Phân tích khổ 7 bài thơ Việt Bắc của T Hữu
chọn lọc hay nhất
Phân tích khổ 7 bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu chọn lọc hay nhất -
Mẫu số 1
Bài thơ 'Việt Bắc' của Tố Hữu một c phẩm cùng nổi tiếng, ra đời sau
thời kỳ hòa bình khi Hiệp định Giơ-ne-vơ được kết. Sau 15 năm gắn tại
chiến khu Việt Bắc, Đảng Chính phủ quyết định rời quan chính quyền
này về thủ đô Nội. Bài thơ không chỉ dòng chảy của ức còn nỗi
nhớ sâu sắc của tác giả dành cho thiên nhiên con người nơi đây. Đặc biệt,
khổ thơ thứ bảy đã thành công trong việc khắc họa bức tranh tứ bình tuyệt
đẹp, làm nổi bật hình ảnh núi rừng vùng cao trong tâm trí tác giả.
Bắt đầu bằng câu hỏi ướm hỏi của những người ra đi đối với những người
lại:
'Ta về, mình nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người.'
Sự lựa chọn của 'ta về', 'nhớ', kết hợp với câu hỏi thủ thỉ đã làm dịu đi âm
thanh của câu thơ, khiến cảm xúc hồi hộp, quyến luyến vẫn cứ dâng trào
trong tâm t tác giả. Hình ảnh 'những hoa cùng người' biểu tượng cho
thiên nhiên con người Việt Bắc, điểm mở ra bức tranh tứ bình tuyệt đẹp
với không gian thơ mộng, đầy màu sắc cùng vẻ đẹp lao động mạnh mẽ, cần
mẫn của con nhân dân vùng cao.
Bức tranh tiếp tục mở ra với khung cảnh của núi rừng trong mùa đông:
'Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt ng.'
Trong không gian của núi rừng, màu xanh của rừng bao ph mọi ngõ ngách,
tạo nên cảm giác rộng lớn, kỳ l cùng. Ánh sáng 'đỏ tươi' của hoa chuối
nổi bật giữa cây cỏ, hai màu sắc tương phản nhưng lại hài hòa, tạo nên bức
tranh thiên nhiên hài hòa, đầy sức sống. Màu đỏ của hoa chuối, hay còn
màu của những đốt đuốc rực cháy, tan đi cái lạnh giá của rừng núi hoang vu.
Đồng thời, hình ảnh con người hiện lên mạnh mẽ, kiên cường. Lưỡi dao gài
trên thắt lưng sáng bóng, khi ánh nắng chiếu vào, càng làm nổi bật thế
vững vàng, chủ động của con người nơi đây.
Sau đó mùa xuân với khung cảnh tràn đầy sức sống:
'Ngày xuân nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.'
Xuân về, khi hàng ngàn hoa đua nở. Thay những cây đào, cây mai quen
thuộc, Tố Hữu đưa o bức tranh hình ảnh của hoa mơ, loài hoa tượng trưng
cho núi rừng Việt Bắc. Sắc trắng của hoa lan tỏa trong không gian, mang
lại sự sống cho mọi thứ. Trên nền của thiên nhiên mộng ấy, hình ảnh con
người xuất hiện với sự cẩn mẫn, tỉ mỉ 'chuốt từng sợi giang'. Từng động tác
khéo léo, cẩn thận như in sâu vào tâm trí tác giả, làm cho nỗi nhớ trở nên
càng sâu sắc, khôn nguôi.
Mùa rực rỡ hiện lên với âm thanh màu sắc:
'Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ em gái hái măng một mình.'
Tiếng ve u báo hiệu mùa đã về, vang lên sắc vàng của rừng phách.
Động từ 'đổ' không chỉ mang tính chất bất ngờ còn thay đổi ngay lập tức
không gian. Ch một câu sáu chữ như tái hiện lại một cách hoàn hảo khung
cảnh mùa rộn rã. Ngược lại, hình ảnh 'cô em gái hái măng một mình'
không chỉ đơn độc còn đặc biệt, điều này nâng cao hình nh con người.
Đây sự cần mẫn, chăm chỉ, hy sinh của người dân làm việc trong vùng núi
Việt Bắc.
Cuối cùng khung cảnh mùa thu thơ mộng:
'Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.'
Mùa thu luôn gắn với sự đoàn kết, mang lại cho con người cảm giác thanh
bình, yên lặng. Ánh trăng chiếu sáng khung cảnh núi rừng, tạo nên không
gian huyền bí. Nó làm ng bóng hình ảnh núi rừng, thể hiện tương lai hòa
bình của dân tộc. Tiếng hát vang lên chứa đựng mọi sắc thái, thể hiện sự
đoàn kết, thủy chung giữa con người.
Với khổ thơ thứ bảy, Tố Hữu đã đưa vào kho tàng thơ ca dân tộc một bức
tranh tứ bình cùng đặc sắc. không chỉ mang nh cổ điển, mẫu mực
còn sự hiện đại, mới mẻ. Kết cấu hợp của đoạn thơ được thể hiện
ràng: câu lục tả cảnh vật, câu bát tả con người. Âm thanh, ánh sáng
màu sắc được sử dụng một ch tinh tế, hòa hợp. S kết hợp giữa thiên
nhiên con người đã hoàn thiện bức tranh, làm cho tác phẩm thêm phong
phú, độc đáo.
Qua bài thơ này, người đọc không chỉ thêm hội để ngưỡng mộ tài năng
tâm hồn của Tố Hữu, còn hiểu sâu sắc hơn về vẻ đẹp của thiên nhiên
con người Việt Bắc, được thể hiện một cách chân thực lãng mạn. Đây
thực sự một trong những đoạn thơ tuyệt vời nhất trong n học Việt Nam.
Phân tích khổ 7 i thơ Việt Bắc của T Hữu chọn lọc hay nhất -
Mẫu số 2
Đoạn thơ "Việt Bắc" của Tố Hữu một bức tranh lớn với tầm c trường ca,
sức mạnh từng câu thơ lấp đầy cảm xúc dâng trào. được sáng tác vào
tháng 10 năm 1054, trong ngày giải phóng Thủ đô Nội, mang đậm nh
cảm thiêng liêng với Việt Bắc - biểu tượng của tình yêu dân tộc kháng
chiến.
Trích t u thứ 43 đến câu thứ 52 của bài thơ, hai dòng thơ "Ta về, mình
nhớ ta, Ta về, ta nhớ những hoa cùng người" lồng ghép câu hỏi u trả lời
của người n bộ chiến đấu về xuôi, thể hiện tấm lòng thân thiết với Việt Bắc
xa xôi, cách biệt. nh yêu thương ấy lan tỏa vào "những hoa cùng
người", gắn chặt chẽ với thiên nhiên con người Việt Bắc.
Sự xuất hiện thường xuyên của "mình" "ta" trong bài thơ làm nổi bật mối
quan hệ hòa quyện giữa hai m hồn trong mối tình Việt Bắc, đồng thời tăng
cường tính thơ ca tinh thần dân tộc. Những câu thơ tiếp theo, mỗi cặp lục
bát, tả từng khoảnh khắc nhớ nhung về mùa đông, xuân, hè, thu của Việt
Bắc.
Mùa đông, cây rừng màu xanh, hoa chuối rực rỡ màu đỏ tươi n ngọn lửa,
người lao động mạnh mẽ với con dao "nắng ánh" trên đèo cao. Mùa xuân,
những chiếc nón đan từ sợi giang, những chiếc nón mang đến sự chuẩn bị
cho cuộc chiến, vẫn mang vẻ đẹp của hoa "nở trắng rừng". Mùa hè, tiếng
ve kêu rộn ràng, rừng phách vàng óng, gái hái măng một mình giữa
rừng nứa, rừng trúc. Mùa thu, trăng rọi rực sáng, mang lại hòa bình, tiếng
hát thủy chung của người dân Việt Bắc.
Bài thơ "Việt Bắc" của Tố Hữu không chỉ một c phẩm văn học còn
một tuyên ngôn tình yêu sâu sắc đối với vùng đất Việt Bắc con người nơi
đây. sự kết hợp tinh tế giữa nét đẹp tự nhiên, tâm hồn dân tộc, tình
cảm cao đẹp của người viết.
Phân tích khổ 7 i thơ Việt Bắc của T Hữu chọn lọc hay nhất -
Mẫu số 3
Khi nhắc đến Việt Bắc, chúng ta không chỉ nhắc đến cội nguồn của cách
mạng còn nhắc đến một mảnh đất trung du nghèo khó nhưng đong đầy
tình nghĩa - nơi ghi dấu bao kỷ niệm của một thời kỳ cách mạng gian khổ
nhưng đầy hào hùng. Sự chia xa khỏi Việt Bắc để lại trong lòng ta những cảm
xúc bồi hồi xao xuyến, không thể nào quên.
rồi, những sợi nhớ thương cứ thế đan cài xoắn xuýt, giống như tiếng gọi
thân thương "Ta - mình" của đôi lứa u nhau. Như lời thơ của Chế Lan Viên:
"Khi ta đất chỉ nơi ở/ Khi ta đi đất bỗng hóa m hồn". Đúng vậy! Việt Bắc
đã hóa thành tâm hồn đầy ắp nghĩa tình trong thơ Tố Hữu, với những lời thơ
ngân nga như tiếng nhạc, với cảnh vật con người đong đầy những kỷ niệm
ân tình khó phai.
"Ta về mình nhớ ta Ta về, ta nhớ những hoa cùng người Rừng xanh hoa
chuối đỏ tươi Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng Ngày xuân nở trắng
rừng Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang Ve kêu rừng phách đổ ng
Nhớ em gái hái măng một mình Rừng thu trăng rọi hòa bình Nhớ ai tiếng
hát ân tình thủy chung"
Tố Hữu nhà thơ trữ tình chính trị, với những vần thơ thể hiện tình cảm ch
mạng vừa nhẹ nhàng vừa sâu sắc. "Việt Bắc" đỉnh cao trong sự nghiệp thơ
ca của Tố Hữu của thơ ca kháng chiến chống Pháp nói chung. Bài thơ
được viết vào tháng 10/1954, khi Trung ương Đảng Chính phủ, Bác Hồ
cán bộ kháng chiến từ biệt "Thủ đô gió ngàn" để về "Thủ đô Hoa vàng nắng
Ba Đình". Toàn bài thơ dòng hoài niệm thương nhớ về những năm tháng
gian khổ nhưng vui tươi hào hùng tại chiến khu Việt Bắc. Tuy nhiên, lẽ
đoạn thơ để lại ấn tượng sâu sắc nhất chính bức tranh tứ nh với bốn mùa
xuân - hạ - thu - đông.
Mở đầu đoạn thơ hai câu giới thiệu cảm xúc bao quát của đoạn thơ:
"Ta về mình nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người"
Câu t đầu tiên sử dụng câu hỏi tu từ "mình nhớ ta", u thứ hai sự tự
trả lời, với điệp từ "ta" lặp lại bốn lần cùng âm "a" m rộng, tạo nên âm
hưởng ngân nga, tha thiết. Với Tố Hữu, người cán b ra đi không chỉ nhớ đến
những ngày tháng gian kh "bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng", còn nhớ
đến vẻ đẹp đáng yêu của hoa người. Hoa tượng trưng cho vẻ đẹp thiên
nhiên Việt Bắc, còn con người con người Việt Bắc với tấm áo chàm nghèo
khó nhưng đậm đà lòng son. Hoa người quấn quýt, hòa quyện trong vẻ
đẹp hài hòa, tạo n nét đặc sắc, độc đáo của vùng đất này. Chính điều đó
đã tạo nên cấu trúc đặc biệt cho đoạn thơ. Trong bốn cặp lục bát tiếp theo,
câu sáu dành cho cảnh, câu tám dành cho người, với mỗi cặp câu đều mang
những sắc thái riêng, cuốn hút.
Mùa đông thường gợi lên trong ta cái lạnh thấu xương, cái u ám của những
ngày mưa phùn gió bấc. Nhưng mùa đông Việt Bắc trong thơ Tố Hữu lại
thật khác lạ:
"Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt ng"
Trên nền xanh bát ngát của cánh rừng, hoa chuối đ tươi nở rộ lung linh dưới
ánh nắng mặt trời. Từ xa trông tới, những bông hoa như những đuốc sáng
rực, tạo nên bức tranh với màu sắc vừa đối lập vừa i hòa, vừa cổ điển vừa
hiện đại. Màu đ tươi nổi bật giữa nền xanh của núi rừng, làm cho thiên nhiên
Việt Bắc trở nên tươi sáng, ấm áp, xua tan cái lạnh giá của mùa đông. u
thơ làm ta liên tưởng đến màu đỏ của hoa lựu trong thơ Nguyễn Trãi:
"Thạch lựu hiên còn phun thức đ
Hồng liên trì đã tịn mùi hương"
Màu đỏ của hoa chuối như lan tỏa hơi ấm mùa hè, xua đi cái lạnh lẽo của
mùa đông.
Cùng với vẻ đẹp của hoa chuối hình ảnh con người vùng chiến khu, lên núi
làm nương, phát rẫy sản xuất, cung cấp lương thực cho kháng chiến: "Đèo
cao nắng ánh dao gài thắt lưng". Trước thiên nhiên bao la, con người càng
trở nên kỳ vĩ, hùng tráng hơn. Tố Hữu không khắc họa gương mặt chớp
lấy một nét thần tình sáng chói nhất. Đó ánh mặt trời lóe sáng trên lưỡi dao
ngang lưng. Con người như trở thành trung tâm của ánh sáng, hiện lên với
thế làm chủ núi rừng: "Núi rừng đây của chúng ta/ Trời xanh đây của
chúng ta". Hình ảnh con người đã trở thành linh hồn của bức tranh a đông
Việt Bắc.
Đông qua xuân đến. Mùa xuân mùa của sức sống mới, của cỏ cây hoa lá:
"Ngày xuân nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang"
Mùa xuân Việt Bắc tràn ngập màu trắng tinh khiết của hoa mơ, nở r khắp
rừng: "Ngày xuân nở trắng rừng". Phép đảo ngữ từ "trắng" được dùng
như động từ nhấn mạnh màu sắc, làm bừng sáng cả khu rừng bởi sắc trắng
tinh khôi của hoa mơ. Động từ "nở" diễn tả sự sống mùa xuân lan tỏa. Mùa
xuân càng thêm tươi tắn bởi hình nh con người cần mẫn "chuốt từng sợi
giang", biểu tượng cho sự khéo léo, tài hoa, cần của người Việt Bắc.
Mùa đến với âm thanh rộn của tiếng ve:
"Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ em gái hái măng một mình"
Tiếng ve báo hiệu mùa đến, rừng phách đổ vàng. Động từ "đổ" diễn tả sự
vàng lên đồng loạt của hoa phách. Cảnh sắc mùa hè trong thơ Tố Hữu n
bức tranh sơn mài lung linh ánh sáng âm thanh. Hình ảnh gái hái măng,
một mình, không gợi cảm giác đơn lại thơ mộng, gần gũi, thể hiện
vẻ đẹp chịu thương chịu khó của người con gái Việt Bắc.
Mùa thu đến, chiến khu ngập trong ánh trăng thanh bình:
"Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung"
Ánh trăng hòa bình soi sáng núi rừng, tiếng hát ân tình của người Việt Bắc
vang vọng. Tiếng hát nhắc nhở tình cảm thủy chung, gắn sâu sắc.
Đoạn thơ khép lại bằng bức tranh mùa thu tuyệt đẹp, với ánh trăng hòa bình
tiếng hát ân tình, gợi cho người đọc những rung động sâu xa về tình yêu
quê hương đất nước. Với nét vẽ đơn sơ, giản dị, đoạn thơ của Tố Hữu đã
làm nổi bật bức tranh cảnh người Việt Bắc qua bốn mùa. Cảnh người
hòa quyện, tạo nên bức tranh sống động, thân quen, tan chảy thành nỗi nhớ
nhung trong tâm hồn người cán bộ về xuôi.

Preview text:

Phân tích khổ 7 bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu chọn lọc hay nhất
Phân tích khổ 7 bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu chọn lọc hay nhất -
Mẫu số 1
Bài thơ 'Việt Bắc' của Tố Hữu là một tác phẩm vô cùng nổi tiếng, ra đời sau
thời kỳ hòa bình khi Hiệp định Giơ-ne-vơ được kí kết. Sau 15 năm gắn bó tại
chiến khu Việt Bắc, Đảng và Chính phủ quyết định rời cơ quan chính quyền
này về thủ đô Hà Nội. Bài thơ không chỉ là dòng chảy của kí ức mà còn là nỗi
nhớ sâu sắc của tác giả dành cho thiên nhiên và con người nơi đây. Đặc biệt,
khổ thơ thứ bảy đã thành công trong việc khắc họa bức tranh tứ bình tuyệt
đẹp, làm nổi bật hình ảnh núi rừng vùng cao trong tâm trí tác giả.
Bắt đầu bằng câu hỏi ướm hỏi của những người ra đi đối với những người ở lại: 'Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người.'
Sự lựa chọn của 'ta về', 'nhớ', kết hợp với câu hỏi thủ thỉ đã làm dịu đi âm
thanh của câu thơ, khiến cảm xúc hồi hộp, quyến luyến vẫn cứ dâng trào
trong tâm trí tác giả. Hình ảnh 'những hoa cùng người' là biểu tượng cho
thiên nhiên và con người Việt Bắc, là điểm mở ra bức tranh tứ bình tuyệt đẹp
với không gian thơ mộng, đầy màu sắc cùng vẻ đẹp lao động mạnh mẽ, cần
mẫn của bà con nhân dân vùng cao.
Bức tranh tiếp tục mở ra với khung cảnh của núi rừng trong mùa đông:
'Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.'
Trong không gian của núi rừng, màu xanh của rừng bao phủ mọi ngõ ngách,
tạo nên cảm giác rộng lớn, kỳ lạ vô cùng. Ánh sáng 'đỏ tươi' của hoa chuối
nổi bật giữa cây cỏ, hai màu sắc tương phản nhưng lại hài hòa, tạo nên bức
tranh thiên nhiên hài hòa, đầy sức sống. Màu đỏ của hoa chuối, hay còn là
màu của những đốt đuốc rực cháy, tan đi cái lạnh giá của rừng núi hoang vu.
Đồng thời, hình ảnh con người hiện lên mạnh mẽ, kiên cường. Lưỡi dao gài
trên thắt lưng sáng bóng, khi ánh nắng chiếu vào, càng làm nổi bật tư thế
vững vàng, chủ động của con người nơi đây.
Sau đó là mùa xuân với khung cảnh tràn đầy sức sống:
'Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.'
Xuân về, khi hàng ngàn hoa đua nở. Thay vì những cây đào, cây mai quen
thuộc, Tố Hữu đưa vào bức tranh hình ảnh của hoa mơ, loài hoa tượng trưng
cho núi rừng Việt Bắc. Sắc trắng của hoa mơ lan tỏa trong không gian, mang
lại sự sống cho mọi thứ. Trên nền của thiên nhiên mộng mơ ấy, hình ảnh con
người xuất hiện với sự cẩn mẫn, tỉ mỉ 'chuốt từng sợi giang'. Từng động tác
khéo léo, cẩn thận như in sâu vào tâm trí tác giả, làm cho nỗi nhớ trở nên
càng sâu sắc, khôn nguôi.
Mùa hè rực rỡ hiện lên với âm thanh và màu sắc:
'Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình.'
Tiếng ve kêu báo hiệu mùa hè đã về, vang lên sắc vàng của rừng phách.
Động từ 'đổ' không chỉ mang tính chất bất ngờ mà còn thay đổi ngay lập tức
không gian. Chỉ một câu sáu chữ như tái hiện lại một cách hoàn hảo khung
cảnh mùa hè rộn rã. Ngược lại, hình ảnh 'cô em gái hái măng một mình'
không chỉ đơn độc mà còn đặc biệt, điều này nâng cao hình ảnh con người.
Đây là sự cần mẫn, chăm chỉ, hy sinh của người dân làm việc trong vùng núi Việt Bắc.
Cuối cùng là khung cảnh mùa thu thơ mộng:
'Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.'
Mùa thu luôn gắn với sự đoàn kết, mang lại cho con người cảm giác thanh
bình, yên lặng. Ánh trăng chiếu sáng khung cảnh núi rừng, tạo nên không
gian huyền bí. Nó làm sáng bóng hình ảnh núi rừng, và thể hiện tương lai hòa
bình của dân tộc. Tiếng hát vang lên chứa đựng mọi sắc thái, thể hiện sự
đoàn kết, thủy chung giữa con người.
Với khổ thơ thứ bảy, Tố Hữu đã đưa vào kho tàng thơ ca dân tộc một bức
tranh tứ bình vô cùng đặc sắc. Nó không chỉ mang tính cổ điển, mẫu mực mà
còn có sự hiện đại, mới mẻ. Kết cấu hợp lý của đoạn thơ được thể hiện rõ
ràng: câu lục mô tả cảnh vật, câu bát mô tả con người. Âm thanh, ánh sáng
và màu sắc được sử dụng một cách tinh tế, hòa hợp. Sự kết hợp giữa thiên
nhiên và con người đã hoàn thiện bức tranh, làm cho tác phẩm thêm phong phú, độc đáo.
Qua bài thơ này, người đọc không chỉ có thêm cơ hội để ngưỡng mộ tài năng
và tâm hồn của Tố Hữu, mà còn hiểu sâu sắc hơn về vẻ đẹp của thiên nhiên
và con người Việt Bắc, được thể hiện một cách chân thực và lãng mạn. Đây
thực sự là một trong những đoạn thơ tuyệt vời nhất trong văn học Việt Nam.
Phân tích khổ 7 bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu chọn lọc hay nhất - Mẫu số 2
Đoạn thơ "Việt Bắc" của Tố Hữu là một bức tranh lớn với tầm vóc trường ca,
sức mạnh từng câu thơ lấp đầy cảm xúc dâng trào. Nó được sáng tác vào
tháng 10 năm 1054, trong ngày giải phóng Thủ đô Hà Nội, và mang đậm tình
cảm thiêng liêng với Việt Bắc - biểu tượng của tình yêu dân tộc và kháng chiến.
Trích từ câu thứ 43 đến câu thứ 52 của bài thơ, hai dòng thơ "Ta về, mình có
nhớ ta, Ta về, ta nhớ những hoa cùng người" lồng ghép câu hỏi và câu trả lời
của người cán bộ chiến đấu về xuôi, thể hiện tấm lòng thân thiết với Việt Bắc
dù xa xôi, dù cách biệt. Tình yêu thương ấy lan tỏa vào "những hoa cùng
người", gắn bó chặt chẽ với thiên nhiên và con người Việt Bắc.
Sự xuất hiện thường xuyên của "mình" và "ta" trong bài thơ làm nổi bật mối
quan hệ hòa quyện giữa hai tâm hồn trong mối tình Việt Bắc, đồng thời tăng
cường tính thơ ca và tinh thần dân tộc. Những câu thơ tiếp theo, mỗi cặp lục
bát, mô tả từng khoảnh khắc nhớ nhung về mùa đông, xuân, hè, thu của Việt Bắc.
Mùa đông, cây rừng màu xanh, hoa chuối rực rỡ màu đỏ tươi như ngọn lửa,
và người lao động mạnh mẽ với con dao "nắng ánh" trên đèo cao. Mùa xuân,
những chiếc nón đan từ sợi giang, những chiếc nón mang đến sự chuẩn bị
cho cuộc chiến, vẫn mang vẻ đẹp của hoa mơ "nở trắng rừng". Mùa hè, tiếng
ve kêu rộn ràng, rừng phách vàng óng, và cô gái hái măng một mình giữa
rừng nứa, rừng trúc. Mùa thu, trăng rọi rực sáng, mang lại hòa bình, và tiếng
hát thủy chung của người dân Việt Bắc.
Bài thơ "Việt Bắc" của Tố Hữu không chỉ là một tác phẩm văn học mà còn là
một tuyên ngôn tình yêu sâu sắc đối với vùng đất Việt Bắc và con người nơi
đây. Nó là sự kết hợp tinh tế giữa nét đẹp tự nhiên, tâm hồn dân tộc, và tình
cảm cao đẹp của người viết.
Phân tích khổ 7 bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu chọn lọc hay nhất - Mẫu số 3
Khi nhắc đến Việt Bắc, chúng ta không chỉ nhắc đến cội nguồn của cách
mạng mà còn nhắc đến một mảnh đất trung du nghèo khó nhưng đong đầy
tình nghĩa - nơi ghi dấu bao kỷ niệm của một thời kỳ cách mạng gian khổ
nhưng đầy hào hùng. Sự chia xa khỏi Việt Bắc để lại trong lòng ta những cảm
xúc bồi hồi xao xuyến, không thể nào quên.
Và rồi, những sợi nhớ thương cứ thế đan cài xoắn xuýt, giống như tiếng gọi
thân thương "Ta - mình" của đôi lứa yêu nhau. Như lời thơ của Chế Lan Viên:
"Khi ta ở đất chỉ là nơi ở/ Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn". Đúng vậy! Việt Bắc
đã hóa thành tâm hồn đầy ắp nghĩa tình trong thơ Tố Hữu, với những lời thơ
ngân nga như tiếng nhạc, với cảnh vật và con người đong đầy những kỷ niệm ân tình khó phai.
"Ta về mình có nhớ ta Ta về, ta nhớ những hoa cùng người Rừng xanh hoa
chuối đỏ tươi Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng Ngày xuân mơ nở trắng
rừng Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình Rừng thu trăng rọi hòa bình Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung"
Tố Hữu là nhà thơ trữ tình chính trị, với những vần thơ thể hiện tình cảm cách
mạng vừa nhẹ nhàng vừa sâu sắc. "Việt Bắc" là đỉnh cao trong sự nghiệp thơ
ca của Tố Hữu và của thơ ca kháng chiến chống Pháp nói chung. Bài thơ
được viết vào tháng 10/1954, khi Trung ương Đảng và Chính phủ, Bác Hồ và
cán bộ kháng chiến từ biệt "Thủ đô gió ngàn" để về "Thủ đô Hoa vàng nắng
Ba Đình". Toàn bài thơ là dòng hoài niệm thương nhớ về những năm tháng
gian khổ nhưng vui tươi và hào hùng tại chiến khu Việt Bắc. Tuy nhiên, có lẽ
đoạn thơ để lại ấn tượng sâu sắc nhất chính là bức tranh tứ bình với bốn mùa xuân - hạ - thu - đông.
Mở đầu đoạn thơ là hai câu giới thiệu cảm xúc bao quát của đoạn thơ: "Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người"
Câu thơ đầu tiên sử dụng câu hỏi tu từ "mình có nhớ ta", câu thứ hai là sự tự
trả lời, với điệp từ "ta" lặp lại bốn lần cùng âm "a" mở rộng, tạo nên âm
hưởng ngân nga, tha thiết. Với Tố Hữu, người cán bộ ra đi không chỉ nhớ đến
những ngày tháng gian khổ "bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng", mà còn nhớ
đến vẻ đẹp đáng yêu của hoa và người. Hoa tượng trưng cho vẻ đẹp thiên
nhiên Việt Bắc, còn con người là con người Việt Bắc với tấm áo chàm nghèo
khó nhưng đậm đà lòng son. Hoa và người quấn quýt, hòa quyện trong vẻ
đẹp hài hòa, tạo nên nét đặc sắc, độc đáo của vùng đất này. Chính điều đó
đã tạo nên cấu trúc đặc biệt cho đoạn thơ. Trong bốn cặp lục bát tiếp theo,
câu sáu dành cho cảnh, câu tám dành cho người, với mỗi cặp câu đều mang
những sắc thái riêng, cuốn hút.
Mùa đông thường gợi lên trong ta cái lạnh thấu xương, cái u ám của những
ngày mưa phùn gió bấc. Nhưng mùa đông ở Việt Bắc trong thơ Tố Hữu lại thật khác lạ:
"Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng"
Trên nền xanh bát ngát của cánh rừng, hoa chuối đỏ tươi nở rộ lung linh dưới
ánh nắng mặt trời. Từ xa trông tới, những bông hoa như những bó đuốc sáng
rực, tạo nên bức tranh với màu sắc vừa đối lập vừa hài hòa, vừa cổ điển vừa
hiện đại. Màu đỏ tươi nổi bật giữa nền xanh của núi rừng, làm cho thiên nhiên
Việt Bắc trở nên tươi sáng, ấm áp, xua tan cái lạnh giá của mùa đông. Câu
thơ làm ta liên tưởng đến màu đỏ của hoa lựu trong thơ Nguyễn Trãi:
"Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tịn mùi hương"
Màu đỏ của hoa chuối như lan tỏa hơi ấm mùa hè, xua đi cái lạnh lẽo của mùa đông.
Cùng với vẻ đẹp của hoa chuối là hình ảnh con người vùng chiến khu, lên núi
làm nương, phát rẫy sản xuất, cung cấp lương thực cho kháng chiến: "Đèo
cao nắng ánh dao gài thắt lưng". Trước thiên nhiên bao la, con người càng
trở nên kỳ vĩ, hùng tráng hơn. Tố Hữu không khắc họa gương mặt mà chớp
lấy một nét thần tình sáng chói nhất. Đó là ánh mặt trời lóe sáng trên lưỡi dao
ngang lưng. Con người như trở thành trung tâm của ánh sáng, hiện lên với tư
thế làm chủ núi rừng: "Núi rừng đây là của chúng ta/ Trời xanh đây là của
chúng ta". Hình ảnh con người đã trở thành linh hồn của bức tranh mùa đông Việt Bắc.
Đông qua xuân đến. Mùa xuân là mùa của sức sống mới, của cỏ cây hoa lá:
"Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang"
Mùa xuân ở Việt Bắc tràn ngập màu trắng tinh khiết của hoa mơ, nở rộ khắp
rừng: "Ngày xuân mơ nở trắng rừng". Phép đảo ngữ và từ "trắng" được dùng
như động từ nhấn mạnh màu sắc, làm bừng sáng cả khu rừng bởi sắc trắng
tinh khôi của hoa mơ. Động từ "nở" diễn tả sự sống mùa xuân lan tỏa. Mùa
xuân càng thêm tươi tắn bởi hình ảnh con người cần mẫn "chuốt từng sợi
giang", biểu tượng cho sự khéo léo, tài hoa, cần cù của người Việt Bắc.
Mùa hè đến với âm thanh rộn rã của tiếng ve:
"Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình"
Tiếng ve báo hiệu mùa hè đến, rừng phách đổ vàng. Động từ "đổ" diễn tả sự
vàng lên đồng loạt của hoa phách. Cảnh sắc mùa hè trong thơ Tố Hữu như
bức tranh sơn mài lung linh ánh sáng và âm thanh. Hình ảnh cô gái hái măng,
dù một mình, không gợi cảm giác cô đơn mà lại thơ mộng, gần gũi, thể hiện
vẻ đẹp chịu thương chịu khó của người con gái Việt Bắc.
Mùa thu đến, chiến khu ngập trong ánh trăng thanh bình:
"Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung"
Ánh trăng hòa bình soi sáng núi rừng, tiếng hát ân tình của người Việt Bắc
vang vọng. Tiếng hát nhắc nhở tình cảm thủy chung, gắn bó sâu sắc.
Đoạn thơ khép lại bằng bức tranh mùa thu tuyệt đẹp, với ánh trăng hòa bình
và tiếng hát ân tình, gợi cho người đọc những rung động sâu xa về tình yêu
quê hương đất nước. Với nét vẽ đơn sơ, giản dị, đoạn thơ của Tố Hữu đã
làm nổi bật bức tranh cảnh và người Việt Bắc qua bốn mùa. Cảnh và người
hòa quyện, tạo nên bức tranh sống động, thân quen, tan chảy thành nỗi nhớ
nhung trong tâm hồn người cán bộ về xuôi.
Document Outline

  • Phân tích khổ 7 bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu chọn l
    • Phân tích khổ 7 bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu chọn l
    • Phân tích khổ 7 bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu chọn l
    • Phân tích khổ 7 bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu chọn l