chế độ PK
bỏ qua giai đoạn TBCN với xuất phát điểm là một nền kinh tế lạc hậu chủ yếu là
dựa vào nông nghiệp. Yêu cầu đặt ra là phải từng bước xây dựng cơ sở vật chất cho
CNXH. Vì vậy, chúng ta phải học tập những thành tựu mà CNTB đã đạt được
trong đó quan tâm đặc biệt đến quy luật kinh tế cơ bản của nó là giá trị thặng dư,
sửa chữa quan niệm sai lầm trước kia trong xây dựng kinh tế.
Câu 8: Phân tích căn cứ, nội dung và ý nghĩa của việc phân chia tư bản thành
các cặp phạm trù: tư bản bất biến – tư bản khả biến và tư bản cố định – tư
bản lưu động. Ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này
a) Tư bản bất biến - tư bản khả biến Căn cứ:
- Căn cứ vào vai trò khác nhau của những bộ phận tư bản trong việc tạo ra giá
trị thặng dư. Trong đó, tư bản bất biến đóng vai trò là điều kiện còn tư bản khả biến
đóng vai trò quyết định giá trị thặng dư. lOMoAR cPSD| 40367505 Nội dung:
Muốn tiến hành sản xuất, nhà tư bản phải ứng tư bản (bỏ vốn) ra để mua tư liệu
sản xuất và sức lao động, tức là biến tư bản tiền tệ thành các yếu tố của quá trình
sản xuất, thành các hình thức tồn tại khác nhau của tư bản sản xuất. Các bộ phận
khác nhau đó của tư bản có vai trò khác nhau trong quá trình sản xuất giá trị thặng dư.
- Trước hết, xét bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thức tư liệu sản xuất.
Tư liệu sản xuất có nhiều loại:
+ Có loại được sử dụng toàn bộ trong quá trình sản xuất, nhưng chỉ hao mòn
dần, do đó chuyển dần từng phần giá trị của nó vào sản phẩm như máy móc, thiết bị, nhà xưởng...
+ Có loại khi đưa vào sản xuất thì chuyển toàn bộ giá trị của nó trong một chu
kỳ sản xuất như nguyên liệu, nhiên liệu. Song, giá trị của bất kỳ tư liệu sản xuất
nào cũng đều nhờ có lao động cụ thể của công nhân mà được bảo toàn và di
chuyển vào sản phẩm, nên giá trị đó không thể lớn hơn giá trị tư liệu sản xuất đã bị
tiêu dùng để sản xuất ra sản phẩm. Cái bị tiêu dùng của tư liệu sản xuất là giá trị sử
dụng, kết quả của việc tiêu dùng đó là tạo ra một giá trị sử dụng mới. Giá trị tư liệu
sản xuất dược bảo toàn dưới dạng giá trị sử dụng mới chứ không phải là được sản xuất ra.
- Khái niệm: bộ phận tư bản biến thành tư liệu sản xuất mà giá trị được bảo
toàn và chuyển vào sản phẩm, không thay đổi về lượng giá trị của nó, được C.
Mác gọi là tư bản bất biến, và ký hiệu là c.
- Xét bộ phận tư bản dùng để mua sức lao động:
+ Một mặt, giá trị của nó biến thành các tư liệu sinh hoạt của người công nhân
và mất đi trong tiêu dùng của công nhân.
+ Mặt khác, trong quá trình lao động, bằng lao động trừu tượng, công nhân tạo
ra giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân sức lao động, nó bằng giá trị sức lao
động cộng với giá trị thặng dư.
Như vậy, bộ phận tư bản dùng để mua sức lao động đã không ngừng chuyển hoá
từ đại lượng bất biến thành một đại lượng khả biến, tức là đã tăng lên về lượng
trong quá trình sản xuất. lOMoAR cPSD| 40367505
- Khái niệm: bộ phận tư bản biến thành sức lao động không tái hiện ra, nhưng
thông qua lao động trừu tượng công nhân làm thuê mà tăng lên, tức là biến đổi về
lượng, được C. Mác gọi là tư bản khả biến, và ký hiệu là v.
Ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này:
- Việc phân chia tư bản bất biến và tư bản khả biến là công lao vĩ đại của
C.Mác. Sự phân chia này đã vạch rõ nguồn gốc thực sự của giá trị thặng dư là do tư
bản khả biến tạo ra, còn tư bản bất biến tuy không phải là nguồn gốc của giá trị
thặng dư nhưng là điều kiện cần, không thể thiếu. Như vậy C.Mác chỉ rõ vai trò
khác nhau của những bộ phận tư bản từ đó làm rõ sự bóc lột của chủ nghĩa tư bản.
b) Tư bản cố định - tư bản lưu động Căn cứ:
- Căn cứ vào sự khác nhau trong phương thức chu chuyển về mặt giá trị của
các bộ phận tư bản ở trong sản xuất người ta chia tư bản sản xuất thành tư bản cố
định và tư bản lưu động Nội dung:
Tư bản sản xuất gồm nhiều bộ phận và có thời gian chu chuyển khác nhau về
mặt giá trị, do đó ảnh hưởng đến thời gian chu chuyển của toàn bộ tư bản. Căn cứ
vào sự khác nhau trong phương thức (đặc điểm) chu chuyển về mặt giá trị nhanh
hay chậm của các bộ phận tư bản để phân chia tư bản sản xuất thành tư bản cố định và tư bản lưu dộng.
- Tư bản cố định là bộ phận tư bản sản xuất tồn tại dưới dạng máy móc, thiết
bị, nhà xưởng, V.V. tham gia toàn bộ vào quá trình sản xuất, nhưng giá trị của nó
không chuyển hết mệt lần vào sản phẩm mà chuyển dần từng phần theo mức độ
hao mòn của nó trong thời gian sản xuất.
Tư bản cố định được sử dụng lâu dài trong nhiều chu kỳ sản xuất và bị hao mòn
dần trong quá trình sản xuất. Có hai loại hao mòn là hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình:
+ Hao mòn hữu hình là hao mòn về vật chất, hao mòn về cơ học có thể nhận thấy.
Hao mòn hữu hình do quá trình sử dụng và sự tác động của tự nhiên làm cho các bộ
phận của tư bản cố định dần dần hao mòn đi tới chỗ hỏng và phải được thay thế.
+ Hao mòn vô hình là sự hao mòn thuần tuý về mặt giá trị. Hao mòn vô hình
xảy ra ngay cả khi máy móc còn tốt nhưng bị mất giá vì xuất hiện các máy móc
hiện đại hơn, rẻ hơn hoặc có giá trị tương đương, nhưng công suất cao hơn. Để
tránh hao mòn vô hình, các nhà tư bản tìm cách kéo dài ngày lao động, tăng cường lOMoAR cPSD| 40367505
độ lao động, tăng ca kíp làm việc, v.v. nhằm tận dụng máy móc trong thời gian càng ngắn càng tốt.
- Tư bản lưu động là bộ phận tư bản sản xuất tồn tại dưới dạng nguyên liệu,
nhiên liệu, vật liệu phụ, sức lao động, v.v.. Giá trị của nó được hoàn lại toàn bộ cho
các nhà tư bản sau mỗi quá trình sản xuất, khi hàng hóa được bán xong.
- Căn cứ để phân chia tư bản sản xuất thành tư bản cố định và tư bản lưu động
là phương thức chuyển dịch giá trị khác nhau của từng bộ phận tư bản trong quá trình sản xuất.
Ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này:
- Sự phân chia tư bản thành tư bản cố định và tư bản lưu động mặc dù không
phản ánh nguồn gốc sinh ra giá trị thặng dư nhưng lại có ý nghĩa quan trọng trong
quản lý kinh tế. Đó là cơ sở để quản lý, sử dụng vốn cố định và vốn lưu động hiệu quả
Câu 9: Phân tích tính tất yếu khách quan của việc phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở VN
Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là đường lối chiến
lược nhất quán, là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam. Sự tất yếu đó xuất phát từ những lý do cơ bản sau đây:
- Một là, phát triển kinh tế thị trường định hưởng xã hội chủ nghĩa là phù hợp
với tính quy luật phát triển khách quan.
Như đã chỉ ra, nền kinh tế thị trường là nến kinh tế hàng hóa phát triến ở trình
độ cao. Khi có đủ các điều kiện cho sự tồn tại và phát triển, nền kinh tế hàng hóa tự
hình thành. Sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa theo các quy luật tất yếu đạt tới
trình độ nền kinh tế thị truờng. Đó là tính quy luật. Ở Việt Nam, các điều kiện cho
sự hình thành và phát triển kinh tế hàng hóa luôn tồn tại. Do đó, sự hình thành kinh
tế thị trường ở Việt Nam là tất yếu khách quan.
Mong muốn dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh là mong
muốn chung của các quốc gia trên thế giới. Do đó, việc định hướng tới xác lập
những giá trị đó trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam là phù hợp và tất yếu
trong phát triển. Song trong sự tồn tại hiện thực aẽ không thể có một nền kinh tế thị
trường trừu tượng, chung chung cho mọi hình thái kinh tế - xã hội, mọi quốc gia, dân tộc. lOMoAR cPSD| 40367505
Trong lịch sử đã có kinh tế hàng hóa giản đơn kiểu chiếm hữu nô lệ và phong
kiến hay kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Nó tồn tại trong mỗi hình thái kinh tế
- xã hội cụ thể, gắn bó hữu cơ và chịu sự chi phối của các quan hệ sản xuất thống
trị trong xã hội đó. Ngay như trong cùng một chế độ tư bản chủ nghĩa, kinh tế thị
trường của mỗi quốc gia, dân tộc cũng khác nhau, mang đặc tính khác nhau.
Thực tiễn lịch sử cho thấy, mặc dù kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa đã đạt tới
giai đoạn phát triển khá cao và phồn thịnh ở các nước tư bản phát triển, nhưng
những mâu thuẫn vốn có của nó không thể nào khắc phục được trong lòng xã hội
tư bản, nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa đang có xu hướng tự phủ định, tự
tiến hóa tạo ra những điều kiện cần và đủ cho một cuộc cách mạng xã hội - cách
mạng xã hội chủ nghĩa.
Do vậy, nhân loại muốn tiếp tục phát triển thì không chỉ dừng lại ở kinh tế thị
trường tư bản chủ nghĩa. Với ý nghĩa đó, sự lựa chọn mô hình kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam là phù hợp với xu thế của thời đại và
đặc điếm phát triển của dân tộc, sự lựa chọn đó không hề mâu thuẫn với tiến trình
phát triển của đất nước. Đây thực sự là bước đi, cách làm mới hiện nay của các dân
tộc, quốc gia đang trên con đường hướng tới xã hội chủ nghĩa.
- Hai là, do tính ưu vìệt cúa kinh tế thị trường trong thúc đẩy phát triển.
Thực tiễn trên thế giới và Việt Nam cho thấy kinh tế thị trường là phương thức
phân bố nguồn lực hiệu quả mà loài nguời đã đạt được so với các mô hình kinh tế
phi thị trường. Kinh tế thị trường luôn là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát
triển nhanh và có hiệu quả. Dưới tác động của các quy luật thị trường nền kinh tế
luôn phát triển theo hướng năng động, kích thích tiến bộ kỹ thuật công nghệ, nâng
cao năng xuất lao động, chất lượng sản phẩm và giá thành hạ. Xét theo góc độ đó,
sự phát triển của kinh tế thị trường không hề mâu thuẫn với mục tiêu của chủ nghĩa
xã hội. Do vậy, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội cần phải phát triển kinh
tế thị trường, sử dụng kinh tế thị trường làm phương tiện để thúc đẩy lực lượng sản
xuất phát triển nhanh và có hiệu quả, thực hiện mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là
"dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh". Tuy nhiên, trong quá trình
phát triển kinh tế thị trường cần chú ý tới những thất bại và khuyết tật của thị
trường để có sự can thiệp, điều tiết kịp thời của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa. Có thể khẳng định: Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
là sự lựa chọn cách làm, bước đi đúng quy luật kinh tế khách quan là phương tiện
cần thiết để đi đến mục tiêu của chủ nghĩa xã hội nhanh và có hiệu quả. lOMoAR cPSD| 40367505
- Ba là, do đó là mô hình kinh tế thị trường phù hợp với nguyện vọng của
nhân dân mong muốn dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Trên thế giới có nhiều mô hình kinh tế thị trường, nhưng việc phát triển mà dẫn
tới dân không giàu, nước không mạnh, không dân chủ, kém văn minh thì không ai
mong muốn. Thế giới cũng vậy và nhân dân Việt Nam cũng vậy. Cho nên, phấn
đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh là khát
vọng của nhân dân Việt Nam. Để hiện thực hóa khát vọng như vậy, việc thực hiện
kinh tế thị trường mà trong đó hướng tới những giá trị mới, do đó, là tất yếu khách quan.
Mặt khác, cần phải khẳng định rằng: kinh tế thị trường sẽ còn tồn tại lâu dài ỏ
nước ta là một tất yếu khách quan, là sự cần thiết cho công cuộc xây dựng và phát
triến. Bởi lẽ sự tồn tại hay không tồn tại của kinh tế thị trường là do những điều
kiện kinh tế - xã hội khách quan sinh ra nó quy định. Trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam những điều kiện cho sự ra đời và tồn tại của sản xuất hàng
hóa như: phân công lao động xã hội, các hình thức khác nhau của quan hệ sở hữu
về tư liệu sản xuất không hề mất đi thì việc sản xuất và phân phối sản phẩm vẫn
phải được thực hiện thông qua thị trường với những quan hệ giá trị tiền tệ. Mặt
khác, nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa về thực
chất là quá trình phát triển rút ngắn” của lịch sử, chứ không phải là sự “đốt cháy”
giai đoạn. Với ý nghĩa đó, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
chúng ta phải làm một cuộc cách mạng về cách thức tổ chức nền kinh tế - xã hội,
chuyển từ một nền kinh tế lạc hậu mang nặng tính tự cung, tự cấp sang nền kinh tế
thị trường hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Câu 10: Phân tích các đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở VN
- Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát
triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới
phùhợp trên cả ba mặt: sở hữu, quản lý và phân phối nhằm thực hiện dân giàu,
nướcmạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
- Về sở hữu sẽ phát triển theo hướng còn tồn tại các hình thức sở hữu
khácnhau,nhiều thành phần kinh tế khác nhau trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò
chủ đạo. Tiêu chuẩn căn bản để đánh giá hiệu quả xây dựng quan hệ sản xuất theo
định hướng xã hội chủ nghĩa là thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất, cải thiện đời lOMoAR cPSD| 40367505
sống nhân dân và thực hiện công bằng xã hội nên phải từng bước xác lập và phát
triển chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất chủ yếu một cách vững chắc,
tránh nóng vội xây dựng ồ ạt mà không tính đến hiệu quả như trước đây.
- Về quản lý, trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phải có sự
quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nhà nước xã hội chủ nghĩa quản lý nền
kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, kế hoạch, chính sách đồng thời sử dụng cơ chế
thị trường, các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý kinh tế thịtrường để kích
thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy tính tích cực và hạn chế những
mặt tiêu cực, khuyết tật của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động của toàn thể nhân dân.
- Về phân phối, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện đa
dạng hoá các hình thức phân phối. "Thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết
quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các
nguồnlực khác và thông qua phúc lợi xã hội. Cơ chế phân phối này vừa tạo động
lựckích thích các chủ thể kinh tế nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh
doanh,đồng thời hạn chế những bất công trong xã hội. Thực hiện tăng trưởng kinh
tếgắn liền với tiến bộ, công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sáchphát triển.
- Tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường nước ta còn thể
hiện ở chỗ tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với phát triển văn hóa, giáo dục, xây
dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, làm cho chủnghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần
của nhân dân, nâng cao dân trí, giáo dục và đào tạo con người, xây dựng vàphát
triển nguồn nhân lực của đất nước.Chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế
thị trường, định hướng xãhội chủ nghĩa thể hiện trình độ tư duy, và vận dụng của
Đảng ta về quy luật về sựphù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ
phát triển của lực lượngsản xuất. Đây là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta
trong thời kỳ quá độ lênchủ nghĩa xã hội.
Câu 11: Phân tích vai trò của cách mạng công nghiệp đối với tiến trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta. Từ đó rút ra ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề a) Khái niệm
Cách mạng công nghiệp là cuộc cách mạng trong lĩnh vực sản xuất; là sự thay
đổi cơ bản các điều kiện kinh tế-xã hội, văn hóa và kỹ thuật, xuất phát từ nước Anh
sau đó lan tỏa ra toàn thế giới. Trong thời kỳ này, nền kinh tế giản đơn, quy mô lOMoAR cPSD| 40367505
nhỏ, dựa trên lao động chân tay được thay thế bằng công nghiệp và chế tạo máy
móc quy mô lớn. Tên gọi "Cách mạng công nghiệp" thường dùng để chỉ giai đoạn
thứ nhất của nó diễn ra ở cuối thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19. Giai đoạn hai hay còn
gọi là Cách mạng công nghiệp lần thứ hai tiếp tục ngay sau đó từ nửa sau thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20.
Cuộc cách mạng bắt đầu với sự phát triển sản xuất hàng hóa của ngành công
nghiệp dệt. Sau đó, với nhu cầu cung cấp máy móc và năng lượng cho công nghiệp
dệt, các kỹ thuật gia công sắt thép được cải thiện và than đá sử dụng với khối lượng
lớn. Thương mại mở rộng tạo điều kiện cho sự ra đời của kênh đào giao thông và
đường sắt Bên cạnh đó, đường giao thông được nâng cấp lớn cho hoạt động giao
thương nhộn nhịp. Động cơ hơi nước sử dụng nhiên liệu than và máy móc dẫn
động bằng cơ khí đã đưa đến gia tăng năng suất lao động đột biến. Sự phát triển
các máy công cụ trong hai thập kỷ đầu của thế kỷ 19 tạo thuận lợi cho lĩnh vực chế
tạo máy, phục vụ những ngành sản xuất khác.
Ý kiến về thời gian diễn ra cách mạng công nghiệp lần thứ nhất không thống nhất,
nhưng nói chung là ở nửa cuối thế kỷ 18 đến nửa đầu thế kỷ 19. Ảnh hưởng của
nó diễn ra ở Tây Âu và Bắc Mỹ trong suốt thế kỷ 19 và sau đó là toàn thế giới.
Tác động của cách mạng công nghiệp là vô cùng sâu rộng.
Cách mạng công nghiệp lần thứ hai bắt đầu khoảng 1850, khi các tiến bộ kinh tế
và kỹ thuật có được nhờ phát triển tàu hơi nước, đường sắt. Đến cuối thế kỷ 19,
động lực của Cách mạng công nghiệp là động cơ đốt trong và máy móc sử dụng
điện. Năm 1914, giai đoạn thứ hai này kết thúc.
Cách mạng Công nghiệp lần thứ ba bắt đầu khoảng 1960, khi có các tiến bộ về
hạ tầng điện tử, máy tính và công nghệ kĩ thuật số trên nền tảng là sự phát triển của
chất bán dẫn, siêu máy tính (thập niên 1960), máy tính cá nhân (thập niên 1970 và
1980) và Internet (thập niên 1990). Cho đến cuối thế kỷ 20, quá trình này cơ bản
hoàn thành nhờ những thành tựu khoa học công nghệ cao. Năm 1997, khi cuộc
khủng hoảng tài chính châu Á nổ ra là bước đánh dấu giai đoạn thứ ba kết thúc.
Cách mạng Công nghiệp lần thứ tưbắt đầu vào đầu thế kỷ 21, tiếp sau những
thành tựu lớn từ lần thứ 3 để lại, được hình thành trên nền tảng cải tiến của cuộc
cách mạng số, với những công nghệ mới như in 3D, robot, trí tuệ nhân tạo, Internet
of Things, S.M.A.C, công nghệ nano, sinh học, vật liệu mới,... Hiện tại cả thế giới
đang ở trong giai đoạn đầu của cuộc cách mạng này và là chiến lược bản lề cho các
nước đang phát triển tiến đến để theo kịp với xu hướng thế giới và mở ra bước
ngoặt mới cho sự phát triển của con người. lOMoAR cPSD| 40367505 b) Vai trò
- Một là, thúc đẩy sự phát triển lực lượng sản xuất
Các cuộc cách mạng công nghiệp có những tác động vô cùng to lớn đến sự phát
triển lực lượng sản xuất của các quốc gia. Và đồng thời, tác động mạnh mẽ từ quá
trình điều chỉnh cấu trúc và vai trò các nhân tố trong lực lượng sản xuất xã hội. Về
tư liệu lao động, từ chỗ máy móc ra đời thay thế cho lao động chân tay cho đến sự
ra đời của máy tính điện tử, chuyển nền sản xuất sang giai đoạn tự động hóa, tài
sản cố định thường xuyên được đổi mới, quá trình tập trung hóa sản xuất được đẩy nhanh.
- Hai là, thúc đẩy hoàn thiện quan hệ sản xuất
Các cuộc cách mạng công nghiệp tạo sự phát triển nhảy vọt về chất trong lực
lượng sản xuất và sự phát triển này tất yếu dẫn đến quá trình điều chỉnh, phát triển
và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội và quản trị phát triển.
- Ba là, thúc đẩy đối mới phương thức quản trị phát triển
Cách mạng công nghiệplàm cho sản xuất xã hội có những bước phát triển nhảy
vọt. Cuộc cách mạng đã tạo điều kiện để chuyển biến các nền kinh tế công nghiệp
sang nền kinh tế tri thức hàm lượng tri thức tăng lên trong sản phẩm và dịch vụ
khoảng cách thời gian từ phát minh khoa học đến ứng dụng vào thực tiễn ngày càng được rút ngắn
c) Ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề
- Đặt ra thách thức lớn nhất là khoảng cách phát triển về lực lượng sản xuất
mà các quốc gia phải đối diện
- Đòi hỏi các quốc gia còn ở trình độ phát triển thấp thích ứng hiệu quả với
những tác động mới của cuộc CMCN lần thứ 4
Câu 12: Phân tích những tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến sự phát
triển kinh tế của VN a) Khái niệm
- Hội nhập kinh tế quốc tế là sự gắn kết nền kinh tế của mỗi quốc gia vào các
tổ chức hợp tác kinh tế khu vực và toàn cầu, trong đó mối quan hệ giữa các nước
thành viên có sự rằng buộc theo những quy định chung của khối. lOMoAR cPSD| 40367505 b) Nội dung
- Chuẩn bị các điều kiện để hội nhập hiệu thành công
- Thực hiện đa dạng các hình thức, mức độ hội nhập kinh tế quốc tế
c) Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến sự phát triển kinh tế Việt Nam
Tác động tích tực
Hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ là tất yếu mà còn đem lại những lợi ích to
lớn trong phát triển của các nước và những lợi ích kinh tế khác nhau cho cả người
sản xuất và ngưòi tiêu dùng. Cụ thể là:
- Hội nhập kinh tế quốc tế thực chất là mở rộng thị trường để thúc đẩy thương
mại phát triển, tạo điều kiện cho sản xuất trong nước, tận dụng cảc lợi thế kinh tế
của nước ta trong phân công lao động quốc tế, phục vụ cho mục tiêu tăng trưởng
kinh tế nhanh, bền vững và chuyển đổi mô hình tăng trưởng sang chiều sâu với hiệu quả cao.
- Hội nhập kinh tế quốc tế tạo động lực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng hợp lý, hiện đại và hiệu quả hơn, qua đó hình thành các lĩnh vực kinh
tế mũi nhọn để nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, của các
sản phẩm và doanh nghiệp trong nước; góp phần cải thiện môi trường đầu tư kinh
doanh, làm tăng khả năng thu hút khoa học công nghệ hiện đại và đầu tư bên ngoài vào nên kinh tế.
- Hội nhập kinh tế quốc tế giúp nâng cao trình độ của nguồn nhân lực và tiềm
lực khoa học công nghệ quốc gia. Nhờ đẩy mạnh hợp tác giáo dục - đào tạo và
nghiên cứu khoa học với các nước mà nâng cao khả năng hấp thụ khoa học công
nghệ hiện đại và tiếp thu công nghệ mới thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài và
chuyển giao công nghệ nhằm nâng cao chất lượng nên kinh tế.
- Hội nhập kinh tế quốc tế làm tăng cơ hội cho các doanh nghiệp trong nước
tiếp cận thị trường quốc tế, nguồn tín dụng và các đối tác quốc tế để thay đổi công
nghệ sản xuất, tiếp cận với phương thức quản trị phát triển để nâng cao năng lực cạnh tranh quốc tế.
- Hội nhập kinh tế quốc tế tạo cơ hội để cải thiện tiêu dùng trong nước, người
dân được thụ hưởng các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ đa dạng về chủng loại, mẫu
mã và chất lượng với giá cạnh tranh; được tiếp cận và giao lưu nhiều hơn với thế
giới bên ngoài, từ đó có thêm cơ hội tìm kiếm việc làm. lOMoAR cPSD| 40367505
- Hội nhập kinh tế quốc tế tạo đỉều kiện để các nhà hoạch định chính sách
nắm bắt tốt hơn tình hình và xu thế phát triển của thế giới, từ đó xây dựng và điều
chỉnh chiến lược phát triển hợp lý, đề ra chính sách phát triển phù hợp cho đất nước.
- Hội nhập kinh tế quốc tế là tiền đề cho hội nhập về văn hóa, tạo điều kiện để
tiếp thu những giá trị tinh hoa của thế giới, bổ sung những giá trị và tiến bộ của
văn hóa, văn minh của thế giới để làm giàu thêm văn hóa dân tộc và thúc đẩy tiến bộ xã hội. -
- Hội nhập kinh tế quốc tế còn tác động mạnh mẽ đến hội nhập chính trị, tạo
điều kiện cho cải cách toàn diện hướng tới xây dựng một nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa, xây dựng một xã hội mở, dân chủ, văn minh.
- Hội nhập tạo điều kiện để mỗi nước tìm cho mình một vị trí thích hợp trong
trật tự quốc tế, nâng cao vai trò, uy tín và vị thế quốc tế của nước ta trong các tổ
chức chính trị, kinh tế toàn cầu.
- Hội nhập kinh tế quốc tế giúp đảm bảo an ninh quốc gia, duy trì hòa bình, ổn
định ở khu vực và quốc tế để tập trung cho phát triển kinh tế xã hội; đồng thời mở
ra khả năng phối hợp các nỗ lực và nguồn lực của các nước để gỉải quyết những
vấn đề quan tâm chung như môi trường, biến đối khí hậu, phòng chống tội phạm và buôn lậu quốc tế.
Tác động tiêu cực
- Hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ đưa lại những lợi ích, trái lại, nó cũng
đặt ra nhiều rủi ro, bất lợi và thách thức, đó là:
- Hội nhập kinh tế quốc tế làm gia tăng sự cạnh tranh gay gắt khiến nhiều
doanh nghiệp và ngành kinh tế nước ta gặp khó khăn trong phát triển, thậm chí là
phá sản, gây nhiều hậu quả bất lợi vê mặt kinh tế - xã hội.
- Hội nhập kinh tế quốc tế có thể làm gia tăng sự phụ thuộc của nền kinh tế
quốc gia vào thị trường bên ngoài, khiến nền kinh tế dễ bị tổn thương trước những
biến động khôn lường về chính trị, kinh tế và thị trường quốc tế.
- Hội nhập kinh tế quốc tế có thể dẫn đến phân phối không công bằng lợi ích
và rủi ro cho các nước và các nhóm khác nhau trong xã hội, do vậy có nguy cơ làm
tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội.
- Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, các nước đang phát triển như nước
ta phải đối mặt với nguy cơ chuyển dịch cơ cấu kinh tế tự nhiên bất lợi, do thiên
hướng tập trung vào các ngành sử dụng nhiều tài nguyên nhiều sức lao động,
nhưng có giá trị gia tăng thấp. Có vị trí bất lợi và thua thiệt trong chuỗi giá trị toàn lOMoAR cPSD| 40367505
cầu. Do vậy, dễ trở thành bãi thải công nghiệp và công nghệ thấp, bị cạn kiệt nguồn
tài nguyên thiên nhiên và hủy hoại môi trường ở mức độ cao.
- Hội nhập kinh tế quốc tế có thể tạo ra một số thách thức đối với quyền lực
Nhà nước, chủ quyền quốc gia và phát sình nhiều vấn đề phức tạp đối với việc duy
trì an ninh và ổn định trật tự, an toàn xã hội.
- Hội nhập có thể làm gia tăng nguy cơ bản sắc dân tộc và văn hóa truyền
thống Việt Nam bị xói mòn trước sự “xâm lăng” của văn hóa nuớc ngoài.
- Hội nhập có thể làm tăng nguy cơ gia tăng của tình trạng khủng bố quốc tế,
buôn lậu, tội phạm xuyên quốc gia, dịch bệnh, nhập cư bất hợp pháp…
- Tóm lại, hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay vừa có khả năng tạo ra những cơ
hội thuận lợi cho sự phát triển kinh tế, vừa có thế dẫn đến những nguy cơ to lớn mà
hậu quả của chúng là rất khó lường. Vì vậy, tranh thủ thời cơ, vượt qua thách thức
trong hội nhập kinh tế là vấn đề cần phải đặc biệt coi trọng.