-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Phân tích khái niệm - Lý luận nhà nước và pháp luật | Trường Đại học Kiểm Sát Hà Nội
Phân tích khái niệm - Lý luận nhà nước và pháp luật | Trường Đại học Kiểm Sát Hà Nội được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Lý luận chung về nhà nước và pháp luật 40 tài liệu
Đại Học Kiểm sát Hà Nội 226 tài liệu
Phân tích khái niệm - Lý luận nhà nước và pháp luật | Trường Đại học Kiểm Sát Hà Nội
Phân tích khái niệm - Lý luận nhà nước và pháp luật | Trường Đại học Kiểm Sát Hà Nội được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Lý luận chung về nhà nước và pháp luật 40 tài liệu
Trường: Đại Học Kiểm sát Hà Nội 226 tài liệu
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIỂM SÁT HÀ NỘI ---------- BÀI TẬP NHÓM
MÔN: LUẬT HIẾN PHÁP VIỆT NAM
CHỦ ĐỀ: Anh chị hãy phân tích khái niệm
và nội dung của chính sách đối ngoại trong
ngoại giao giai đoạn hiện nay của nhà
nước CHXHCN ở Việt Nam? Anh chị hãy
có đánh giá gì về chính sách đối ngoại đó?
Hà Nội, tháng 5 năm 2022`
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIỂM SÁT HÀ NỘI ----------
DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM 1 K9D: 1. Hoàng Thị Vân Anh 2. Hoàng Thị Ngọc Hà 3. Nguyễn Phan Hoài Anh 4. Lê Quốc Huy
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIỂM SÁT HÀ NỘI Độc lập- Tự do- Hạnh phúc BIÊN BẢN HỌP NHÓM
Môn học: Luật Hiến pháp Việt Nam
Chủ đề: Anh chị hãy phân khái niệm và nội dung của chính sách đối
ngoại trong giai đoạn hiện nay của nhà nước CHXHCN Việt Nam?
Anh chị có đánh giá gì về chính sách đối ngoại đó?
1. Thời gian, hình thức, thành phần: - Thời gian:
Thứ 2, ngày 23 tháng 5 năm 2022: Thảo luận, phân chia công việc
Thứ 3, ngày 24 tháng 5 năm 2022: Các thành viên nộp nhiệm vụ được giao
Thứ 4, ngày 25 tháng 5 năm 2022: Thảo luận bản Word,
- Hình thức: Họp trực tiếp tại Thư viện trường.\
- Thành phần: 4/4 thành viên có mặt đầy đủ (Tất cả các lần hoạt động nhóm).
2. Mục đích buổi học nhóm:
- Nghiên cứu vấn đề nhóm được giao, xác định rõ các yêu cầu của đề bài
- Thảo luận, đề ra cách giải quyết vấn đề.
- Phân công công việc cho từng thành viên.
3. Nội dung buổi học:
- Nhóm trưởng trình bày mục đích của buổi hoạt động nhóm.
- Các thành viên lần lượt đưa ra ý kiến về hướng giải quyết vấn đề nhóm
- Nhóm trưởng phân công nhiệm vụ cho từng thành viên.
- Các thành viên rút ra những hạn chế của nhóm để rút kinh nghiệm
cho những buổi hoạt động nhóm tiếp theo.
4. Kết quả buổi học nhóm:
Sau thời gian làm việc, nhóm đã đi đến kết quả phân chia cũng như
đánh giá mức độ hoàn thành công việc của từng thành viên như sau:
BẢNG PHÂN CÔNG CÔNG VIỆC CỦA CÁC THÀNH VIÊN NHÓM 1 TT Thành viên Lớp Công việc Ghi chú -Liên hệ thực tiễn 1 Nguyễn Phan Hoài Anh K9D Nhóm trưởng -Thuyết trình - Nguyên tắc 2 Lê Quốc Huy K9D Thư kí - Tổng hợp word - Khái niệm 3 Hoàng Thị Vân Anh K9D - Thuyết trình - Tổng hợp word 4 Hoàng Thị Ngọc Hà K9D - Nội dung Thư ký Nhóm trưởng Lê Quốc Huy
Nguyễn Phan Hoài Anh Mục Lục
I. Mở đầu..................................................................................6
II. Nội Dung.............................................................................7
1. Khái niệm..........................................................................................7
2. Nguyên tắc........................................................................................7
3.Nội dung chính sách đối ngoại của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam.......................................................................................9
3.1.Chính sách đối ngoại độc lập,tự chủ,hòa bình,hữu nghị,hợp tác và
phát triển..............................................................................................9
3.2.Đa phương hóa,đa dạng hóa quan hệ đối ngoại,chủ động và tích
cực hội nhập quốc tế..........................................................................10
3.3.Việt Nam sẵn sàng là bạn,là đối tác tin cậy và là thành viên có
trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế................................................11
3.4.Thực hiện đối ngoại trên cơ sở lợi ích quốc gia và lợi ích dân tộc
...........................................................................................................12
III. Đánh giá về chính sách đối ngoại.....................................13
4. Thành tựu..........................................................................................13
5. Những hạn chế, bất cập.....................................................................16
6. Các tác động đối với môi trường đối ngoại của Việt Nam:..............16
7. Những vấn đề đặt ra với công tác đối ngoại của Việt Nam thời gian
tới:.........................................................................................................18
8. Việt Nam giữa bối cảnh Nga và Ukraina..........................................18
IV. Kết Luận.............................................................................20 I. Mở đầu
Từ khi thành lập đến nay, Nhà nước Cộng hoà chủ xã hội chủ nghĩa Việt
Nam luôn chủ trương thực hiện một cách nhất quán chính sách đối ngoại
hoà bình, hữu nghị và hợp tác vì sự tiến bộ xã hội trên cơ sở tôn trọng các
quyền dân tộc cơ bản của mỗi nước và những nguyên tắc cùng chung
sống hoà bình.Tuy nhiên, đo điều kiện lịch sử trong mỗi giai đoạn cụ thể
nên cách thể hiện trong các bản hiến pháp nước ta không hoàn toàn giống
nhau.Những năm gần đây, cùng với những thành tựu to lớn mà Nhà nước
và nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã đạt đượcởtrong nước,hoạt
động đối ngoại của chúng ta cũng đã có những bước phát triển quan
trọng. Với phương châm“Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước
trên thế giới”, Nhà nước ta đã không ngừng mở rộng quan hệ với các
nước, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao. II. Nội Dung 1. Khái niệm
Điều 12 Hiến pháp năm 2013 quy định:
“Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện nhất quán đường
lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; đa
phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập, hợp tác
quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ,
không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi;
tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; là bạn, đối tác tin cậy và thành
viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế vì lợi ích quốc gia, dân tộc,
góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”. 2. Nguyên tắc
a. Chính sách đối ngoại vì lợi ích quốc gia, dân tộc
Lợi ích quốc gia, dân tộc là lợi ích của nhân dân Việt Nam trong nước và
người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Đường lối đối ngoại của Việt Nam
đã bước sang một tầm cao mới ở các lĩnh vực khác nhau như kinh tế,
chính trị, quốc phòng, an ninh, văn hóa- xã hội và mọi cấp độ song
phương, khu vực, đa phương và toàn cầu nên đòi hỏi đường lối đối ngoại
phải khẳng định mục đích hoạt động nhằm đảm bảo lợi ích quốc gia, dân
tộc và phải góp phần vào sự nghiệp hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
tiến bộ trên thế giới. Hiến pháp năm 2013 quy định về mục tiêu đường lối
đối ngoại như vậy phù hợp với mục đích đối ngoại được khẳng định trong
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ I của Đảng;“vì lợi ích quốc gia, dân tộc’’ b.
Chính sách đối ngoại vì sự nghiệp hoà bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và tiến bộ trên thế giới
Lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc và sự nghiệp hoà bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới là hai mục tiêu luôn thống nhất với
nhau. Lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc là cơ sở chính trị-pháp lý cơ bản để
xây dựng đường lối đối ngoại của nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Mục tiêu đối ngoại “vì lợi ích quốc gia, dân tộc” là mục tiêu thống nhất
với các mục tiêu khác trong đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà
nước,thể hiện sự ghi nhận và kế thừa, phát triển quan điểm đối ngoại của
Đảng qua các thời kỳ như Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị khóa VI và
Nghị quyết Trung ương 8, khoá IX. Nghị quyết 13 đã khẳng định “Lợi ích
cao nhất của Đảng và nhân dân ta là phải củng cố và giữ vững hòa bình
để tập trung sức xây dựng và phát triển kinh tế” và Nghị quyết Trung,
khóa IX nhấn mạnh “bảo vệ lợi ích gia, dân tộc”là một trong những mục
tiêu then chốt của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.Việc Hiến pháp
năm 2013 khẳng định rõ về mục tiêu của đường lối đối ngoại là vì lợi ích
quốc gia, dân tộc cũng khẳng định đây là một nguyên tắc cao nhất của các
hoạt động đối ngoại cần phải được quán triệt trong tổ chức và thực hiện.
Nếu lợi ích quốc gia,lợi ích dân tộc không được đảm bảo trong thực tiễn
thì cũng đồng nghĩa với việc nguyên tắc trong đường lối đối ngoại Hiến
pháp ghi nhận không được thực hiện. Quy định“vì lợi ích quốc gia,dân
tộc” của Hiến pháp năm 2013 về đường lối đổi ngoại thể hiện nguyên tắc
chung, cơ bản nhất để các chủ thể tham gia hoạt động đối ngoại, từ ngoại
giao Nhà nước, đối ngoại Đảng đến đối ngoại nhân dân đều phải tuân thủ
nghiêm minh. Có như vậy,mục tiêu vì lợi ích quốc gia,dân tộc,góp phần
vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên
thế giới mới được đảm bảo trên thực tiễn.
3. Nội dung chính sách đối ngoại của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
3.1 Chính sách đối ngoại độc lập,tự chủ,hòa bình,hữu nghị,hợp tác và phát triển
Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, việc thực hiện chính sách đối ngoại
độc lập,tự chủ là điều không dễ dàng. Lý do là vì giữa các nước ngày
càng có sự gắn kết về lợi ích nên việc chia sẻ những lợi ích đó là điều
không thể tránh khỏi. Nguyên nhân này làm cho khả năng đạt được mục
tiêu đối ngoại của mỗi quốc gia luôn bị ảnh hưởng bởi ngoại cảnh.Hơn
nữa,khi các quốc gia là thành viên của các tổ chức quốc tế thì đều có
nghĩa vụ tuân thủ các cam kết của tổ chức mà mình là thành viên,điều này
sẽ làm cho các quốc gia buộc phải ràng buộc chính sách đối ngoại của
mình vào các cam kết quốc tế đó.
Để thực hiện đường lối đối ngoại độc lập,tự chủ thì cần thực hiện các yêu cầu sau đây:
-Phát triển kinh tế và đảm bảo sự ổn định trong nước. Có như vậy quốc
gia mới có tiếng nói và vị trí trên trường quốc tế. Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã từng nói“Thực lực mạnh ngoại giao sẽ thắng lợi. Thực lực là cái
chiêng mà ngoại giao là cải tiếng.Cái chiêng có totiếng mới lớn”. Một
quốc gia giàu mạnh thì mới có thể đưa ra tiếng nói của mình trên các diễn
đàn quốc tế và tránh được áp lực từ các quốc gia khác. Có như vậy mới
đảm bảo cho sự độc lập và tự chủ trong hoạt động đối ngoại.
-Chủ động tham gia vào các hoạt động quốc tế để nắm được các vấn đề
quốc tế, từ đó đưa ra những ý kiến, góp phần giải quyết những bất đồng
và đi đến các thỏa thuận song phương hoặc đa phương. Chỉ thông qua các
hoạt động như vậy mới có thể chủ động đưa quan điểm của Việt Nam đến
với thế giới và khi đó sẽ khẳng định được tính độc lập, tự chủ trong ngoại giao của chúng ta.
- Nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ làm công tác ngoại giao.Con
người luôn là nhân tố quan trọng của mọi hoạt động, vì vậy, đối ngoại độc
lập đòi hỏi phải có một đội ngũ cán bộ có hiểu biết về luật pháp quốc
tế,các quy tắc ngoại giao cũng như xu thế vận động của thế giới.Đó chính
là nền tảng để các nhà ngoại giao có thể chủ động đàm phán vì lợi ích dân
tộc và lợi ích quốc gia.
3.2 Đa phương hóa,đa dạng hóa quan hệ đối ngoại, chủ động và tích
cực hội nhập quốc tế
Chủ trương của Đảng và Nhà nước Việt Nam hiện nay là thực hiện đa
phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại, trong đó ưu tiên phát triển
quan hệ hợp tác và hữu nghị với các nước láng giềng có chung biên giới,
đồng thời nỗ lực làm sâu sắc hơn nữa quan hệ với các đối tác chiến lược.
Những năm qua, chúng ta cũng thúc đẩy mạnh mẽ việc giải quyết các vấn
đề về biên giới, lãnh thổ với các nước láng giềng,bao gồm cả vấn đề trên
đất liền và trên biển. Công việc này được thực hiện trên cơ sở luật pháp
quốc tế nhằm xây dựng đường biên giới hòa bình, hữu nghị giữa các quốc gia láng giềng.
Về ngoại giao đa phương, Việt Nam ngày càng tham gia tích cực vào
các tổ chức quốc tếởcấp độ toàn cầu cũng như khu vực, chẳng hạn như tổ
chức Liên hợp quốc(UN), Tổ chức thương mại thế giới(WTO), Diễn đàn
hợp tác phát triển kinh tế(OECD), Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
(ASEAN)... Các hoạt động của Việt Nam mở rộng sang cả các lĩnh vực
liên quan đến những thách thức phi truyền thống, đặc biệt là vấn đề biến đổi khí hậu toàn cầu.
Hoạt động đối ngoại của nước ta còn được thực hiện bởi nhân dân
thông qua các tổ chức chính trị-xã hội, các đoàn thể nhân dân và từng cá
nhân công dân. Hoạt động này cũng góp phần vào việc thực hiện chính
sách ngoại giao đa dạng hóa của Việt Nam, cùng với ngoại giao Nhà nước
góp phần đạt được những lợi ích cho đất nước và dân tộc.
3.3 Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên có
trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX ghi nhận về tinh thần chung trong
đường lối đối ngoại là: Việt Nam sẵn sàng là bạn,là đối tác tin cậy của các
nước.Kế thừa quan điểm đó, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI,Văn
kiện đại hội Đảng đã bổ sung quan điểm“Việt Nam là thành viên có trách
nhiệm trong cộng đồng quốc tế”. Đây là chính sách đối ngoại hiện
đại,phù hợp với yêu cầu và mong muốn hội nhập quốc tế một cách mạnh
mẽ: Việt Nam mong muốn đóng góp tích cực vào việc xây dựng một
cộng đồng quốc tế ngày càng phát triển, hòa bình và thịnh vượng.
Đường lối, chính sách đối ngoại của Việt Nam xuất phát từ thực tiễn vai
trò của Việt Nam trong cộng đồng quốc tế và ngày càng được khẳng định
thông qua các hoạt động trên một số phương diện như sau:
-Việt Nam ngày càng làm sâu sắc thêm mối quan hệ với các nước trên
thế giới. Hiện nay, Việt Nam đã có quan hệ với hầu hết các nước trên thế
giới, đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với nhiều nước, trong đó có
những nước lớn là thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc.
- Việt Nam tích cực thực hiện trách nhiệm trong các tổ chức quốc tế. Chỉ
trong hai năm 2008-2009 đã hoàn thành xuất sắc vai trò của nước Ủy
viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Trong nhiệm kỳ
này, Việt Nam đã đưa ra nhiều sáng kiến để giải quyết các công việc toàn
cầu và được cộng đồng quốc tế tán thành và thừa nhận. Trong phạm vi
khu vực, Việt Nam tích cực tham gia xây dựng cộng đồng ASEAN vững
mạnh, góp phần củng cố vai trò của ASEAN trong các khuôn khổ hợp tác
ở khu vực châu Á- Thái Bình Dương. Hơn nữa, Việt Nam cũng ngày càng
chủ động, đóng góp các sáng kiến vào các cơ chế, tổ chức, diễn đàn khu
vực, diễn đàn đa phương cũng như toàn cầu. Điều này cho thấy sự tin
tưởng của bạn bè quốc tế cũng như uy tín ngày một nâng cao của Việt
Nam đối với các quốc gia trong khu vực.
-Việt Nam luôn chủ trương thực hiện giải quyết các tranh chấp trên biển
với một số nước trên tinh thần hòa bình, hữu nghị, tôn trọng luật pháp
quốc tế. Đây là một minh chứng hùng hồn với thế giới về một nhà nước
Việt Nam luôn coi trọng việc giữ gìn hòa bình, ổn định trong khu vực,
đồng thời bảo đảm an ninh và an toàn hàng hải quốc tế.
- Việt Nam đã tham gia tích cực vào các hoạt động nhằm phát triển kinh
tế thế giới, khắc phục khó khăn do khủng hoảng gây ra, thể hiện trách
nhiệm cùng cộng đồng quốc tế xây dựng cuộc sống ấm no cho nhân loại.
Việt Nam đã gia nhập Tổ chức thương mại thế giới(WTO), ký kết nhiều
hiệp định thương mại tự do song phương.
Như vậy, chính sách đối ngoại của Nhà nước nêu trên phù hợp với chủ
trương của Đảng về chính sách đối ngoại hòa bình, hữu nghị, không
những xây dựng tình bạn, lòng tin với tất cả các nước trên thế giới mà
còn là một thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế.
3.4 Thực hiện đối ngoại trên cơ sở lợi ích quốc gia và lợi ích dân tộc
Lợi ích quốc gia và lợi ích dân tộc vừa là mục tiêu, vừa là nguyên tắc
cao nhất của các hoạt động đối ngoại. Đây là nguyên tắc bất biến mà
trong hoạt động ngoại giao luôn phải tuân thủ. Tư tưởng ngoại giao Hồ
Chí Minh thể hiện rất rõ quan điểm này thông qua câu nói của Người“dĩ
bất biến ứng vạn biến”. Điều này có nghĩa, trong ngoại giao phải lấy
nguyên tắc lợi ích dân tộc làm nền tảng, là cái không thể thay đổi. Những
hoạt động cụ thể có thể thay đổi theo điều kiện, hoàn cảnh nhưng cuối
cùng vẫn phải phục vụ mục đích chung là lợi ích quốc gia và lợi ích dân tộc.
Trên tinh thần này, dù là hoạt động ngoại giao Nhà nước hay là hoạt
động đối ngoại nhân dân thì mọi chủ thể đều phải đặt lợi ích dân tộc và
lợi ích quốc gia lên trên hết. Các cơ quan nhà nước phải thấy được trách
nhiệm của mình trong việc thực hiện các công việc bang giao quốc
tế.Trách nhiệm đó là xây dựng tình đoàn kết hữu nghị với các quốc gia
trong khi vẫn đảm bảo độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ
của Tổ quốc. Các cơ quan nhà nước cần tích cực tham gia hơn nữa vào
hoạt động của các tổ chức quốc tế, thực hiện đối ngoại song phương và đa
phương phù hợp với luật pháp quốc tế đảm bảo tính chuyên nghiệp cao.
Đồng thời, các tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội-
nghề nghiệp phải góp phần hơn nữa vào việc quảng bá hình ảnh đất nước
và con người Việt Nam, làm cho thế giới hiểu hơn về một dân tộc Việt
Nam yêu chuộng hòa bình, có khát vọng vươn lên xây dựng một cuộc
sống ấm no cho nhân dân và phồn thịnh cho đất nước.
III. Đánh giá về chính sách đối ngoại 4. Thành tựu
Một, công tác đối ngoại đã góp phần tiếp tục duy trì, củng cố môi
trường hòa bình ổn định, giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh
thổ, bảo vệ chế độ XHCN.
Điều này được thể hiện rõ trên các phương diện sau:
Chúng ta đã xử lý tốt và không ngừng đưa các mối quan hệ với các đối
tác hàng đầu như Trung Quốc, Mỹ, Nga, Liên minh châu Âu (nhất là
Đức), Nhật Bản… đi vào chiều sâu và ngày càng thực chất.
Mặc dù thời gian qua, có nước đã tiến hành cải tạo đảo/đá trái phép ở
biển Đông, đã tiến hành quân sự hóa ồ ạt các đảo nhân tạo đã chiếm đóng
trái phép, có nhiều hành động chèn ép, vi phạm chủ quyền, quyền chủ
quyền, quyền tài phán của nước ta, nhưng chúng ta đã khéo léo, kiên trì,
kiên quyết đấu tranh bằng nhiều hình thức, biện pháp phù hợp, được cộng
đồng quốc tế đánh giá cao, vừa bảo vệ được độc lập, chủ quyền, quyền
chủ quyền, vừa giữ vững được môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước.
Chúng ta cũng đang cùng ASEAN và Trung Quốc tích cực tham gia đàm
phán về Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC), đẩy mạnh trao đổi về
phân định vùng đặc quyền kinh tế với Indonesia, tiếp tục duy trì các cơ
chế đàm phán với Trung Quốc ở khu vực ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ và tích
cực nghiên cứu các khả năng hợp tác cùng phát triển. Mặc dù các nước
lớn thời gian qua ra sức vận động, lôi kéo Việt Nam tham gia các tập hợp
lực lượng mới, chúng ta đã khẳng định được đường lối đối ngoại độc lập,
tự chủ, xử lý tương đối cân bằng quan hệ với các nước lớn…
Việt Nam cũng đang tích cực tham gia và ngày càng đóng vai trò quan
trọng trong ASEAN, nhất là trong việc xây dựng ba cộng đồng, duy trì
đoàn kết nội khối, duy trì vai trò trung tâm của ASEAN, duy trì và củng
cố quan hệ của ASEAN với các đối tác bên ngoài
Chúng ta cũng đã đấu tranh kiên quyết, làm thất bại nhiều âm mưu can
thiệp của các lực lượng thù địch trong vấn đề dân chủ nhân quyền, tôn
giáo; kịp thời xử lý nhiều vụ việc phức tạp về chính trị đối ngoại, góp
phần bảo vệ chế độ, bảo đảm ổn định chính trị - xã hội…
Hai là, công tác đối ngoại đã đẩy mạnh triển khai chủ trương tích
cực, chủ động hội nhập quốc tế, đưa quan hệ với các đối tác ngày
càng đi vào chiều sâu, thực chất, phục vụ thiết thực cho sự phát triển của đất nước.
Trong hơn hai năm (từ 2016 – nay), Việt Nam đã nâng cấp quan hệ đối
tác chiến lược với Nhật Bản, Australia; đối tác toàn diện với Myanmar,
Canada, Hungary và New Zealand. Đến nay Việt Nam đã có 16 đối tác
chiến lược, 12 đối tác toàn diện. Chúng ta cũng đã tham gia 16 hiệp định
thương mại tự do (FTA), thị trường cho hàng hóa và dịch vụ của Việt
Nam ngày càng mở rộng. Đến nay đã có 71 nước công nhận Việt Nam là
nền kinh tế thị trường.
Chúng ta tiếp tục tranh thủ được nhiều nguồn lực to lớn phục vụ cho sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Từ sau Đại hội XII đến
nay, chúng ta đã ký kết và đi vào triển khai hàng trăm thỏa thuận hợp tác
quốc tế ở các cấp từ trung ương tới địa phương. Các nguồn lực to lớn cho
phát triển như đầu tư nước ngoài, viện trợ phát triển, hỗ trợ kỹ thuật tiếp
tục được thu hút và duy trì. Số lượng du khách tới Việt Nam không ngừng
gia tăng. Hợp tác quốc tế và hội nhập về y tế, giáo dục đào tạo, chuyển
giao công nghệ, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu tiếp tục được thúc đẩy.
Ba là, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao.
Bám sát tinh thần của Nghị quyết Đại hội XII về việc “Việt Nam là một
thành viên có trách nhiệm” và chủ động “nâng tầm ngoại giao đa
phương”, Việt Nam đã tích cực, chủ động trong các hoạt động ngoại giao
đa phương, đặc biệt là trong các vấn đề có lợi ích sát sườn với Việt Nam.
Chúng ta không chỉ tham gia các hoạt động đa phương đơn thuần, mà còn
tích cực đóng góp để xây dựng, định hình các thể chế, luật lệ, chuẩn mực
đa phương. Việt Nam cũng rất năng động, tích cực trong các cơ chế của
ASEAN, hợp tác tiểu vùng Mê-công; đảm nhiệm ngày càng nhiều các
trách nhiệm quốc tế như gìn giữ hòa bình của Liên Hợp Quốc (PKO), Hội
đồng nhân quyền… Chúng ta cũng đóng vai trò tích cực hơn trong các cơ
chế quản trị toàn cầu và xây dựng quan hệ hợp tác ngày càng tốt đẹp với
nhiều cơ chế, tổ chức, sáng kiến quốc tế như Nhóm các nước công nghiệp
phát triển (G7), Nhóm 20 nền kinh tế mới nổi và phát triển (G20, Diễn
đàn hợp tác Á – Âu (ASEM), Ngân hàng phát triển châu Á (ADB), Ngân
hàng phát triển hạ tầng châu Á (AIIB)… Các nước lớn ngày càng coi
trọng Việt Nam và đặt Việt Nam ở vị thế ngày càng cao trong chiến lược
của họ ở khu vực và trên thế giới. Việt Nam được bầu làm Phó Tổng thư
ký ASEAN, Phó Chủ tịch Ủy ban LPQT, Tổng thư ký tổ chức Colombo…
Với các cơ chế đa phương, Việt Nam đã mở ra không gian rộng lớn hơn
để có thể tham gia ngày càng sâu rộng, chủ động hơn, có thể đóng vai trò
lớn hơn, đóng góp thực chất hơn, đồng thời phục vụ thiết thực với việc
bảo vệ lợi ích quốc gia. Công tác đối ngoại đã đồng đều hơn và có sự
phối hợp chặt chẽ hơn giữa các lĩnh vực (ngoại giao chính trị, kinh tế, văn
hóa) trên các kênh (ngoại giao Đảng, Nhà nước, Quốc hội, đối ngoại nhân dân).
5. Những hạn chế, bất cập
Đại hội XII đã nêu các hạn chế của công tác đối ngoại và hội nhập quốc
tế gồm: có mặt chưa chủ động và hiệu quả chưa cao. Chưa có giải pháp
đồng bộ, hữu hiệu để hạn chế các tác động tiêu cực trong quá trình đẩy
mạnh hội nhập quốc tế. Trong nhận thức và chỉ đạo thực tiễn có lúc chưa
theo kịp những chuyển biến mau lẹ, phức tạp của tình hình thế giới và
khu vực. Sự phối hợp, kết hợp giữa các ngành, các địa phương còn thiếu
chặt chẽ. Công tác nghiên cứu chiến lược, dự báo tình hình còn hạn chế.
6. Các tác động đối với môi trường đối ngoại của Việt Nam:
a. Tác động thuận:
- Việt Nam có thêm điều kiện và dư địa để củng cố và nâng cao vị thế ở
khu vực và trên thế giới. Với vị trí địa chiến lược và sức mạnh tổng hợp,
với kinh nghiệm đối ngoại được tích lũy qua hơn 30 năm đổi mới, với vai
trò thành viên ASEAN, Việt Nam không những có thể tránh được sự lôi
kéo vào cuộc tranh giành ảnh hưởng giữa các nước lớn mà còn có cơ hội
tăng cường quan hệ với cả Trung Quốc, Mỹ và các nước lớn khác.
- Xu hướng bảo hộ và chống toàn cầu hóa tuy tăng lên nhưng không
mạnh như dự báo. Một mặt chúng ta có thể tham gia các FTA đa phương
với sức ép ít hơn, từ đó có thêm thời gian để tăng cường và hoàn thiện
năng lực tự vệ và cạnh tranh. Mặt khác, chúng ta có thể hóa giải các sức
ép bảo hộ, nhất là từ Mỹ, bằng các biện pháp thúc đẩy quan hệ song
phương, nhất là dựa trên giá trị địa chiến lược mới của Việt Nam.
b. Tác động không thuận:
- Môi trường đối ngoại sẽ phức tạp và nhiều thách thức hơn. Do tính chất
khó đoán định của tình hình khu vực và quốc tế ngày càng gia tăng, nhất
là do các đối tác chủ chốt của ta điều chỉnh chiến lược và thị trường thế
giới thường xuyên biến động, môi trường chính trị, an ninh, kinh tế thế
giới sẽ bất ổn định hơn, với các tác động nhanh, mạnh và bất ngờ hơn.
Nhiệm vụ bao trùm là giữ vững môi trường hòa bình, ổn định do đó sẽ
gặp thách thức nhiều hơn.
- Nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển đảo cũng gặp một số thách thức mới.
Bảo vệ chủ quyền của Việt Nam sẽ khó khăn hơn, đồng thời khả năng
thực thi quyền chủ quyền để khai thác tài nguyên (nghề cá và dầu khí)
cũng bị hạn chế hơn. An ninh sườn phía Tây của Việt Nam tiếp tục gặp
thách thức lớn hơn, tác động tiêu cực đến lợi ích an ninh, phát triển của Việt Nam.
- Về mặt phát triển kinh tế, Việt Nam có thể sẽ gặp phải một số thách thức
như: nguy cơ lệ thuộc lớn hơn vào nền kinh tế; sức ép bảo hộ từ các nền
kinh tế phát triển tăng lên, nhất là khi Mỹ và châu Âu chiếm tới 40% thị
phần xuất khẩu của ta; Việt Nam tiếp tục phải đối diện với nguy cơ trở
thành “bãi rác công nghệ” của các nước, nhất là Trung Quốc; các thể chế
đa phương tham gia “điều tiết” quá trình toàn cầu hóa về thương mại, đầu
tư như WTO, APEC ngày càng giảm vai trò; và cọ xát thương mại giữa
các nước có thể tác động trực tiếp và gián tiếp đến Việt Nam.
- Công tác đối ngoại đa phương cũng sẽ gặp thách thức, một số nước lớn
đang sử dụng các cơ chế đa phương mới để tập hợp lực lượng và định
hình luật chơi mới có lợi cho họ, ASEAN tiếp tục bị chia rẽ và khó đạt
đồng thuận về một số lĩnh vực liên quan đến lợi ích cơ bản của ta, nhất là vấn đề biển Đông.
7. Những vấn đề đặt ra với công tác đối ngoại của Việt Nam thời gian tới:
Một là, thách thức từ yêu cầu xử lý hiệu quả, hài hòa quan hệ với các
nước lớn. Cạnh tranh và cọ xát chiến lược nước lớn sẽ gay gắt, liên tục về
mức độ và toàn diện về lĩnh vực. Hiện nay, mặc dù quan hệ nước lớn
chưa đến mức Chiến tranh Lạnh mới, chưa chia phe nhưng đã xuất hiện
những dạng tập hợp lực lượng mới đa dạng và linh hoạt. Điều này khiến
cho bài toán xử lý quan hệ của Việt Nam với các nước lớn sẽ khó khăn hơn.
Hai là, thách thức từ yêu cầu xử lý mối quan hệ giữa hội nhập quốc tế
sâu rộng với bảo đảm an ninh quốc gia, độc lập tự chủ, bảo vệ chế độ, và
bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc.
Ba là, thách thức từ yêu cầu xử lý tốt mối quan hệ giữa nhiệm vụ bảo vệ
chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và đảm bảo môi trường hòa bình, ổn định
và nguồn lực cho phát triển.
Bốn là, thách thức từ yêu cầu xử lý hài hòa giữa chủ trương đẩy mạnh
hội nhập quốc tế và nâng tầm đối ngoại đa phương với sự “quay lưng
lại” với chủ nghĩa đa phương và xu hướng “phản toàn cầu hóa.”
Năm là thách thức trong việc xử lý hiệu quả “độ vênh” giữa việc Việt
Nam đẩy mạnh hội nhập quốc tế. Theo đó Việt Nam tham gia sâu hơn,
đóng vai trò lớn hơn trong các thể chế đa phương khu vực và quốc tế,
thực hiện các cam kết quốc tế sâu rộng hơn nhưng hệ thống thể chế, luật
pháp và trình độ/năng lực của đội ngũ cán bộ, bộ máy nhà nước và doanh
nghiệp chưa ngang tầm nhiệm vụ. Nếu không xử lý tốt mâu thuẫn này,
nguy cơ tụt hậu xa hơn do chậm chân hoặc thua thiệt trong cuộc chạy đua
về kinh tế và không tận dụng được cơ hội do toàn cầu hóa và cách mạng công nghệ mang lại.
8. Việt Nam giữa bối cảnh Nga và Ukraina
Hiểu rõ vị trí chiến lược Việt Nam trong mối quan hệ giữa các nước lớn,
để “cương nhu kết hợp”, “dĩ bất biến, ứng vạn biến” vì lợi ích tối cao của
quốc gia, dân tộc. Tư tưởng cốt lõi ấy đã và đang được Đảng, Nhà nước
ta vận dụng khéo léo, linh hoạt, uyển chuyển trong đề ra và thực hiện
chính sách đối ngoại nói chung cũng như trong bày tỏ quan điểm và thể
hiện hành động trước tình hình căng thẳng trong quan hệ giữa Nga và
Ukraine thời gian qua. Cùng với việc kêu gọi kiềm chế, giảm xung đột
leo thang, Đảng, Nhà nước ta bày tỏ mong muốn Nga và Ukraine nhanh
chóng chấm dứt việc dùng vũ lực và đe dọa dùng vũ lực, thay vào đó là
những cái bắt tay, những vòng đàm phán, những phiên đối thoại, những
thỏa thuận, hòa giải nhằm tìm kiếm những giải pháp căn cơ, lâu dài cho
các tranh chấp, xung đột bằng biện pháp hòa bình.
Trong quan hệ đối ngoại, Đảng, Nhà nước ta luôn kiên trì thực hiện chính
sách “năm không”: Không can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác,
không tham gia các liên minh quân sự, không là đồng minh quân sự của
bất kỳ nước nào, không cho bất cứ nước nào đặt căn cứ quân sự trên lãnh
thổ Việt Nam và không liên kết nước này để chống nước kia. Do đó, đối
với vấn đề xung đột giữa Nga và Ukraine vừa qua, Việt Nam luôn đứng ở
vị trí trung lập để xem xét, nhìn nhận, đánh giá, phát ngôn và hành động.
Đại sứ Đặng Hoàng Giang, Trưởng phái Đoàn thường trực Việt Nam tại
Liên Hiệp quốc tại phiên họp đặc biệt của Đại hội đồng Liên Hiệp quốc
ngày 01/3 đều khẳng định quan điểm nhất quán của Việt Nam là kêu gọi
chấm dứt hành động sử dụng vũ lực, nối lại đối thoại và tìm kiếm giải
pháp lâu dài cho các bất đồng. Trong ngày thứ 2 của phiên họp đặc biệt
do Đại hội đồng Liên Hiệp quốc tổ chức về tình hình Ukraine, đại diện
Việt Nam khẳng định lập trường nhất quán của Việt Nam về giải quyết
các tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở tôn trọng luật
pháp quốc tế và hiến chương Liên Hiệp quốc; đồng thời bày tỏ sự quan
ngại sâu sắc và kêu gọi kiềm chế, chấm dứt các hành động sử dụng vũ
lực, nối lại đối thoại và tìm kiếm giải pháp lâu dài. Cùng với đó, Việt
Nam cũng đã tích cực kêu gọi và đề nghị cộng đồng quốc tế thúc đẩy viện
trợ nhân đạo cho dân thường, đảm bảo an ninh an toàn của người dân
cũng như các cơ sở hạ tầng thiết yếu theo luật nhân đạo quốc tế. Những
phát ngôn ấy đã được cộng đồng quốc tế đón nhận, ủng hộ và hoan
nghênh. Thực tế đó, đã phần nào minh chứng được, vai trò và sự tham gia
tích cực, đúng đắn của Việt Nam trong giải quyết xung đột giữa Nga và
Ukraine cũng như gìn giữ hòa bình thế giới. IV. Kết Luận
Bản chất của chế độ chính trị trong mỗi nước không chỉ được phản ánh
trong các chính sách đối nội mà còn thể hiện rõ nét trong chính sách đối
ngoại, trong việc thiết lập và giải quyết các quan hệ với các nước khác.
Trong bối cảnh tình hình quốc tế, nhất là đại dịch COVID-19 đã và đang
ảnh hưởng đến mọi mặt đời sống chính trị, kinh tế-xã hội, đối ngoại, giao
lưu quốc tế, ngành ngoại giao đã khắc phục khó khăn để triển khai đồng
bộ các nhiệm vụ trọng yếu của đối ngoại, đạt được nhiều kết quả quan
trọng nổi bật. Có thể nói, công tác đối ngoại của đất nước nói chung và
ngành ngoại giao nói riêng đã hoàn thành tốt cả 3 nhiệm vụ cơ bản là giữ
vững môi trường hoà bình, ổn định, thu hút các nguồn lực phục vụ cho
phát triển kinh tế-xã hội và đồng thời đóng góp rất quan trọng vào phòng,
chống dịch, nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.