Phân tích đoạn trích Trao duyên trong Truyện Kiều của Nguyễn Du - Ngữ văn 10

Toàn bộ đoạn văn là nỗi lòng đau đớn, tan nát của Kiều. Con chim sắp chết thì lời kêu thương, mối tình sắp mất thì lời thê thảm. Đây đúng là đoạn văn lâm ly nhất trong tác phẩm Truyện Kiều. Tài liệu giúp bạn tham khảo ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

Chủ đề:

Văn mẫu 10 214 tài liệu

Môn:

Ngữ Văn 10 1.3 K tài liệu

Thông tin:
5 trang 5 ngày trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Phân tích đoạn trích Trao duyên trong Truyện Kiều của Nguyễn Du - Ngữ văn 10

Toàn bộ đoạn văn là nỗi lòng đau đớn, tan nát của Kiều. Con chim sắp chết thì lời kêu thương, mối tình sắp mất thì lời thê thảm. Đây đúng là đoạn văn lâm ly nhất trong tác phẩm Truyện Kiều. Tài liệu giúp bạn tham khảo ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

17 9 lượt tải Tải xuống
Phân tích đoạn trích Trao duyên trong Truyện Kiều của
Nguyễn Du
1. Tác phẩm
"Câỵ em em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.
Giữa đường đứt gánh tương tư,
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.
Kể từ khi gặp chàng Kim,
Khi ngày quạt ướt khi đêm chén thề.
Sự đâu sóng gió bất kỳ,
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai.
Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tình máu mủ thay lời nước non.
Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.
Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ vật này của chung.
Dù em nên vợ nên chồng,
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên.
Mất người còn chút của tin
Phim đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.
Mai sau dù có bao giờ,
Đốt lò hương ấy so tơ phím này.
Trông ra ngọn cỏ lá cây,
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.
Hồn con mang nặng lời thề,
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai
Dạ đài cách mặt khuất lời
Rưới xin giọt nước cho người thác oan.
Bây giờ trâm gãy gương tan,
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!
Trăm nghìn gửi lạy tình quân
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!
Phận sao phận bạc như vôi!
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng
Ôi Kim lang! hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!
2. Mở bài
Sau khi đã giải quyết xong thủ tục bán mình (Tờ đơn đã ký, cân vàng đã trao), lấy tiền
lo lót cho xong vụ kiện. Kiểu đang chlên xe hoa theo Giám Sinh. Đêm ấy kiều bồi
hồi thương cho Kim Trọng tìm cách trả lại nợ tình cho chàng. Để thắp sáng đêm, nước
mắt đầm đìa. Nhân Thuý Vân thức dậy hỏi, Kiều bây giờ mới cậy em thay lời trao
duyên cho em. Đây đoạn thơ trữ tình độc nhất trong truyện Kiều. Trước đây Tản Đà
từng nhận xét: "Trong cả quyển Kiều, văn tả tình không mấy đoạn dài hơn như đây.
Đoạn này thật lâm li, mà như thế mới hết tình sự".
3. Thân bài
Nếu nói Nguyễn du là nghệ sĩ tài hoa bậc thầy với miêu tả tâm lý nhân vật thì đoạn này
là đoạn thơ tiêu biểu nhất, thần tình nhất, khiến cho các nhà phân tích, nh giảng trước
nay không hết lời thán phc ngợi ca. Ông T Viễn đã những lời phân tích,
bình phẩm thấu đáo nhất đối với hai câu sau đây. Mở đầu đoạn trích, Nguyễn Du đã
viết:
"Cậy em, em có chịu lời"
Tại sao lại dùng từ "cậy" mà không dùng từ "nh", ông Lê Chí viễn giải thích ngoài lý do
thanh điệu "trắc", gây một điểm nhắn lắng đọng cho câu thơ, còn chcậy bao hàm
cái ý hi vọng tha thiết của một lời trông cậy, ý nương tựa, gửi gắm nơi quan hệ ruột
thịt. Nếu dùng từ "nhờ" thì bấy nhiêu ý nghĩa sẽ nhạt hết. Còn sử dụng từ "chịu" thay
từ "nhận" cũng bởi từ "chịu" một lời thể hiện sự chấp nhận bắt buộc trong
trường hợp này Kiều muốn Vân không thể từ chối đề nghị của mình. Đồng thời cách sử
dụng từ "chịu" cũng diễn tả Thúy Kiều hiểu được nỗi khổ của Thúy Vân khi mình nhờ
cậy, nhưng không còn cách nào khác. Lời lẽ thắt buộc được lựa chọn thật chính xác và
chặt chẽ.
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa
Cái yêu cầu em ngồi lên trên ghế để Kiều lạy trước rồi mới thưa sau cũng một ý nài
ép như vậy. Nhưng bây giờ Kiều lại dùng lễ nghi để bái buộc với nội dung nghiêm
trang. Vừa tình vừa lễ như vậy thì Vân chối sao đặng.
Lời thơ của Thúy Kiều rất rõ ràng, vắn tắt và dứt khoát:
Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp nối tơ thừa mặc em!
Người xưa xem tình yêu một gánh nghĩa vụ, gánh nặng, cho nên nói gánh tương
tư. Mà giữa đường đứt gánh thì dang dở vô cùng. Hình ảnh đã nói rõ tình trạng bất lực
của Thúy Kiều. Mọi việc Kiều chỉ đánh phó thác cho em gánh, đây dùng chỉ nối mối
y duyên. Nhưng duyên này đã đứt, đối với Thúy Vân, Kiều hiểu rằng đó
một mối tơ thừa. Thúy Kiều hoàn toàn thấu hiểu cảm giác và tình cảm thiệt thòi ca em
nhưng không còn cách nào nên cũng đành nói: "mặc em". Câu nói này không chỉ mang
giọng điệu nhờ cậy còn mang giọng điệu của người chị phó thác trách nhiệm cho
người em, cho nên rất nhiều sức nặng. Bốn câu thơ đã nói hết tình trông cậy, ủy
thác và nài ép, không cho Thúy Vân có cơ hội chối từ.
Nhờ cậy xong Kiều mới nói lý do:
"Kể từ khi gặp chàng Kim,
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề
Sự đau sóng gió bất kỳ
Hiếu, tình khôn lẽ hai bề vẹn hai"
Nội dung thông báo cụ thể nhưng sự trùng điệp ba chữ "khi": khi gặp, khi ngày, khi đêm
đã nói lên sự thề ước nhiều lần sâu nặng, không thể nuốt lời nên đành phải nhờ cậy
em.
Từ đây Kiều chuyển sang phân tích ý nghĩa:
"Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ, thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây"
Tuổi trẻ còn lâu dài, Phương chị hãy thay chị nối tình với Kim Trọng, chị
chết cũng cam lòng, vì đã có được tiếng thơm là người có tình nghĩa với chàng. Những
điều đặc biệt từ đây trở đi Kiều coi mình như đã chết. Câu "ngày xuân em y còn
dài" cũng nghĩa "ngày xuân của chị đã hết rồi, chn thịt nát xương mòn"
"ngậm cười chín suối", nơi cõi chết, chín suối nơi đất rất sâu, người ta dùng để mai
táng người đã mất.
Nói xong lời thoả nguyện bình sinh và hàm ơn đối với em, Kiều liền trao vật kỉ niệm:
Chiếc thoa với bức tờ mây
Duyên này thì giữ vật này của chung
Kim thoa tặng vật đầu tiên Kim Trọng tặng cho Thúy Kiều khi nàng nhận lời. Từ
mây từ hoa tiên vvân mây, trên đó Kiều đã ghi lời thề. Lạ nhất câu tiếp theo:
Duyên này thì giữ vật này của chung. Nhiều nhà bình lun đã cho rằng: kiều trao duyên
chứ không trao tình. Kiều trao lại kỷ vật cho em nhưng còn cái hồn của kỷ vật - tức
mối tình trao gửi, cái ngất ngây, nồng nàn lời thề dưới trăng của Kiu và Kim Trọng thì
làm sao mà trao được. Nó thuộc về quá khứ đã chôn sâu trong trái tim Kiều cho nên chỉ
có thể là của chung.
Nhưng kỷ vật này cũng không phải chỉ kỷ vt tình yêu của hai người, trước kia đó
kỷ vật định tình của Kiều Kim nay đã trở thành kỷ vật của Kim Vân. Tnay
còn kỷ vật làm tin nhắc nhở đến chị, em khi được hạnh phúc thì cũng đừng quên
chị:
Dù em nên vợ nên chồng
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên
Mất người còn chút của tin
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa
Cây đàn hồ ngày nào đàn cho kim trọng mnh trầm hương ngày nào từng chứng
kiến lời thề cũng để lại cho em như của tin. Đối với chị chúng đã trở thành quá khứ
xa xôi. Đến đây kiểu lại cảm thấy mình như người đã chết. Kiều đã mất hết niềm tin vào
hiện tại. Tương lai của nàng trông cậy vào lòng thương. Kiểu sau này chỉ còn ngọn
gió vật vờ nơi cây ngọn cỏ. vậy Kiều vẫn mang nặng lời thề, cho tan tành
xác thân bồ liễu, nàng cũng quyết đền ơn đáp nghĩa cho Kim Trọng.
Từ khi trao lại kỷ vật Kiều dường như quên hẳn hiện tại, nàng chỉ sống với cái mai hậu
của mình, nàng hi vọng em chàng Kim tương lai sẽ được hạnh phúc. Hiện
tại với nàng chỉ là con số không:
Bây giờ trâm gãy, bình tân
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân
Trăm nghìn gửi lại tình quân
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi
"Trâm gãy bình tan" hình nh của tình duyên tan vỡ, một lời kêu than, lời tiếc nuối.
Kiểu tự cảm thấy có lỗi rất lớn vi Kim Trọng, cho nên gửi lại chàng trăm lạy, nghìn lạy.
Đoạn thơ:
Phận sao phận bạc như vôi
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng
Ôi Kim lang! hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây
Đó là một lời oán trách cho số phận vô lý nhưng cũng thể hiện sự bất lực của nàng. "Đã
đành nước chảy hoa trôi lỡ làng" cảnh xuân đã hết, hoa rụng, nước chạy đưa cánh
hoa trôi nổi và phiêu dạt.
Hai u thơ cuối cùng lời than của Kiều với Kim, thương xót cho Kim. "Thôi thôi"
cũng là tiếng than tiếc và dằn vặt, là sự xác nhận cho sự phụ bạc của mình.
4. Kết bài
Đoạn trao duyên đây đúng Kiều đã nói hết lời. thể nói Nguyễn Du đã hình dung
trạng thái tâm của Kiều thật chính xác với hiện thực. Toàn bộ đoạn văn nỗi lòng
đau đớn, tan t của Kiều. Con chim sắp chết thì lời kêu thương, mối tình sắp mất thì
lời thê thảm. Đây đúng là đoạn văn lâm ly nhất trong tác phẩm Truyện Kiều.
| 1/5

Preview text:

Phân tích đoạn trích Trao duyên trong Truyện Kiều của Nguyễn Du 1. Tác phẩm
"Câỵ em em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.
Giữa đường đứt gánh tương tư,
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.
Kể từ khi gặp chàng Kim,
Khi ngày quạt ướt khi đêm chén thề.
Sự đâu sóng gió bất kỳ,
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai.
Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tình máu mủ thay lời nước non.
Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.
Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ vật này của chung.
Dù em nên vợ nên chồng,
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên.
Mất người còn chút của tin
Phim đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa. Mai sau dù có bao giờ,
Đốt lò hương ấy so tơ phím này.
Trông ra ngọn cỏ lá cây,
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.
Hồn con mang nặng lời thề,
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai
Dạ đài cách mặt khuất lời
Rưới xin giọt nước cho người thác oan.
Bây giờ trâm gãy gương tan,
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!
Trăm nghìn gửi lạy tình quân
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!
Phận sao phận bạc như vôi!
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng Ôi Kim lang! hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây! 2. Mở bài
Sau khi đã giải quyết xong thủ tục bán mình (Tờ đơn đã ký, cân vàng đã trao), lấy tiền
lo lót cho xong vụ kiện. Kiểu đang chờ lên xe hoa theo Mã Giám Sinh. Đêm ấy kiều bồi
hồi thương cho Kim Trọng tìm cách trả lại nợ tình cho chàng. Để thắp sáng đêm, nước
mắt đầm đìa. Nhân Thuý Vân thức dậy hỏi, Kiều bây giờ mới cậy em thay lời và trao
duyên cho em. Đây là đoạn thơ trữ tình độc nhất trong truyện Kiều. Trước đây Tản Đà
từng nhận xét: "Trong cả quyển Kiều, văn tả tình không mấy đoạn dài hơn như đây.
Đoạn này thật lâm li, mà như thế mới hết tình sự". 3. Thân bài
Nếu nói Nguyễn du là nghệ sĩ tài hoa bậc thầy với miêu tả tâm lý nhân vật thì đoạn này
là đoạn thơ tiêu biểu nhất, thần tình nhất, khiến cho các nhà phân tích, bình giảng trước
nay không hết lời thán phục và ngợi ca. Ông Lê Trí Viễn đã có những lời phân tích,
bình phẩm thấu đáo nhất đối với hai câu sau đây. Mở đầu đoạn trích, Nguyễn Du đã viết:
"Cậy em, em có chịu lời"
Tại sao lại dùng từ "cậy" mà không dùng từ "nhờ", ông Lê Chí viễn giải thích ngoài lý do
thanh điệu "trắc", gây một điểm nhắn lắng đọng cho câu thơ, còn vì chữ cậy bao hàm
cái ý hi vọng tha thiết của một lời trông cậy, có ý nương tựa, gửi gắm nơi quan hệ ruột
thịt. Nếu dùng từ "nhờ" thì bấy nhiêu ý nghĩa sẽ nhạt hết. Còn sử dụng từ "chịu" thay vì
từ "nhận" cũng là bởi từ "chịu" là một lời thể hiện sự chấp nhận bắt buộc mà trong
trường hợp này Kiều muốn Vân không thể từ chối đề nghị của mình. Đồng thời cách sử
dụng từ "chịu" cũng diễn tả Thúy Kiều hiểu được nỗi khổ của Thúy Vân khi mình nhờ
cậy, nhưng không còn cách nào khác. Lời lẽ thắt buộc được lựa chọn thật chính xác và chặt chẽ.
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa
Cái yêu cầu em ngồi lên trên ghế để Kiều lạy trước rồi mới thưa sau cũng là một ý nài
ép như vậy. Nhưng bây giờ Kiều lại dùng lễ nghi để bái buộc với nội dung nghiêm
trang. Vừa tình vừa lễ như vậy thì Vân chối sao đặng.
Lời thơ của Thúy Kiều rất rõ ràng, vắn tắt và dứt khoát:
Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp nối tơ thừa mặc em!
Người xưa xem tình yêu là một gánh nghĩa vụ, gánh nặng, cho nên nói là gánh tương
tư. Mà giữa đường đứt gánh thì dang dở vô cùng. Hình ảnh đã nói rõ tình trạng bất lực
của Thúy Kiều. Mọi việc Kiều chỉ đánh phó thác cho em gánh, ở đây dùng chỉ nối mối
tơ dây tơ duyên. Nhưng tơ duyên này đã đứt, đối với Thúy Vân, Kiều hiểu rằng đó là
một mối tơ thừa. Thúy Kiều hoàn toàn thấu hiểu cảm giác và tình cảm thiệt thòi của em
nhưng không còn cách nào nên cũng đành nói: "mặc em". Câu nói này không chỉ mang
giọng điệu nhờ cậy mà còn mang giọng điệu của người chị phó thác trách nhiệm cho
người em, cho nên có rất nhiều sức nặng. Bốn câu thơ đã nói hết tình trông cậy, ủy
thác và nài ép, không cho Thúy Vân có cơ hội chối từ.
Nhờ cậy xong Kiều mới nói lý do:
"Kể từ khi gặp chàng Kim,
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề
Sự đau sóng gió bất kỳ
Hiếu, tình khôn lẽ hai bề vẹn hai"
Nội dung thông báo cụ thể nhưng sự trùng điệp ba chữ "khi": khi gặp, khi ngày, khi đêm
đã nói lên sự thề ước nhiều lần sâu nặng, không thể nuốt lời nên đành phải nhờ cậy em.
Từ đây Kiều chuyển sang phân tích ý nghĩa:
"Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ, thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây"
Tuổi trẻ còn lâu dài, vì Phương chị mà hãy thay chị nối tình với Kim Trọng, dù chị có
chết cũng cam lòng, vì đã có được tiếng thơm là người có tình nghĩa với chàng. Những
điều đặc biệt là từ đây trở đi Kiều coi mình như đã chết. Câu "ngày xuân em hãy còn
dài" cũng có nghĩa là "ngày xuân của chị đã hết rồi, chỉ còn thịt nát xương mòn" và
"ngậm cười chín suối", nơi cõi chết, chín suối là nơi đất rất sâu, người ta dùng để mai táng người đã mất.
Nói xong lời thoả nguyện bình sinh và hàm ơn đối với em, Kiều liền trao vật kỉ niệm:
Chiếc thoa với bức tờ mây
Duyên này thì giữ vật này của chung
Kim thoa là tặng vật đầu tiên mà Kim Trọng tặng cho Thúy Kiều khi nàng nhận lời. Từ
mây là từ hoa tiên có vẽ vân mây, trên đó Kiều đã ghi lời thề. Lạ nhất là câu tiếp theo:
Duyên này thì giữ vật này của chung. Nhiều nhà bình luận đã cho rằng: kiều trao duyên
chứ không trao tình. Kiều trao lại kỷ vật cho em nhưng còn cái hồn của kỷ vật - tức là
mối tình trao gửi, cái ngất ngây, nồng nàn lời thề dưới trăng của Kiều và Kim Trọng thì
làm sao mà trao được. Nó thuộc về quá khứ đã chôn sâu trong trái tim Kiều cho nên chỉ có thể là của chung.
Nhưng kỷ vật này cũng không phải chỉ là kỷ vật tình yêu của hai người, trước kia đó là
kỷ vật định tình của Kiều và Kim nay đã trở thành kỷ vật của Kim và Vân. Từ nay nó
còn là kỷ vật làm tin nhắc nhở đến chị, em khi có được hạnh phúc thì cũng đừng quên chị: Dù em nên vợ nên chồng
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên
Mất người còn chút của tin
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa
Cây đàn hồ ngày nào đàn cho kim trọng và mảnh trầm hương ngày nào từng chứng
kiến lời thề cũng để lại cho em như là của tin. Đối với chị chúng đã trở thành quá khứ
xa xôi. Đến đây kiểu lại cảm thấy mình như người đã chết. Kiều đã mất hết niềm tin vào
hiện tại. Tương lai của nàng trông cậy vào lòng thương. Kiểu sau này chỉ còn là ngọn
gió vật vờ nơi lá cây ngọn cỏ. Dù vậy Kiều vẫn mang nặng lời thề, cho dù có tan tành
xác thân bồ liễu, nàng cũng quyết đền ơn đáp nghĩa cho Kim Trọng.
Từ khi trao lại kỷ vật Kiều dường như quên hẳn hiện tại, nàng chỉ sống với cái mai hậu
hư vô của mình, vì nàng hi vọng em và chàng Kim tương lai sẽ được hạnh phúc. Hiện
tại với nàng chỉ là con số không:
Bây giờ trâm gãy, bình tân
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân
Trăm nghìn gửi lại tình quân
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi
"Trâm gãy bình tan" là hình ảnh của tình duyên tan vỡ, một lời kêu than, lời tiếc nuối.
Kiểu tự cảm thấy có lỗi rất lớn với Kim Trọng, cho nên gửi lại chàng trăm lạy, nghìn lạy. Đoạn thơ:
Phận sao phận bạc như vôi
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng Ôi Kim lang! hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây
Đó là một lời oán trách cho số phận vô lý nhưng cũng thể hiện sự bất lực của nàng. "Đã
đành nước chảy hoa trôi lỡ làng" là cảnh xuân đã hết, hoa rụng, nước chạy đưa cánh
hoa trôi nổi và phiêu dạt.
Hai câu thơ cuối cùng là lời than của Kiều với Kim, thương xót cho Kim. "Thôi thôi"
cũng là tiếng than tiếc và dằn vặt, là sự xác nhận cho sự phụ bạc của mình. 4. Kết bài
Đoạn trao duyên đây đúng là Kiều đã nói hết lời. Có thể nói Nguyễn Du đã hình dung
trạng thái tâm lý của Kiều thật chính xác với hiện thực. Toàn bộ đoạn văn là nỗi lòng
đau đớn, tan nát của Kiều. Con chim sắp chết thì lời kêu thương, mối tình sắp mất thì
lời thê thảm. Đây đúng là đoạn văn lâm ly nhất trong tác phẩm Truyện Kiều.