Phân tích đoạn 2 bài thơ Bình Ngô Đại Cáo (Dàn ý + 13 mẫu) | Văn mẫu lớp 10 Kết Nối Tri Thức

Phân tích đoạn 2 Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi gồm 13 bài văn mẫu khác nhau cực hay kèm theo gợi ý cách viết chi tiết. Qua đó giúp các em có thể tham khảo để nâng cao trình học văn học của mình với những bài văn mẫu hay sát với chương trình học.

Dàn ý phân tích đoạn 2 bài thơ Bình Ngô Đại Cáo
1. Mở bài Phân tích đoạn 2 Bình Ngô Đại Cáo
Giới thiệu sơ lược về tác giả,tác phẩm, đoạn cần phân tích
Nêu qua hoàn cảnh lịch sử tạo nên tác phẩm
2. Thân bài Phân tích đoạn 2 Bình Ngô Đại Cáo
thể khẳng định đoạn đầu ởng nhân nghĩa mới mẻ sở để khẳng định
chủ quyền độc lập dân tộc. Tư tường này xuất phát từ thực tiễn tình hình của đất nước
được Nguyễn Trãi khái quát sâu sắc như một chân lý. Chân đó khẳng định nhân
nghĩa chính chống quân xâm lược, có như vậy mới vạch trần được luận điệu xảo trá
của chúng được tác giả nêu lên đoạn hai. Đoạn hai của tác phẩm là bản cáo trạng về
tội ác của Giặc Minh. Tố cáo những chủ trương cai trị tàn sát của giặc Minh:
Tàn sát người vô tội
Bóc lột dã man, đánh thuế, phu phen,…
Hủy diệt cả môi trường sống
Tội ác tày trời, một lũ giặc vô nhân đạo
- những tội ác của kẻ thù thì cái nhân nghĩa tác giả đưa ra mới càng thhiện
được tính đúng đắn của nó. Bởi lẽ:
Độc lập chủ quyền của chúng ta có tính chất thiên nhiên, từ trước, vốn có
Khẳng định chủ quyền như bao dân tộc khác là chúng ta có phong tục riêng,
lịch sử riêng, hào kiệt trước này chưa bao giờ thiếu.
Nền văn hiến của ta thì đã có từ hàng ngàn năm lịch sử: đây là yếu tố cơ bản để
xác định chủ quyền dân tộc. Bất kể quân xâm lược nào cũng đều tìm cách để
phủ định sự thật hiển nhiên này.
- Nguyễn Trãi đã vạch trần luận điệu bịp bợm của giặc và chỉ rõ âm mưu cướp nước ta
của chúng. Chúng lược chiêu bài “Phù Trần diệt Hồ” nhưng thực chất là để cướp nước
ta
- Tội ác mà chúng gây ra với chúng ta là vô cùng độc ác và dã man.
- Trước nỗi khổ, sự kkhăn ng cực của nhân dân, tác giả cùng đau đớn, cả bài
sự căm giận tội ác của địch, đồng cảm xót xa trước những đau thương nhân
dân ta phải chịu đựng.
-Nghệ thuật so sánh: Tội ác của giặc cao tựa núi Nam Sơn; sự bẩn của giặc nhiều
bằng nước Đông Hải. Dùng i hạn nói cái hạn, tội ác của chúng những cái
cùng cũng không thể miêu tả, không thể chứa đựng được hết.
3. Kết bài Phân tích đoạn 2 Bình Ngô Đại Cáo
Nêu lại khái quát ý nghĩa của tác phẩm và cảm nhận của bản thân
Khẳng định lại tội ác không thể chối cãi của giặc Minh và sự tài tình của
Nguyễn Trãi trong việc vạch tội kẻ thù khẳng định chủ quyền cho dân tộc
Xem thêm: Dàn ý phân tích đoạn 2 Bình ngô Đại Cáo
Phân tích đoạn 2 Đại cáo Bình Ngô ngn gn
Bình Ngô Đại Cáo" tác phẩm ni tiếng của nhà văn, nhà chính tr Nguyễn Trãi. Tác
gi son thảo bài cáo này vào mùa xuân năm 1428, để thay mt Lê Lợi tuyên bố chiến
thắng quân Minh xâm c. Bản cáo trạng không ch khẳng định độc lp, ch quyn
của Đại Việt còn bản án đanh thép, n án tội ác không thể dung th của
bán nước, cướp nước. Cùng phân tích đon 2 của Bát Đại Ngô Đồng để thấy hơn
nhé!
Đon một, tác giả t hào, hãnh diện, tuyên b vi thế giới thế gii v lch s hào
hùng dựng nước giữ nước của dân tộc ta. Ông khẳng định ch quyền văn hóa, lãnh
th ca Nam Bc triu, mỗi bên mạnh một phương. Ông tin rằng thiên tài khp mi
nơi, mọi lúc. Tại sao lại xâm ợc cướp bóc lẫn nhau? Nh li dẫn đó, sang đến
đoạn hai, tác giả trình bày ngay nguyên nhân dẫn đến cuc chiến tranh giữa Đại Vit
và nhà Minh:
Va ri:
Nhân h H chính s phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hn
Quân cung Minh tha cơ gây loạn
Bọn gian tà còn bán nưc cầu vinh”
Đi sâu vào tìm hiểu đoạn 2 thể thy rõ, ch qua 5 câu thơ ngắn ngủi thôi nhưng tác
gi đã miêu tả được toàn cảnh bc tranh hội rối ren lúc bấy giờ. Đó những th
lĩnh, người đứng đầu đất ớc đang bị thôn tính, nhu nhược, tham lam, chia phái
khiến nhân dân oán hận. Trong khi đó, giặc Minh rình rập lâu ngày bên ngoài, nhân cơ
hội gây loạn. Chính sự hn lon kết hp với các phe phái bán nước ớp nước đã
đặt Đại Việt vào thế cân bằng. Nguyễn Trãi một nhà chính trị nên những lp lun
ca ông rt sắc bén và hợp lý.
Bài thơ này đã thể hin âm mưu xâm c ca giặc Minh bọn gian ác bán nước
cu vinh.
thế Đại Việt lâm nguy. Bọn bán nước, ớp nước ra sức hành hạ dân đen, gây bao
tội ác. Sau khi đánh chiếm nước ta, quân Minh xâm lược Đại Việt trong hai mươi năm
vi những chính sách vô cùng hà khắc và tàn bo.
“…Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đ xuống dưi hm tai v
Nng n nhng ni phu phen
Tan tác cả ngh canh ci”.
Chng kiến cảnh thương tâm của nhân dân, nhà chính trị nhân từ Nguyễn Trãi đã
khẳng định tội ác của quân giặc “Bại nhân nghĩa nát c đất trời”. Đoạn thơ dường
như vừa nói lên nỗi lòng đau đáu nước của tác giả, vừa như những lời đay nghiến
k thù. Sự tàn bạo ca h không còn do con người to ra na. Di tri, dối dân. Chúng
không chỉ ớp bóc của ci, sc người mà còn tàn phá môi trường, tn diệt sâu bọ, cây
cỏ. Hơn nữa, chúng đã trực tiếp tàn sát những người da đen, những người dân lành
tội. Người dân quanh năm gắn vi ruộng đồng, hiền lành, đức độ. Vậy họ chà
đạp không tha. Bằng mt lot liệt kê, kể liên tiếp nhng tội ác của quân thù, tác giả
như trút được bao cảm xúc căm giận, căm thù. Cảm xúc đó cũng cảm xúc chung
ca toàn dân Đi Việt lúc bấy gi. Ch muốn vùng lên chiến đấu, chng li k thù.
Phân tích đoạn 2 Đại cáo, ta càng thấy s tài tình trong việc s dụng các biện pháp
ngh thuật văn chương của Nguyễn Trãi. Ông đã dùng phép nhân hóa suy đoán đ
vch trn tội ác tày trời ca bọn cướp. Nếu sng gia thời đó, lớn lên trong bạo ngược
y mi thấy rõ quân gic không khác gì súc vt, coi mạng người như rác rưi.
Phân ch đoạn 2 ca Cựu ước lúc người đọc cm thấy ng mình trước cnh tang
tóc của người dân Đi Việt xưa. ng chng ch một cnh trong phim c trang,
nhưng hóa ra lại là s tht hiển nhiên, được lch s ghi nhn.
“Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết ti,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi!
Lòng ngưi đều căm giận,
Tri đt chẳng dung tha”
S tàn ác man r của quân xâm lược không ch làm cho người dân thương xót còn
căm giận c thiên nhiên, c bin c cũng không th gt rửa được mùi nhơ nhớp, đất
trời cũng không chịu ni. Vi vic s dụng phép đối xứng “ác”, “cây tre Nam Sơn
nước Đông Hải”, “lòng trời đất”… tác giả ncàng nhấn mạnh thêm sự sai trái của
cuc chiến tranh phi nghĩa. Anh cũng đem ra những đồ vật tri, giác để khng
định vic xen vào cuộc sng của người khác ti lỗi không th tha thứ. Ông càng
chng minh rằng, không chỉ con người mọi sinh vật sinh ra trên đời đều quyền
sng.
thể nói, khi phân tích đoạn th hai, người đọc như đang xem một b phim lch s
thấm đẫm máu nước mắt. nhng nỗi đau, mất mát của dân tộc không
th đắp được. Nhưng người đọc cũng thể cm nhận được s kiên cường, bt
khut của người dân Đại Vit. Bằng ngôn từ mnh mẽ, hùng hồn, trôi chảy trong tng
câu chữ, hình ảnh, nhà chính luận Nguyễn Trãi một ln na mnh m lên án tội ác của
quân thù.
Bình ngô Đại Cáo đoạn 2
Nguyễn Trãi người sống dân, ớc, cả cuộc đời ông luôn một con người
lòng nhân hậu, đau đáu thương người, ông vô cùng tài giỏi khi đã làm rõ âm mưu xâm
lược của giặc Minh, đồng thời còn kể những hành động độc ác của bọn giặc trên
dân tộc ta, đó được xem định mệnh để khiến con người ta sinh ly biệt tử, thời gian
lại chẳng thể xóa nhòa những giá trị vĩnh hằng. Sự trường tồn của tên tuổi Nguyễn
Trãi cùng non sông nước Việt Nam là minh chứng hùng hồn cho điều đó. Nếu Nguyễn
Trãi nhà văn chính luận kiệt xuất mọi thời đại thì Bình Ngô đại cáo áng văn bất
hủ của ông trong lịch sử văn học Việt Nam.
Nguyễn Trãi đã khắc mình vào vóc dáng của dân tộc. Định mệnh để khiến con người
ta sinh ly biệt tử, thời gian lại chẳng thể a nhòa những giá trị vĩnh hằng. Sự trường
tồn của tên tuổi Nguyễn Trãi cùng non sông nước Việt Nam minh chứng hùng hồn
cho điều đó. Nếu Nguyễn Trãi nhà văn chính luận kiệt xuất mọi thời đại thì Bình
Ngô đại cáo là áng văn bất hủ của ông trong lịch sử văn học Việt Nam.
“Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa
Bọn gian tà bán nước cầu vinh”
Lấy cớ nhà Hồ cướp ngôi của nhà Trần, nhà Minh huy động một lực lượng gồm hai
mươi vạn bộ binh vào xâm lược nước ta. Quân Minh chia m hai cánh theo đường
sông Hồng kéo xuống. Trong suốt hai mươi năm, chúng đô hnước ta bằng số
những chính sách, chiến lược khác nhau.
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”
Bọn giặc Minh cướp nước, ấp âm mưu m lược bấy lâu, nhưng lại còn ra vẻ sợ
người đời dị nghị thế nên mới nghĩ ra cái cớ "phù Trần diệt Hồ" để bịp bợm thiên hạ,
lừa lọc nhân n ta, từ đó cớ dẫn quân sang xâm lược. Quả thật bọn bất nhân, bất
nghĩa thì chẳng chuyện không vẽ ra được. Đã thế trong nước thì lòng dân oán
hận ngập trời, "Bọn gian bán nước cầu vinh", bán cả tự tôn dân tộc để tham chút lợi
nhỏ bé, mở đường cho giặc vào tàn sát người mình, ôi chẳng thứ người nào lại
nhẫn tâm đến vậy.
Từ ngày giặc Minh tràn vào, nhân dân ta chẳng có một ngày được sống yên ổn, chúng
ra sức tàn sát, âm u diệt chủng những kẻ kháng cự, không nghe lời bằng những
phương thức hết sức man, rùng rợn, tựa bọn quỷ sa tăng hút máu. Nào "Nướng
dân đen trên ngọn lửa hung tàn", "Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ". Đã thế còn liên
tiếp bịp bợm "Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế", gieo rắc thù oán hết gần 20 m
trời đằng đẵng. Kẻ chết đã chết, nhưng người sống chúng cũng phải tìm mọi cách
bóc lột hành hạ, biến nhân dân ta thành lệ, thành những công cụ biết nói, ép
nhân dân ta phải tự đi vơ vét tài nguyên của đất nước mà cung phụng cho chúng.
Vơ vét sản vật, tiêu diệt con người, tội ác của giặc không có giấy bút nào tả xiết:
“Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi”
Tác giả đã chọn những cái cùng trúc Nam Sơn nước Đông Hải để nói đến tội
ác của loài quỷ dữ khát máu người, chỉ nhăm nhe cắn nhân dân ta đến tận xương
tủy. Hậu quả chúng để lại cùng tàn khốc: mẹ mất con, vợ mất chồng, con cái thì
nheo nhóc, muôn loài bị phá hủy, nhân dân khổ cực.
Để nêu lên rõ tội ác của bọn chúng, tác giả đã sử dụng phương pháp liệt chọn
lọc, sử dụng những câu văn giàu hình ảnh, hình ợng, giọng văn thay đổi linh hoạt,
phù hợp với cảm xúc. Lúc tỏ ra căm phẫn, lúc lại thể hiện sự đau đớn, xót xa cho nhân
dân ta. Hai câu cuối kết án vô cùng đanh thép:
“Lẽ nào trời đất dung tha
Ai bảo thần nhân chịu được?”
Tội ác của giặc Minh đã vượt quá giới hạn của lẽ trời. Hành động của chúng bẩn
đến mức không thể o tha thứ nổi. Đứng trên lập trường nhân nghĩa thì đoạn văn
máu, là nước mắt, thể hiện sự căm phẫn với kẻ thù.
Đối lập với khung cảnh khốn khổ, tiêu điều cùng cực ấy thì giặc Minh lại hiện lên với
một hình ảnh hoàn toàn đối lập "Thằng miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no
chưa chán", quân giặc thì no phè phỡn, đúng cảnh kẻ thì ăn không hết người thì lần
chẳng ra. Phu phen tạp dịch cứ áp lên người nông dâncực, nào thì xây nhà, đắp đất
chẳng bao giờ hết việc, còn bọn chúng thì nghênh ngang ra sức đòn roi quất,
sai bảo chẳng thương tiếc. Sự độc ác, tàn bạo của giặc Minh được Nguyễn Trãi dùng
những cái cùng, vô tận của thiên nhiên so sánh, trúc Nam Sơn biết bao nhiêu
cây chẳng đếm được, ấy thế cũng không đủ để chép tội quân Minh, biển Đông Hải
bao la rộng lớn cũng nào đủ để rửa sạch mùi tàn ác, bẩn của chúng. Tội ác của
quân Minh nhiều không kể xiết nvậy, đến muôn ngàn đời đi nữa vẫn n lưu
trong sử sách chẳng phai mờ. Nguyễn Trãi đã phải thốt lên bằng một giọng đầy đau
đớn và căm phẫn: "Lẽ nào trời đất dung tha? Ai bảo thần dân chịu được?", ông tin vào
thiên mệnh, vào trời đất, tin rằng tất có người trừng trị được kẻ thủ ác, bởi trời đất vốn
mắt, rồi quân Minh sẽ chẳng thoát khỏi sự trừng phạt đích đáng cho những tội lỗi
chúng gây ra trên đất Đại Việt. Câu hỏi chính lời cảnh báo đầy bi thương
căm thù dành cho quân Minh để kết thúc phần hai của bài cáo.
Với một giọng văn đầy đau xót, bi thương tột cùng, Nguyễn Trãi vừa vạch trần âm
mưu xâm lược nước ta vừa phản ánh được sự tàn ác, man rợ của chúng đối với dân tộc
Đại Việt. Đồng thời ông cũng thể hiện được tưởng nhân nghĩa của mình khi trở
thành người đứng về phía nhân dân, lên án tội ác của giặc, có tình cảm xót thương sâu
sắc khi quyền sống của nhân dân bị chà đạp bị coi thường bởi quân thù. Phần hai ý
nghĩa như lời buộc tội đầy đanh thép của quan tòa dành cho kẻ phạm tội nguyên
nhân trực tiếp diễn ra cuộc khởi nghĩa Lam Sơn sau này.
Phân tích đoạn 2 Bình ngô Đại Cáo
“Bình Ngô đại cáo” c phẩm nổi tiếng của chính trị gia, nhà văn Nguyễn Trãi. Tác
giả soạn thảo bài cáo này vào mùa xuân năm 1428, nhằm thay lời Lợi tuyên cáo
việc giành chiến thắng giặc Minh. Bài cáo không chỉ khẳng định sự độc lập, chủ
quyền của Đại Việt còn bản án đanh thép, lên án tội ác không thể dung thứ của
bè lũ bán nước cướp nước. Cùng phân tích đoạn 2 Bình ngô đại cáo để thấy hơn
điều đó!
Ở đoạn đầu, tác giả tự hào, hãnh diện, bố cáo với đất trời, thiên hạ về lịch sử oai hùng
dựng nước giữ nước của nhân dân ta. Ông khẳng định chủ quyền văn hóa, lãnh thổ
của các triều đại Bắc Nam, mỗi i hùng cmột phương. Ông cho rằng người hào
kiệt nơi nào cũng có, thời nào cũng có. Cớ sao phải xâm chiếm, ớp bóc lẫn nhau?
Nhờ lối dẫn dắt đó sang đến đoạn hai, tác giả đã trình bày ngay do dẫn đến cuộc
binh đao giữa Đại Việt và nhà Minh:
“Vừa rồi:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thừa cơ gây loạn
Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh”
Phân tích đoạn 2 Bình ngô đại cáo mới thấy rõ, chỉ qua 5 câu thơ ngắn ngủi, nhưng tác
giả đã lột tả được toàn bộ bức tranh xã hội rối ren lúc bấy giờ. Đó là những người lãnh
đạo, đứng đầu đất ớc đang bị thôn tính, nhu nhược, tham lam, chia chia phái,
khiến lòng dân oán hận. Trong khi đó, bên ngoài giặc Minh m le dòm ngó bấy lâu
thừa cơ gây loạn. Chính sự nhiễu nhương kết hợp với bè lũ bán nước cướp nước đã
ép buộc Đại Việt vào thế phải binh đao. Nguyễn Trãi nhà chính trị nên một lập luận
ông nêu đều vô cùng sắc bén và hợp lý.
Đoạn thơ này cho thấy rõ, âm mưu xâm lược của giặc Minh bọn gian bán nước
cầu vinh.
do đó Đại Việt lâm nguy. bán nước, cướp nước ra sức hành hạ dân đen,
gây ra bao tội lỗi. Sau khi đánh chiếm được nước ta, giặc Minh đô hộ Đại Việt trong
suốt hai mươi năm với những chính sách vô cùng hà khắc, tàn bạo.
“…Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ…………………
Nặng nề những nỗi phu phen
Tan tác cả nghề canh cửi”.
Chứng kiến những cảnh xót xa của nhân dân, chính trị gia trái tim nhân ái Nguyễn
Trãi đã khẳng khái khẳng định tội ác của quân giặc là “Bại nhân nghĩa nát cả đất trời”.
Câu thơ như vừa thể hiện nỗi đau thấu tim gan của tác giả thương dân, vừa như lời
đay nghiến quân giặc. Những hành vi bạo tàn của chúng không phải do con người
gây ra nữa. Chúng dối trời, lừa dân. Chúng không chỉ vét của cải, sức người sức
của còn hủy hoại cmôi trường, tàn phá cả những con côn trùng cây cỏ. Hơn thế,
chúng thẳng tay tàn sát dân đen, những con người tội, thiện lương. Những con
người quanh năm gắn ruộng đồng, hiền từ, đức độ. Ấy vậy chúng cũng giày
xéo không tha. Với lối liệt ng loạt, liên tiếp những nh động bào tàn của giặc,
tác giả như đang tuôn trào bao cảm xúc giận giữ cảm thù. Xúc cảm ấy cũng xúc
cảm chung của toàn dân Đại Việt lúc bấy giờ. Chỉ muốn vùng lên để đấu tranh, chống
lại kẻ thù.
Phân tích đoạn 2 Bình ngô đại cáo, càng thấy sự khéo léo trong ch sử dụng biện
pháp nghệ thuật văn học của Nguyễn Trãi. Ông đã sử dụng phép nhân hóa đặc tả để
vạch mặt tội ác thâm độc của quân cướp nước. sống giữa thời ấy, lớn lên trong
cảnh bạo ngược ấy mới thấy quân giặc chẳng khác gì thú vật, coi mạng người như
cỏ rác.
Một lần phân tích đoạn 2 Bình ngô đại cáo một lần độc giả cảm thấy rùng rợn trước
cảnh tượng tang của người dân Đại Việt năm xưa. Tưởng như chỉ cảnh trong các bộ
phim cổ trang, nhưng hóa ra lại là sự thật hiển nhiên, lịch sử ghi chép.
“Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi!
Lòng người đều căm giận,
Trời đất chẳng dung tha”
Sự độc ác tày đình của quân xâm ợc không chỉ khiến dân chúng oán thán còn
khiến cả thiên nhiên phẫn nộ, đến đại dương cũng không rửa sạch mùi dơ bẩn, đến đất
trời cũng không thể dung tha. Với lối dùng vế đối cân xứng,”độc ác- bẩn”, “trúc
Nam Sơn- nước Đông Hải”, “lòng người- trời đất”… tác giả như càng nhấn mạnh
thêm sự sai trái của cuộc chiến tranh phi nghĩa. Ông mang cả những vật tri giác
nhiên nhiên vào để khẳng định việc trà đạp lên mạng sống của người khác tội
không thể tha. Ông ng chứng tỏ rằng, không riêng con người mỗi loài sinh ra
trong cõi đời đều có quyền được sống.
thể nói, khi phân tích đoạn 2 Bình ngô đại cáo, người đọc như đang xem một bộ
phim lịch sử thấm đẫm máu nước mắt. đó những đau thương mất mát của dân
tộc không thể đắp được. Nhưng độc giả cũng thể cảm nhận được sự
kiên ờng, bất khuất của nhân n Đại Việt. Với lời văn đanh thép, hùng hồn, tuôn
trào trong từng câu chữ, hình ảnh, chính trị gia Nguyễn Trãi một lần nữa lên án gắt
gao tội ác của quân giặc.
Phân tích đoạn 2 Đại cáo Bình Ngô
“Văn chương không phải một cách đem đến cho người đọc sự thoát li hay sự quên;
trái lại văn chương một thứ khí giới thanh cao đắc lực chúng ta có, để vừa tố
cáo thay đổi một cái thế giới giả dối tàn ác..”(Thạch Lam). Đúng vậy, văn
chương chính cánh tay đắc lực của mỗi thời kỳ lịch sử, để vạch trần bộ mặt hội
giả dối, lên án những thế lực bạo tàn, với tư cách ấy, áng thiên cổ ng văn “Bình ngô
đại cáo” đoạn thứ 2 đã bóc trần tội ác nhơ bẩn của quân xâm lượcđến hàng năm
sau không thể rửa hết tội.
Văn chính luận của Nguyễn Trãi đều là những lớp ngôn từ sắc sảo, lớp lang, theo trình
tự lập luận logic, ngay cả khi luận tội kẻ thù xâm lược, mạch lập luận vẫn rất đanh
thép, ràng. Trước hết, nhà thơ chỉ ra động thâm độc, bộ mặt giả nhân giả
nghĩa của quân địch:
“…Vừa rồi:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa
Bọn gian tà bán nước cầu vinh…”
Ngay từ những câu thơ mở đầu này, người đọc thấy ngay được âm mưu bất thành của
kẻ thù, đồng thời vạch trần được bộ mặt giả tạo, mưu sâu kế hiểm của quân địch.
Chúng sử dụng chiêu bài xâm lược “phù Trần diệt Hồ” với quân bài chủ chốt Trần
Thiêm Bình nhằm mua chuộc quý tộc nhà Trần về phe chúng để đô hộ nước ta Những
chính sách của chúng đều sặc mùi dối trá, phỉnh gạt:
“Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế
Gây binh kết oán trải hai mươi năm”
Nhờ ngòi bút sắc lạnh, đanh thép của Nguyễn Trãi ta nhận ra được bộ mặt bất
nhân bất nghĩa đằng sau kế hoạch thâm độc của chúng, đáng tiếc thay, công không
bao giờ đứng về những kẻ bất nhân, tội ác của chúng trời không dung đất không tha:
“Bại nhân nghĩa nát cả đất trời
Nặng thuế khóa sạch không đầm núi”
Nhưng đau đớn hơn, tội ác chúng gây ra cho dân tộc, những người dân đen con đỏ,
đầy thương xót. Dưới ngòi bút sắc sảo của thi hào Nguyễn Trãi, chưa bao giờ hình ảnh
nhân dân hiện lên lại chua xót, cay đắng và đầy căm phẫn đến như vậy:
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ…”
“Dân đen, con đỏ”, những người dân manh lệ, quanh năm lo làm ăn thiện ơng, một
lòng gắn với tấc đất, với nhà cửa ruộng ờn, đâu nên nỗi bị chúng giày xéo dưới
gót giày nhơ nhuốc của chúng. Hình ảnh nhân hóa, cũng như thủ pháp đặc tả ấn tượng
của Nguyễn Trãi đã một lần nữa vạch mặt chỉ tên tội ác dã man, tàn bạo của quân xâm
lược lúc bây giờ, cuồng quân, mang cuồng vọng hàm hồ coi mạng người như cỏ
rác, sẵn sàng chà đạp, giày xéo, ăn thịt, uống máu người không tanh. Tội ác của
chúng, nghìn năm sau, sử sách còn lưu lại, trời không dung đất không tha. Chưa dừng
lại ở đó, giặc Minh còn ra sức vơ vét của cải, sản vật quý hiếm của nước Nam để thỏa
mãn nhu cầu vật chất, thú ăn chơi nhung lụa xa xỉ, xa hoa, đồi trụy của chúng bằng
cách bức ép, bóc lột, đe dọa người Việt phải săn lùng sản vật để cống nộp bất chấp
mạng sống:
“…Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập, thuồng luồng
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc :
Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới chăng
Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi đặt cạm…”
Biện pháp liệt được đặc sử dụng trong trường hợp này, như muốn nhấn mạnh, như
muốn gắn thêm vào trang văn tội tác tanh máu, nhơ nhuốc của cuồng quân ngạo
mạn, không bằng cầm thú lúc bấy giờ. Lời văn tả ra, hệt như thấy được cái sục sôi,
căm phẫn, bức bách của người viết khi nghĩ đến nhân dân bị chà đạp, bị xâu dưới
gót giày dã man, tàn bạo của quân giặc.
Tội ác tày đình đầy m phẫn của chúng, không chỉ khiến dân chúng lầm than oán
than, khiến cả thiên nhiên cũng phẫn nộ, cũng muốn gào thét để đem cuồng
quân này diệt sạch, để thay trời hành đạo:
“Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội.”
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi…”
Hai câu thơ, với vế đối cân xứng, nhà thơ phần nào cho thấy được tội tác khó lòng
dung tha, đầy bất mãn, ác độc của quân xâm lược, đồng thời từ đó gợi lên một thời
lịch sử đầy đau thương của dân tộc, những người dân đen con đỏ lầm than, khốn khó
bị đưa vào vòng xoáy của những cuộc chiến tranh phi nghĩa.
Bằng lời văn đanh thép, hùng hồn thấm đẫm trong từng lời thơ, mạch chảy của đoạn
thơ, Nguyễn Trãi một lần nữa phơi bày sâu sắc, lột trần bản chất bất nhân bất nghĩa,
thú tính ác độc của quân xâm lược.
Cảm nhận đoạn 2 Bình Ngô Đại Cáo
Nguyễn Trãi, một vị anh hùng dân tộc lẫy lừng của đất nước Việt Nam với nhiều công
lao, sự cống hiến hết mình để bảo vệ Tổ quốc. Tình yêu nước giống như ngọn lửa luôn
rực cháy thổi bùng trong ông, lớn n trong thời nước mất nhà tan do đó đã
tôi luyện hình thành nên Nguyễn Trãi với một lòng nồng nàn yêu nước. Không chỉ
vậy, Nguyễn Trãi còn nổi tiếng bởi tài năng trong lĩnh vực văn học với những tác
phẩm nổi tiếng.
Hầu hết, các tác phẩm của ông đều nói về tình yêu nước u sắc, tưởng cao cả
đặc biệt vạch trần tội ác của kẻ thù. Điều đó được thể hiện đậm nét qua bài Bình N
đại cáo, điển hình đây đoạn 2 của c phẩm. Nguyễn Trãi đã tố cáo, lên án
những tội ác quân Minh xâm lược đã gây ra cho ta. Bình Ngô đại cáo được coi
một áng thiên cổ hùng văn nổi tiếng lẫy lừng về việc ghi chép tội ác của giặc Minh.
Tác phẩm được viết khi quân dân ta giành thắng lợi trong cuộc chiến với quân Minh,
điều đó cho thấy rằng tình yêu dành cho đất nước luôn đặt lên hàng đầu và sự căm thù
giặc được thể hiện rõ nét trong bản cáo trạng:
“Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa
Bọn gian tà bán nước cầu vinh”
Quân Minh khi xâm ợc nước ta đã nghĩ ra những mưu kế đê hèn, lợi dụng tình thế
việc nhà Hồ cướp ngôi nhà Trần để thừa thế xông lên xâm lược vào nước ta. Chính
tình thế loạn lạc nên quân Minh đã lợi dụng điều đó để thực hiện những âm mưu từ
lâu đã định trước. Không chỉ ngày một ngày hai, quân Minh đã thực hiện chính sách
khai phá nước ta trong gần hai mươi năm trời. Mục đích của chúng muốn xóa bỏ
những đất nước ta văn hóa, lịch sử nước nhà. Ngay cả những đứa trẻ
tuổi cắp sách đến trường mà chúng cũng không buông tha, điều đó cho thấy rằng quân
Minh vô cùng tàn độc và hung bạo.
Nhưng quân dân ta chưa bao giờ đầu hàng, những tháng ngày dài đằng đẵng, mệt
mỏi, gục ngã nhưng vẫn đứng lên để chống lại kẻ thù. Quân Minh muốn cai trị đất
nước ta, chúng muốn thay đổi chính sách muốn đất nước ta phải phục thù. Càng về
sau, sự tàn ác của quân Minh càng được thể hiện việc chúng bắt đầu bóc lột sức
người, thậm chí còn đánh đập, tàn phá luôn cả thiên nhiên.
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hùng tàn
Vùi con đỏ dưới hầm tai vạ”
Những người dân vô tội nhỏ bé thấp hèn luôn phải chịu sự áp bức bóc lột nặng nề của
quân giặc. Họ càng nhỏ bé, càng không chỗ đứng trong hội thì càng bị quân
Minh tấn công, áp bức. Tội ác quân giặc gây ra ngay cả đất trời cũng không thể
dung tha. Hai u thơ như khẳng định mạnh mẽ một lần nữa những tội ác quân
Minh gây ra và đây cũng chính là lời cáo trạng về tội lỗi của quân xâm lược.
Trúc Nam Sơn, ớc Đông Hải đã được Nguyễn Trãi nhắc đến trong đoạn trích để
nhấn mạnh tội ác của quân Minh:
“Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi”
Quân xâm lược chỉ nhìn thấy cái trước mắt không nghĩ về hậu quả sau này. “Trúc
Nam Sơn”, “nước Đông Hải” đã được Nguyễn Trãi nhắc đến để khẳng định tội ác của
quân Minh to lớn chẳng thể nào liệt ra hết được. Chúng không bao giờ biết yêu
thương tình yêu thương trọn vẹn, ngay cả con người chúng cũng thể hủy
hoại thì thiên nhiên xung quanh đã gì. Chúng tham lam, ích kỷ để rồi những gia
đình đã không còn trọn vẹn các thành viên.
Chúng khiến cho bao người phải khổ sở, đất nước phải sống trong sự loạn lạc ngày
qua ngày không phút nào được bình yên. Nguyễn Trãi đã sử dụng thủ pháp nghệ
thuật liệt ng nhiều hình ảnh, dẫn chứng sinh động để người đọc thấy được tội ác
tày trời của quân Minh đối với nước ta.
Hai câu kết của đoạn trích là một lời răn đe mạnh mẽ:
“Lẽ nào trời đất dung tha
Ai bảo thần nhân chịu được?
Tội ác của quân Minh gây ra cho đất nước ta đếm không xuể, chính chúng đã khiến ta
rơi vào cảnh nước mất nhà tan nên không bao giờ thể tha thứ. Với giọng văn đanh
thép, Nguyễn Trãi đã cho người đọc thấy được sự uất hận không chỉ của tác giả
còn của nhân dân ta ở thời kỳ đó dành cho quân Minh.
Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi đã mang đến một ý nghĩa sâu sắc về tình yêu nước
của dân tộc. trong hoàn cảnh khó khăn khốc liệt nhất, dân tộc ta đã không bao
giờ gục ngã, họ đã cùng nhau đoàn kết để chiến thắng kẻ thù, mang lại vẻ vang cho
nước nhà.
Phân tích đoạn 2 Bình Ngô Đại Cáo ngắn gọn
Bài làm mẫu 1
Nguyễn Trãi đã khắc mình vào vóc dáng của dân tộc. Định mệnh để khiến con người
ta sinh ly biệt tử, thời gian lại chẳng thể a nhòa những giá trị vĩnh hằng. Sự trường
tồn của tên tuổi Nguyễn Trãi cùng non sông nước Việt Nam minh chứng hùng hồn
cho điều đó. Nếu Nguyễn Trãi nhà văn chính luận kiệt xuất mọi thời đại thì Bình
Ngô đại cáo là áng văn bất hủ của ông trong lịch sử văn học Việt Nam.
“Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa
Bọn gian tà bán nước cầu vinh”
Lấy cớ nhà Hồ cướp ngôi của nhà Trần, nhà Minh huy động một lực lượng gồm hai
mươi vạn bộ binh vào xâm lược nước ta. Quân Minh chia m hai cánh theo đường
sông Hồng kéo xuống. Trong suốt hai mươi năm, chúng đô hnước ta bằng số
những chính sách, chiến lược khác nhau.
Nhưng với tinh thần đoàn kết, nh yêu đất nước thì chúng đã không xâm chiếm được
nước ta. Lịch sử đã ghi lại tội ác của giặc Minh và đại cáo Bình Ngô lại một lần nữa tố
cáo tội ác của chúng.
Nguyễn Trãi đã khẳng định tội ác đó “Bại nhân nghĩa nát cả đất trời” kể ra những
hành động man của chúng. Chúng vét hết mọi tài sản không những bao gồm
vật chất, sức người, sức của dân ta mà chúng còn hủy hoại cả môi trường sống, tàn hại
cả giống côn trùng cả cây cỏ. Hơn những thế, chúng còn tàn sát con người mà
không hề biết ghê tay:
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hùng tàn
Vùi con đỏ dưới hầm tai vạ”
Đây là một hình ảnh vừa cụ thể, vừa khái quát như một lời cáo trạng, lời buộc tội quân
giặc. Dân đen những kiếp người nhỏ tận cùng dưới đáy của hội. Họ nạn
nhân của tội ác quân giặc đã gieo rắc lên bờ cõi của dân tộc ta. Chắc hẳn hai câu
thơ được viết nên bởi máu và nước mắt của người anh hùng dân tộc.
Vơ vét sản vật, tiêu diệt con người, tội ác của giặc không có giấy bút nào tả xiết:
“Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi”
Tác giả đã chọn những cái cùng trúc Nam Sơn nước Đông Hải để nói đến tội
ác của loài quỷ dữ khát máu người, chỉ nhăm nhe cắn nhân dân ta đến tận xương
tủy. Hậu quả chúng để lại cùng tàn khốc: mẹ mất con, vợ mất chồng, con cái thì
nheo nhóc, muôn loài bị phá hủy, nhân dân khổ cực.
Để nêu lên rõ tội ác của bọn chúng, tác giả đã sử dụng phương pháp liệt chọn
lọc, sử dụng những câu văn giàu hình ảnh, hình ợng, giọng văn thay đổi linh hoạt,
phù hợp với cảm xúc. Lúc tỏ ra căm phẫn, lúc lại thể hiện sự đau đớn, xót xa cho nhân
dân ta. Hai câu cuối kết án vô cùng đanh thép:
“Lẽ nào trời đất dung tha
Ai bảo thần nhân chịu được?”
Tội ác của giặc Minh đã vượt quá giới hạn của lẽ trời. Hành động của chúng bẩn
đến mức không thể o tha thứ nổi. Đứng trên lập trường nhân nghĩa thì đoạn văn
máu, là nước mắt, thể hiện sự căm phẫn với kẻ thù.
Nói tóm lại, đoạn thơ này một bản cáo trạng đanh thép tố cáo tội ác của giặc Minh
trong hai mươi năm trên mảnh đất Việt.
Để đảm bảo tăng ờng tính thuyết phục lại vừa đạt được tính đọng, hàm súc của
ngôn từ văn chương. Nguyễn Trãi đã sử dụng đan xen kết hợp hài hòa giữa những
hình ảnh mang tính chất khái quát với những hình ảnh mang tính cụ thể, sinh động.
Như vậy, bằng tài tâm của mình. Nguyễn Trãi đã khiến cho người đọc thấy được
đây là một tác phẩm đáng tự hào và cần được người đời sau coi trọng, tôn vinh.
Bài làm mẫu 2
Được mệnh danh áng thiên cổ hùng văn của dân tộc, bản tuyên ngôn độc lập thứ
2 sau Nam quốc sơn hà, Bình Ngô đại cáo một tác phẩm xuất sắc đó ta thể
thấy được tinh thần dân tộc của Nguyễn Trãi, đó là tấm lòng yêu nước, thương dân tha
thiết, lòng căm thù quân giặc sâu sắc. Dựa trên việc khẳng định chân lý chủ quyền dân
tộc cùng với tưởng nhân nghĩa mới mẻ, "việc nhân nghĩa cốt yên dân", tác phẩm
đã mang đến cho người đọc những nhận thức chân thực về cuộc chiến chống quân
Minh xâm lược. Nguyễn Trãi chia bài cáo làm 4 phần với 4 nội dung chính, trong đó
một phần phản ánh sự tàn ác của giặc Minh những năm tháng đô hộ hộ nước ta
phần vai trò quan trọng trong bài cáo, cần u tâm để càng thấm thía hơn nỗi đau
mất nước những năm tháng đã qua.
Bọn giặc Minh cướp nước, ấp âm mưu m lược bấy lâu, nhưng lại còn ra vẻ sợ
người đời dị nghị thế nên mới nghĩ ra cái cớ "phù Trần diệt Hồ" để bịp bợm thiên hạ,
lừa lọc nhân n ta, từ đó cớ dẫn quân sang xâm lược. Quả thật bọn bất nhân, bất
nghĩa thì chẳng chuyện không vẽ ra được. Đã thế trong nước thì lòng dân oán
hận ngập trời, "Bọn gian bán nước cầu vinh", bán cả tự tôn dân tộc để tham chút lợi
nhỏ bé, mở đường cho giặc vào tàn sát người mình, ôi chẳng thứ người nào lại
nhẫn tâm đến vậy.
Từ ngày giặc Minh tràn vào, nhân dân ta chẳng có một ngày được sống yên ổn, chúng
ra sức tàn sát, âm u diệt chủng những kẻ kháng cự, không nghe lời bằng những
phương thức hết sức man, rùng rợn, tựa bọn quỷ sa tăng hút máu. Nào "Nướng
dân đen trên ngọn lửa hung tàn", "Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ". Đã thế còn liên
tiếp bịp bợm "Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế", gieo rắc thù oán hết gần 20 m
trời đằng đẵng. Kẻ chết đã chết, nhưng người sống chúng cũng phải tìm mọi cách
bóc lột hành hạ, biến nhân dân ta thành lệ, thành những công cụ biết nói, ép
nhân dân ta phải tự đi vơ vét tài nguyên của đất nước mà cung phụng cho chúng.
"Nặng thuế khóa sạch không đầm núi.
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc.
Vét sản vật, bắt dò chim trả, chốn chốn lưới chăng.
Nhiễu nhân dân, bắt bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt."
Nhưng những thứ quý hiếm ấy phải đâu dễ tìm, người xuống biển sâu chết không
thấy xác, kẻ lên rừng, vào núi thì hùm beo rình rập. Đã thế chúng còn bắt nhân dân ta
phải tìm cả những thứ cực quý như chim trả, hươu đen, phải giăng lưới, đặt bẫy có khi
chẳng bắt được còn đi nhầm cả vào bẫy thú vật. Ôi thật xót xa cho cảnh khốn khổ
tột cùng! Hậu quả để lại môi trường liên tiếp bị hủy hoại n phá, chim muông cây
cỏ cũng chẳng còn chỗ nương thân, phụ nữ bỗng trở thành kẻ góa bụa, gia đình đang
yên ổn canh cửi nay cũng thuận đà tan tác cả, còn đâu chốn làng quê yên bình, đẹp đẽ,
còn đâu tiếng người cười nói dẫn nhau ra đồng, mất hết rồi.
Đối lập với khung cảnh khốn khổ, tiêu điều cùng cực ấy thì giặc Minh lại hiện lên với
một hình ảnh hoàn toàn đối lập "Thằng miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no
chưa chán", quân giặc thì no phè phỡn, đúng cảnh kẻ thì ăn không hết người thì lần
chẳng ra. Phu phen tạp dịch cứ áp lên người nông dâncực, nào thì xây nhà, đắp đất
chẳng bao giờ hết việc, còn bọn chúng thì nghênh ngang ra sức đòn roi quất,
sai bảo chẳng thương tiếc. Sự độc ác, tàn bạo của giặc Minh được Nguyễn Trãi dùng
những cái cùng, vô tận của thiên nhiên so sánh, trúc Nam Sơn biết bao nhiêu
cây chẳng đếm được, ấy thế cũng không đủ để chép tội quân Minh, biển Đông Hải
bao la rộng lớn cũng nào đủ để rửa sạch mùi tàn ác, bẩn của chúng. Tội ác của
quân Minh nhiều không kể xiết nvậy, đến muôn ngàn đời đi nữa vẫn n lưu
trong sử sách chẳng phai mờ. Nguyễn Trãi đã phải thốt lên bằng một giọng đầy đau
đớn và căm phẫn: "Lẽ nào trời đất dung tha? Ai bảo thần dân chịu được?", ông tin vào
thiên mệnh, vào trời đất, tin rằng tất có người trừng trị được kẻ thủ ác, bởi trời đất vốn
mắt, rồi quân Minh sẽ chẳng thoát khỏi sự trừng phạt đích đáng cho những tội lỗi
chúng gây ra trên đất Đại Việt. Câu hỏi chính lời cảnh báo đầy bi thương
căm thù dành cho quân Minh để kết thúc phần hai của bài cáo.
Với một giọng văn đầy đau xót, bi thương tột cùng, Nguyễn Trãi vừa vạch trần âm
mưu xâm lược nước ta vừa phản ánh được sự tàn ác, man rợ của chúng đối với dân tộc
Đại Việt. Đồng thời ông cũng thể hiện được tưởng nhân nghĩa của mình khi trở
thành người đứng về phía nhân dân, lên án tội ác của giặc, có tình cảm xót thương sâu
sắc khi quyền sống của nhân dân bị chà đạp bị coi thường bởi quân thù. Phần hai ý
nghĩa như lời buộc tội đầy đanh thép của quan tòa dành cho kẻ phạm tội nguyên
nhân trực tiếp diễn ra cuộc khởi nghĩa Lam Sơn sau này.
Bài làm mẫu 3
Nguyễn Trãi một trong ba danh nhân văn hóa của dân tộc được UNESCO công
nhận, đồng thời nhà quân sự lỗi lạc, nhà tưởng chính trị kiệt xuất của Việt Nam.
Ông sinh ra và lớn lên trong bối cảnh đất ớc rối ren, loạn lạc nhà Trần suy yếu,
nhà Hồ nhiễu nhương, lại phái quân cuồng Minh xâm lược, hoàn cảnh ấy càng thổi
bùng lên tinh thần yêu nước vốn đã thấm nhuần trong tưởng truyền thống xuất phát
từ dòng tộc. Sự cống hiến của Nguyễn Trãi lớn lao không tả, chẳng những mưu
với thần diệu toán của khởi nghĩa Lam Sơn, ngòi bút của ông ng góp phần quan
trọng vào sự nghiệp đánh đuổi giặc ngoại m, đem lại thái bình cho nước nhà, điển
hình hai tác phẩm “Quân trung từ mệnh tập” “Đại cáo bình Ngô”. Đặc biệt, tác
phẩm “Đại cáo bình Ngô” được xem như “bản tuyên ngôn độc lập thứ hai” của dân
tộc giá trị cả về mặt chính trị, lịch sử lẫn văn học. Không những áng thiên cổ
hùng văn về tưởng tự chủ tự cường của dân tộc còn bản cáo trạng luận tội
giặc Minh xâm lược, chỉ rõ sự độc ác nhơ bẩn của chúng:
“…Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi…”
Đoạn hai của tác phẩm với những luận sắc sảo, đanh thép, chứng cứ xác thực, đã
vạch mặt lũ ngoại xâm với mưu mô, thủ đoạn dơ bẩn và sự tàn bạo, độc ác của chúng.
Bằng biện pháp phóng đại, Nguyễn Trãi đã chỉ những điều bại hoại nhân nghĩa,
luân giặc Minh đã làm với dân tộc ta qua hình ợng “Độc ác thay, trúc Nam
Sơn không ghi hết tội” “Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi”. Thực
vậy, tội ác chúng gây ra nhiều không kể xiết đến nỗi ghi tạc chúng lên thân trúc Nam
Sơn cũng chẳng hết, hình tượng này cho thấy sự căm phẫn lên đến tột độ của nhân dân
đối với sự bạo ngược của quân xâm lược. Chẳng những quá đỗi tàn bạo, giặc Minh
còn thi hành những chính sách hết sức nhơ bẩn, đê hèn quỷ quyệt nhằm bẻ gãy ý
chí dân tộc, tinh thần chiến đấu âm mưu biến nước ta thành quận huyện, đồng hóa
dân tộc ta thành người Hán vĩnh viễn xóa sổ người Việt khỏi cõi trời đất. Chính
lẽ ấy tác giả Nguyễn Trãi đã dành hẳn một phần lớn trong c phẩm để đưa ra
những lí lẽ, dẫn chứng hùng hồn nhằm luận tội lũ giặc tàn bạo và xảo quyệt.
Chính sử Việt Nam chép rất về những chính sách cai trị cùng thâm độc trong
ngót hai mươi năm đô hộ nước ta, song phần nhiều đều biên soạn dựa theo những bản
ghi chép của Nguyễn Trãi, đặc biệt “Đại cáo bình Ngô”, ấy cũng bởi u họ
Nguyễn là người trực tiếp sống và chiến đấu trong giai đoạn nước ta bị giặc Minh xâm
lược. Từ đó thể thấy, những luận cứ trong bài đại cáo hết sức xác thực giàu tính
chiến đấu. Qua tác phẩm, tác giả đã tố o tội ác man của lũ xâm lược bán
nước:
“…Vừa rồi:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa
Bọn gian tà bán nước cầu vinh…”
Từ đây, từng câu từng chữ trong tác phẩm đều như một nét mực châm phá nên bức
tranh về bối cảnh loạn lạc của đất nước, sự xảo trá, “mượn gió bmăng” nham
hiểm của giặc Minh. Chúng sử dụng chiêu bài xâm lược “phù Trần diệt Hồ” với quân
bài chủ chốt Trần Thiêm Bình nhằm mua chuộc quý tộc nhà Trần về phe chúng để đô
hộ nước ta Những chính sách của chúng đều sặc mùi dối trá, phỉnh gạt:
“…Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế
Gây binh kết oán trải hai mươi năm…”
Chính từ đó, người đọc thấy sự nhơ nhuốc, bại hoại nhân nghĩa xảo quyệt không
lường của bọn xâm lược:
“…Bại nhân nghĩa nát cả đất trời
Nặng thuế khóa sạch không đầm núi…”
Chung quy lại, mục đích duy nhất giặc Minh hướng đến khi gót giày chúng dẫm
lên lãnh thổ Đại Việt đô hộ cai trị, âm mưu xóa sổ thôn tính nước ta, lẽ đó
nên những điều ngụy biện của chúng chẳng thdối gạt nhân dân Việt Nam, tội ác,
thủ đoạn của chúng thật là “Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi”
Sau khi chỉ âm mưu sự bẩn thỉu trong kế sách xâm lược của quân Minh, tác giả
bắt đầu chuyển mạch ngôn từ và liệt kê hàng loạt tội ác của chúng:
“…Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ…”
Không từ thủ đoạn, quân xâm lược tàn sát người tội chẳng những nhằm thỏa mãn
thú tính và bản chất hung tàn của chúng mà còn âm mưu diệt chủng dân nước Nam, ép
những người không phục tùng chúng phải đi vào chỗ chết. Chẳng những vậy, đối với
những cuộc đấu tranh chống lại sự tàn độc của xâm lược, chúng chẳng ngại ngần
dìm những cuộc khởi nghĩa vào bể máu, gây cảnh binh đạo. CHưa hết, giặc Minh còn
ra sức vét của cải, sản vật quý hiếm của nước Nam để thỏa mãn nhu cầu vật chất,
thú vui xa hoa lối của chúng bằng cách bóc lột, bức ép người Việt phải săn lùng
sản vật để cống nộp bất chấp mạng sống:
“…Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập, thuồng luồng
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc
Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới chăng
Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi đặt cạm…”
Bằng biện pháp liệt , tác giả đã tài tình khắc họa về thảm cảnh tang tóc do chính
sách cai trị tàn bạo luân của giặc Minh gây nên. Không dừng lại đó, quân
xâm lược còn thi hành hàng loạt biện pháp man rợ khác nhằm bóc lột sức lao động,
vắt kiệt sinh khí của nước ta, đồng thời tàn phá kế sinh nhai của nhân dân:
“…Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ
Nheo nhóc thay kẻ góa bụa khốn cùng…”
Rồi thì:
“…Nay xây nhà, mai đắp đất, tay chân nào phục dịch cho vừa
Nặng nề những nỗi phu phen
Tan tác cả nghề canh cửi…”
Tất cả những tội ác của chúng đều được vạch rõ và chứng minh bằng những chứng cứ
xác đáng, không thể chối cãi, rồi dồn lại vào hình tượng đối lập giữa giặc mọi rợ
hùng bạn với người dân nhỏ bị chúng hành hạ, vắt kiệt sức lực, mồ hôi, máu và
nước mắt:
“…Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bất no nê chưa thỏa…”
Bại hoại nhân nghĩa, trời bất dung, đất bất thnhững thứ dùng để diễn tả về những
tội ác đẫm máu của quân Minh trên đất Đại Việt. Tất cả đều được ngòi bút sắc hơn
ngọn giáo của Nguyễn Trãi ghi tạc vào sử ch bằng giọng điệu uất hận nghẹn ngào
kết hợp với biện pháp phóng đại, hình ảnh vĩ, tận, tội ác chồng chất bị phơi bày
trong bản cáo trạng đẫm máu nước mắt. đây, bản tuyên ngôn độc lập còn giá
trị như một bản tuyên ngôn nhân quyền, vạch rõ sự bại hoại nhân nghĩa của quân thù:
“…Lẽ nào trời đất dung tha
Ai bảo thân nhân chịu được…”
Tội ác thần bất dung, nhân bất thứ thì quả thật “Độc ác thay, trúc Nam Sơn
không ghi hết tội.”
Qua những phân tích nêu trên, hậu thế thể thấy thảm cảnh chiến tranh tang thương
đến nhường nào, từ đó ra sức đấu tranh một cuộc sống độc lập tự do cố gắng gìn
giữ nền hòa bình dân tộc, chủ quyền ơng vực lãnh thổ. Đồng thời, phải ra sức phấn
đấu rèn luyện nhằm cống hiến xây dựng quốc gia giàu đẹp, ấy vậy mới xứng đáng
với non sông mà ông cha phải đánh đổi cả máu xương mới gìn giữa được.
Tóm lại, qua đoạn hai của “Đại cáo bình Ngô”, thể thấy sự tàn bạo, thâm hiểm,
độc ác của giặc xâm lược, tất cả được khắc họa chi tiết nhờ nghệ thuật chính luận tài
tình của Nguyễn Trãi. Qua đó, hậu thế thấy được giá trị của việc bảo vệ và gìn giữ non
sông gấm vóc Việt Nam.
Phân tích Bình Ngô Đại Cáo đoạn 2 đầy đủ
Bài làm mẫu 1
Lấp lánh rọi sáng như một ngôi sao Khuê trong tâm hồn, trong trái tim ưu thời ái
quốc” - thâm thúy, sắc bén đầy biến hóa trong tài mưu ợc chính trị; nhẹ nhàng
thanh tao, thi vị trong những vần thơ viết về thiên nhiên, Nguyễn Trãi đã tạc mình vào
vóc dáng dân tộc. Định mệnh thể khiến con người ta sinh ly tử biệt song, thời gian
lại chẳng thể xóa nhòa những giá trị vĩnh hằng. Sự trường tồn của tên tuổi Nguyễn
Trãi cùng non sông nước Việt minh chứng hùng hồn cho điều đó. Nếu Nguyễn Trãi
nhà văn chính luận kiệt xuất mọi thời đại tBình NĐại Cáo áng văn bất hủ
của ông trong lịch sử văn học dân tộc Việt Nam. Tác phẩm gồm 4 phần: phần 1 nêu
luận đề chính nghĩa, phần 2 vạch tội ác của kẻ thù, phần 3 kể lại quá trình chinh
phạt gian khổ tất thắng của cuộc khởi nghĩa, phần 4 tuyên bố kết quả, khẳng định
sự nghiệp chính nghĩa. Bài viết sau đây sẽ chỉ làm tội ác của giặc Minh qua phần 2
của tác phẩm.
Sau hơn 10 năm kháng chiến gian khổ quyết liệt, tháng 1 năm 1428 nhân dân ta
dưới ngọn cờ của Lợi, đã đánh đuổi giặc Minh ra khỏi đất nước. Sau chiến thắng,
Lê Lợi tổ chức phong thưởng cho tướng lĩnh và chính thức lên ngôi hoàng đế, Nguyễn
Trãi thay mặt nhà vua viết Bình Ngô Đại Cáo để tuyên bố cho toàn dân biết công cuộc
cứu nước đã thắng lợi. Từ đây, dân tộc sẽ ớc vào một kỷ nguyên mới- kỷ nguyên
hòa bình.
Đại Cáo Bình Ngô tác phẩm của Nguyễn Trãi, tác phẩm y một bản tuyên cáo
rộng rãi việc đã dẹp yên giặc Ngô. Người xưa gọi thế lực phong kiến phương Bắc
giặc Ngô, giặc Ngô mà Nguyễn Trãi đề cập đến chính là giặc Minh.
Đoạn thơ thứ 2 chính bản cáo trạng đanh thép, vạch trần tội ác của quân xâm lược
nhà Minh. Thừa lợi dụng việc nhà Hồ chính sự đổ nát, giặc Minh kéo quân vào
nước ta, hòng chiếm đoạt đã được Nguyễn Trãi vạch rõ:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà,
Để trong nước lòng dân oán hận.
Quân cuồng Minh đã thừa cơ gây họa,
Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh.
Vào năm 1406, giặc Minh lấy cviệc nhà Hồ cướp ngôi của nhà Trần huy động
20 vạn bộ binh thủy binh, cùng với hàng chục dân phu vận chuyển dưới quyền chỉ
huy của năm tướng Chu Năng, Trương Phụ, Mộc Thạnh, Bân, Trần Húc. Chúng
chia làm hai cánh kéo vào xâm lược nước Đại Việt ta, cánh thứ nhất dưới sự chỉ huy
của Trương Phụ đi theo đường Bằng ờng, Quảng y tiến o Lạng Sơn; cánh
thứ 2 do Mộc Thạnh chỉ huy đi theo sông Hồng kéo xuống. Chưa dừng lại đó, quân
Minh còn sai người mang sắc đến dụ vua Chămpa nhằm phối hợp để đánh quân ta
biên giới phía Nam.
Từ năm 1407 đến 1427, 20 năm nhà Minh đô hộ nước ta 20 năm chúng thực hiện
các chính sách biện pháp từ tinh vi đến trắng trợn nhằm xóa bỏ qkhứ đấu tranh,
dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, chúng còn thủ tiêu những di sản văn hóa truyền
thống của nước ta, chúng muốn chiếm đóng vĩnh viễn đất nước ta. Chúng còn đốt sách
vở, ngay cả sách học của trẻ em bia đá chúng cũng phá hủy. đây ta thấy một lần
nữa tội ác tày trời của giặc Minh đối với nhân dân Đại Việt bấy giờ.
Tội ác giặc Minh gây ra cho Đại Việt ta, tác giả khẳng định đó "Bại nhân nghĩa
nát cả đất trời". Sự tương đồng giữa âm mưu xâm lược và chính sách cai trị của chúng
thể hiện rất rõ, điểm chung đều rất gian xảo thâm độc. Chúng không còn chỉ
vét mọi sản vật, sức người nữa chúng đã tàn hại môi trường sống, tàn sát con
người mà không biết ghê tay.
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
Đọc hai câu thơ trên ta thấy được hình ảnh cụ thể nhưng cũng khái quát về lời cáo
trạng, buộc tội quân giặc. Dân đen những kiếp người nhỏ, đó những người
tận cùng của hội, họ nạn nhân trực tiếp của tội ác giặc Minh reo rắc trên bờ
cõi đất nước ta. Đến đây ta mới thấy được tấm lòng rộng mở, một tưởng nhân đạo
sâu sắc của Nguyễn Trãi, ông viết nên những câu văn mang đầy giá trị nhân đạo giữa
con người với những con người với nhau.
Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.
Chọn cái cùng trúc Nam Sơn, nước Đông Hải để nói về tội ác của loài quỷ dữ là
thằng há miệng, đứa nhe răng. Chúng và thú dữ chính là một, đều là loài động vật khát
máu người, không quan tâm đến con người ta đau khổ như thế nào chỉ mãi nhăm
nhe cắn xé. Hậu quả chúng tạo ra thật tàn khốc, gia đình không tan nát thì cũng
mất chồng, mất vợ, con cái nheo nhóc, muôn loài bị phá hủy, sản xuất trì trệ, nhân dân
khổ cực.
Khi đó nhân dân ta đã dũng mãnh, đứng lên dưới ngọn cờ của Lê Lợi mà tống cổ giặc
Minh ra khỏi đất nước.
Để thể nêu hơn tội ác xâm lược của giặc Minh, tác giả đã sử dụng phương pháp
liệt chọn lọc, ông sử dụng những câu thơ giàu hình tượng, linh hoạt trong cách
sử dụng giọng văn. Lúc căm phẫn, tức giận với giặc cướp nước; lúc thì đau xót,
thương cảm cho nhân dân Đại Việt ta.
Hai câu thơ cuối là lời kết án vô cùng đanh thép :
Lẽ nào trời đất dung tha,
Ai bảo thần dân chịu được?
Ý của tác giả ở đây là tội ác của giặc Minh đã vượt qua giới hạn của lẽ trời, hành động
tàn ác đầy nhơ bẩn của chúng đến cả thần và người đều không có cách nào tha thứ.
Đây là một bản cáo trạng đanh thép tội ác khủng khiếp của giặc Minh trong 20 năm đô
hộ ớc ta. Để tăng thêm tính thuyết phục cho toàn đoạn tác giả đã đan xen sử dụng
hài hòa giữa hai hình ảnh mang tính chất khái quát hình ảnh tính cụ thể, sinh
động.
Bằng cái tài cái m của mình, Nguyễn Trãi đã làm cho nh Ngô Đại Cáo xứng
đáng là áng văn thiên cổ hùng văn của dân tộc thời đó, thậm chí là bây giờ.
Bài làm mẫu 2
Nếu như dân tộc ta biết đến Nam quốc sơn như một bản tuyên ngôn thứ nhất thì
Bình nđại cáo của Nguyễn Trãi áng thiên cổ hùng văn bản tuyên ngôn đất
nước thứ hai. Nguyễn Trãi bằng tài năng văn chương chính trị của mình đã viết lên
bố cáo cho toàn thiên hạ được biết về trận chiến với giặc Minh. Đặc biệt phần một
phần hai của bài cáo khẳng định chủ quyền dân tộc vạch âm mưu xâm chiếm
nước ta của giặc Minh.
Trước hết Nguyễn Trãi nêu cao tưởng nhân nghĩa và khẳng định chủ quyền độc lập
dân tộc của nước ta. Việc nhân nghĩa theo Nguyễn Trãi là:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”
tưởng nhân nghĩa được Nguyễn Trãi tiếp thu của nho giáo để đúc kết lên thành
khái niệm. Theo nhà văn, nhân nghĩa dân được yên ổn, sống một cuộc sống yên
bình, ấm no. để cho dân được sống một cuộc yên ổn thì phải lo trừ bạo, cụ thể
dẹp thù trong giặc ngoài.
Sau khi nêu cao tưởng nhân nghĩa, Nguyễn Trãi bắt đầu khẳng định chủ quyền của
dân tộc ta:
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Đã xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục bắc nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau
Nhưng hào kiệt đời nào cũng có”
Nước Đại Việt một nước được xây dựng từ bao đời, một nền văn hiến lâu đời.
Từ thuở trước biên giới bờ cõi đã được phân chia ràng. Phong tục hai bên cũng
khác nhau. Tác giả đặt ngang hàng các thời đại của ta với các thời đại tương ứng của
Trung Quốc để khẳng định chủ quyền dân tộc. thể thấy Nguyễn Trãi khẳng định
chủ quyền đất nước ta trên tất ccác lĩnh vực: văn hóa, biên giới, thời đại. Biện pháp
nghệ thuật so sánh, đối kết hợp với câu văn biền ngẫu đã thể hiện rõ quan điểm của tác
giả. mạnh yếu khác nhau từng song hào kiệt đời nào cũng có. Để chứng minh cho
câu nói “hào kiệt đời nào cũng có” khẳng định chủ quyền bờ cõi, Nguyễn Trãi đã
nêu lên hàng loạt các dẫn chứng lịch sử về những trận bại lớn của giặc:
“Cho nên
Lưu Cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét, chứng cớ còn ghi”
Lưu Cung, Triệu Tiết, Toa Đô, Ô Mã đều là những cái tên quan trọng của giặc. Chúng
những tên cầm đầu cả một đoàn quân với số ợng lớn nhằm xâm chiếm nước ta.
Thế nhưng chiến tranh phi nghĩa thì không bao giờ kết quả tốt. Đặc biết chúng
những tham công, thích lớn nên càng dễ bị thất bại tiêu diệt. m Tử, Bạch Đằng
những địa danh của ta, đó không chỉ nơi diễn ra trận chiến với giặc còn nấm
mồ chôn xác chúng.
Sau khi khẳng định chquyền dân tộc trên các lĩnh vực triều đại, văn hóa, biên giới,
lịch sử, Nguyễn Trãi trình bày cho toàn dân thiên hạ biết về âm u xâm chiếm nước
ta một lần nữa của bọn giặc Minh:
“Vừa rồi:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa
Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh”
Nhà văn chỉ nguyên nhân do chính sự nhà Hồ gặp rắc rối cho nên giặc Minh mượn
cớ phù Trần diệt Hđhòng xâm chiếm nước Đại Việt. Không chỉ quân giặc ngoại
xâm mưu xảo trá bọn nội phản trong nước cũng ngóc đầu dậy bán nước cầu
vinh. Chúng nghe theo lời của giặc ngoại xâm, chấp nhận làm tay sai cho chúng.
Tội ác của chúng gây ra cho nhân dân Đại Việt không hề nhỏ, chúng tán tận lương
tâm đẩy con dân ta vào những tình cảnh khổ tận cam lại, khốn nạn thay chúng vét sạch
cả núi sông và cả sức người Đại Việt:
"Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế
Gây thù kết oán trải mấy mươi năm
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời.
Nặng thuế khóa sạch không đầm núi.
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc.
Vét sản vật, bắt dò chim sả, chốn chốn lưới chăng.
Nhiễu nhân dân, bắt bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ
Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng”
Chúng “nướng dân đen” rồi vùi “con đỏ” xuống hầm để khai thác tài nguyên thiên
nhiên cho chúng. Chúng lừa dối trời lừa dối dân bằng muôn ngàn kế sách nhằm vơ vét
tài nguyên nước ta. Tội ác của chúng bại cả nhân nghĩa, tan nát cả đất trời, lòng dân
oán hận biết bao nhiêu năm nhưng không thể làm gì được chúng. Chúng không chỉ vơ
vét tài nguyên còn đặt ra hàng trăm thứ thuế đẩy người nông dân đến hoàn cảnh
khốn cùng. Người thì bị chúng ép xuống biển ngọc nơi đó mập vây quanh,
con dân thể bị xác bất cứ lúc nào. Kẻ thì bị lên núi đãi cát m vàng rừng
thiêng nước độc. Hiện trạng đất nước được phô ra trước mắt với những hình ảnh đau
thương, khắp nơi khắp chốn cạm bẫy, lưới giăng đến cây cỏ còn bị sát hại huống chi
đến con người. Từ những sản vật cho đến động vật, thực vật đều không sống nổi với
sự tàn ác của giặc Minh. Khốn thay cho những người phụ nữ góa chồng.
Đối lập với nỗi khốn khổ của nhân dân Đại Việt, giặc Minh giống như một quỷ
răng nanh máu me kinh khủng:
“Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán,
Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa?
Nặng nề những nỗi phu phen
Tan tác cả nghề canh cửi.
Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi !
Lẽ nào trời đất dung tha? Ai bảo thần dân chịu được?”
Chúng hiện lên như những con quỷ béo mỡ, đáng sợ. Với cái miệng rộng và hàm răng
quỷ dữ ấy chúng bắt nhân dân ta nay xây nhà mai đắp đất. Rồi ai phục dịch chúng cho
vừa, nặng nề và tan tác cả nghề canh cửi. Tác giả sử dụng biện pháp nghệ thuật đảo
cấu trúc câu “độc ác thay…” “Dơ bẩn thay…” nhằm nhấn mạnh vào sự khinh bỉ
căm phẫn tội ác của giặc Minh. Tội ác của chúng dẫu có bao nhiêu trúc Nam Sơn cũng
không ghi hết tội, nước Đông Hải nhiều cũng không rửa sạch mùi. Tội ác tày trời
đất chẳng lẽ nào dung tha cho chúng, lòng dân sẽ nổi dậy.
Như vậy, phần một phần hai của bài cáo đã khẳng định chủ quyền của nhân dân
Đại Việt. Đồng thời vạch âm mưu xâm chiếm của giặc Minh. Tội ác của chúng
được phơi bày ra cho toàn dân thiên hạ được biết. Tội ác của chúng không thể nào
dung tha. Bài cáo sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật như đối lập, miêu tả, so sánh kết
hợp với lối văn biền ngầu tự do đã thể hiện rõ được nội dung tác giả muốn trình
bày.
Bài làm mẫu 3
“Văn chương không phải một cách đem đến cho người đọc sự thoát li hay sự quên;
trái lại văn chương một thứ khí giới thanh cao đắc lực chúng ta có, để vừa tố
cáo thay đổi một cái thế giới giả dối tàn ác..”(Thạch Lam). Đúng vậy, văn
chương chính cánh tay đắc lực của mỗi thời kỳ lịch sử, để vạch trần bộ mặt hội
giả dối, lên án những thế lực bạo tàn, với tư cách ấy, áng thiên cổ ng văn “Bình ngô
đại cáo” đoạn thứ 2 đã bóc trần tội ác nhơ bẩn của quân xâm lượcđến hàng năm
sau không thể rửa hết tội.
Văn chính luận của Nguyễn Trãi đều là những lớp ngôn từ sắc sảo, lớp lang, theo trình
tự lập luận logic, ngay cả khi luận tội kẻ thù xâm lược, mạch lập luận vẫn rất đanh
thép, ràng. Trước hết, nhà thơ chỉ ra động thâm độc, bộ mặt giả nhân giả
nghĩa của quân địch:
“…Vừa rồi:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa
Bọn gian tà bán nước cầu vinh…”
Ngay từ những câu thơ mở đầu này, người đọc thấy ngay được âm mưu bất thành của
kẻ thù, đồng thời vạch trần được bộ mặt giả tạo, mưu sâu kế hiểm của quân địch.
Chúng sử dụng chiêu bài xâm lược “phù Trần diệt Hồ” với quân bài chủ chốt Trần
Thiêm Bình nhằm mua chuộc quý tộc nhà Trần về phe chúng để đô hộ nước ta Những
chính sách của chúng đều sặc mùi dối trá, phỉnh gạt:
“Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế
Gây binh kết oán trải hai mươi năm”
Nhờ ngòi bút sắc lạnh, đanh thép của Nguyễn Trãi ta nhận ra được bộ mặt bất
nhân bất nghĩa đằng sau kế hoạch thâm độc của chúng, đáng tiếc thay, công không
bao giờ đứng về những kẻ bất nhân, tội ác của chúng trời không dung đất không tha:
“Bại nhân nghĩa nát cả đất trời
Nặng thuế khóa sạch không đầm núi”
Nhưng đau đớn hơn, tội ác chúng gây ra cho dân tộc, những người dân đen con đỏ,
đầy thương xót. Dưới ngòi bút sắc sảo của thi hào Nguyễn Trãi, chưa bao giờ hình ảnh
nhân dân hiện lên lại chua xót, cay đắng và đầy căm phẫn đến như vậy:
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ…”
“Dân đen, con đỏ”, những người dân manh lệ, quanh năm lo làm ăn thiện ơng, một
lòng gắn với tấc đất, với nhà cửa ruộng ờn, đâu nên nỗi bị chúng giày xéo dưới
gót giày nhơ nhuốc của chúng. Hình ảnh nhân hóa, cũng như thủ pháp đặc tả ấn tượng
của Nguyễn Trãi đã một lần nữa vạch mặt chỉ tên tội ác dã man, tàn bạo của quân xâm
lược lúc bây giờ, cuồng quân, mang cuồng vọng hàm hồ coi mạng người như cỏ
rác, sẵn sàng chà đạp, giày xéo, ăn thịt, uống máu người không tanh. Tội ác của
chúng, nghìn năm sau, sử sách còn lưu lại, trời không dung đất không tha. Chưa dừng
lại ở đó, giặc Minh còn ra sức vơ vét của cải, sản vật quý hiếm của nước Nam để thỏa
mãn nhu cầu vật chất, thú ăn chơi nhung lụa xa xỉ, xa hoa, đồi trụy của chúng bằng
cách bức ép, bóc lột, đe dọa người Việt phải săn lùng sản vật để cống nộp bất chấp
mạng sống:
“…Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập, thuồng luồng
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc:
Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới chăng
Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi đặt cạm…”
Biện pháp liệt được đặc sử dụng trong trường hợp này, như muốn nhấn mạnh, như
muốn gắn thêm vào trang văn tội tác tanh máu, nhơ nhuốc của cuồng quân ngạo
mạn, không bằng cầm thú lúc bấy giờ. Lời văn tả ra, hệt như thấy được cái sục sôi,
căm phẫn, bức bách của người viết khi nghĩ đến nhân dân bị chà đạp, bị xâu dưới
gót giày dã man, tàn bạo của quân giặc.
Tội ác tày đình đầy m phẫn của chúng, không chỉ khiến dân chúng lầm than oán
than, khiến cả thiên nhiên cũng phẫn nộ, cũng muốn gào thét để đem cuồng
quân này diệt sạch, để thay trời hành đạo:
“Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội.”
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi…”
Hai câu thơ, với vế đối cân xứng, nhà thơ phần nào cho thấy được tội tác khó lòng
dung tha, đầy bất mãn, ác độc của quân xâm lược, đồng thời từ đó gợi lên một thời kỳ
lịch sử đầy đau thương của dân tộc, những người dân đen con đỏ lầm than, khốn khó
bị đưa vào vòng xoáy của những cuộc chiến tranh phi nghĩa.
Bằng lời văn đanh thép, hùng hồn thấm đẫm trong từng lời thơ, mạch chảy của đoạn
thơ, Nguyễn Trãi một lần nữa phơi bày sâu sắc, lột trần bản chất bất nhân bất nghĩa,
thú tính ác độc của quân xâm lược.
Bài làm mẫu 4
Nếu như đoạn 1 đề cao sự nhân nghĩa và khẳng định chủ quyền dân tộc thì đoạn 2 của
tác phẩm Bình ngô đại cáo chủ yếu tố cáo những tội ác của giặc Minh trong thời gian
chúng đô hộ nước ta.
Tác giả đề cập đến thời gian nhà Hồ suy yếu, giặc Minh lợi dụng danh nghĩa “phù
Trần diệt Hồ” gây chia rẽ trong nước, gây bạo loạn và mục đích cướp đất nước ta.
“Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh đã thừa cơ gây hoạ
Bọn gian ta còn bán nước cầu vinh”
Giặc ngoại xâm thật thâm độc, chính sách cai trị tàn bạo, nhân tính chẳng khác nào
hành động diệt chủng như giết hại nhân dân “Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn-
Vùi con đỏ xuống hầm tai vạ”, ra sức thu thuế khóa mục đích chiếm càng nhiều tài sản
càng tốt, sử dụng con người khai thác tài nguyên đến nguy hiểm tính mạng “ép xuống
biển ngọc” đối mặt với mối nguy từ các mập, thuồng luồng, “vào núi đãi cát
tìm vàng” nơi chốn rừng thiêng nước độc và rất nhiều người đã bỏ mạng.
Không chỉ với con người chúng còn “Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ” phá hoại
môi trường nặng nề.
Tất cả đều khiến rất nhiều gia đình ly tán chia lìa, hội tan thương, nhân dân rơi vào
tình cảnh túng quẫn cùng cực.
Nguyễn Trãi trong đoạn 2 Bình ngô đại cáo đã tố cáo tội ác man rợ của giặc Minh
nhiều đến nỗi “trúc Nam Sơn không ghi hết tội” “nước Đông hải không rửa sạch mùi”,
qua đó tỏ thái độ căm phẫn, uất ức bọn xâm lược đó cũng chính nỗi đau nhân dân
tầng lớp nghèo khổ trong hội. Chứng kiến những điều tàn bạo, phi đạo đó lẽ nào
trời đất dung thứ cho chúng?
Lẽ nào trời đất dung tha
Ai bảo thần dân chịu được?
Đoạn 2 Bình ngô đại cáo chính là lời tố cáo mạnh mẽ sự tàn bạo, độc ác mà giặc Minh
đang giày xéo trên đất nước. Khi sự áp bức chắc chắn sđấu tranh, khởi nghĩa
và có thể khẳng định chính nghĩa chắc chắn sẽ giành thắng lợi sau cùng.
Bài làm mẫu 5
Lịch sử Việt Nam với những cuộc chiến tranh vệ quốc hào hùng đã sinh ra trên đất
nước ta bao anh hùng lỗi lạc mà Nguyễn Trãi là một trong số đó. Là một người văn võ
toàn tài, Nguyễn Trãi không chỉ là một nhà chính trị, một quân sư tài ba mà còn là một
nhà văn hóa, một nhà thơ kiệt xuất. Những áng thơ văn của ông sự hòa quyện của
tình yêu nước, thương dân, nỗi trăn trtrước thời cuộc nghệ thuật văn chương độc
đáo. Nhắc đến Nguyễn Trãi, ta không thể nhắc đến thơ văn chính luận của ông, trong
đó đặc biệt nhất phải kể đến "Bình Ngô Đại Cáo" - bản tuyên ngôn độc lập, bản hùng
ca tráng lệ về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn khẳng định chquyền trên đất Việt. Một
trong những phân đoạn đặc sắc của bài o đoạn 2, vạch trần tội ác của giặc Minh
trên nước ta.
Mở đầu đoạn cáo, Nguyễn Trãi tái hiện bối cảnh giặc Minh tràn vào xâm lược nước
ta:
"Nhân họ Hồ chính sự phiền hà,
Để trong nước lòng dân oán hận.
Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa,
Bọn gian tà bán nước cầu vinh."
Năm 1400, Hồ Quý Ly cướp ngôi vua Trần, lên ngôi đổi tên nước ta thành Đại Ngu.
thực hiện nhiều cải cách song do không được lòng dân, nHồ gặp nhiều khó
khăn. Đến năm 1406, nhà Minh lấy cớ "phù Trần diệt Hồ" xâm lược nước ta nhanh
chóng giành thắng lợi. Nước ta rơi vào vòng đô hộ của nhà Minh. Bối cảnh đó được
Nguyễn Trãi thuật lại trong những dòng cáo ngắn gọn: quân Minh lợi dụng lúc "chính
sự phiền hà" tiến vào xâm lược nước ta, ấy giặc ngoài. Bọn gian tà cũng nhân thời
ấy, vội "bán ớc cầu vinh", ấy thù trong. Thù trong, giặc ngoài, lại thêm
lòng dân hướng về nhà Trần, những do ấy khiến nhà Hồ mất ớc vào tay giặc
Minh.
Việc thôn tính nhà Hồ không phải quyết định nhất thời mưu kế giặc Minh
tính toán đã lâu. Chúng hành động man rợ, quỷ quyệt:
"Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế
Gây binh kết oán trải hai mươi năm
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời
Nặng thuế khóa sạch không đầm núi"
Thực vậy, chúng dùng bài "phù Trần diệt Hồ" để thôn tính lòng dân vốn đang
hướng sự căm hận vào nhà Hồ, trái mệnh trời mang quân xâm lược nước ta. Nguyễn
Trãi lạnh lùng khẳng định việc làm của chúng "bại nhân nghĩa" đến độ "nát cả đất
trời", đồng thời vạch trần sự bóc lột của chúng, chúng vét đất nước ta "sạch không
đầm núi".
Nhưng chỉ vơ vét của cải tài nguyên của đất nước ta thì không đủ thỏa mãn lòng tham
không đáy của chúng. giặc ngoại xâm man rợ đã gây ra những tội ác không thể
dung thứ:
"Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ"
Đọc lại sử sách cũ, chúng ta có thể thấy hai câu trên hoàn toàn không phải là cách diễn
đạt cường điệu sự thật: Giặc Minh hết sức hung tàn, chúng thường rút ruột
người treo lên y, nấu xác người lấy mỡ thắp đèn, nhiều khi chúng mua vui bằng
cách nướng những người dân tội. Bằng những hình ảnh mang sắc thái tương phản
dữ dội: "dân đen" - "con đỏ" cùng những động từ mạnh "nướng", "vùi", những tính từ
mang sắc thái căm hờn "hung tàn", "tai vạ", Nguyễn Trãi toạc mặt nạ cùng con bài
giả dối của giặc Minh, phơi bày tội ác của chúng ra ánh sáng. Giặc ngoại m không
chỉ vét của cải đất ớc ta, chúng ăn thịt, uống máu nhân dân ta, tàn hại đất
nước ta. Trong những câu sau, Nguyễn Trãi làm hơn những tội ác yêu sách
chúng đầy lên người nhân dân Đại Việt:
"Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc.
Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới chăng.
Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,
Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng."
Giặc Minh thực hiện một chế độ sưu thuế cống nạp nặng nề nhằm vét của cải, bất
chấp nguy hiểm trung trùng thể làm hại nhân dân ta. Cách viết câu thơ biền ngẫu
đối xứng càng làm nổi bật nỗi khổ của nhân dân ta. Nguyễn Trãi khéo léo vô cùng khi
sắp xếp một bên những sản vật quý giá: "ngọc", "vàng", "sản vật", "chim trả",
"hươu đen"; một bên những hiểm nguy trung trùng: "cá mập thuồng luồng", "rừng
sâu ớc độc", "lưới chăng", "cạm đặt". Sản vật càng qgiá bao nhiêu, những gian
nguy phải đối diện khi tìm lấy sản vật càng nguy hiểm bấy nhiêu. Bằng biện pháp liệt
kê, tác giả đã tài tình khắc họa về thảm cảnh tang tóc do chính ch cai trị tàn bạo
vô luân lí của giặc Minh gây nên. Cuộc sống của nhân dân không còn lại gì, khi chúng
"tàn hại cả giống n trùng cây cỏ", đẩy nhân dân vào cảnh "góa bụa khốn cùng".
Không chỉ dừng lại ở đó, giặc Minh còn bóc lột sức lao động, tàn phá kế sinh nhai của
nhân dân ta:
"Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán,
Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa?
Nặng nề những nỗi phu phen
Tan tác cả nghề canh cửi."
Dưới ngòi bút Nguyễn Trãi, giặc ngoại m man rợ hiện lên như những con quỷ
"thằng há miệng, đứa nhe răng", ăn thịt uống máu nhân dân ta "no chưa chán".
Chúng hạch sách, thi hành chính sách phu phen nặng nề, hủy hoại những nét văn hóa,
những ngành nghề truyền thống của ta. Cuộc sống của nhân dân ta hoàn toàn bị đình
trệ khi "nay xây nhà, mai đắp đất", "tan tác cả nghề canh cửi". Một lần nữa cách sắp
xếp câu văn biền ngẫu lại phát huy tác dụng; các câu văn được sắp xếp chủ ý tạo
giọng điệu dồn dập, đẩy nỗi hờn căm lên đến cao trào. Tất cả những tội ác của chúng
đều được vạch chứng minh bằng những chứng cứ xác đáng, không thể chối cãi,
rồi dồn lại vào hình tượng đối lập giữa lũ giặc mọi rợ hung hăng với người dân nhỏ
bị chúng hành hạ, vắt kiệt sức lực, mồ hôi, máu và nước mắt.
Chỉ trong vỏn vẹn 20 câu văn, Nguyễn Trãi đã ghi lại trọn vẹn tội ác của giặc Minh từ
khi chúng âm mưu ớp nước ta cho đến khi đô hộ nước ta. Chúng lợi dụng nh thế
rối ren khi nhà Hồ ớp ngôi nhà Trần, xen vào để xâm lược nước ta. Khi đã thành
công biến ta thành một quận của mình, giặc Minh hạch sách, hành hạ nhân dân ta đủ
điều; chúng ăn thịt, uống máu, giết hại nhân dân tội, vét sản vật, thu thuế nặng
nề, áp dụng chế độ phu phen hà khắc, tàn phá kế sinh nhai của nhân dân ta. Đây đều
sự thật lịch sử. Song, thay những dòng chính sự lạnh lùng, Nguyễn Trãi tái hiện
thảm cảnh đau thương trong những năm giặc Minh đô hộ bằng những câu văn biền
ngẫu nhịp điệu dồn dập, hình ảnh, ngôn từ chân thực dữ dội. Trong những câu
văn ấy, ta thấy nỗi hờn căm dâng lên không ngừng, ngòi bút Nguyễn Trãi như biến
thành ngọn giáo, và cuối cùng đâm vào kẻ thù bằng một lời buộc tội đanh thép:
"Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.
Lẽ nào trời đất dung tha
Ai bảo thần dân chịu được?"
Trúc Nam Sơn nhiều không đếm xuể, nước Đông Hải chẳng bao giờ cạn. Ấy vậy
Nguyễn Trãi viết rằng "trúc Nam Sơn không ghi hết tội", "nước Đông Hải không rửa
sạch mùi" để nói về những tội ác của giặc Minh. Trong những u văn của Nguyễn
Trãi, giặc Minh hiện ra những kẻ độc ác tột cùng, bẩn tột ng. Dẫu lấy trúc
Nam Sơn làm sách, hay dùng nước Đông Hải gột rửa cũng không cách nào ghi hết
hay rửa sạch tội lỗi của chúng. Lẽ thường "ác giả ác báo", trước tội ác chất chồng như
vậy, "lẽ nào trời đất dung tha"? Nguyễn Trãi đã sử dụng hiệu quả biện pháp nói quá,
thổi bùng lòng căm hận với giặc Minh, nhấn mạnh vào tội ác của chúng, rồi bật thốt
lên một câu hỏi tức tưởi:
"Lẽ nào trời đất dung tha
Ai bảo thần dân chịu được?"
Đó là một câu hỏi không cần lời đáp. Bởi lẽ, sự thật lịch sử đã đáp lời Nguyễn Trãi: ác
giả phải ác báo. Trước những tội ác chất chồng của giặc Minh, trước hành động
xâm lược trái với lẽ trời của chúng, nhân n ta không thể mãi khom lưng uốn gối,
cam chịu cảnh bị đô hộ. Hàng loại các cuộc khởi nghĩa chống giặc Minh ra đời,
trong đó nghĩa quân Lam Sơn. Sau ng, với tài chỉ huy của Lợi, kế sách tuyệt
diệu của Nguyễn Trãi, khởi nghĩa Lam Sơn toàn thắng, giành lại tự do cho nhân dân
ta, quét sạch giặc Minh khỏi bờ cõi ta, buộc chúng phải rời khỏi nước ta trong bộ dạng
đớn hèn nhất.
Bằng ngòi bút tài hoa, trí tuệ hơn người cùng trái tim nhân đạo nhìn thấu được khổ
đau trên khắp bờ cõi Đại Việt, Nguyễn Trãi đã vạch trần âm mưu thâm độc xâm lược
nước ta, đồng thời vạch trần tội ác man rợ của giặc Minh. Với tưởng nhân đạo sâu
sắc, đoạn 2 Bình Ngô đại cáo như một bản luận tội đanh thép dành cho giặc Minh,
đồng thời lời tuyên ngôn đòi hỏi nhân quyền cho nhân dân Đại Việt. Đây đồng thời
cũng phần quan trọng của bài cáo khi tiền đề, nguyên nhân trực tiếp diễn ra
cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, được tác giả đề cập ở phần sau của tác phẩm.
| 1/40

Preview text:


Dàn ý phân tích đoạn 2 bài thơ Bình Ngô Đại Cáo
1. Mở bài Phân tích đoạn 2 Bình Ngô Đại Cáo
● Giới thiệu sơ lược về tác giả,tác phẩm, đoạn cần phân tích
● Nêu qua hoàn cảnh lịch sử tạo nên tác phẩm
2. Thân bài Phân tích đoạn 2 Bình Ngô Đại Cáo
Có thể khẳng định đoạn đầu là tư tưởng nhân nghĩa mới mẻ là cơ sở để khẳng định
chủ quyền độc lập dân tộc. Tư tường này xuất phát từ thực tiễn tình hình của đất nước
được Nguyễn Trãi khái quát sâu sắc như một chân lý. Chân lý đó khẳng định nhân
nghĩa chính là chống quân xâm lược, có như vậy mới vạch trần được luận điệu xảo trá
của chúng được tác giả nêu lên ở đoạn hai. Đoạn hai của tác phẩm là bản cáo trạng về
tội ác của Giặc Minh. Tố cáo những chủ trương cai trị tàn sát của giặc Minh:
● Tàn sát người vô tội
● Bóc lột dã man, đánh thuế, phu phen,…
● Hủy diệt cả môi trường sống
⇒ Tội ác tày trời, một lũ giặc vô nhân đạo
- Có những tội ác của kẻ thù thì cái nhân nghĩa mà tác giả đưa ra mới càng thể hiện
được tính đúng đắn của nó. Bởi lẽ:
● Độc lập chủ quyền của chúng ta có tính chất thiên nhiên, từ trước, vốn có
● Khẳng định chủ quyền như bao dân tộc khác là chúng ta có phong tục riêng,
lịch sử riêng, hào kiệt trước này chưa bao giờ thiếu.
● Nền văn hiến của ta thì đã có từ hàng ngàn năm lịch sử: đây là yếu tố cơ bản để
xác định chủ quyền dân tộc. Bất kể quân xâm lược nào cũng đều tìm cách để
phủ định sự thật hiển nhiên này.
- Nguyễn Trãi đã vạch trần luận điệu bịp bợm của giặc và chỉ rõ âm mưu cướp nước ta
của chúng. Chúng lược chiêu bài “Phù Trần diệt Hồ” nhưng thực chất là để cướp nước ta
- Tội ác mà chúng gây ra với chúng ta là vô cùng độc ác và dã man.
- Trước nỗi khổ, sự khó khăn cùng cực của nhân dân, tác giả vô cùng đau đớn, cả bài
là sự căm giận tội ác của địch, đồng cảm và xót xa trước những đau thương mà nhân
dân ta phải chịu đựng.
-Nghệ thuật so sánh: Tội ác của giặc cao tựa núi Nam Sơn; sự dơ bẩn của giặc nhiều
bằng nước Đông Hải. Dùng cái vô hạn nói cái vô hạn, tội ác của chúng những cái vô
cùng cũng không thể miêu tả, không thể chứa đựng được hết.
3. Kết bài Phân tích đoạn 2 Bình Ngô Đại Cáo
● Nêu lại khái quát ý nghĩa của tác phẩm và cảm nhận của bản thân
● Khẳng định lại tội ác không thể chối cãi của giặc Minh và sự tài tình của
Nguyễn Trãi trong việc vạch tội kẻ thù khẳng định chủ quyền cho dân tộc
Xem thêm: Dàn ý phân tích đoạn 2 Bình ngô Đại Cáo
Phân tích đoạn 2 Đại cáo Bình Ngô ngắn gọn
Bình Ngô Đại Cáo" là tác phẩm nổi tiếng của nhà văn, nhà chính trị Nguyễn Trãi. Tác
giả soạn thảo bài cáo này vào mùa xuân năm 1428, để thay mặt Lê Lợi tuyên bố chiến
thắng quân Minh xâm lược. Bản cáo trạng không chỉ khẳng định độc lập, chủ quyền
của Đại Việt mà còn là bản án đanh thép, lên án tội ác không thể dung thứ của bè lũ
bán nước, cướp nước. Cùng phân tích đoạn 2 của Bát Đại Ngô Đồng để thấy rõ hơn nhé!
Đoạn một, tác giả tự hào, hãnh diện, tuyên bố với thế giới và thế giới về lịch sử hào
hùng dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Ông khẳng định chủ quyền văn hóa, lãnh
thổ của Nam Bắc triều, mỗi bên mạnh một phương. Ông tin rằng thiên tài ở khắp mọi
nơi, mọi lúc. Tại sao lại xâm lược và cướp bóc lẫn nhau? Nhờ lối dẫn đó, sang đến
đoạn hai, tác giả trình bày ngay nguyên nhân dẫn đến cuộc chiến tranh giữa Đại Việt và nhà Minh: Vừa rồi:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thừa cơ gây loạn
Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh”
Đi sâu vào tìm hiểu đoạn 2 Có thể thấy rõ, chỉ qua 5 câu thơ ngắn ngủi thôi nhưng tác
giả đã miêu tả được toàn cảnh bức tranh xã hội rối ren lúc bấy giờ. Đó là những thủ
lĩnh, người đứng đầu đất nước đang bị thôn tính, nhu nhược, tham lam, chia bè phái
khiến nhân dân oán hận. Trong khi đó, giặc Minh rình rập lâu ngày bên ngoài, nhân cơ
hội gây loạn. Chính sự hỗn loạn kết hợp với các phe phái bán nước và cướp nước đã
đặt Đại Việt vào thế cân bằng. Nguyễn Trãi là một nhà chính trị nên những lập luận
của ông rất sắc bén và hợp lý.
Bài thơ này đã thể hiện rõ âm mưu xâm lược của giặc Minh và bọn gian ác bán nước cầu vinh.
Vì thế Đại Việt lâm nguy. Bọn bán nước, cướp nước ra sức hành hạ dân đen, gây bao
tội ác. Sau khi đánh chiếm nước ta, quân Minh xâm lược Đại Việt trong hai mươi năm
với những chính sách vô cùng hà khắc và tàn bạo.
“…Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Nặng nề những nỗi phu phen
Tan tác cả nghề canh cửi”.
Chứng kiến cảnh thương tâm của nhân dân, nhà chính trị nhân từ Nguyễn Trãi đã
khẳng định tội ác của quân giặc là “Bại nhân nghĩa nát cả đất trời”. Đoạn thơ dường
như vừa nói lên nỗi lòng đau đáu vì nước của tác giả, vừa như những lời đay nghiến
kẻ thù. Sự tàn bạo của họ không còn do con người tạo ra nữa. Dối trời, dối dân. Chúng
không chỉ cướp bóc của cải, sức người mà còn tàn phá môi trường, tận diệt sâu bọ, cây
cỏ. Hơn nữa, chúng đã trực tiếp tàn sát những người da đen, những người dân lành vô
tội. Người dân quanh năm gắn bó với ruộng đồng, hiền lành, đức độ. Vậy mà họ chà
đạp không tha. Bằng một loạt liệt kê, kể liên tiếp những tội ác của quân thù, tác giả
như trút được bao cảm xúc căm giận, căm thù. Cảm xúc đó cũng là cảm xúc chung
của toàn dân Đại Việt lúc bấy giờ. Chỉ muốn vùng lên chiến đấu, chống lại kẻ thù.
Phân tích đoạn 2 Đại cáo, ta càng thấy sự tài tình trong việc sử dụng các biện pháp
nghệ thuật văn chương của Nguyễn Trãi. Ông đã dùng phép nhân hóa suy đoán để
vạch trần tội ác tày trời của bọn cướp. Nếu sống giữa thời đó, lớn lên trong bạo ngược
ấy mới thấy rõ quân giặc không khác gì súc vật, coi mạng người như rác rưởi.
Phân tích đoạn 2 của Cựu ước là lúc người đọc cảm thấy rùng mình trước cảnh tang
tóc của người dân Đại Việt xưa. Tưởng chừng chỉ là một cảnh trong phim cổ trang,
nhưng hóa ra lại là sự thật hiển nhiên, được lịch sử ghi nhận.
“Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi!
Lòng người đều căm giận,
Trời đất chẳng dung tha”
Sự tàn ác man rợ của quân xâm lược không chỉ làm cho người dân thương xót mà còn
căm giận cả thiên nhiên, cả biển cả cũng không thể gột rửa được mùi nhơ nhớp, đất
trời cũng không chịu nổi. Với việc sử dụng phép đối xứng “ác”, “cây tre Nam Sơn –
nước Đông Hải”, “lòng trời đất”… tác giả như càng nhấn mạnh thêm sự sai trái của
cuộc chiến tranh phi nghĩa. Anh cũng đem ra những đồ vật vô tri, vô giác để khẳng
định việc xen vào cuộc sống của người khác là tội lỗi không thể tha thứ. Ông càng
chứng minh rằng, không chỉ con người mà mọi sinh vật sinh ra trên đời đều có quyền sống.
Có thể nói, khi phân tích đoạn thứ hai, người đọc như đang xem một bộ phim lịch sử
thấm đẫm máu và nước mắt. Có những nỗi đau, mất mát của dân tộc mà không gì có
thể bù đắp được. Nhưng người đọc cũng có thể cảm nhận được sự kiên cường, bất
khuất của người dân Đại Việt. Bằng ngôn từ mạnh mẽ, hùng hồn, trôi chảy trong từng
câu chữ, hình ảnh, nhà chính luận Nguyễn Trãi một lần nữa mạnh mẽ lên án tội ác của quân thù.
Bình ngô Đại Cáo đoạn 2
Nguyễn Trãi là người sống vì dân, vì nước, cả cuộc đời ông luôn là một con người có
lòng nhân hậu, đau đáu thương người, ông vô cùng tài giỏi khi đã làm rõ âm mưu xâm
lược của giặc Minh, đồng thời còn kể rõ những hành động độc ác của bọn giặc trên
dân tộc ta, đó được xem là định mệnh để khiến con người ta sinh ly biệt tử, thời gian
lại chẳng thể xóa nhòa những giá trị vĩnh hằng. Sự trường tồn của tên tuổi Nguyễn
Trãi cùng non sông nước Việt Nam là minh chứng hùng hồn cho điều đó. Nếu Nguyễn
Trãi là nhà văn chính luận kiệt xuất mọi thời đại thì Bình Ngô đại cáo là áng văn bất
hủ của ông trong lịch sử văn học Việt Nam.
Nguyễn Trãi đã khắc mình vào vóc dáng của dân tộc. Định mệnh để khiến con người
ta sinh ly biệt tử, thời gian lại chẳng thể xóa nhòa những giá trị vĩnh hằng. Sự trường
tồn của tên tuổi Nguyễn Trãi cùng non sông nước Việt Nam là minh chứng hùng hồn
cho điều đó. Nếu Nguyễn Trãi là nhà văn chính luận kiệt xuất mọi thời đại thì Bình
Ngô đại cáo là áng văn bất hủ của ông trong lịch sử văn học Việt Nam.
“Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa
Bọn gian tà bán nước cầu vinh”
Lấy cớ nhà Hồ cướp ngôi của nhà Trần, nhà Minh huy động một lực lượng gồm hai
mươi vạn bộ binh vào xâm lược nước ta. Quân Minh chia làm hai cánh theo đường
sông Hồng kéo xuống. Trong suốt hai mươi năm, chúng đô hộ nước ta bằng vô số
những chính sách, chiến lược khác nhau.
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”
Bọn giặc Minh cướp nước, ấp ủ âm mưu xâm lược bấy lâu, nhưng lại còn ra vẻ sợ
người đời dị nghị thế nên mới nghĩ ra cái cớ "phù Trần diệt Hồ" để bịp bợm thiên hạ,
lừa lọc nhân dân ta, từ đó có cớ dẫn quân sang xâm lược. Quả thật bọn bất nhân, bất
nghĩa thì chẳng chuyện gì mà không vẽ ra được. Đã thế trong nước thì lòng dân oán
hận ngập trời, "Bọn gian tà bán nước cầu vinh", bán cả tự tôn dân tộc để tham chút lợi
nhỏ bé, mở đường cho giặc vào tàn sát người mình, ôi chẳng có thứ người nào lại nhẫn tâm đến vậy.
Từ ngày giặc Minh tràn vào, nhân dân ta chẳng có một ngày được sống yên ổn, chúng
ra sức tàn sát, âm mưu diệt chủng những kẻ kháng cự, không nghe lời bằng những
phương thức hết sức dã man, rùng rợn, tựa bọn quỷ sa tăng hút máu. Nào là "Nướng
dân đen trên ngọn lửa hung tàn", "Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ". Đã thế còn liên
tiếp bịp bợm "Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế", gieo rắc thù oán hết gần 20 năm
trời đằng đẵng. Kẻ chết đã chết, nhưng người sống chúng cũng phải tìm mọi cách mà
bóc lột mà hành hạ, biến nhân dân ta thành nô lệ, thành những công cụ biết nói, ép
nhân dân ta phải tự đi vơ vét tài nguyên của đất nước mà cung phụng cho chúng.
Vơ vét sản vật, tiêu diệt con người, tội ác của giặc không có giấy bút nào tả xiết:
“Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi”
Tác giả đã chọn những cái vô cùng là trúc Nam Sơn và nước Đông Hải để nói đến tội
ác của loài quỷ dữ khát máu người, chỉ nhăm nhe cắn xé nhân dân ta đến tận xương
tủy. Hậu quả chúng để lại vô cùng tàn khốc: mẹ mất con, vợ mất chồng, con cái thì
nheo nhóc, muôn loài bị phá hủy, nhân dân khổ cực.
Để nêu lên rõ tội ác của bọn chúng, tác giả đã sử dụng phương pháp liệt kê có chọn
lọc, sử dụng những câu văn giàu hình ảnh, hình tượng, giọng văn thay đổi linh hoạt,
phù hợp với cảm xúc. Lúc tỏ ra căm phẫn, lúc lại thể hiện sự đau đớn, xót xa cho nhân
dân ta. Hai câu cuối kết án vô cùng đanh thép:
“Lẽ nào trời đất dung tha
Ai bảo thần nhân chịu được?”
Tội ác của giặc Minh đã vượt quá giới hạn của lẽ trời. Hành động của chúng dơ bẩn
đến mức không thể nào tha thứ nổi. Đứng trên lập trường nhân nghĩa thì đoạn văn là
máu, là nước mắt, thể hiện sự căm phẫn với kẻ thù.
Đối lập với khung cảnh khốn khổ, tiêu điều cùng cực ấy thì giặc Minh lại hiện lên với
một hình ảnh hoàn toàn đối lập "Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê
chưa chán", quân giặc thì no nê phè phỡn, đúng cảnh kẻ thì ăn không hết người thì lần
chẳng ra. Phu phen tạp dịch cứ áp lên người nông dân cơ cực, nào thì xây nhà, đắp đất
chẳng bao giờ hết việc, còn bọn chúng thì nghênh ngang ra sức đòn roi mà quất, mà
sai bảo chẳng thương tiếc. Sự độc ác, tàn bạo của giặc Minh được Nguyễn Trãi dùng
những cái vô cùng, vô tận của thiên nhiên mà so sánh, trúc Nam Sơn biết bao nhiêu
cây chẳng đếm được, ấy thế mà cũng không đủ để chép tội quân Minh, biển Đông Hải
bao la rộng lớn cũng nào đủ để rửa sạch mùi tàn ác, dơ bẩn của chúng. Tội ác của
quân Minh nhiều không kể xiết là như vậy, đến muôn ngàn đời đi nữa vẫn còn lưu
trong sử sách chẳng phai mờ. Nguyễn Trãi đã phải thốt lên bằng một giọng đầy đau
đớn và căm phẫn: "Lẽ nào trời đất dung tha? Ai bảo thần dân chịu được?", ông tin vào
thiên mệnh, vào trời đất, tin rằng tất có người trừng trị được kẻ thủ ác, bởi trời đất vốn
có mắt, rồi quân Minh sẽ chẳng thoát khỏi sự trừng phạt đích đáng cho những tội lỗi
mà chúng gây ra trên đất Đại Việt. Câu hỏi chính là lời cảnh báo đầy bi thương và
căm thù dành cho quân Minh để kết thúc phần hai của bài cáo.
Với một giọng văn đầy đau xót, bi thương tột cùng, Nguyễn Trãi vừa vạch trần âm
mưu xâm lược nước ta vừa phản ánh được sự tàn ác, man rợ của chúng đối với dân tộc
Đại Việt. Đồng thời ông cũng thể hiện được tư tưởng nhân nghĩa của mình khi trở
thành người đứng về phía nhân dân, lên án tội ác của giặc, có tình cảm xót thương sâu
sắc khi quyền sống của nhân dân bị chà đạp bị coi thường bởi quân thù. Phần hai có ý
nghĩa như là lời buộc tội đầy đanh thép của quan tòa dành cho kẻ phạm tội và nguyên
nhân trực tiếp diễn ra cuộc khởi nghĩa Lam Sơn sau này.
Phân tích đoạn 2 Bình ngô Đại Cáo
“Bình Ngô đại cáo” tác phẩm nổi tiếng của chính trị gia, nhà văn Nguyễn Trãi. Tác
giả soạn thảo bài cáo này vào mùa xuân năm 1428, nhằm thay lời Lê Lợi tuyên cáo
việc giành chiến thắng giặc Minh. Bài cáo không chỉ khẳng định sự độc lập, chủ
quyền của Đại Việt mà còn là bản án đanh thép, lên án tội ác không thể dung thứ của
bè lũ bán nước và cướp nước. Cùng phân tích đoạn 2 Bình ngô đại cáo để thấy rõ hơn điều đó!
Ở đoạn đầu, tác giả tự hào, hãnh diện, bố cáo với đất trời, thiên hạ về lịch sử oai hùng
dựng nước và giữ nước của nhân dân ta. Ông khẳng định chủ quyền văn hóa, lãnh thổ
của các triều đại Bắc Nam, mỗi nơi hùng cứ một phương. Ông cho rằng người hào
kiệt nơi nào cũng có, thời nào cũng có. Cớ sao phải xâm chiếm, cướp bóc lẫn nhau?
Nhờ lối dẫn dắt đó mà sang đến đoạn hai, tác giả đã trình bày ngay lí do dẫn đến cuộc
binh đao giữa Đại Việt và nhà Minh: “Vừa rồi:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thừa cơ gây loạn
Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh”
Phân tích đoạn 2 Bình ngô đại cáo mới thấy rõ, chỉ qua 5 câu thơ ngắn ngủi, nhưng tác
giả đã lột tả được toàn bộ bức tranh xã hội rối ren lúc bấy giờ. Đó là những người lãnh
đạo, đứng đầu đất nước đang bị thôn tính, nhu nhược, tham lam, chia bè chia phái,
khiến lòng dân oán hận. Trong khi đó, bên ngoài giặc Minh lăm le dòm ngó bấy lâu
thừa cơ gây loạn. Chính sự nhiễu nhương kết hợp với bè lũ bán nước và cướp nước đã
ép buộc Đại Việt vào thế phải binh đao. Nguyễn Trãi là nhà chính trị nên một lập luận
ông nêu đều vô cùng sắc bén và hợp lý.
Đoạn thơ này cho thấy rõ, âm mưu xâm lược của giặc Minh và bọn gian tà bán nước cầu vinh.
Vì lí do đó mà Đại Việt lâm nguy. Lũ bán nước, cướp nước ra sức hành hạ dân đen,
gây ra bao tội lỗi. Sau khi đánh chiếm được nước ta, giặc Minh đô hộ Đại Việt trong
suốt hai mươi năm với những chính sách vô cùng hà khắc, tàn bạo.
“…Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ…………………
Nặng nề những nỗi phu phen
Tan tác cả nghề canh cửi”.
Chứng kiến những cảnh xót xa của nhân dân, chính trị gia có trái tim nhân ái Nguyễn
Trãi đã khẳng khái khẳng định tội ác của quân giặc là “Bại nhân nghĩa nát cả đất trời”.
Câu thơ như vừa thể hiện nỗi đau thấu tim gan của tác giả vì thương dân, vừa như lời
đay nghiến quân giặc. Những hành vi bạo tàn của chúng không phải là do con người
gây ra nữa. Chúng dối trời, lừa dân. Chúng không chỉ vơ vét của cải, sức người sức
của mà còn hủy hoại cả môi trường, tàn phá cả những con côn trùng cây cỏ. Hơn thế,
chúng thẳng tay tàn sát dân đen, những con người vô tội, thiện lương. Những con
người quanh năm gắn bó ruộng đồng, hiền từ, đức độ. Ấy vậy mà chúng cũng giày
xéo không tha. Với lối liệt kê hàng loạt, liên tiếp những hành động bào tàn của giặc,
tác giả như đang tuôn trào bao cảm xúc giận giữ cảm thù. Xúc cảm ấy cũng là xúc
cảm chung của toàn dân Đại Việt lúc bấy giờ. Chỉ muốn vùng lên để đấu tranh, chống lại kẻ thù.
Phân tích đoạn 2 Bình ngô đại cáo, càng thấy sự khéo léo trong cách sử dụng biện
pháp nghệ thuật văn học của Nguyễn Trãi. Ông đã sử dụng phép nhân hóa đặc tả để
vạch mặt tội ác thâm độc của quân cướp nước. Có sống giữa thời ấy, có lớn lên trong
cảnh bạo ngược ấy mới thấy rõ quân giặc chẳng khác gì thú vật, coi mạng người như cỏ rác.
Một lần phân tích đoạn 2 Bình ngô đại cáo là một lần độc giả cảm thấy rùng rợn trước
cảnh tượng tang của người dân Đại Việt năm xưa. Tưởng như chỉ là cảnh trong các bộ
phim cổ trang, nhưng hóa ra lại là sự thật hiển nhiên, lịch sử ghi chép.
“Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi!
Lòng người đều căm giận,
Trời đất chẳng dung tha”
Sự độc ác tày đình của quân xâm lược không chỉ khiến dân chúng oán thán mà còn
khiến cả thiên nhiên phẫn nộ, đến đại dương cũng không rửa sạch mùi dơ bẩn, đến đất
trời cũng không thể dung tha. Với lối dùng vế đối cân xứng,”độc ác- dơ bẩn”, “trúc
Nam Sơn- nước Đông Hải”, “lòng người- trời đất”… tác giả như càng nhấn mạnh
thêm sự sai trái của cuộc chiến tranh phi nghĩa. Ông mang cả những vật vô tri vô giác
là nhiên nhiên vào để khẳng định việc trà đạp lên mạng sống của người khác là tội
không thể tha. Ông càng chứng tỏ rằng, không riêng gì con người mà mỗi loài sinh ra
trong cõi đời đều có quyền được sống.
Có thể nói, khi phân tích đoạn 2 Bình ngô đại cáo, người đọc như đang xem một bộ
phim lịch sử thấm đẫm máu và nước mắt. Ở đó có những đau thương mất mát của dân
tộc mà không gì có thể bù đắp được. Nhưng độc giả cũng có thể cảm nhận được sự
kiên cường, bất khuất của nhân dân Đại Việt. Với lời văn đanh thép, hùng hồn, tuôn
trào trong từng câu chữ, hình ảnh, chính trị gia Nguyễn Trãi một lần nữa lên án gắt
gao tội ác của quân giặc.
Phân tích đoạn 2 Đại cáo Bình Ngô
“Văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát li hay sự quên;
trái lại văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố
cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác..”(Thạch Lam). Đúng vậy, văn
chương chính là cánh tay đắc lực của mỗi thời kỳ lịch sử, để vạch trần bộ mặt xã hội
giả dối, lên án những thế lực bạo tàn, với tư cách ấy, áng thiên cổ hùng văn “Bình ngô
đại cáo” ở đoạn thứ 2 đã bóc trần tội ác nhơ bẩn của quân xâm lược mà đến hàng năm
sau không thể rửa hết tội.
Văn chính luận của Nguyễn Trãi đều là những lớp ngôn từ sắc sảo, lớp lang, theo trình
tự lập luận logic, ngay cả khi luận tội kẻ thù xâm lược, mạch lập luận vẫn rất đanh
thép, rõ ràng. Trước hết, nhà thơ chỉ ra động cơ thâm độc, và bộ mặt giả nhân giả nghĩa của quân địch: “…Vừa rồi:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa
Bọn gian tà bán nước cầu vinh…”
Ngay từ những câu thơ mở đầu này, người đọc thấy ngay được âm mưu bất thành của
kẻ thù, đồng thời vạch trần được bộ mặt giả tạo, mưu sâu kế hiểm của quân địch.
Chúng sử dụng chiêu bài xâm lược “phù Trần diệt Hồ” với quân bài chủ chốt Trần
Thiêm Bình nhằm mua chuộc quý tộc nhà Trần về phe chúng để đô hộ nước ta Những
chính sách của chúng đều sặc mùi dối trá, phỉnh gạt:
“Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế
Gây binh kết oán trải hai mươi năm”
Nhờ ngòi bút sắc lạnh, đanh thép của Nguyễn Trãi mà ta nhận ra được bộ mặt bất
nhân bất nghĩa đằng sau kế hoạch thâm độc của chúng, đáng tiếc thay, công lí không
bao giờ đứng về những kẻ bất nhân, tội ác của chúng trời không dung đất không tha:
“Bại nhân nghĩa nát cả đất trời
Nặng thuế khóa sạch không đầm núi”
Nhưng đau đớn hơn, là tội ác chúng gây ra cho dân tộc, những người dân đen con đỏ,
đầy thương xót. Dưới ngòi bút sắc sảo của thi hào Nguyễn Trãi, chưa bao giờ hình ảnh
nhân dân hiện lên lại chua xót, cay đắng và đầy căm phẫn đến như vậy:
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ…”
“Dân đen, con đỏ”, những người dân manh lệ, quanh năm lo làm ăn thiện lương, một
lòng gắn bó với tấc đất, với nhà cửa ruộng vườn, đâu nên nỗi bị chúng giày xéo dưới
gót giày nhơ nhuốc của chúng. Hình ảnh nhân hóa, cũng như thủ pháp đặc tả ấn tượng
của Nguyễn Trãi đã một lần nữa vạch mặt chỉ tên tội ác dã man, tàn bạo của quân xâm
lược lúc bây giờ, lũ cuồng quân, mang cuồng vọng hàm hồ coi mạng người như cỏ
rác, sẵn sàng chà đạp, giày xéo, ăn thịt, uống máu người không tanh. Tội ác của
chúng, nghìn năm sau, sử sách còn lưu lại, trời không dung đất không tha. Chưa dừng
lại ở đó, giặc Minh còn ra sức vơ vét của cải, sản vật quý hiếm của nước Nam để thỏa
mãn nhu cầu vật chất, thú ăn chơi nhung lụa xa xỉ, xa hoa, đồi trụy của chúng bằng
cách bức ép, bóc lột, đe dọa người Việt phải săn lùng sản vật để cống nộp bất chấp mạng sống:
“…Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập, thuồng luồng
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc :
Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới chăng
Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi đặt cạm…”
Biện pháp liệt kê được đặc sử dụng trong trường hợp này, như muốn nhấn mạnh, như
muốn gắn thêm vào trang văn tội tác tanh máu, nhơ nhuốc của lũ cuồng quân ngạo
mạn, không bằng cầm thú lúc bấy giờ. Lời văn tả ra, hệt như thấy được cái sục sôi,
căm phẫn, bức bách của người viết khi nghĩ đến nhân dân bị chà đạp, bị xâu xé dưới
gót giày dã man, tàn bạo của quân giặc.
Tội ác tày đình đầy căm phẫn của chúng, không chỉ khiến dân chúng lầm than oán
than, mà khiến cả thiên nhiên cũng phẫn nộ, cũng muốn gào thét để đem lũ cuồng
quân này diệt sạch, để thay trời hành đạo:
“Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội.”
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi…”
Hai câu thơ, với vế đối cân xứng, nhà thơ phần nào cho thấy được tội tác khó lòng
dung tha, đầy bất mãn, ác độc của quân xâm lược, đồng thời từ đó gợi lên một thời kì
lịch sử đầy đau thương của dân tộc, những người dân đen con đỏ lầm than, khốn khó
bị đưa vào vòng xoáy của những cuộc chiến tranh phi nghĩa.
Bằng lời văn đanh thép, hùng hồn thấm đẫm trong từng lời thơ, mạch chảy của đoạn
thơ, Nguyễn Trãi một lần nữa phơi bày sâu sắc, lột trần bản chất bất nhân bất nghĩa,
thú tính ác độc của quân xâm lược.
Cảm nhận đoạn 2 Bình Ngô Đại Cáo
Nguyễn Trãi, một vị anh hùng dân tộc lẫy lừng của đất nước Việt Nam với nhiều công
lao, sự cống hiến hết mình để bảo vệ Tổ quốc. Tình yêu nước giống như ngọn lửa luôn
rực cháy và thổi bùng trong ông, lớn lên trong thời kì nước mất nhà tan do đó mà đã
tôi luyện và hình thành nên Nguyễn Trãi với một lòng nồng nàn yêu nước. Không chỉ
vậy, Nguyễn Trãi còn nổi tiếng bởi tài năng trong lĩnh vực văn học với những tác phẩm nổi tiếng.
Hầu hết, các tác phẩm của ông đều nói về tình yêu nước sâu sắc, lí tưởng cao cả và
đặc biệt vạch trần tội ác của kẻ thù. Điều đó được thể hiện đậm nét qua bài Bình Ngô
đại cáo, mà điển hình ở đây là đoạn 2 của tác phẩm. Nguyễn Trãi đã tố cáo, lên án
những tội ác mà quân Minh xâm lược đã gây ra cho ta. Bình Ngô đại cáo được coi là
một áng thiên cổ hùng văn nổi tiếng lẫy lừng về việc ghi chép tội ác của giặc Minh.
Tác phẩm được viết khi quân dân ta giành thắng lợi trong cuộc chiến với quân Minh,
điều đó cho thấy rằng tình yêu dành cho đất nước luôn đặt lên hàng đầu và sự căm thù
giặc được thể hiện rõ nét trong bản cáo trạng:
“Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa
Bọn gian tà bán nước cầu vinh”
Quân Minh khi xâm lược nước ta đã nghĩ ra những mưu kế đê hèn, lợi dụng tình thế
việc nhà Hồ cướp ngôi nhà Trần để thừa thế xông lên xâm lược vào nước ta. Chính
tình thế loạn lạc nên quân Minh đã lợi dụng điều đó để thực hiện những âm mưu từ
lâu đã định trước. Không chỉ ngày một ngày hai, quân Minh đã thực hiện chính sách
khai phá nước ta trong gần hai mươi năm trời. Mục đích của chúng là muốn xóa bỏ
những gì mà đất nước ta có là văn hóa, là lịch sử nước nhà. Ngay cả những đứa trẻ
tuổi cắp sách đến trường mà chúng cũng không buông tha, điều đó cho thấy rằng quân
Minh vô cùng tàn độc và hung bạo.
Nhưng quân dân ta chưa bao giờ đầu hàng, những tháng ngày dài đằng đẵng, có mệt
mỏi, có gục ngã nhưng vẫn đứng lên để chống lại kẻ thù. Quân Minh muốn cai trị đất
nước ta, chúng muốn thay đổi chính sách và muốn đất nước ta phải phục thù. Càng về
sau, sự tàn ác của quân Minh càng được thể hiện rõ ở việc chúng bắt đầu bóc lột sức
người, thậm chí còn đánh đập, tàn phá luôn cả thiên nhiên.
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hùng tàn
Vùi con đỏ dưới hầm tai vạ”
Những người dân vô tội nhỏ bé thấp hèn luôn phải chịu sự áp bức bóc lột nặng nề của
quân giặc. Họ càng nhỏ bé, càng không có chỗ đứng trong xã hội thì càng bị quân
Minh tấn công, áp bức. Tội ác mà quân giặc gây ra ngay cả đất trời cũng không thể
dung tha. Hai câu thơ như khẳng định mạnh mẽ một lần nữa những tội ác mà quân
Minh gây ra và đây cũng chính là lời cáo trạng về tội lỗi của quân xâm lược.
Trúc Nam Sơn, nước Đông Hải đã được Nguyễn Trãi nhắc đến trong đoạn trích để
nhấn mạnh tội ác của quân Minh:
“Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi”
Quân xâm lược chỉ nhìn thấy cái trước mắt mà không nghĩ về hậu quả sau này. “Trúc
Nam Sơn”, “nước Đông Hải” đã được Nguyễn Trãi nhắc đến để khẳng định tội ác của
quân Minh to lớn chẳng thể nào liệt kê ra hết được. Chúng không bao giờ biết yêu
thương và có tình yêu thương trọn vẹn, ngay cả con người mà chúng cũng có thể hủy
hoại thì thiên nhiên xung quanh đã là gì. Chúng tham lam, ích kỷ để rồi có những gia
đình đã không còn trọn vẹn các thành viên.
Chúng khiến cho bao người phải khổ sở, đất nước phải sống trong sự loạn lạc ngày
qua ngày mà không phút nào được bình yên. Nguyễn Trãi đã sử dụng thủ pháp nghệ
thuật liệt kê cũng nhiều hình ảnh, dẫn chứng sinh động để người đọc thấy được tội ác
tày trời của quân Minh đối với nước ta.
Hai câu kết của đoạn trích là một lời răn đe mạnh mẽ:
“Lẽ nào trời đất dung tha
Ai bảo thần nhân chịu được?
Tội ác của quân Minh gây ra cho đất nước ta đếm không xuể, chính chúng đã khiến ta
rơi vào cảnh nước mất nhà tan nên không bao giờ có thể tha thứ. Với giọng văn đanh
thép, Nguyễn Trãi đã cho người đọc thấy được sự uất hận không chỉ của tác giả mà
còn của nhân dân ta ở thời kỳ đó dành cho quân Minh.
Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi đã mang đến một ý nghĩa sâu sắc về tình yêu nước
của dân tộc. Dù trong hoàn cảnh khó khăn và khốc liệt nhất, dân tộc ta đã không bao
giờ gục ngã, họ đã cùng nhau đoàn kết để chiến thắng kẻ thù, mang lại vẻ vang cho nước nhà.
Phân tích đoạn 2 Bình Ngô Đại Cáo ngắn gọn Bài làm mẫu 1
Nguyễn Trãi đã khắc mình vào vóc dáng của dân tộc. Định mệnh để khiến con người
ta sinh ly biệt tử, thời gian lại chẳng thể xóa nhòa những giá trị vĩnh hằng. Sự trường
tồn của tên tuổi Nguyễn Trãi cùng non sông nước Việt Nam là minh chứng hùng hồn
cho điều đó. Nếu Nguyễn Trãi là nhà văn chính luận kiệt xuất mọi thời đại thì Bình
Ngô đại cáo là áng văn bất hủ của ông trong lịch sử văn học Việt Nam.
“Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa
Bọn gian tà bán nước cầu vinh”
Lấy cớ nhà Hồ cướp ngôi của nhà Trần, nhà Minh huy động một lực lượng gồm hai
mươi vạn bộ binh vào xâm lược nước ta. Quân Minh chia làm hai cánh theo đường
sông Hồng kéo xuống. Trong suốt hai mươi năm, chúng đô hộ nước ta bằng vô số
những chính sách, chiến lược khác nhau.
Nhưng với tinh thần đoàn kết, tình yêu đất nước thì chúng đã không xâm chiếm được
nước ta. Lịch sử đã ghi lại tội ác của giặc Minh và đại cáo Bình Ngô lại một lần nữa tố cáo tội ác của chúng.
Nguyễn Trãi đã khẳng định tội ác đó “Bại nhân nghĩa nát cả đất trời” và kể ra những
hành động dã man của chúng. Chúng vơ vét hết mọi tài sản – không những bao gồm
vật chất, sức người, sức của dân ta mà chúng còn hủy hoại cả môi trường sống, tàn hại
cả giống côn trùng và cả cây cỏ. Hơn những thế, chúng còn tàn sát con người mà không hề biết ghê tay:
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hùng tàn
Vùi con đỏ dưới hầm tai vạ”
Đây là một hình ảnh vừa cụ thể, vừa khái quát như một lời cáo trạng, lời buộc tội quân
giặc. Dân đen là những kiếp người nhỏ bé tận cùng dưới đáy của xã hội. Họ là nạn
nhân của tội ác mà quân giặc đã gieo rắc lên bờ cõi của dân tộc ta. Chắc hẳn hai câu
thơ được viết nên bởi máu và nước mắt của người anh hùng dân tộc.
Vơ vét sản vật, tiêu diệt con người, tội ác của giặc không có giấy bút nào tả xiết:
“Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi”
Tác giả đã chọn những cái vô cùng là trúc Nam Sơn và nước Đông Hải để nói đến tội
ác của loài quỷ dữ khát máu người, chỉ nhăm nhe cắn xé nhân dân ta đến tận xương
tủy. Hậu quả chúng để lại vô cùng tàn khốc: mẹ mất con, vợ mất chồng, con cái thì
nheo nhóc, muôn loài bị phá hủy, nhân dân khổ cực.
Để nêu lên rõ tội ác của bọn chúng, tác giả đã sử dụng phương pháp liệt kê có chọn
lọc, sử dụng những câu văn giàu hình ảnh, hình tượng, giọng văn thay đổi linh hoạt,
phù hợp với cảm xúc. Lúc tỏ ra căm phẫn, lúc lại thể hiện sự đau đớn, xót xa cho nhân
dân ta. Hai câu cuối kết án vô cùng đanh thép:
“Lẽ nào trời đất dung tha
Ai bảo thần nhân chịu được?”
Tội ác của giặc Minh đã vượt quá giới hạn của lẽ trời. Hành động của chúng dơ bẩn
đến mức không thể nào tha thứ nổi. Đứng trên lập trường nhân nghĩa thì đoạn văn là
máu, là nước mắt, thể hiện sự căm phẫn với kẻ thù.
Nói tóm lại, đoạn thơ này là một bản cáo trạng đanh thép tố cáo tội ác của giặc Minh
trong hai mươi năm trên mảnh đất Việt.
Để đảm bảo tăng cường tính thuyết phục lại vừa đạt được tính cô đọng, hàm súc của
ngôn từ văn chương. Nguyễn Trãi đã sử dụng đan xen và kết hợp hài hòa giữa những
hình ảnh mang tính chất khái quát với những hình ảnh mang tính cụ thể, sinh động.
Như vậy, bằng tài và tâm của mình. Nguyễn Trãi đã khiến cho người đọc thấy được
đây là một tác phẩm đáng tự hào và cần được người đời sau coi trọng, tôn vinh. Bài làm mẫu 2
Được mệnh danh là áng thiên cổ hùng văn của dân tộc, là bản tuyên ngôn độc lập thứ
2 sau Nam quốc sơn hà, Bình Ngô đại cáo là một tác phẩm xuất sắc mà ở đó ta có thể
thấy được tinh thần dân tộc của Nguyễn Trãi, đó là tấm lòng yêu nước, thương dân tha
thiết, lòng căm thù quân giặc sâu sắc. Dựa trên việc khẳng định chân lý chủ quyền dân
tộc cùng với tư tưởng nhân nghĩa mới mẻ, "việc nhân nghĩa cốt ở yên dân", tác phẩm
đã mang đến cho người đọc những nhận thức chân thực về cuộc chiến chống quân
Minh xâm lược. Nguyễn Trãi chia bài cáo làm 4 phần với 4 nội dung chính, trong đó
có một phần phản ánh sự tàn ác của giặc Minh những năm tháng đô hộ hộ nước ta là
phần có vai trò quan trọng trong bài cáo, cần lưu tâm để càng thấm thía hơn nỗi đau
mất nước những năm tháng đã qua.
Bọn giặc Minh cướp nước, ấp ủ âm mưu xâm lược bấy lâu, nhưng lại còn ra vẻ sợ
người đời dị nghị thế nên mới nghĩ ra cái cớ "phù Trần diệt Hồ" để bịp bợm thiên hạ,
lừa lọc nhân dân ta, từ đó có cớ dẫn quân sang xâm lược. Quả thật bọn bất nhân, bất
nghĩa thì chẳng chuyện gì mà không vẽ ra được. Đã thế trong nước thì lòng dân oán
hận ngập trời, "Bọn gian tà bán nước cầu vinh", bán cả tự tôn dân tộc để tham chút lợi
nhỏ bé, mở đường cho giặc vào tàn sát người mình, ôi chẳng có thứ người nào lại nhẫn tâm đến vậy.
Từ ngày giặc Minh tràn vào, nhân dân ta chẳng có một ngày được sống yên ổn, chúng
ra sức tàn sát, âm mưu diệt chủng những kẻ kháng cự, không nghe lời bằng những
phương thức hết sức dã man, rùng rợn, tựa bọn quỷ sa tăng hút máu. Nào là "Nướng
dân đen trên ngọn lửa hung tàn", "Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ". Đã thế còn liên
tiếp bịp bợm "Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế", gieo rắc thù oán hết gần 20 năm
trời đằng đẵng. Kẻ chết đã chết, nhưng người sống chúng cũng phải tìm mọi cách mà
bóc lột mà hành hạ, biến nhân dân ta thành nô lệ, thành những công cụ biết nói, ép
nhân dân ta phải tự đi vơ vét tài nguyên của đất nước mà cung phụng cho chúng.
"Nặng thuế khóa sạch không đầm núi.
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc.
Vét sản vật, bắt dò chim trả, chốn chốn lưới chăng.
Nhiễu nhân dân, bắt bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt."
Nhưng những thứ quý hiếm ấy có phải đâu dễ tìm, người xuống biển sâu chết không
thấy xác, kẻ lên rừng, vào núi thì hùm beo rình rập. Đã thế chúng còn bắt nhân dân ta
phải tìm cả những thứ cực quý như chim trả, hươu đen, phải giăng lưới, đặt bẫy có khi
chẳng bắt được mà còn đi nhầm cả vào bẫy thú vật. Ôi thật xót xa cho cảnh khốn khổ
tột cùng! Hậu quả để lại là môi trường liên tiếp bị hủy hoại tàn phá, chim muông cây
cỏ cũng chẳng còn chỗ nương thân, phụ nữ bỗng trở thành kẻ góa bụa, gia đình đang
yên ổn canh cửi nay cũng thuận đà tan tác cả, còn đâu chốn làng quê yên bình, đẹp đẽ,
còn đâu tiếng người cười nói dẫn nhau ra đồng, mất hết rồi.
Đối lập với khung cảnh khốn khổ, tiêu điều cùng cực ấy thì giặc Minh lại hiện lên với
một hình ảnh hoàn toàn đối lập "Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê
chưa chán", quân giặc thì no nê phè phỡn, đúng cảnh kẻ thì ăn không hết người thì lần
chẳng ra. Phu phen tạp dịch cứ áp lên người nông dân cơ cực, nào thì xây nhà, đắp đất
chẳng bao giờ hết việc, còn bọn chúng thì nghênh ngang ra sức đòn roi mà quất, mà
sai bảo chẳng thương tiếc. Sự độc ác, tàn bạo của giặc Minh được Nguyễn Trãi dùng
những cái vô cùng, vô tận của thiên nhiên mà so sánh, trúc Nam Sơn biết bao nhiêu
cây chẳng đếm được, ấy thế mà cũng không đủ để chép tội quân Minh, biển Đông Hải
bao la rộng lớn cũng nào đủ để rửa sạch mùi tàn ác, dơ bẩn của chúng. Tội ác của
quân Minh nhiều không kể xiết là như vậy, đến muôn ngàn đời đi nữa vẫn còn lưu
trong sử sách chẳng phai mờ. Nguyễn Trãi đã phải thốt lên bằng một giọng đầy đau
đớn và căm phẫn: "Lẽ nào trời đất dung tha? Ai bảo thần dân chịu được?", ông tin vào
thiên mệnh, vào trời đất, tin rằng tất có người trừng trị được kẻ thủ ác, bởi trời đất vốn
có mắt, rồi quân Minh sẽ chẳng thoát khỏi sự trừng phạt đích đáng cho những tội lỗi
mà chúng gây ra trên đất Đại Việt. Câu hỏi chính là lời cảnh báo đầy bi thương và
căm thù dành cho quân Minh để kết thúc phần hai của bài cáo.
Với một giọng văn đầy đau xót, bi thương tột cùng, Nguyễn Trãi vừa vạch trần âm
mưu xâm lược nước ta vừa phản ánh được sự tàn ác, man rợ của chúng đối với dân tộc
Đại Việt. Đồng thời ông cũng thể hiện được tư tưởng nhân nghĩa của mình khi trở
thành người đứng về phía nhân dân, lên án tội ác của giặc, có tình cảm xót thương sâu
sắc khi quyền sống của nhân dân bị chà đạp bị coi thường bởi quân thù. Phần hai có ý
nghĩa như là lời buộc tội đầy đanh thép của quan tòa dành cho kẻ phạm tội và nguyên
nhân trực tiếp diễn ra cuộc khởi nghĩa Lam Sơn sau này. Bài làm mẫu 3
Nguyễn Trãi là một trong ba danh nhân văn hóa của dân tộc được UNESCO công
nhận, đồng thời là nhà quân sự lỗi lạc, nhà tư tưởng chính trị kiệt xuất của Việt Nam.
Ông sinh ra và lớn lên trong bối cảnh đất nước rối ren, loạn lạc – nhà Trần suy yếu,
nhà Hồ nhiễu nhương, lại phái quân cuồng Minh xâm lược, hoàn cảnh ấy càng thổi
bùng lên tinh thần yêu nước vốn đã thấm nhuần trong tư tưởng truyền thống xuất phát
từ dòng tộc. Sự cống hiến của Nguyễn Trãi lớn lao không tả, chẳng những là mưu sĩ
với thần cơ diệu toán của khởi nghĩa Lam Sơn, ngòi bút của ông cũng góp phần quan
trọng vào sự nghiệp đánh đuổi giặc ngoại xâm, đem lại thái bình cho nước nhà, điển
hình là hai tác phẩm “Quân trung từ mệnh tập” và “Đại cáo bình Ngô”. Đặc biệt, tác
phẩm “Đại cáo bình Ngô” được xem như “bản tuyên ngôn độc lập thứ hai” của dân
tộc có giá trị cả về mặt chính trị, lịch sử lẫn văn học. Không những là áng thiên cổ
hùng văn về tư tưởng tự chủ tự cường của dân tộc mà còn là bản cáo trạng luận tội
giặc Minh xâm lược, chỉ rõ sự độc ác nhơ bẩn của chúng:
“…Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi…”
Đoạn hai của tác phẩm với những lý luận sắc sảo, đanh thép, chứng cứ xác thực, đã
vạch mặt lũ ngoại xâm với mưu mô, thủ đoạn dơ bẩn và sự tàn bạo, độc ác của chúng.
Bằng biện pháp phóng đại, Nguyễn Trãi đã chỉ rõ những điều bại hoại nhân nghĩa,
luân lí mà giặc Minh đã làm với dân tộc ta qua hình tượng “Độc ác thay, trúc Nam
Sơn không ghi hết tội” và “Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi”. Thực
vậy, tội ác chúng gây ra nhiều không kể xiết đến nỗi ghi tạc chúng lên thân trúc Nam
Sơn cũng chẳng hết, hình tượng này cho thấy sự căm phẫn lên đến tột độ của nhân dân
đối với sự bạo ngược của quân xâm lược. Chẳng những quá đỗi tàn bạo, giặc Minh
còn thi hành những chính sách hết sức nhơ bẩn, đê hèn và quỷ quyệt nhằm bẻ gãy ý
chí dân tộc, tinh thần chiến đấu và âm mưu biến nước ta thành quận huyện, đồng hóa
dân tộc ta thành người Hán và vĩnh viễn xóa sổ người Việt khỏi cõi trời đất. Chính vì
lẽ ấy mà tác giả Nguyễn Trãi đã dành hẳn một phần lớn trong tác phẩm để đưa ra
những lí lẽ, dẫn chứng hùng hồn nhằm luận tội lũ giặc tàn bạo và xảo quyệt.
Chính sử Việt Nam chép rất rõ về những chính sách cai trị vô cùng thâm độc trong
ngót hai mươi năm đô hộ nước ta, song phần nhiều đều biên soạn dựa theo những bản
ghi chép của Nguyễn Trãi, đặc biệt là “Đại cáo bình Ngô”, ấy cũng bởi mưu sĩ họ
Nguyễn là người trực tiếp sống và chiến đấu trong giai đoạn nước ta bị giặc Minh xâm
lược. Từ đó có thể thấy, những luận cứ trong bài đại cáo hết sức xác thực và giàu tính
chiến đấu. Qua tác phẩm, tác giả đã tố cáo tội ác dã man của bè lũ xâm lược và bán nước: “…Vừa rồi:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa
Bọn gian tà bán nước cầu vinh…”
Từ đây, từng câu từng chữ trong tác phẩm đều như một nét mực châm phá nên bức
tranh về bối cảnh loạn lạc của đất nước, và sự xảo trá, “mượn gió bẻ măng” và nham
hiểm của giặc Minh. Chúng sử dụng chiêu bài xâm lược “phù Trần diệt Hồ” với quân
bài chủ chốt Trần Thiêm Bình nhằm mua chuộc quý tộc nhà Trần về phe chúng để đô
hộ nước ta Những chính sách của chúng đều sặc mùi dối trá, phỉnh gạt:
“…Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế
Gây binh kết oán trải hai mươi năm…”
Chính từ đó, người đọc thấy rõ sự nhơ nhuốc, bại hoại nhân nghĩa và xảo quyệt không
lường của bọn xâm lược:
“…Bại nhân nghĩa nát cả đất trời
Nặng thuế khóa sạch không đầm núi…”
Chung quy lại, mục đích duy nhất mà giặc Minh hướng đến khi gót giày chúng dẫm
lên lãnh thổ Đại Việt là đô hộ và cai trị, âm mưu xóa sổ và thôn tính nước ta, vì lẽ đó
nên những điều ngụy biện của chúng chẳng thể dối gạt nhân dân Việt Nam, và tội ác,
thủ đoạn của chúng thật là “Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi”
Sau khi chỉ rõ âm mưu và sự bẩn thỉu trong kế sách xâm lược của quân Minh, tác giả
bắt đầu chuyển mạch ngôn từ và liệt kê hàng loạt tội ác của chúng:
“…Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ…”
Không từ thủ đoạn, quân xâm lược tàn sát người vô tội chẳng những nhằm thỏa mãn
thú tính và bản chất hung tàn của chúng mà còn âm mưu diệt chủng dân nước Nam, ép
những người không phục tùng chúng phải đi vào chỗ chết. Chẳng những vậy, đối với
những cuộc đấu tranh chống lại sự tàn độc của lũ xâm lược, chúng chẳng ngại ngần
dìm những cuộc khởi nghĩa vào bể máu, gây cảnh binh đạo. CHưa hết, giặc Minh còn
ra sức vơ vét của cải, sản vật quý hiếm của nước Nam để thỏa mãn nhu cầu vật chất,
thú vui xa hoa vô lối của chúng bằng cách bóc lột, bức ép người Việt phải săn lùng
sản vật để cống nộp bất chấp mạng sống:
“…Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập, thuồng luồng
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc
Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới chăng
Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi đặt cạm…”
Bằng biện pháp liệt kê, tác giả đã tài tình khắc họa về thảm cảnh tang tóc do chính
sách cai trị tàn bạo và vô luân lý của giặc Minh gây nên. Không dừng lại ở đó, quân
xâm lược còn thi hành hàng loạt biện pháp man rợ khác nhằm bóc lột sức lao động,
vắt kiệt sinh khí của nước ta, đồng thời tàn phá kế sinh nhai của nhân dân:
“…Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ
Nheo nhóc thay kẻ góa bụa khốn cùng…” Rồi thì:
“…Nay xây nhà, mai đắp đất, tay chân nào phục dịch cho vừa
Nặng nề những nỗi phu phen
Tan tác cả nghề canh cửi…”
Tất cả những tội ác của chúng đều được vạch rõ và chứng minh bằng những chứng cứ
xác đáng, không thể chối cãi, rồi dồn lại vào hình tượng đối lập giữa lũ giặc mọi rợ
hùng bạn với người dân nhỏ bé bị chúng hành hạ, vắt kiệt sức lực, mồ hôi, máu và nước mắt:
“…Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bất no nê chưa thỏa…”
Bại hoại nhân nghĩa, trời bất dung, đất bất thứ là những thứ dùng để diễn tả về những
tội ác đẫm máu của quân Minh trên đất Đại Việt. Tất cả đều được ngòi bút sắc hơn
ngọn giáo của Nguyễn Trãi ghi tạc vào sử sách bằng giọng điệu uất hận nghẹn ngào
kết hợp với biện pháp phóng đại, hình ảnh kì vĩ, vô tận, tội ác chồng chất bị phơi bày
trong bản cáo trạng đẫm máu và nước mắt. ở đây, bản tuyên ngôn độc lập còn có giá
trị như một bản tuyên ngôn nhân quyền, vạch rõ sự bại hoại nhân nghĩa của quân thù:
“…Lẽ nào trời đất dung tha
Ai bảo thân nhân chịu được…”
Tội ác mà thần bất dung, nhân bất thứ thì quả thật là “Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội.”
Qua những phân tích nêu trên, hậu thế có thể thấy thảm cảnh chiến tranh tang thương
đến nhường nào, từ đó ra sức đấu tranh vì một cuộc sống độc lập tự do cố gắng gìn
giữ nền hòa bình dân tộc, chủ quyền cương vực lãnh thổ. Đồng thời, phải ra sức phấn
đấu rèn luyện nhằm cống hiến và xây dựng quốc gia giàu đẹp, ấy vậy mới xứng đáng
với non sông mà ông cha phải đánh đổi cả máu xương mới gìn giữa được.
Tóm lại, qua đoạn hai của “Đại cáo bình Ngô”, có thể thấy rõ sự tàn bạo, thâm hiểm,
độc ác của giặc xâm lược, tất cả được khắc họa chi tiết nhờ nghệ thuật chính luận tài
tình của Nguyễn Trãi. Qua đó, hậu thế thấy được giá trị của việc bảo vệ và gìn giữ non sông gấm vóc Việt Nam.
Phân tích Bình Ngô Đại Cáo đoạn 2 đầy đủ Bài làm mẫu 1
Lấp lánh rọi sáng như một ngôi sao Khuê trong tâm hồn, trong trái tim “ ưu thời ái
quốc” - thâm thúy, sắc bén đầy biến hóa trong tài mưu lược chính trị; nhẹ nhàng mà
thanh tao, thi vị trong những vần thơ viết về thiên nhiên, Nguyễn Trãi đã tạc mình vào
vóc dáng dân tộc. Định mệnh có thể khiến con người ta sinh ly tử biệt song, thời gian
lại chẳng thể xóa nhòa những giá trị vĩnh hằng. Sự trường tồn của tên tuổi Nguyễn
Trãi cùng non sông nước Việt là minh chứng hùng hồn cho điều đó. Nếu Nguyễn Trãi
là nhà văn chính luận kiệt xuất mọi thời đại thì Bình Ngô Đại Cáo là áng văn bất hủ
của ông trong lịch sử văn học dân tộc Việt Nam. Tác phẩm gồm 4 phần: phần 1 nêu
luận đề chính nghĩa, phần 2 vạch rõ tội ác của kẻ thù, phần 3 kể lại quá trình chinh
phạt gian khổ và tất thắng của cuộc khởi nghĩa, phần 4 tuyên bố kết quả, khẳng định
sự nghiệp chính nghĩa. Bài viết sau đây sẽ chỉ làm rõ tội ác của giặc Minh qua phần 2 của tác phẩm.
Sau hơn 10 năm kháng chiến gian khổ và quyết liệt, tháng 1 năm 1428 nhân dân ta
dưới ngọn cờ của Lê Lợi, đã đánh đuổi giặc Minh ra khỏi đất nước. Sau chiến thắng,
Lê Lợi tổ chức phong thưởng cho tướng lĩnh và chính thức lên ngôi hoàng đế, Nguyễn
Trãi thay mặt nhà vua viết Bình Ngô Đại Cáo để tuyên bố cho toàn dân biết công cuộc
cứu nước đã thắng lợi. Từ đây, dân tộc sẽ bước vào một kỷ nguyên mới- kỷ nguyên hòa bình.
Đại Cáo Bình Ngô là tác phẩm của Nguyễn Trãi, tác phẩm này là một bản tuyên cáo
rộng rãi việc đã dẹp yên giặc Ngô. Người xưa gọi thế lực phong kiến phương Bắc là
giặc Ngô, giặc Ngô mà Nguyễn Trãi đề cập đến chính là giặc Minh.
Đoạn thơ thứ 2 chính là bản cáo trạng đanh thép, vạch trần tội ác của quân xâm lược
nhà Minh. Thừa cơ lợi dụng việc nhà Hồ chính sự đổ nát, giặc Minh kéo quân vào
nước ta, hòng chiếm đoạt đã được Nguyễn Trãi vạch rõ:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà,
Để trong nước lòng dân oán hận.
Quân cuồng Minh đã thừa cơ gây họa,
Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh.
Vào năm 1406, giặc Minh lấy cớ việc nhà Hồ cướp ngôi của nhà Trần mà huy động
20 vạn bộ binh và thủy binh, cùng với hàng chục dân phu vận chuyển dưới quyền chỉ
huy của năm tướng là Chu Năng, Trương Phụ, Mộc Thạnh, Lý Bân, Trần Húc. Chúng
chia làm hai cánh kéo vào xâm lược nước Đại Việt ta, cánh thứ nhất dưới sự chỉ huy
của Trương Phụ đi theo đường Bằng Tường, Quảng Tây mà tiến vào Lạng Sơn; cánh
thứ 2 do Mộc Thạnh chỉ huy đi theo sông Hồng kéo xuống. Chưa dừng lại ở đó, quân
Minh còn sai người mang sắc đến dụ vua Chămpa nhằm phối hợp để đánh quân ta ở biên giới phía Nam.
Từ năm 1407 đến 1427, 20 năm nhà Minh đô hộ nước ta là 20 năm chúng thực hiện
các chính sách và biện pháp từ tinh vi đến trắng trợn nhằm xóa bỏ quá khứ đấu tranh,
dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, chúng còn thủ tiêu những di sản văn hóa truyền
thống của nước ta, chúng muốn chiếm đóng vĩnh viễn đất nước ta. Chúng còn đốt sách
vở, ngay cả sách học của trẻ em và bia đá chúng cũng phá hủy. Ở đây ta thấy một lần
nữa tội ác tày trời của giặc Minh đối với nhân dân Đại Việt bấy giờ.
Tội ác mà giặc Minh gây ra cho Đại Việt ta, tác giả khẳng định đó là "Bại nhân nghĩa
nát cả đất trời". Sự tương đồng giữa âm mưu xâm lược và chính sách cai trị của chúng
thể hiện rất rõ, và điểm chung đều rất gian xảo và thâm độc. Chúng không còn chỉ là
vơ vét mọi sản vật, sức người nữa mà chúng đã tàn hại môi trường sống, tàn sát con
người mà không biết ghê tay.
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
Đọc hai câu thơ trên ta thấy được hình ảnh cụ thể nhưng cũng khái quát về lời cáo
trạng, buộc tội quân giặc. Dân đen là những kiếp người bé nhỏ, đó là những người ở
tận cùng của xã hội, họ là nạn nhân trực tiếp của tội ác mà giặc Minh reo rắc trên bờ
cõi đất nước ta. Đến đây ta mới thấy được tấm lòng rộng mở, một tư tưởng nhân đạo
sâu sắc của Nguyễn Trãi, ông viết nên những câu văn mang đầy giá trị nhân đạo giữa
con người với những con người với nhau.
Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.
Chọn cái vô cùng là trúc Nam Sơn, nước Đông Hải để nói về tội ác của loài quỷ dữ là
thằng há miệng, đứa nhe răng. Chúng và thú dữ chính là một, đều là loài động vật khát
máu người, không quan tâm đến con người ta đau khổ như thế nào mà chỉ mãi nhăm
nhe cắn xé. Hậu quả mà chúng tạo ra thật tàn khốc, gia đình không tan nát thì cũng là
mất chồng, mất vợ, con cái nheo nhóc, muôn loài bị phá hủy, sản xuất trì trệ, nhân dân khổ cực.
Khi đó nhân dân ta đã dũng mãnh, đứng lên dưới ngọn cờ của Lê Lợi mà tống cổ giặc
Minh ra khỏi đất nước.
Để có thể nêu rõ hơn tội ác xâm lược của giặc Minh, tác giả đã sử dụng phương pháp
liệt kê có chọn lọc, ông sử dụng những câu thơ giàu hình tượng, linh hoạt trong cách
sử dụng giọng văn. Lúc căm phẫn, tức giận với lũ giặc cướp nước; lúc thì đau xót,
thương cảm cho nhân dân Đại Việt ta.
Hai câu thơ cuối là lời kết án vô cùng đanh thép :
Lẽ nào trời đất dung tha,
Ai bảo thần dân chịu được?
Ý của tác giả ở đây là tội ác của giặc Minh đã vượt qua giới hạn của lẽ trời, hành động
tàn ác đầy nhơ bẩn của chúng đến cả thần và người đều không có cách nào tha thứ.
Đây là một bản cáo trạng đanh thép tội ác khủng khiếp của giặc Minh trong 20 năm đô
hộ nước ta. Để tăng thêm tính thuyết phục cho toàn đoạn tác giả đã đan xen sử dụng
hài hòa giữa hai hình ảnh mang tính chất khái quát và hình ảnh có tính cụ thể, sinh động.
Bằng cái tài và cái tâm của mình, Nguyễn Trãi đã làm cho Bình Ngô Đại Cáo xứng
đáng là áng văn thiên cổ hùng văn của dân tộc thời đó, thậm chí là bây giờ. Bài làm mẫu 2
Nếu như dân tộc ta biết đến Nam quốc sơn hà như một bản tuyên ngôn thứ nhất thì
Bình ngô đại cáo của Nguyễn Trãi là áng thiên cổ hùng văn – bản tuyên ngôn đất
nước thứ hai. Nguyễn Trãi bằng tài năng văn chương và chính trị của mình đã viết lên
bố cáo cho toàn thiên hạ được biết về trận chiến với giặc Minh. Đặc biệt phần một và
phần hai của bài cáo khẳng định chủ quyền dân tộc và vạch rõ âm mưu xâm chiếm nước ta của giặc Minh.
Trước hết Nguyễn Trãi nêu cao tư tưởng nhân nghĩa và khẳng định chủ quyền độc lập
dân tộc của nước ta. Việc nhân nghĩa theo Nguyễn Trãi là:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”
Tư tưởng nhân nghĩa được Nguyễn Trãi tiếp thu của nho giáo để đúc kết lên thành
khái niệm. Theo nhà văn, nhân nghĩa là dân được yên ổn, sống một cuộc sống yên
bình, ấm no. Mà để cho dân được sống một cuộc yên ổn thì phải lo trừ bạo, cụ thể là
dẹp thù trong giặc ngoài.
Sau khi nêu cao tư tưởng nhân nghĩa, Nguyễn Trãi bắt đầu khẳng định chủ quyền của dân tộc ta:
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Đã xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục bắc nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau
Nhưng hào kiệt đời nào cũng có”
Nước Đại Việt là một nước được xây dựng từ bao đời, có một nền văn hiến lâu đời.
Từ thuở trước biên giới bờ cõi đã được phân chia rõ ràng. Phong tục hai bên cũng
khác nhau. Tác giả đặt ngang hàng các thời đại của ta với các thời đại tương ứng của
Trung Quốc để khẳng định chủ quyền dân tộc. Có thể thấy Nguyễn Trãi khẳng định
chủ quyền đất nước ta trên tất cả các lĩnh vực: văn hóa, biên giới, thời đại. Biện pháp
nghệ thuật so sánh, đối kết hợp với câu văn biền ngẫu đã thể hiện rõ quan điểm của tác
giả. Dù mạnh yếu khác nhau từng song hào kiệt đời nào cũng có. Để chứng minh cho
câu nói “hào kiệt đời nào cũng có” và khẳng định chủ quyền bờ cõi, Nguyễn Trãi đã
nêu lên hàng loạt các dẫn chứng lịch sử về những trận bại lớn của giặc: “Cho nên
Lưu Cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét, chứng cớ còn ghi”
Lưu Cung, Triệu Tiết, Toa Đô, Ô Mã đều là những cái tên quan trọng của giặc. Chúng
là những tên cầm đầu cả một đoàn quân với số lượng lớn nhằm xâm chiếm nước ta.
Thế nhưng chiến tranh phi nghĩa thì không bao giờ có kết quả tốt. Đặc biết chúng là
những tham công, thích lớn nên càng dễ bị thất bại và tiêu diệt. Hàm Tử, Bạch Đằng
là những địa danh của ta, đó không chỉ nơi diễn ra trận chiến với giặc mà còn là nấm mồ chôn xác chúng.
Sau khi khẳng định chủ quyền dân tộc trên các lĩnh vực triều đại, văn hóa, biên giới,
lịch sử, Nguyễn Trãi trình bày cho toàn dân thiên hạ biết về âm mưu xâm chiếm nước
ta một lần nữa của bọn giặc Minh: “Vừa rồi:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa
Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh”
Nhà văn chỉ rõ nguyên nhân do chính sự nhà Hồ gặp rắc rối cho nên giặc Minh mượn
cớ phù Trần diệt Hồ để hòng xâm chiếm nước Đại Việt. Không chỉ quân giặc ngoại
xâm mưu mô xảo trá mà bọn nội phản trong nước cũng ngóc đầu dậy bán nước cầu
vinh. Chúng nghe theo lời của giặc ngoại xâm, chấp nhận làm tay sai cho chúng.
Tội ác của chúng gây ra cho nhân dân Đại Việt không hề nhỏ, chúng tán tận lương
tâm đẩy con dân ta vào những tình cảnh khổ tận cam lại, khốn nạn thay chúng vét sạch
cả núi sông và cả sức người Đại Việt:
"Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế
Gây thù kết oán trải mấy mươi năm
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời.
Nặng thuế khóa sạch không đầm núi.
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc.
Vét sản vật, bắt dò chim sả, chốn chốn lưới chăng.
Nhiễu nhân dân, bắt bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ
Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng”
Chúng “nướng dân đen” rồi vùi “con đỏ” xuống hầm để khai thác tài nguyên thiên
nhiên cho chúng. Chúng lừa dối trời lừa dối dân bằng muôn ngàn kế sách nhằm vơ vét
tài nguyên nước ta. Tội ác của chúng bại cả nhân nghĩa, tan nát cả đất trời, lòng dân
oán hận biết bao nhiêu năm nhưng không thể làm gì được chúng. Chúng không chỉ vơ
vét tài nguyên mà còn đặt ra hàng trăm thứ thuế đẩy người nông dân đến hoàn cảnh
khốn cùng. Người thì bị chúng ép xuống biển mò ngọc dù nơi đó cá mập vây quanh,
con dân có thể bị xé xác bất cứ lúc nào. Kẻ thì bị lên núi đãi cát tìm vàng dù rừng
thiêng nước độc. Hiện trạng đất nước được phô ra trước mắt với những hình ảnh đau
thương, khắp nơi khắp chốn cạm bẫy, lưới giăng đến cây cỏ còn bị sát hại huống chi
đến con người. Từ những sản vật cho đến động vật, thực vật đều không sống nổi với
sự tàn ác của giặc Minh. Khốn thay cho những người phụ nữ góa chồng.
Đối lập với nỗi khốn khổ của nhân dân Đại Việt, lũ giặc Minh giống như một lũ quỷ
răng nanh máu me kinh khủng:
“Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán,
Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa?
Nặng nề những nỗi phu phen
Tan tác cả nghề canh cửi.
Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi !
Lẽ nào trời đất dung tha? Ai bảo thần dân chịu được?”
Chúng hiện lên như những con quỷ béo mỡ, đáng sợ. Với cái miệng rộng và hàm răng
quỷ dữ ấy chúng bắt nhân dân ta nay xây nhà mai đắp đất. Rồi ai phục dịch chúng cho
vừa, nặng nề và tan tác cả nghề canh cửi. Tác giả sử dụng biện pháp nghệ thuật đảo
cấu trúc câu “độc ác thay…” “Dơ bẩn thay…” nhằm nhấn mạnh vào sự khinh bỉ và
căm phẫn tội ác của giặc Minh. Tội ác của chúng dẫu có bao nhiêu trúc Nam Sơn cũng
không ghi hết tội, nước Đông Hải có nhiều cũng không rửa sạch mùi. Tội ác tày trời
đất chẳng lẽ nào dung tha cho chúng, lòng dân sẽ nổi dậy.
Như vậy, phần một và phần hai của bài cáo đã khẳng định chủ quyền của nhân dân
Đại Việt. Đồng thời vạch rõ âm mưu xâm chiếm của giặc Minh. Tội ác của chúng
được phơi bày ra cho toàn dân thiên hạ được biết. Tội ác của chúng không thể nào
dung tha. Bài cáo sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật như đối lập, miêu tả, so sánh kết
hợp với lối văn biền ngầu tự do đã thể hiện rõ được nội dung mà tác giả muốn trình bày. Bài làm mẫu 3
“Văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát li hay sự quên;
trái lại văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố
cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác..”(Thạch Lam). Đúng vậy, văn
chương chính là cánh tay đắc lực của mỗi thời kỳ lịch sử, để vạch trần bộ mặt xã hội
giả dối, lên án những thế lực bạo tàn, với tư cách ấy, áng thiên cổ hùng văn “Bình ngô
đại cáo” ở đoạn thứ 2 đã bóc trần tội ác nhơ bẩn của quân xâm lược mà đến hàng năm
sau không thể rửa hết tội.
Văn chính luận của Nguyễn Trãi đều là những lớp ngôn từ sắc sảo, lớp lang, theo trình
tự lập luận logic, ngay cả khi luận tội kẻ thù xâm lược, mạch lập luận vẫn rất đanh
thép, rõ ràng. Trước hết, nhà thơ chỉ ra động cơ thâm độc, và bộ mặt giả nhân giả nghĩa của quân địch: “…Vừa rồi:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa
Bọn gian tà bán nước cầu vinh…”
Ngay từ những câu thơ mở đầu này, người đọc thấy ngay được âm mưu bất thành của
kẻ thù, đồng thời vạch trần được bộ mặt giả tạo, mưu sâu kế hiểm của quân địch.
Chúng sử dụng chiêu bài xâm lược “phù Trần diệt Hồ” với quân bài chủ chốt Trần
Thiêm Bình nhằm mua chuộc quý tộc nhà Trần về phe chúng để đô hộ nước ta Những
chính sách của chúng đều sặc mùi dối trá, phỉnh gạt:
“Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế
Gây binh kết oán trải hai mươi năm”
Nhờ ngòi bút sắc lạnh, đanh thép của Nguyễn Trãi mà ta nhận ra được bộ mặt bất
nhân bất nghĩa đằng sau kế hoạch thâm độc của chúng, đáng tiếc thay, công lý không
bao giờ đứng về những kẻ bất nhân, tội ác của chúng trời không dung đất không tha:
“Bại nhân nghĩa nát cả đất trời
Nặng thuế khóa sạch không đầm núi”
Nhưng đau đớn hơn, là tội ác chúng gây ra cho dân tộc, những người dân đen con đỏ,
đầy thương xót. Dưới ngòi bút sắc sảo của thi hào Nguyễn Trãi, chưa bao giờ hình ảnh
nhân dân hiện lên lại chua xót, cay đắng và đầy căm phẫn đến như vậy:
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ…”
“Dân đen, con đỏ”, những người dân manh lệ, quanh năm lo làm ăn thiện lương, một
lòng gắn bó với tấc đất, với nhà cửa ruộng vườn, đâu nên nỗi bị chúng giày xéo dưới
gót giày nhơ nhuốc của chúng. Hình ảnh nhân hóa, cũng như thủ pháp đặc tả ấn tượng
của Nguyễn Trãi đã một lần nữa vạch mặt chỉ tên tội ác dã man, tàn bạo của quân xâm
lược lúc bây giờ, lũ cuồng quân, mang cuồng vọng hàm hồ coi mạng người như cỏ
rác, sẵn sàng chà đạp, giày xéo, ăn thịt, uống máu người không tanh. Tội ác của
chúng, nghìn năm sau, sử sách còn lưu lại, trời không dung đất không tha. Chưa dừng
lại ở đó, giặc Minh còn ra sức vơ vét của cải, sản vật quý hiếm của nước Nam để thỏa
mãn nhu cầu vật chất, thú ăn chơi nhung lụa xa xỉ, xa hoa, đồi trụy của chúng bằng
cách bức ép, bóc lột, đe dọa người Việt phải săn lùng sản vật để cống nộp bất chấp mạng sống:
“…Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập, thuồng luồng
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc:
Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới chăng
Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi đặt cạm…”
Biện pháp liệt kê được đặc sử dụng trong trường hợp này, như muốn nhấn mạnh, như
muốn gắn thêm vào trang văn tội tác tanh máu, nhơ nhuốc của lũ cuồng quân ngạo
mạn, không bằng cầm thú lúc bấy giờ. Lời văn tả ra, hệt như thấy được cái sục sôi,
căm phẫn, bức bách của người viết khi nghĩ đến nhân dân bị chà đạp, bị xâu xé dưới
gót giày dã man, tàn bạo của quân giặc.
Tội ác tày đình đầy căm phẫn của chúng, không chỉ khiến dân chúng lầm than oán
than, mà khiến cả thiên nhiên cũng phẫn nộ, cũng muốn gào thét để đem lũ cuồng
quân này diệt sạch, để thay trời hành đạo:
“Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội.”
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi…”
Hai câu thơ, với vế đối cân xứng, nhà thơ phần nào cho thấy được tội tác khó lòng
dung tha, đầy bất mãn, ác độc của quân xâm lược, đồng thời từ đó gợi lên một thời kỳ
lịch sử đầy đau thương của dân tộc, những người dân đen con đỏ lầm than, khốn khó
bị đưa vào vòng xoáy của những cuộc chiến tranh phi nghĩa.
Bằng lời văn đanh thép, hùng hồn thấm đẫm trong từng lời thơ, mạch chảy của đoạn
thơ, Nguyễn Trãi một lần nữa phơi bày sâu sắc, lột trần bản chất bất nhân bất nghĩa,
thú tính ác độc của quân xâm lược. Bài làm mẫu 4
Nếu như đoạn 1 đề cao sự nhân nghĩa và khẳng định chủ quyền dân tộc thì đoạn 2 của
tác phẩm Bình ngô đại cáo chủ yếu tố cáo những tội ác của giặc Minh trong thời gian chúng đô hộ nước ta.
Tác giả đề cập đến thời gian nhà Hồ suy yếu, giặc Minh lợi dụng danh nghĩa “phù
Trần diệt Hồ” gây chia rẽ trong nước, gây bạo loạn và mục đích cướp đất nước ta.
“Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh đã thừa cơ gây hoạ
Bọn gian ta còn bán nước cầu vinh”
Giặc ngoại xâm thật thâm độc, chính sách cai trị tàn bạo, vô nhân tính chẳng khác nào
hành động diệt chủng như giết hại nhân dân “Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn-
Vùi con đỏ xuống hầm tai vạ”, ra sức thu thuế khóa mục đích chiếm càng nhiều tài sản
càng tốt, sử dụng con người khai thác tài nguyên đến nguy hiểm tính mạng “ép xuống
biển mò ngọc” đối mặt với mối nguy từ các cá mập, thuồng luồng, “vào núi đãi cát
tìm vàng” nơi chốn rừng thiêng nước độc và rất nhiều người đã bỏ mạng.
Không chỉ với con người mà chúng còn “Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ” phá hoại môi trường nặng nề.
Tất cả đều khiến rất nhiều gia đình ly tán chia lìa, xã hội tan thương, nhân dân rơi vào
tình cảnh túng quẫn cùng cực.
Nguyễn Trãi trong đoạn 2 Bình ngô đại cáo đã tố cáo tội ác man rợ của giặc Minh
nhiều đến nỗi “trúc Nam Sơn không ghi hết tội” “nước Đông hải không rửa sạch mùi”,
qua đó tỏ thái độ căm phẫn, uất ức bọn xâm lược đó cũng chính là nỗi đau nhân dân
tầng lớp nghèo khổ trong xã hội. Chứng kiến những điều tàn bạo, phi đạo lý đó lẽ nào
trời đất dung thứ cho chúng?
Lẽ nào trời đất dung tha
Ai bảo thần dân chịu được?
Đoạn 2 Bình ngô đại cáo chính là lời tố cáo mạnh mẽ sự tàn bạo, độc ác mà giặc Minh
đang giày xéo trên đất nước. Khi có sự áp bức chắc chắn sẽ có đấu tranh, khởi nghĩa
và có thể khẳng định chính nghĩa chắc chắn sẽ giành thắng lợi sau cùng. Bài làm mẫu 5
Lịch sử Việt Nam với những cuộc chiến tranh vệ quốc hào hùng đã sinh ra trên đất
nước ta bao anh hùng lỗi lạc mà Nguyễn Trãi là một trong số đó. Là một người văn võ
toàn tài, Nguyễn Trãi không chỉ là một nhà chính trị, một quân sư tài ba mà còn là một
nhà văn hóa, một nhà thơ kiệt xuất. Những áng thơ văn của ông là sự hòa quyện của
tình yêu nước, thương dân, nỗi trăn trở trước thời cuộc và nghệ thuật văn chương độc
đáo. Nhắc đến Nguyễn Trãi, ta không thể nhắc đến thơ văn chính luận của ông, trong
đó đặc biệt nhất phải kể đến "Bình Ngô Đại Cáo" - bản tuyên ngôn độc lập, bản hùng
ca tráng lệ về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và khẳng định chủ quyền trên đất Việt. Một
trong những phân đoạn đặc sắc của bài cáo là đoạn 2, vạch trần tội ác của giặc Minh trên nước ta.
Mở đầu đoạn cáo, Nguyễn Trãi tái hiện bối cảnh giặc Minh tràn vào xâm lược nước ta:
"Nhân họ Hồ chính sự phiền hà,
Để trong nước lòng dân oán hận.
Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa,
Bọn gian tà bán nước cầu vinh."
Năm 1400, Hồ Quý Ly cướp ngôi vua Trần, lên ngôi đổi tên nước ta thành Đại Ngu.
Dù thực hiện nhiều cải cách song do không được lòng dân, nhà Hồ gặp nhiều khó
khăn. Đến năm 1406, nhà Minh lấy cớ "phù Trần diệt Hồ" xâm lược nước ta và nhanh
chóng giành thắng lợi. Nước ta rơi vào vòng đô hộ của nhà Minh. Bối cảnh đó được
Nguyễn Trãi thuật lại trong những dòng cáo ngắn gọn: quân Minh lợi dụng lúc "chính
sự phiền hà" tiến vào xâm lược nước ta, ấy là giặc ngoài. Bọn gian tà cũng nhân thời
cơ ấy, vội vã "bán nước cầu vinh", ấy là thù trong. Thù trong, giặc ngoài, lại thêm
lòng dân hướng về nhà Trần, những lý do ấy khiến nhà Hồ mất nước vào tay giặc Minh.
Việc thôn tính nhà Hồ không phải là quyết định nhất thời mà là mưu kế giặc Minh
tính toán đã lâu. Chúng hành động man rợ, quỷ quyệt:
"Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế
Gây binh kết oán trải hai mươi năm
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời
Nặng thuế khóa sạch không đầm núi"
Thực vậy, chúng dùng lá bài "phù Trần diệt Hồ" để thôn tính lòng dân vốn đang
hướng sự căm hận vào nhà Hồ, trái mệnh trời mang quân xâm lược nước ta. Nguyễn
Trãi lạnh lùng khẳng định việc làm của chúng "bại nhân nghĩa" đến độ "nát cả đất
trời", đồng thời vạch trần sự bóc lột của chúng, chúng vơ vét đất nước ta "sạch không đầm núi".
Nhưng chỉ vơ vét của cải tài nguyên của đất nước ta thì không đủ thỏa mãn lòng tham
không đáy của chúng. Lũ giặc ngoại xâm man rợ đã gây ra những tội ác không thể dung thứ:
"Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ"
Đọc lại sử sách cũ, chúng ta có thể thấy hai câu trên hoàn toàn không phải là cách diễn
đạt cường điệu mà là sự thật: Giặc Minh hết sức hung tàn, chúng thường rút ruột
người treo lên cây, nấu xác người lấy mỡ thắp đèn, nhiều khi chúng mua vui bằng
cách nướng những người dân vô tội. Bằng những hình ảnh mang sắc thái tương phản
dữ dội: "dân đen" - "con đỏ" cùng những động từ mạnh "nướng", "vùi", những tính từ
mang sắc thái căm hờn "hung tàn", "tai vạ", Nguyễn Trãi xé toạc mặt nạ cùng con bài
giả dối của giặc Minh, phơi bày tội ác của chúng ra ánh sáng. Giặc ngoại xâm không
chỉ vơ vét của cải đất nước ta, mà chúng ăn thịt, uống máu nhân dân ta, tàn hại đất
nước ta. Trong những câu sau, Nguyễn Trãi làm rõ hơn những tội ác và yêu sách
chúng đầy lên người nhân dân Đại Việt:
"Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc.
Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới chăng.
Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,
Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng."
Giặc Minh thực hiện một chế độ sưu thuế cống nạp nặng nề nhằm vơ vét của cải, bất
chấp nguy hiểm trung trùng có thể làm hại nhân dân ta. Cách viết câu thơ biền ngẫu
đối xứng càng làm nổi bật nỗi khổ của nhân dân ta. Nguyễn Trãi khéo léo vô cùng khi
sắp xếp một bên là những sản vật quý giá: "ngọc", "vàng", "sản vật", "chim trả",
"hươu đen"; một bên là những hiểm nguy trung trùng: "cá mập thuồng luồng", "rừng
sâu nước độc", "lưới chăng", "cạm đặt". Sản vật càng quý giá bao nhiêu, những gian
nguy phải đối diện khi tìm lấy sản vật càng nguy hiểm bấy nhiêu. Bằng biện pháp liệt
kê, tác giả đã tài tình khắc họa về thảm cảnh tang tóc do chính sách cai trị tàn bạo và
vô luân lí của giặc Minh gây nên. Cuộc sống của nhân dân không còn lại gì, khi chúng
"tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ", đẩy nhân dân vào cảnh "góa bụa khốn cùng".
Không chỉ dừng lại ở đó, giặc Minh còn bóc lột sức lao động, tàn phá kế sinh nhai của nhân dân ta:
"Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán,
Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa?
Nặng nề những nỗi phu phen
Tan tác cả nghề canh cửi."
Dưới ngòi bút Nguyễn Trãi, lũ giặc ngoại xâm man rợ hiện lên như những con quỷ
"thằng há miệng, đứa nhe răng", ăn thịt uống máu nhân dân ta "no nê chưa chán".
Chúng hạch sách, thi hành chính sách phu phen nặng nề, hủy hoại những nét văn hóa,
những ngành nghề truyền thống của ta. Cuộc sống của nhân dân ta hoàn toàn bị đình
trệ khi "nay xây nhà, mai đắp đất", "tan tác cả nghề canh cửi". Một lần nữa cách sắp
xếp câu văn biền ngẫu lại phát huy tác dụng; các câu văn được sắp xếp có chủ ý tạo
giọng điệu dồn dập, đẩy nỗi hờn căm lên đến cao trào. Tất cả những tội ác của chúng
đều được vạch rõ và chứng minh bằng những chứng cứ xác đáng, không thể chối cãi,
rồi dồn lại vào hình tượng đối lập giữa lũ giặc mọi rợ hung hăng với người dân nhỏ bé
bị chúng hành hạ, vắt kiệt sức lực, mồ hôi, máu và nước mắt.
Chỉ trong vỏn vẹn 20 câu văn, Nguyễn Trãi đã ghi lại trọn vẹn tội ác của giặc Minh từ
khi chúng âm mưu cướp nước ta cho đến khi đô hộ nước ta. Chúng lợi dụng tình thế
rối ren khi nhà Hồ cướp ngôi nhà Trần, xen vào để xâm lược nước ta. Khi đã thành
công biến ta thành một quận của mình, giặc Minh hạch sách, hành hạ nhân dân ta đủ
điều; chúng ăn thịt, uống máu, giết hại nhân dân vô tội, vơ vét sản vật, thu thuế nặng
nề, áp dụng chế độ phu phen hà khắc, tàn phá kế sinh nhai của nhân dân ta. Đây đều là
sự thật lịch sử. Song, thay vì những dòng chính sự lạnh lùng, Nguyễn Trãi tái hiện
thảm cảnh đau thương trong những năm giặc Minh đô hộ bằng những câu văn biền
ngẫu có nhịp điệu dồn dập, hình ảnh, ngôn từ chân thực và dữ dội. Trong những câu
văn ấy, ta thấy nỗi hờn căm dâng lên không ngừng, ngòi bút Nguyễn Trãi như biến
thành ngọn giáo, và cuối cùng đâm vào kẻ thù bằng một lời buộc tội đanh thép:
"Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.
Lẽ nào trời đất dung tha
Ai bảo thần dân chịu được?"
Trúc Nam Sơn nhiều không đếm xuể, nước Đông Hải chẳng bao giờ cạn. Ấy vậy mà
Nguyễn Trãi viết rằng "trúc Nam Sơn không ghi hết tội", "nước Đông Hải không rửa
sạch mùi" để nói về những tội ác của giặc Minh. Trong những câu văn của Nguyễn
Trãi, giặc Minh hiện ra là những kẻ độc ác tột cùng, dơ bẩn tột cùng. Dẫu lấy trúc
Nam Sơn làm sách, hay dùng nước Đông Hải mà gột rửa cũng không cách nào ghi hết
hay rửa sạch tội lỗi của chúng. Lẽ thường "ác giả ác báo", trước tội ác chất chồng như
vậy, "lẽ nào trời đất dung tha"? Nguyễn Trãi đã sử dụng hiệu quả biện pháp nói quá,
thổi bùng lòng căm hận với giặc Minh, nhấn mạnh vào tội ác của chúng, rồi bật thốt
lên một câu hỏi tức tưởi:
"Lẽ nào trời đất dung tha
Ai bảo thần dân chịu được?"
Đó là một câu hỏi không cần lời đáp. Bởi lẽ, sự thật lịch sử đã đáp lời Nguyễn Trãi: ác
giả phải có ác báo. Trước những tội ác chất chồng của giặc Minh, trước hành động
xâm lược trái với lẽ trời của chúng, nhân dân ta không thể mãi khom lưng uốn gối,
cam chịu cảnh bị đô hộ. Hàng loại các cuộc khởi nghĩa chống giặc Minh ra đời, mà
trong đó có nghĩa quân Lam Sơn. Sau cùng, với tài chỉ huy của Lê Lợi, kế sách tuyệt
diệu của Nguyễn Trãi, khởi nghĩa Lam Sơn toàn thắng, giành lại tự do cho nhân dân
ta, quét sạch giặc Minh khỏi bờ cõi ta, buộc chúng phải rời khỏi nước ta trong bộ dạng đớn hèn nhất.
Bằng ngòi bút tài hoa, trí tuệ hơn người cùng trái tim nhân đạo nhìn thấu được khổ
đau trên khắp bờ cõi Đại Việt, Nguyễn Trãi đã vạch trần âm mưu thâm độc xâm lược
nước ta, đồng thời vạch trần tội ác man rợ của giặc Minh. Với tư tưởng nhân đạo sâu
sắc, đoạn 2 Bình Ngô đại cáo như một bản luận tội đanh thép dành cho giặc Minh,
đồng thời là lời tuyên ngôn đòi hỏi nhân quyền cho nhân dân Đại Việt. Đây đồng thời
cũng là phần quan trọng của bài cáo khi là tiền đề, là nguyên nhân trực tiếp diễn ra
cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, được tác giả đề cập ở phần sau của tác phẩm.