lOMoARcPSD| 58562220
TỰ LUẬN LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Câu 1: Phân tích đường lối cách mạng Việt Nam thông qua buổi đầu thành
lập Đảng.
Trước sự bất lực của các khuynh hướng trong cuộc đấu tranh giải phóng dân
tộc từ phong kiến cuối thế kỷ XIX đến dân chủ sản đầu thế kỷ XX đã đặt ra
một yêu cầu bức thiết đó cần một con đường cứu nước mới sao cho phù hợp
với tình nh của Việt Nam. Mãi cho đến tháng 2/1930 tyêu cầu đó mới được
giải quyết với sự thành lập của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tại Hội nghị thành lập
Đảng, Nguyễn Ái Quốc đã thông qua hai văn kiện quan trọng Chánh cương vắn
tắt và Sách lược vắn tắt, đây là Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, nhằm để
xác định đường lối của cách mạng Việt Nam.
Từ việc phân tích thực trạng mâu thuẫn trong hội Việt Nam, Cương lĩnh
chính trị đầu tiên đã xác định đường lối chiến lược của cách mạng phải “ch
trương làm sản dân quyền cách mạng thổ địa cách mạng để đi tới hội
cộng sản”, trong đó nhiệm vtrước mắt là đánh đđế quốc phong kiến, đây
hai nhiệm vụ cơ bản để giành độc lập dân tộc và ruộng đất cho dân cày và đặt lên
vị trí hàng đầu chính là nhiệm vụ chống đế quốc. Lực lượng tham gia cách mạng
phải đoàn kết lại với nhau bao gồm công nhân, nông dân - lực lượng bản,
ngoài ra còn tiểu sản, trung tiểu địa chủ sản dân tộc. Phương pháp tiến
hành cách mạng giải phóng dân tộc, Cương lĩnh khẳng định phải bằng con đường
bạo lực cách mạng của quần chúng nhân dân, trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng
“không khi nào nhượng một chút lợi ích của công nông đi vào con đường
thỏa hiệp”. Đồng thời, Đảng còn xác định rõ mối quan hệ của Việt Nam và quốc
tế tinh thần đoàn kết sản lại với nhau, đặc biệt sản Pháp, xem cách
mạng Việt Nam một bộ phận của cách mạng thế giới, “trong khi tuyên truyền
cái khẩu hiệu nước An Nam độc lập, phải đồng tuyên truyền thực hành liên lạc
với bị áp bức dân tộc sản giai cấp thế giới”. Đảng “đội tiên phong
của đạo quân vô sản gồm một số lớn của giai cấp công nhân làm cho họ đ
năng lực lãnh đạo quần chúng”.
lOMoARcPSD| 58562220
Như vậy, Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã phản ánh một cách súc tích
các vấn đề cơ bản về đường lối cách mạng của Việt Nam, thể hiện được bản lĩnh
chính trị độc lập, tự chủ, sáng tạo trong việc đánh giá tình hình, tính chất, đặc
điểm của đất nước, đặc biệt đánh gđúng đắn, sát thực của các giai tầng hội
đối với nhiệm vụ giải phóng dân tộc.
Câu 2: Sự khác nhau giữa Cương lĩnh chính trị đầu tiên và Luận cương
chính trị tháng 10/1930.
Tháng 10/1930, sau 8 tháng Đảng ra đời, Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành
Trung ương lâm thời được tchức tại Hương Cảng (Trung Quốc) do đồng chí
Trần Phú chủ trì. Tại đây, Hội nghị đã thảo luận thông qua Luận cương chính
trị về tình hình hiện tại của Đông Dương và những nhiệm vụ cấp thiết của Đảng.
Vậy thì giữa Luận cương chính trị tháng 10/1930 và ơng lĩnh chính trị đầu tiên
của Đảng có điểm gì giống và khác nhau?
Thứ nhất, về phương hướng chiến lược, cả hai văn kiện đều xác định cách mạng
Việt Nam là cuộc cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng, bỏ qua giai
đoạn bản chủ nghĩa để đi lên xã hội cộng sản. Thứ hai, vnhiệm vụ cách mạng,
đối với Cương lĩnh đã nêu rõ mục tiêu của cách mạng Việt Nam là chống đế quốc
phong kiến hai nhiệm vụ bản để giành độc lập dân tộc ruộng đất dân
cày, trong đó đặt nhiệm vụ dân tộc lên hàng đầu. Ngược lại, đối với Luận cương
thì cho rằng cách mạng Việt Nam phải đặt nhiệm vụ giai cấp giải quyết trước, phải
đánh đphong kiến để thực hiện thổ địa ch mạng bởi đây “cái cốt của cách
mạng tư sản dân quyền”, cơ sở để Đảng giành quyền lãnh đạo dân cày, sau đó
mới đánh đổ đế quốc, giành độc lập dân tộc, đồng thời, hai nhiệm vụ dân tộc
giai cấp luôn mối quan hệ khăng khít với nhau. Thứ ba, về lực lượng cách
mạng, từ việc phân tích đúng đắn thực trạng mâu thuẫn trong xã hội Việt Nam,
Cương lĩnh đã xác định lực lượng tham gia cách mạng là toàn dân, phải đoàn kết
công nhân, nông dân - đây lực lượng cơ bản, lôi o hoặc trung lập các tầng lớp
khác như tiểu sản trí thức, trung tiểu địa chủ và sản dân tộc. Trong khi đó,
ưu tiên thực hiện nhiệm vụ giai cấp nên Luận cương chỉ xác định lực lượng chính
chỉ công nhân nông dân. Thứ , về phương pháp cách mạng, cả hai văn
lOMoARcPSD| 58562220
kiện đều lựa chọn theo con đường sdụng bạo lực cách mạng của quần chúng,
trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng “không khi nào nhường một chút lợi ích của
công nông mà đi vào đường thỏa hiệp”. Thứ năm, về lãnh đạo cách mạng đều do
Đảng đội tiên phong của giai cấp sản gồm một số lượng lớn của giai cấp
công nhânlàm cho họ năng lực lãnh đạo quần chúng. Đây là điều kiện cốt
yếu cho sự thắng lợi của cách mạng. Cuối cùng, về mối quan hệ quốc tế, đều phải
đoàn kết với sản trên thế giới, đặc biệt với vô sản Pháp, đồng thời, xem cách
mạng Việt Nam một bộ phận của cách mạng thế giới, “trong khi tuyên truyền
cái khẩu hiệu nước An Nam độc lập, phải đồng tuyên truyền thực hành liên lạc
với bị áp bức dân tộc và vô sản giai cấp thế giới”.
Như vây, so với Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng thì Luận cương chính
trị tháng 10/1930 của Trần Phú còn nhiều điểm hạn chế, thiếu sót, gập khuôn
trong một khuôn khổ nhất định, chưa đánh giá đúng tình hình của cách mạng
Việt Nam lúc bấy giờ.
Câu 3: Phân tích thời cơ của Cách mạng tháng Tám 1945 và chủ trương
của Đảng.
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công một mốc son chói lọi trong lịch
sử đấu tranh chống giặc ngoại xâm hào hùng của dân tộc Việt Nam, một sự kiện
trọng đại với ý nghĩa to lớn và để lại nhiều bài học kinh nghiệm có giá trị. Trong
đó, thời cơ là một trong những nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng. Tổng
thư Trường Chinh từng nói: “Mau lẹ, kịp thời, nổ ra đúng lúc phải nổ, đó
một ưu điểm nữa của Cách mạng Tháng m”. Vậy thì thời cơ đó là gì? Và được
biểu hiện như thế nào?
Sau khi chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, tháng 5/1941, tại Hội nghị Ban
Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ tám, Đảng ta đã đưa ra những dđoán ban
đầu về tình hình cách mạng trong nước quốc tế. Nếu như Liên thắng trận
phản công phát xít Nhật thì đây sẽ điều kiện thuận lợi để ta xây dựng lực lượng
tiến tới tổng khởi nghĩa, chính thế Đảng ta đã xác định chuẩn bị khởi nghĩa.
Thời của Cách mạng tháng Tám xuất hiện vào ngày 9/3/1945 khi Nhật đảo
chính Pháp chiếm lấy Đông Dương, Pháp nhanh chóng đầu hàng, trước tình hình
lOMoARcPSD| 58562220
đó Đảng đã ra chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau hành động của chúng ta” xác
định kẻ thù chính của chúng ta phát xít Nhật. Phát động cao trào kháng Nhật,
cứu nước mạnh mẽ làm tiền đề cho cuộc khởi nghĩa. Tuy nhiên, Đảng ta xác định,
sự kiện Nhật đảo chính Pháp chỉ làm cho tình hình chính trị tại Đông Dương lâm
vào khủng hoảng chứ thời cho khởi nghĩa chưa thật sự chín muồi. Thời Cách
mạng Tháng Tám 1945 chín muồi khi phe phát xít thua trận, phát xít Nhật đã đầu
hàng đồng minh điều kiện ngày 15/8/1945. Chủ tích Hồ Chí Minh đã kiên
quyết khẳng định: “Lúc này thời thuận lợi đã tới, hi sinh tới đâu, phải
đốt cháy cả dãy Trường Sơn cng phải cương quyết giành cho được độc lập”.
Hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng, nhân dân cả nước đã vùng n khởi nghĩa giành
chính quyền từ tay phát xít Nhật và chính quyền tay sai. Tuy nhiên thời cơ đến và
tồn tại trong khoảng thời gian ngắn, phải làm sao giành lấy chính quyền trước khi
quân Đồng minh kéo vào giải giáp phát xít Nhật, nếu không trên đất nước ta sẽ
hiện diện rất nhiều kẻ thù và việc giành chính quyền sẽ không thực hiện được bởi
bản chất của quân Đồng minh vẫn những tên đế quốc với âm mưu tham
vọng xâm chiếm các thuộc địa.
Có được kết quả như vậy, là do, Trung ương Đảng và đứng đầu là Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã nhạy bén, nắm bắt thời cơ sự chuẩn bị về lực lượng, tập dượt
lực lượng qua các giai đoạn cách mạng (1930 - 1945). Đứng trước thời ngàn
năm có một đó, Đảng ta đã thực hiện chủ trương được biểu hiện qua Hội nghị toàn
quốc của Đảng họp ở Tân Trào từ ngày 14 đến ngày 15/8/1945, do Hồ Chí Minh
Trường Chinh chủ trì. Tại đây, hội nghị tập trung phân tích xác định thời
để nổi dậy giành chính quyền trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương với
khẩu hiệu đấu tranh “Phản đối xâm lược! Hoàn toàn độc lập! Chính quyền nhân
dân!”. Hội nghị cũng xác định ba nguyên tắc chỉ đạo khởi nghĩa tập trung, thống
nhất và kịp thời. Phải đánh chiếm những nơi chắc thắng thành lập ủy ban nhân
dân ở những nơi đó, phối hợp giữa quân sự và chính trị.
Như vậy, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công thể hiện công lao của
Đảng ta đứng đầu Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc dự báo thời cơ, thúc đẩy thời
cơ, nắm bắt thời cơ. Đảng ta đã lãnh đạo, chuẩn bị chu đáo, toàn diện, bền bỉ suốt
lOMoARcPSD| 58562220
15 năm nhạy bén nắm bắt thời thực chất skết hợp nhuần nhuyễn
giữa nhân tố chủ quan điều kiện khách quan chkhông phải một sự “ăn
may” như một số luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch đưa ra.
Câu 4: Tại sao nói cuộc Cách mạng tháng Tám 1945 là cuộc cách mạng giải
phóng dân tộc điển hình?
Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành quả đầu tiên của Đảng
ta với tư cách một lực lượng chính trị lãnh đạo cuộc đấu tranh giành độc lập.
Đồng thời đây còn là một cuộc cách mạng mang tính chất giải phóng dân tộc điển
hình.
Thứ nhất, tập trung hoàn thành nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng giải phóng
dân tộc, tập trung giải quyết mâu thuẫn chủ yếu của hội Việt Nam mâu thuẫn
giữa toàn thể dân tộc với đế quốc xâm lược tay sai. Đáp ứng được yêu cầu
khách quan, tính tất yếu của lịch sdân tộc, thể hiện ý chí và nguyện vọng của
đại đa số quần chúng nhân dân. Thứ hai, lực lượng của cách mạng bao gồm
toàn thể dân tộc, cùng nhau đoàn kết chặt chẽ thông qua Mặt trận Việt Minh với
những tổ chức quần chúng mang tên “cứu quốc”, động viên đến mức cao nhất mọi
lực lượng dân tộc lên trận địa cách mạng và cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám
sự vùng dậy của lực lượng toàn dân tộc. Thứ ba, thành lập chính quyền nhà nước
“của chung toàn dân tộc” theo chủ trương của Đảng, với hình thức cộng hòa dân
chủ, chỉ trừ tay sai đế quốc những kẻ phản quốc, “còn ai người dân sống
trên dải đất Việt Nam thảy đều được một phần tham gia giữ chính quyền, phải có
một phần nhiệm vụ giữ lấy bảo vệ chính quyền ấy”. Đồng thời, Cách mạng
tháng Tám năm 1945 còn giải quyết được một số quyền lợi cho người dân, đặc
biệt nông dân, lực lượng chiếm đông đảo nhất trong dân tộc, còn các tầng lớp
nhân dân khác đều được hưởng quyền tự do, dân chủ.
Theo Trường Chinh, Cách mạng tháng m năm 1945 “một cuộc cách mạng
giải phóng n tộc mang tính chất dân chủ mới. một bộ phận khăng khít của
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam” mục đích của làm cho
dân tộc Việt Nam thoát khỏi ách đế quốc làm cho nước Việt Nam thành một nước
độc lập, tự do.
lOMoARcPSD| 58562220
Câu 5: Vì sao nói sau Cách mạng tháng Tám 1945 nước ta “ngàn cân treo
sợi tóc”? Trước tình hình đó, Đảng ta có chủ trương gì?
Sau thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945, lịch sử Việt Nam bước sang
một chặng đường mới, từ một nước thuộc địa nay đã trở thành một quốc quốc gia
độc lập chủ quyền, điều kiện để cùng các dân tộc trên thế giới đấu tranh cho
những mục tiêu cao ccủa thời đại. Bên cạnh những thuận lợi căn bản cách
mạng mang lại thì phía sau đó chồng chất nhiều kkhăn, đưa Việt Nam vào
tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”.
Ở trong nước, hệ thống chính quyền cách mạng mới được thiết lập nên còn rất
non trẻ, thiếu thốn, yếu kém về nhiều mặt; hậu quả của chế độ cũ để lại là hết sức
nặng nề: một nền kinh tế xác, tiêu điều, công nông nghiệp đều đình đốn. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã nhận định, nước ta sau cách mạng phải một lúc đối đầu với
ba thứ giặc: giặc đói, giặc dốt giặc ngoại xâm. Thứ nhất, về giặc đói, nền tài
chính, ngân khố của nước kiệt quệ, kho bạc thì trống rỗng, cuối năm 1944 đầu
năm 1945 nạn đói đã làm cho 2 triệu người dân chết đói. Thứ hai, về giặc dốt, các
hủ tục lạc hậu, thói hư, tật xấu, tệ nạn hội chưa được khắc phục, 95% dân số
thất học mù chữ. cuối cùng về giặc ngoại xâm, đây là thách thức lớn nhất của
Việt Nam, theo sự phân chia của Hội nghị Pốtxđam, từ vĩ tuyến 16 trở ra Bắc, có
hơn 20 vạn quân Tưởng được sự ủng hộ của Mỹ đi cùng với đó bọn phản động,
chống phá cách mạng, từ tuyến 16 trở vào Nam, 2 vạn quân Anh giúp sức
cho Pháp trở lại xâm lược, tất cả đều vào giải giáp phát xít Nhật.
Đứng trước tình hình đó, Đảng ta đã chủ trương thông qua việc ra Chỉ thị Kháng
chiến kiến quốc ngày 25/11/1945 với các nhiệm vụ: xây dựng, củng cố chính
quyền, sớm tổ chức bầu cử toàn quốc theo hình thức phổ thông đầu phiếu và ban
hành Hiến pháp; phân tích, đánh giá âm mưu, thái độ của từng tên đế quốc để từ
đó xác định kẻ thù chính của dân tộc thực dân Pháp xâm lược; bài trừ nội phản,
kêu gọi chống mọi mưu đồ phá hoại chia rcủa bọn phản động; cải thiện đời sống
của nhân dân qua việc đưa ra các biện pháp chống giặc đói giặc dốt, đối với
giặc đói, thực hiện tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, tổ chức “Tuần lễ ng”,
lOMoARcPSD| 58562220
lập hủ gạo cứu đói... Đối với giặc dốt, Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động phong
trào Nha Bình dân học vụ.
Như vậy, với những chủ trương kịp thời của Đảng, những khó khăn từng bước
được giải quyết, để tạo điều kiện cho việc chuẩn bị kháng chiến chống thực dân
Pháp trở lại xâm lược.
Câu 6: Căn cứ vào đâu để Đảng xác định thực dân Pháp là kẻ thù chính của
nhân dân ta sau Cách mạng tháng Tám 1945?
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, nước ta đứng trước tình thế “ngàn cân
treo sợi tóc”, đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức và trong đó giặc ngoại xâm
là nguy hiểm nhất.
Lúc bấy giờ, chiến tranh thế giới thứ hai đã kết thúc, trên đất nước ta vẫn còn
hơn 6 vạn quân Nhật chưa được giải giáp. Theo sự phân chia tại Hội nghị Pốtxđam
về vấn đề Đông Dương thì từ vĩ tuyến 16 trở ra Bắc, hơn 20 vạn quân Tưởng
Giới Thạch (Trung Hoa Dân quốc) kéo vào Việt Nam dưới sự bảo trợ và ủng hộ
của Mỹ đgiải giáp phát xít Nhật, tương tự thế, từ tuyến 16 trở vào Nam 2
vạn quân Anh đổ bộ vào Sài Gòn, được sự giúp đỡ từ quân Anh, thực dân Pháp
quay trở lại xâm lược. Như vậy, sau cách mạng, nước ta phải đối đầu với một lúc
nhiều kẻ thù khác nhau. Xét về âm mưu, thái độ của từng tên đế quốc, thứ nhất,
quân Tưởng mặc dùng chúng tuyên bố đóng quân thời hạn miền Bắc Việt
Nam nhưng chúng chưa hành động cụ thể nào gây hấn, trong khi đó, lợi ích
của ởng Trung Quốc, lúc giờ Tưởng đang đứng trước nguy cơ bị lật đổ bởi
Đảng Cộng sản Trung Quốc nên sớm muộn chúng cũng sẽ rút quân về nước.
Thứ hai, quân Anh chỉ vào để thực hiện giải giáp phát xít Nhật, chúng không hề
ý định xâm lược Việt Nam bởi phong trào giải phóng dân tộc các thuộc địa
của Anh kcả chính quốc đang ngày càng dâng cao, đồng thời, Anh còn
nước đồng minh với Pháp. Thứ ba, phát xít Nhật sau khi thất trận đã bị coi tội
phạm chiến tranh, cần được giải giáp về nước, chúng không có điều kiện hay mục
đích gì để chống đối, xâm lược nữa. Thứ , về phía Mỹ, Mỹ chưa có hành động
cụ thể nào can thiệp trực tiếp vào tình hình tại Đông Dương, chúng chỉ đứng sau
để hậu thuẫn, ủng hộ cho quân Tưởng. Và cuối cùng chính là Pháp, xét về lợi ích
lOMoARcPSD| 58562220
của chúng thì nằm Đông Dương, sau chiến tranh thế giới thứ hai, nước
thắng trận nhưng hậu quả chiến tranh để lại nặng nề, chúng cần nguồn nhân
công, tài nguyên để mà khôi phục lại nền kinh tế chính quốc, về hành động, quân
Pháp đã trắng trợn gây hấn, cho nổ súng vào những người tham gia mít tinh mừng
ngày độc lập ở Sài Gòn - Chợ Lớn.
Như vậy, Đảng ta đã xác định rằng, thực dân Pháp xâm lược kẻ thù nguy
hiểm nhất, kẻ thù chính của nhân dân Việt Nam.
Câu 7: Căn cứ vào đâu để Đảng phát động toàn quốc kháng chiến? Khái
quát đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Việt Nam đứng trước nguy xảy ra
một cuộc chiến tranh với thực dân Pháp xâm lược trở lại. Đảng ta đã xem xét
đánh giá đúng thái độ của từng tên đế quốc để tù đó xác định kthù chính của n
tộc ta thực dân Pháp xâm lược. Chúng từng bước thực hiện mưu đồ của mình,
Đảng ta đã vừa mềm dẻo vừa cứng rắn trong sách lược ngoại giao, điều đó có thể
thấy rõ thông qua Hiệp định Sơ bộ (6/3/1946) và bản Tạm ước (14/9/1946).
Đảng ta với con đường, chủ trương hòa hõa bày tỏ thiện chí hòa bình, thực
hiện theo tinh thần Hiệp định bộ bản Tạm ước. Tuy nhiên, từ cuối tháng
10/1946 thì nh hình giữa Việt Nam Pháp ngày xấu đi, không thể cứu vãn được
một mối quan hệ sắp tan vỡ chuẩn bị bùng nổ một cuộc chiến tranh quá sớm.
Phía Pháp chỉ muốn dùng biện pháp quân sự để giải quyết vấn đề, chúng ngày
càng bộ lộ thái độ bội ước, tiếp tục tăng cường bình định các tỉnh Nam Bộ,
xúc tiến tái lập Nam Kỳ tự trị, khiêu khích, gây hấn một số vtrí đóng quân
Bắc Bộ Việt Nam. Đỉnh điểm ngày 20/11/1946, Pháp phá bỏ Tạm ước, chúng
tấn công vũ trang đánh chiếm Hải Phòng, Lạng Sơn, thành lập “Chính phủ Cộng
hòa Nam Kỳ”. Từ ngày 16 đến 17/12/1946, chúng thực hiện thảm sát đồng bào
Nội phố Yên Ninh Háng Bún, thẳng thừng cự tuyệt thiện chí hòa bình của
ta và đến ngày 18/12/1946, chúng gửi tố hậu thư tuyên bố cắt đứa mọi mối quan
hệ với Chính phủ Việt Nam. Vì vậy, Đảng và nhân dân Việt Nam chỉ còn một sự
lựa chọn duy nhất là cầm súng đứng lên chống lại thực n Pháp xâm lược để bảo
vệ nền độc lập chính quyền cách mạng. Ngày 12/12/1946, Đảng ra Chỉ thị Toàn
lOMoARcPSD| 58562220
quốc kháng chiến với tinh thần “thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất
nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Đồng thời, ngày 19/12/1946, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, khẳng định quyết tâm sắt đá
quyết kháng chiến đến cùng.
Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng được hình thành, bổ
sung, phát triển qua thực tiễn cách mạng Việt Nam từ 1945 đến 1947. Nội dung
cơ bản của đường lối là: dựa trên sức mạnh toàn dân, tiến hành kháng chiến toàn
dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào sức mình là chính.
Như vậy, căn cứ vào tình hình cấp bách và hành động của thực dân Pháp xâm
lược, Đảng ta đã kịp thời đưa ra những đường lối, chủ trương đúng đắn để phát
động toàn quốc kháng chiến và ngày 19/12/1946, dưới sự chỉ đạo của các cấp ủy
Đảng, quân dân Nội và các đô thị từ tuyến 16 trở ra đã đồng loạt nổ
súng, cuộc kháng chiến toàn quốc chính thức bùng nổ.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 58562220
TỰ LUẬN LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Câu 1: Phân tích đường lối cách mạng Việt Nam thông qua buổi đầu thành lập Đảng.
Trước sự bất lực của các khuynh hướng trong cuộc đấu tranh giải phóng dân
tộc từ phong kiến cuối thế kỷ XIX đến dân chủ tư sản đầu thế kỷ XX đã đặt ra
một yêu cầu bức thiết đó là cần có một con đường cứu nước mới sao cho phù hợp
với tình hình của Việt Nam. Mãi cho đến tháng 2/1930 thì yêu cầu đó mới được
giải quyết với sự thành lập của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tại Hội nghị thành lập
Đảng, Nguyễn Ái Quốc đã thông qua hai văn kiện quan trọng là Chánh cương vắn
tắt và Sách lược vắn tắt, đây là Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, nhằm để
xác định đường lối của cách mạng Việt Nam.
Từ việc phân tích thực trạng và mâu thuẫn trong xã hội Việt Nam, Cương lĩnh
chính trị đầu tiên đã xác định đường lối chiến lược của cách mạng là phải “chủ
trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội
cộng sản”, trong đó nhiệm vụ trước mắt là đánh đổ đế quốc và phong kiến, đây là
hai nhiệm vụ cơ bản để giành độc lập dân tộc và ruộng đất cho dân cày và đặt lên
vị trí hàng đầu chính là nhiệm vụ chống đế quốc. Lực lượng tham gia cách mạng
phải đoàn kết lại với nhau bao gồm công nhân, nông dân - là lực lượng cơ bản,
ngoài ra còn có tiểu tư sản, trung tiểu địa chủ và tư sản dân tộc. Phương pháp tiến
hành cách mạng giải phóng dân tộc, Cương lĩnh khẳng định phải bằng con đường
bạo lực cách mạng của quần chúng nhân dân, trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng
“không khi nào nhượng một chút lợi ích gì của công nông mà đi vào con đường
thỏa hiệp”. Đồng thời, Đảng còn xác định rõ mối quan hệ của Việt Nam và quốc
tế là tinh thần đoàn kết vô sản lại với nhau, đặc biệt là vô sản Pháp, xem cách
mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, “trong khi tuyên truyền
cái khẩu hiệu nước An Nam độc lập, phải đồng tuyên truyền và thực hành liên lạc
với bị áp bức dân tộc và vô sản giai cấp thế giới”. Và Đảng là “đội tiên phong
của đạo quân vô sản gồm một số lớn của giai cấp công nhân và làm cho họ có đủ
năng lực lãnh đạo quần chúng”. lOMoAR cPSD| 58562220
Như vậy, Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã phản ánh một cách súc tích
các vấn đề cơ bản về đường lối cách mạng của Việt Nam, thể hiện được bản lĩnh
chính trị độc lập, tự chủ, sáng tạo trong việc đánh giá tình hình, tính chất, đặc
điểm của đất nước, đặc biệt là đánh giá đúng đắn, sát thực của các giai tầng xã hội
đối với nhiệm vụ giải phóng dân tộc.
Câu 2: Sự khác nhau giữa Cương lĩnh chính trị đầu tiên và Luận cương
chính trị tháng 10/1930.
Tháng 10/1930, sau 8 tháng Đảng ra đời, Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành
Trung ương lâm thời được tổ chức tại Hương Cảng (Trung Quốc) do đồng chí
Trần Phú chủ trì. Tại đây, Hội nghị đã thảo luận và thông qua Luận cương chính
trị về tình hình hiện tại của Đông Dương và những nhiệm vụ cấp thiết của Đảng.
Vậy thì giữa Luận cương chính trị tháng 10/1930 và Cương lĩnh chính trị đầu tiên
của Đảng có điểm gì giống và khác nhau?
Thứ nhất, về phương hướng chiến lược, cả hai văn kiện đều xác định cách mạng
Việt Nam là cuộc cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng, bỏ qua giai
đoạn tư bản chủ nghĩa để đi lên xã hội cộng sản. Thứ hai, về nhiệm vụ cách mạng,
đối với Cương lĩnh đã nêu rõ mục tiêu của cách mạng Việt Nam là chống đế quốc
và phong kiến là hai nhiệm vụ cơ bản để giành độc lập dân tộc và ruộng đất dân
cày, trong đó đặt nhiệm vụ dân tộc lên hàng đầu. Ngược lại, đối với Luận cương
thì cho rằng cách mạng Việt Nam phải đặt nhiệm vụ giai cấp giải quyết trước, phải
đánh đổ phong kiến để thực hiện thổ địa cách mạng bởi vì đây là “cái cốt của cách
mạng tư sản dân quyền”, là cơ sở để Đảng giành quyền lãnh đạo dân cày, sau đó
mới đánh đổ đế quốc, giành độc lập dân tộc, đồng thời, hai nhiệm vụ dân tộc và
giai cấp luôn có mối quan hệ khăng khít với nhau. Thứ ba, về lực lượng cách
mạng, từ việc phân tích đúng đắn thực trạng và mâu thuẫn trong xã hội Việt Nam,
Cương lĩnh đã xác định lực lượng tham gia cách mạng là toàn dân, phải đoàn kết
công nhân, nông dân - đây là lực lượng cơ bản, lôi kéo hoặc trung lập các tầng lớp
khác như tiểu tư sản trí thức, trung tiểu địa chủ và tư sản dân tộc. Trong khi đó, vì
ưu tiên thực hiện nhiệm vụ giai cấp nên Luận cương chỉ xác định lực lượng chính
chỉ có công nhân và nông dân. Thứ tư, về phương pháp cách mạng, cả hai văn lOMoAR cPSD| 58562220
kiện đều lựa chọn theo con đường sử dụng bạo lực cách mạng của quần chúng,
trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng “không khi nào nhường một chút lợi ích gì của
công nông mà đi vào đường thỏa hiệp”. Thứ năm, về lãnh đạo cách mạng đều do
Đảng là đội tiên phong của giai cấp vô sản gồm một số lượng lớn của giai cấp
công nhân và làm cho họ có năng lực lãnh đạo quần chúng. Đây là điều kiện cốt
yếu cho sự thắng lợi của cách mạng. Cuối cùng, về mối quan hệ quốc tế, đều phải
đoàn kết với vô sản trên thế giới, đặc biệt là với vô sản Pháp, đồng thời, xem cách
mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, “trong khi tuyên truyền
cái khẩu hiệu nước An Nam độc lập, phải đồng tuyên truyền và thực hành liên lạc
với bị áp bức dân tộc và vô sản giai cấp thế giới”.
Như vây, so với Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng thì Luận cương chính
trị tháng 10/1930 của Trần Phú còn có nhiều điểm hạn chế, thiếu sót, gập khuôn
và trong một khuôn khổ nhất định, chưa đánh giá đúng tình hình của cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ.
Câu 3: Phân tích thời cơ của Cách mạng tháng Tám 1945 và chủ trương của Đảng.
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công là một mốc son chói lọi trong lịch
sử đấu tranh chống giặc ngoại xâm hào hùng của dân tộc Việt Nam, là một sự kiện
trọng đại với ý nghĩa to lớn và để lại nhiều bài học kinh nghiệm có giá trị. Trong
đó, thời cơ là một trong những nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng. Tổng
Bí thư Trường Chinh từng nói: “Mau lẹ, kịp thời, nổ ra đúng lúc phải nổ, đó là
một ưu điểm nữa của Cách mạng Tháng Tám”. Vậy thì thời cơ đó là gì? Và được
biểu hiện như thế nào?
Sau khi chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, tháng 5/1941, tại Hội nghị Ban
Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ tám, Đảng ta đã đưa ra những dự đoán ban
đầu về tình hình cách mạng trong nước và quốc tế. Nếu như Liên Xô thắng trận
phản công phát xít Nhật thì đây sẽ là điều kiện thuận lợi để ta xây dựng lực lượng
tiến tới tổng khởi nghĩa, chính vì thế Đảng ta đã xác định chuẩn bị khởi nghĩa.
Thời cơ của Cách mạng tháng Tám xuất hiện vào ngày 9/3/1945 khi Nhật đảo
chính Pháp chiếm lấy Đông Dương, Pháp nhanh chóng đầu hàng, trước tình hình lOMoAR cPSD| 58562220
đó Đảng đã ra chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” xác
định kẻ thù chính của chúng ta là phát xít Nhật. Phát động cao trào kháng Nhật,
cứu nước mạnh mẽ làm tiền đề cho cuộc khởi nghĩa. Tuy nhiên, Đảng ta xác định,
sự kiện Nhật đảo chính Pháp chỉ làm cho tình hình chính trị tại Đông Dương lâm
vào khủng hoảng chứ thời cơ cho khởi nghĩa chưa thật sự chín muồi. Thời cơ Cách
mạng Tháng Tám 1945 chín muồi khi phe phát xít thua trận, phát xít Nhật đã đầu
hàng đồng minh vô điều kiện ngày 15/8/1945. Chủ tích Hồ Chí Minh đã kiên
quyết khẳng định: “Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hi sinh tới đâu, dù phải
đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải cương quyết giành cho được độc lập”.
Hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng, nhân dân cả nước đã vùng lên khởi nghĩa giành
chính quyền từ tay phát xít Nhật và chính quyền tay sai. Tuy nhiên thời cơ đến và
tồn tại trong khoảng thời gian ngắn, phải làm sao giành lấy chính quyền trước khi
quân Đồng minh kéo vào giải giáp phát xít Nhật, nếu không trên đất nước ta sẽ
hiện diện rất nhiều kẻ thù và việc giành chính quyền sẽ không thực hiện được bởi
vì bản chất của quân Đồng minh vẫn là những tên đế quốc với âm mưu và tham
vọng xâm chiếm các thuộc địa.
Có được kết quả như vậy, là do, Trung ương Đảng và đứng đầu là Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã nhạy bén, nắm bắt thời cơ và có sự chuẩn bị về lực lượng, tập dượt
lực lượng qua các giai đoạn cách mạng (1930 - 1945). Đứng trước thời cơ ngàn
năm có một đó, Đảng ta đã thực hiện chủ trương được biểu hiện qua Hội nghị toàn
quốc của Đảng họp ở Tân Trào từ ngày 14 đến ngày 15/8/1945, do Hồ Chí Minh
và Trường Chinh chủ trì. Tại đây, hội nghị tập trung phân tích và xác định thời cơ
để nổi dậy giành chính quyền trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương với
khẩu hiệu đấu tranh là “Phản đối xâm lược! Hoàn toàn độc lập! Chính quyền nhân
dân!”. Hội nghị cũng xác định ba nguyên tắc chỉ đạo khởi nghĩa là tập trung, thống
nhất và kịp thời. Phải đánh chiếm những nơi chắc thắng và thành lập ủy ban nhân
dân ở những nơi đó, phối hợp giữa quân sự và chính trị.
Như vậy, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công thể hiện công lao của
Đảng ta đứng đầu Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc dự báo thời cơ, thúc đẩy thời
cơ, nắm bắt thời cơ. Đảng ta đã lãnh đạo, chuẩn bị chu đáo, toàn diện, bền bỉ suốt lOMoAR cPSD| 58562220
15 năm và nhạy bén nắm bắt thời cơ mà thực chất là sự kết hợp nhuần nhuyễn
giữa nhân tố chủ quan và điều kiện khách quan chứ không phải là một sự “ăn
may” như một số luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch đưa ra.
Câu 4: Tại sao nói cuộc Cách mạng tháng Tám 1945 là cuộc cách mạng giải
phóng dân tộc điển hình?
Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 là thành quả đầu tiên của Đảng
ta với tư cách là một lực lượng chính trị lãnh đạo cuộc đấu tranh giành độc lập.
Đồng thời đây còn là một cuộc cách mạng mang tính chất giải phóng dân tộc điển hình.
Thứ nhất, tập trung hoàn thành nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng là giải phóng
dân tộc, tập trung giải quyết mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Việt Nam là mâu thuẫn
giữa toàn thể dân tộc với đế quốc xâm lược và tay sai. Đáp ứng được yêu cầu
khách quan, tính tất yếu của lịch sử dân tộc, thể hiện ý chí và nguyện vọng của
đại đa số quần chúng nhân dân. Thứ hai, lực lượng của cách mạng là bao gồm
toàn thể dân tộc, cùng nhau đoàn kết chặt chẽ thông qua Mặt trận Việt Minh với
những tổ chức quần chúng mang tên “cứu quốc”, động viên đến mức cao nhất mọi
lực lượng dân tộc lên trận địa cách mạng và cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám là
sự vùng dậy của lực lượng toàn dân tộc. Thứ ba, thành lập chính quyền nhà nước
“của chung toàn dân tộc” theo chủ trương của Đảng, với hình thức cộng hòa dân
chủ, chỉ trừ tay sai đế quốc và những kẻ phản quốc, “còn ai là người dân sống
trên dải đất Việt Nam thảy đều được một phần tham gia giữ chính quyền, phải có
một phần nhiệm vụ giữ lấy và bảo vệ chính quyền ấy”. Đồng thời, Cách mạng
tháng Tám năm 1945 còn giải quyết được một số quyền lợi cho người dân, đặc
biệt là nông dân, lực lượng chiếm đông đảo nhất trong dân tộc, còn các tầng lớp
nhân dân khác đều được hưởng quyền tự do, dân chủ.
Theo Trường Chinh, Cách mạng tháng Tám năm 1945 là “một cuộc cách mạng
giải phóng dân tộc mang tính chất dân chủ mới. Nó là một bộ phận khăng khít của
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam” và mục đích của nó là làm cho
dân tộc Việt Nam thoát khỏi ách đế quốc làm cho nước Việt Nam thành một nước độc lập, tự do. lOMoAR cPSD| 58562220
Câu 5: Vì sao nói sau Cách mạng tháng Tám 1945 nước ta “ngàn cân treo
sợi tóc”? Trước tình hình đó, Đảng ta có chủ trương gì?
Sau thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945, lịch sử Việt Nam bước sang
một chặng đường mới, từ một nước thuộc địa nay đã trở thành một quốc quốc gia
có độc lập chủ quyền, có điều kiện để cùng các dân tộc trên thế giới đấu tranh cho
những mục tiêu cao cả của thời đại. Bên cạnh những thuận lợi căn bản mà cách
mạng mang lại thì phía sau đó là chồng chất nhiều khó khăn, đưa Việt Nam vào
tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”.
Ở trong nước, hệ thống chính quyền cách mạng mới được thiết lập nên còn rất
non trẻ, thiếu thốn, yếu kém về nhiều mặt; hậu quả của chế độ cũ để lại là hết sức
nặng nề: một nền kinh tế xơ xác, tiêu điều, công nông nghiệp đều đình đốn. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã nhận định, nước ta sau cách mạng phải một lúc đối đầu với
ba thứ giặc: giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Thứ nhất, về giặc đói, nền tài
chính, ngân khố của nước kiệt quệ, kho bạc thì trống rỗng, cuối năm 1944 đầu
năm 1945 nạn đói đã làm cho 2 triệu người dân chết đói. Thứ hai, về giặc dốt, các
hủ tục lạc hậu, thói hư, tật xấu, tệ nạn xã hội chưa được khắc phục, 95% dân số
thất học mù chữ. Và cuối cùng về giặc ngoại xâm, đây là thách thức lớn nhất của
Việt Nam, theo sự phân chia của Hội nghị Pốtxđam, từ vĩ tuyến 16 trở ra Bắc, có
hơn 20 vạn quân Tưởng được sự ủng hộ của Mỹ đi cùng với đó là bọn phản động,
chống phá cách mạng, từ vĩ tuyến 16 trở vào Nam, có 2 vạn quân Anh giúp sức
cho Pháp trở lại xâm lược, tất cả đều vào giải giáp phát xít Nhật.
Đứng trước tình hình đó, Đảng ta đã chủ trương thông qua việc ra Chỉ thị Kháng
chiến kiến quốc ngày 25/11/1945 với các nhiệm vụ: xây dựng, củng cố chính
quyền, sớm tổ chức bầu cử toàn quốc theo hình thức phổ thông đầu phiếu và ban
hành Hiến pháp; phân tích, đánh giá âm mưu, thái độ của từng tên đế quốc để từ
đó xác định kẻ thù chính của dân tộc là thực dân Pháp xâm lược; bài trừ nội phản,
kêu gọi chống mọi mưu đồ phá hoại chia rẻ của bọn phản động; cải thiện đời sống
của nhân dân qua việc đưa ra các biện pháp chống giặc đói và giặc dốt, đối với
giặc đói, thực hiện tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, tổ chức “Tuần lễ vàng”, lOMoAR cPSD| 58562220
lập hủ gạo cứu đói... Đối với giặc dốt, Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động phong
trào Nha Bình dân học vụ.
Như vậy, với những chủ trương kịp thời của Đảng, những khó khăn từng bước
được giải quyết, để tạo điều kiện cho việc chuẩn bị kháng chiến chống thực dân
Pháp trở lại xâm lược.
Câu 6: Căn cứ vào đâu để Đảng xác định thực dân Pháp là kẻ thù chính của
nhân dân ta sau Cách mạng tháng Tám 1945?
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, nước ta đứng trước tình thế “ngàn cân
treo sợi tóc”, đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức và trong đó giặc ngoại xâm là nguy hiểm nhất.
Lúc bấy giờ, chiến tranh thế giới thứ hai đã kết thúc, trên đất nước ta vẫn còn
hơn 6 vạn quân Nhật chưa được giải giáp. Theo sự phân chia tại Hội nghị Pốtxđam
về vấn đề ở Đông Dương thì từ vĩ tuyến 16 trở ra Bắc, có hơn 20 vạn quân Tưởng
Giới Thạch (Trung Hoa Dân quốc) kéo vào Việt Nam dưới sự bảo trợ và ủng hộ
của Mỹ để giải giáp phát xít Nhật, tương tự thế, từ vĩ tuyến 16 trở vào Nam là 2
vạn quân Anh đổ bộ vào Sài Gòn, được sự giúp đỡ từ quân Anh, thực dân Pháp
quay trở lại xâm lược. Như vậy, sau cách mạng, nước ta phải đối đầu với một lúc
nhiều kẻ thù khác nhau. Xét về âm mưu, thái độ của từng tên đế quốc, thứ nhất,
quân Tưởng mặc dùng chúng tuyên bố đóng quân vô thời hạn ở miền Bắc Việt
Nam nhưng chúng chưa có hành động cụ thể nào gây hấn, trong khi đó, lợi ích
của Tưởng là ở Trung Quốc, lúc giờ Tưởng đang đứng trước nguy cơ bị lật đổ bởi
Đảng Cộng sản Trung Quốc nên sớm muộn gì chúng cũng sẽ rút quân về nước.
Thứ hai, quân Anh chỉ vào để thực hiện giải giáp phát xít Nhật, chúng không hề
có ý định xâm lược Việt Nam bởi vì phong trào giải phóng dân tộc ở các thuộc địa
của Anh và kể cả ở chính quốc đang ngày càng dâng cao, đồng thời, Anh còn là
nước đồng minh với Pháp. Thứ ba, phát xít Nhật sau khi thất trận đã bị coi là tội
phạm chiến tranh, cần được giải giáp về nước, chúng không có điều kiện hay mục
đích gì để chống đối, xâm lược nữa. Thứ tư, về phía Mỹ, Mỹ chưa có hành động
cụ thể nào can thiệp trực tiếp vào tình hình tại Đông Dương, chúng chỉ đứng sau
để hậu thuẫn, ủng hộ cho quân Tưởng. Và cuối cùng chính là Pháp, xét về lợi ích lOMoAR cPSD| 58562220
của chúng thì nằm ở Đông Dương, sau chiến tranh thế giới thứ hai, dù là nước
thắng trận nhưng hậu quả chiến tranh để lại nặng nề, chúng cần có nguồn nhân
công, tài nguyên để mà khôi phục lại nền kinh tế chính quốc, về hành động, quân
Pháp đã trắng trợn gây hấn, cho nổ súng vào những người tham gia mít tinh mừng
ngày độc lập ở Sài Gòn - Chợ Lớn.
Như vậy, Đảng ta đã xác định rằng, thực dân Pháp xâm lược là kẻ thù nguy
hiểm nhất, kẻ thù chính của nhân dân Việt Nam.
Câu 7: Căn cứ vào đâu để Đảng phát động toàn quốc kháng chiến? Khái
quát đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Việt Nam đứng trước nguy cơ xảy ra
một cuộc chiến tranh với thực dân Pháp xâm lược trở lại. Đảng ta đã xem xét và
đánh giá đúng thái độ của từng tên đế quốc để tù đó xác định kẻ thù chính của dân
tộc ta là thực dân Pháp xâm lược. Chúng từng bước thực hiện mưu đồ của mình,
Đảng ta đã vừa mềm dẻo vừa cứng rắn trong sách lược ngoại giao, điều đó có thể
thấy rõ thông qua Hiệp định Sơ bộ (6/3/1946) và bản Tạm ước (14/9/1946).
Đảng ta với con đường, chủ trương hòa hõa và bày tỏ thiện chí hòa bình, thực
hiện theo tinh thần Hiệp định Sơ bộ và bản Tạm ước. Tuy nhiên, từ cuối tháng
10/1946 thì tình hình giữa Việt Nam và Pháp ngày xấu đi, không thể cứu vãn được
một mối quan hệ sắp tan vỡ và chuẩn bị bùng nổ một cuộc chiến tranh quá sớm.
Phía Pháp chỉ muốn dùng biện pháp quân sự để giải quyết vấn đề, chúng ngày
càng bộ lộ rõ thái độ bội ước, tiếp tục tăng cường bình định các tỉnh ở Nam Bộ,
xúc tiến tái lập Nam Kỳ tự trị, khiêu khích, gây hấn ở một số vị trí đóng quân ở
Bắc Bộ Việt Nam. Đỉnh điểm là ngày 20/11/1946, Pháp phá bỏ Tạm ước, chúng
tấn công vũ trang đánh chiếm Hải Phòng, Lạng Sơn, thành lập “Chính phủ Cộng
hòa Nam Kỳ”. Từ ngày 16 đến 17/12/1946, chúng thực hiện thảm sát đồng bào
Hà Nội ở phố Yên Ninh và Háng Bún, thẳng thừng cự tuyệt thiện chí hòa bình của
ta và đến ngày 18/12/1946, chúng gửi tố hậu thư tuyên bố cắt đứa mọi mối quan
hệ với Chính phủ Việt Nam. Vì vậy, Đảng và nhân dân Việt Nam chỉ còn một sự
lựa chọn duy nhất là cầm súng đứng lên chống lại thực dân Pháp xâm lược để bảo
vệ nền độc lập và chính quyền cách mạng. Ngày 12/12/1946, Đảng ra Chỉ thị Toàn lOMoAR cPSD| 58562220
quốc kháng chiến với tinh thần “thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất
nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Đồng thời, ngày 19/12/1946, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, khẳng định quyết tâm sắt đá
quyết kháng chiến đến cùng.
Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng được hình thành, bổ
sung, phát triển qua thực tiễn cách mạng Việt Nam từ 1945 đến 1947. Nội dung
cơ bản của đường lối là: dựa trên sức mạnh toàn dân, tiến hành kháng chiến toàn
dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào sức mình là chính.
Như vậy, căn cứ vào tình hình cấp bách và hành động của thực dân Pháp xâm
lược, Đảng ta đã kịp thời đưa ra những đường lối, chủ trương đúng đắn để phát
động toàn quốc kháng chiến và ngày 19/12/1946, dưới sự chỉ đạo của các cấp ủy
Đảng, quân và dân Hà Nội và ở các đô thị từ vĩ tuyến 16 trở ra đã đồng loạt nổ
súng, cuộc kháng chiến toàn quốc chính thức bùng nổ.