-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Phân tích luận điểm của Angghen - Môn chủ nghĩa xã hội khoa học| Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới.
Môn: Chủ nghĩa xã hội khoa học (LLNL1107)
Trường: Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN THƯƠNG MẠI VÀ KINH TẾ QUỐC TẾ ------------
BÀI TẬP LỚN
Môn: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC Đề tài:
PHÂN TÍCH LUẬN ĐIỂM CỦA ĂNGGHEN: “CHỦ NGHĨA
XÃ HỘI MUỐN TRỞ THÀNH KHOA HỌC PHẢI ĐẶT NÓ
TRÊN MẢNH ĐẤT CỦA HIỆN THỰC ”
Giảng viên hướng dẫn: TS. NGUYỄN HỒNG SƠN
Sinh viên thực hiện: Đào Tuyết Anh
Lớp học phần: Chủ nghĩa xã hội khoa học - 1 4
MSV: 11190093 NĂM 2021
Mục lục
I. LÝ LUẬN CHUNG .................................................................................... 3
1. Hoàn cảnh ra đời của chủ nghĩa xã hội khoa học. ............................... 3
2. Vai trò của Các Mác và Ph.Ăngghen .................................................... 5
3. Ý nghĩa sự ra đời của chủ nghĩa xã hội khoa học ................................ 7
II. PHÂN TÍCH LUẬN ĐIỂM VÀ Ý NGHĨA THỰC TIỄN .................. 8
1. Chủ nghĩa xã hội muốn trở thành khoa học thì phải đặt nó trên
mảnh đất của hiện thực ................................................................................ 8
2. Ý nghĩa của luận điểm so với Việt Nam hiện nay .............................. 10
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................... 14 2 I.
LÝ LUẬN CHUNG
1. Hoàn cảnh ra đời của chủ nghĩa xã hội khoa học.
Thế kỷ XIX, những năm 40 là thời kì có sự phát triển chóng mặt trong điều kiện
kinh tế xã hội nhờ cuộc cách mạng công nghiệp, làm cho phương thức sản xuất
tư bản chủ nghĩa đã bộc lộ mâu thuẫn giữa sự phát triển của lực lượng sản xuất
và quan hệ sản xuất. Chủ nghĩa tư bản đã tạo ra những khả năng hiện thực mà
từ đó những nhà dân chủ của cách mạng tiến bộ nhận thức được một cách đúng
đắn bản chất của chủ nghĩa tư bản, để đề ra lý luận khoa học và cách mạn . g
Cùng với đó là sự đấu tranh của gian cấp công nhân phát triển mạnh mẽ, đã có
tổ chức và có quy mô khắp nơi. Tiêu biểu là: cuộc khởi nghĩa của công nhân
thành phố Liông (Pháp) từ năm 1831 đến năm 1834; cuộc khởi nghĩa của công
nhân dệt Xêlidi (Đức) năm 1844; phong trào Hiến chương (Anh) từ 1838 đến
1848. Sự lớn mạnh của những phong trào công nhân mang tính quần chúng và
chính trị đã đặt ra yêu cầu bức thiết về một hệ thống lý luận khoa học và cách mạng
Đến đầu thế kỷ XIX, loài người cũng đã có nhiều thành tựu lớn trên lĩnh vực
khoa học, tạo nền tảng cho việc phát triển tư duy lý luận như: Học thuyết Tiến
hóa, Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng; Học thuyết tế bào. Những
phát minh này là tiền đề khoa học cho sự ra đời của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, cơ sở phương pháp luận cho các nhà sáng
lập chủ nghĩa xã hội khoa học nghiên cứu những vấn đề lý luận chính trị-xã hội đương thời. Bên cạn
h đó còn là những thành tựu cần phải kể đến về tư tưởng lý
luận như: Triết học cổ điển Đức với hai nhà triết học nổi tiếng là Ph.Hêghen và
L.Phoiơbắc; kinh tế chính trị học cổ điển Anh với hai nhà tư tưởng là A.Smith
và D.Ricardo; hay sự ra đời của chủ nghĩa xã hội không tưởng- phê phán với
đại biểu là Xanh Ximông, S.Phuriê, R.Oen với những giá trị to lớn mà nó đã đạt được, cụ thể như: 3
- Thể hiện tinh thần phê phán, lên án chế độ quân chủ chuyên chế và chế độ
tư bản chủ nghĩa đầy bất công, xung đột, của cải khánh kiệt, đạo đức đảo lộn, tội ác gia tăng.
- Đưa ra nhiều luận điểm có giá trị về xã hội tương lai: về tổ chức sản xuất và
phân phối sản phẩm xã hội; vai trò của công nghiệp và khoa học-kỹ thuật;
yêu cầu xóa bỏ về sự đối lập giữa lao động chân tay và lao động trí óc; về sự
nghiệp giải phóng phụ nữ và về vai trò lịch sử của nhà nước
- Những tư tưởng có tính phê phán và sự dấn thân trong thực tiễn của các nhà
xã hội chủ nghĩa không tưởng trong chừng mực, đã thức tỉnh giai cấp công
nhân và người lao động trong cuộc đấu tranh chống chế độ quân chủ chuyên
chế và chế độ tư bản chủ nghĩa đầy bất công, xung đột.
Tuy vậy, Chủ nghĩa xã hội không tưởng phê phán có nhiều hạn chế riêng. Lenin
đã nhận xét: “chủ nghĩa xã hội không tưởng không thể vạch ra được lối thoát
thực sự. Nó không giải thích được bản chất của chế độ làm thuê trong chế độ
tư bản, cũng không phát hiện ra được những quy luật phát triển của chế độ tư
bản và cũng không tìm ra được lực lượng xã hội có khả năng trở thành người
sáng tạo ra xã hội mới.”
Cuối cùng các chủ nghĩa xã hội trước kia đều có những hạn chế riêng và một
trong những hạn chế đó là đều mang tính chủ quan, duy tâm chứ không dựa
vào thực tiễn. Chủ nghĩa xã hội không tưởng phê phán cũng chỉ dừng lại ở mức
độ một học thuyết xã hội chủ nghĩa không tưởng – phê phán. Tuy nhiên, những
giá trị khoa học và những cống hiến vĩ đại của các nhà tư tưởng đã tạo tiền đề
tư tưởng-lý luận để C.Mác và Ph.Ăngghen kế thừa những hạt nhân hợp lý, lọc
bỏ những bất hợp lý, xây dựng và phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học.
Như vậy, có thể nói tại thời điểm này các yếu tố về kinh tế- xã hội, khoa học
và lý luận đều cho thấy sự cần thiết cho sự xuất hiện của một chủ nghĩa xã hội mới phù hợp hơn. 4
2. Vai trò của Các Mác và Ph.Ăngghen
Mác và Phriđích Ăngghen đã tiếp thu với một tinh thần phê phán với các giá trị
khoa học trong kho tàng tư tưởng nhân loại cùng với việc quan sát, phân tích
với một tinh thần khoa học những sự kiện đang diễn ra… đã cho phép các ông
từng bước phát triển học thuyết của mình và đưa các giá trị tư tưởng lý luận nói
chung, tư tưởng xã hội chủ nghĩa nói riêng phát triển lên một trình độ mới về
chất. Từ khi là hai thành viên của câu lạc bộ Hêghen trẻ, chịu những ảnh hưởng
về quan điểm triết học của Hêghen và Phoiơbắc, Các Mác và Ăngghen đã nhận
thấy những mặt tích cực cũng như hạn chế trong quan điểm triết học của Hêghen
và Phoiơbắc. Họ nhận thấy tuy triết học Hêghen mang quan điểm duy tâm
nhưng chứa đựng “cái hạt nhân” hợp lý của phép biện chứng; còn đối với triết
học của Phoiơbắc, tuy mang nặng quan điểm siêu hình, song nội dung lại thấm
nhuần quan điểm duy vật. Việc kế thừa các “cái hạt nhân hợp lý” kết hợp với
cải tạo và loại bỏ cái vỏ thần bí duy tâm, siêu hình- điều mà các chủ nghĩa xã
hội trước đó không làm được, Các Mác và Ăngghen đã xây dựng nên lý thuyết
mới – Chủ nghĩa duy vật biện chứng. Chỉ trong một thời gian ngắn (từ 1843-
1848) vừa hoạt động thực tiễn, vừa nghiên cứu khoa học, C.Mác và Ph.Ăngghen
đã thể hiện quá trình chuyển biến lập trường triết học và lập trường chính trị và
từng bước củng cố, dứt khoát, kiên định, nhất quán và vững chắc lập trường đó,
mà nếu không có sự chuyển biến này thì chắc chắn sẽ không có Chủ nghĩa xã
hội khoa học. Các Mác và Ăngghen đã cùng nhau nghiên cứu và làm việc, lần
lượt sáng lập ra ba phát kiến vĩ đại của mình, làm tiền đề cho sự ra đời của
“Tuyên ngôn Đảng Cộng Sản” cũng như đánh dấu sự ra đời của chủ nghĩa xã
hội khoa học. Phát kiến đầu tiên là chủ nghĩa duy vật lịch sử - sự khẳng định về
mặt triết học sự sụp đổ của chủ nghĩa tư bản và sự thắng lợi của chủ nghĩa xã
hội đều tất yếu như nhau. Với quan điểm “tồn tại xã hội quyết định ý thức xã
hội”, Các Mác và Ph.Ăngghen chỉ rõ rằng mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất
và quan hệ sản xuất là động lực chủ yếu của sự phát triển xã hội loài người, khi 5
quan hệ sản xuất không phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất
thì phải phá vỡ quan hệ sản xuất hiện tại và xây dựng quan hệ sản xuất mới phù
hợp hơn, từ đó dẫn tới thay đổi hình thái kinh tế - xã hội khác phù hợp và tân
tiến hơn. Bên cạnh đó, họ cũng chỉ rõ rằng mâu thuẫn cơ bản trong xã hội có
giai cấp là mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp. Đấu tranh giai cấp là động
lực để thúc đẩy xã hội phát triển và trong đấu tranh giai cấp, giai cấp nào đại
diện cho phương thức sản xuất mới thì đóng vai trò thống trị trong xã hội. Đó
chính là sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Học thuyết giá trị thặng dư –
phát kiến vĩ đại thứ hai của Các Mác và Ăngghen chính là sự khẳng định về
phương diện kinh tế sự diệt vong không tránh khỏi của chủ nghĩa tư bản và sự
ra đời tất yếu của chủ nghĩa xã hội. Và phát kiến thứ ba là “Học thuyết về sứ
mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân” đã làm sáng tỏ sứ mệnh lịch
sử thế giới của giai cấp vô sản. Các Mác và Ăngghen khẳng định mâu thuẫn
giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa ngày càng phát
triển được biểu hiện trong đời sống xã hội thành mâu thuẫn không thể điều hoà
giữa giai cấp tư sản và giai cấp công nhân. Mâu thuẫn này nhất định sẽ dẫn đến
kết cục là lực lượng sản xuất do giai cấp công nhân là người đại biểu phải phá
vỡ quan hệ sản xuất do giai cấp tư sản bảo vệ. Như vậy, phát kiến này đã khắc
phục được một cách triệt để những hạn chế có tính lịch sử của chủ nghĩa xã hội
không tưởng- phê phán và các chủ nghĩa xã hôi trước đó; đồng thời đã luận
chứng và khẳng định về phương diện chính trị -xã hội sự diệt vong không tránh
khỏi của chủ nghĩa tư bản và sự thắng lợi tất yếu của chủ nghĩa xã hội.
Tháng 2 năm 1848, “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” do CMác và Ph.Ăngghen
soạn thảo được công bố trước toàn thế giới, đánh dấu sự hình thành về cơ bản
lý luận của chủ nghĩa Mác bao gồm ba bộ phận hợp thành: Triết học, Kinh tế
chính trị học và Chủ nghĩa xã hội khoa học. “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”
cũng đã nêu và phân tích một cách có hệ t ố
h ng lịch sử và logic hoàn chỉnh về 6
những vấn đề cơ bản nhất, đầy đủ, xúc tích và c ặ
h t chẽ nhất, thâu tóm hầu như
toàn bộ những luận điểm của chủ nghĩa xã hội khoa học.
Trải qua quá trình của chủ nghĩa xã hội khoa học, tổng kết kinh nghiệm các
phong trào công nhân, khái quát tư tưởng đập tan bộ máy nhà nước tư sản, lý
luận về liên minh công nông, về phương pháp và hình thức đấu tranh cách mạng,
về lý luận về hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, thiết lập chuyên chính vô sản, â
x y dựng học thuyết về cách mạng. Bổ sung và phát triển lý luận
về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, về giai cấp, nhà nước, gia đình…Các
Mác và Ăngghen đã dần phát triển hoàn thiện lý luận cách mạng XHCN, chuyên
chính vô sản; lý luận về dân tộc, cương lĩnh dân tộc; quan hệ quốc tế và chủ
nghĩa quốc tế vô sản; quan hệ cách mạng dân tộc và cách mạng vô sản.
3. Ý nghĩa sự ra đời của chủ nghĩa xã hội khoa học
Khái niệm của Chủ nghĩa xã hội khoa học là khoa học về các quy luật xã hội -
chính trị, là học thuyết về những điều kiện, con đường giải phóng giai cấp công
nhân và nhân dân lao động, về c ộ
u c đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân,
về cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, về các quy luật, biện pháp đấu tranh của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của chính đảng mácxít
nhằm thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
Sự ra đời của chủ nghĩa xã hội khoa học đã khắc phục được những tồn tại mà
các chủ nghĩa xã hội trước đó còn tồn tại, Các tư tưởng chủ nghĩa xã hội trước
Mác, chủ nghĩa xã hội không tưởng chỉ sử dụng tưởng tượng, suy đoán chủ
quan, theo quan điểm duy tâm chứ không nhìn vào thực tế, nhìn vào những vấn
đề đang tồn tại trong xã hội. Chủ nghĩa xã hội khoa học không chỉ là lý luận
suông mà còn là thực tiễn, là khoa học. Chủ nghĩa xã hội khoa học ra đời còn
nhấn mạnh sứ mệnh của giai cấp công nhân – lực lượng cách mạng được lịch
sử giao phó sứ mệnh là thủ tiêu chủ nghĩa tư bản, xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. 7
II. PHÂN TÍCH LUẬN ĐIỂM VÀ Ý NGHĨA THỰC TIỄN
1. Chủ nghĩa xã hội muốn trở thành khoa học thì phải đặt nó trên mảnh
đất của hiện thực
Các Mác và Ph.Ăngghen đã viết trong “lời tựa” bản tiếng Đức của “Tuyên ngôn
của Đảng Cộng sản” năm 1872 rằng: “Chính ngay Tuyên ngôn cũng đã giải
thích rõ rằng bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào, việc áp dụng những nguyên lý đó
cũng phải tùy theo hoàn cảnh lịch sử đương thời, không nên quá câu nệ vào
những biện pháp cách mạng nêu ra”. Như vậy, chính C.Mác và Ph.Ăngghen
đã khẳng định, tất cả những nguyên lý của Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản nói
chung và Chủ nghĩa xã hội khoa học nói riêng, đều phải dựa vào thực tế để áp
dụng. Chủ Nghĩa xã hội khoa học ra đời với một sự khác biệt căn bản với tất
thảy các chủ nghĩa xã hội trước đó – gắn với hiện thực. Từ quá trình nghiên cứu
lên chủ nghĩa xã hội khoa học, C.Mác và Ph.Ăngghen luôn nghiên cứu từ thực
tế xã hội, từ bản chất của những sự kiện đương thời, vận dụng những cái hay,
những “hạt nhân hợp lý” của những người đi trước để phát triển và hoàn thiện
hơn chủ nghĩa xã hội khoa học của mình. Trong giai đoạn phát triển chủ nghĩa
xã hội khoa học của C.Mác và Ph.Ăngghen, hai ông không ngừng tổng kết
những kinh nghiệp thực tế. Hai ông đã tổng kết kinh nghiệm các phong trào
công nhân Tây Âu (1848 – 1852) từ đó làm phong phú thêm lý luận chủ nghĩa
xã hội khoa học, khái quát được tự tưởng đập tan bộ máy nhà nước tư sản, thiết
lập chuyên chính vô sản. Tiếp theo là xây dựng học thuyết về cách mạng không
ngừng; khái quát lý luận về liên minh công nông, về những phương pháp và
hình thức đấu tranh cách mạng,… Thời kì sau sự kiện lịch sử Công xã Paris
1871, Các Mác và Ph.Ăngghen đã tổng kết kinh nghiệp Công xã Pari để phát
triển toàn diện chủ nghĩa xã hội khoa học: Bổ sung và phát triển tư tưởng đập
tan bộ máy nhà nước quan liêu, không đập tan toàn bộ bộ máy nhà nước tư sản
nói chung; Khái quát lý luận về hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa; 8
bổ sung và phát triển lý luận về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, về giai
cấp, nhà nước, gia đình…
Như vậy, có thể thấy chủ nghĩa xã hội của C.Mác và Ph.Ăngghen được hình
thành dựa trên thực tiễn chủ nghĩa tư bản, từ những nghiên cứu sâu sắc về chủ
nghĩa tư bản, đặc trưng chủ nghĩa tư bản và quy luật vận động. Những nguyên
lý của C.Mác và Ph.Ăngghen không chỉ còn là những lý luận chủ quan như
những chủ nghĩa xã hội trước kia, mà đã trở thành khoa học như Ph.Ăngghen
đã nói “chủ nghĩa xã hội muốn trở thành khoa học thì phải đặt nó trên mảnh đất của hiện thực .
” Chủ nghĩa xã hội là lý luận, là nền tảng kiến thức, nhưng những
kiến thức ấy chỉ có thể trở nên có ích, trở nên hữu dụng khi được đặt vào hiện
thực, được áp dụng vào thực tiễn. Nếu không có hiện thực, lý luận mãi mãi chỉ
là lý luận, chủ nghĩa xã hội chỉ là một học thuyết không có tính thực tế. Chính
“mảnh đất của hiện thực” đã giúp chủ nghĩa xã hội trở thành khoa học. Nhờ đó
mà V.I.Lenin có thể biến chủ nghĩa xã hội khoa học từ khoa học lý luận thành
hiện thực, đánh dấu bằng sự ra đời của Nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên
thế giới – Nhà nước Xô Viết 1917.
Trên cơ sở phân tích và tổng kết một cách nghiêm túc các sự kiện lịch sử diễn
ra trong đời sống kinh tế-xã hội của thời kỳ trước cách mạng tháng Mười,
V.I.Lênin đã bảo vệ, vận dụng và phát triển sáng tạo các nguyên lý cơ bản của
chủ nghĩa khoa học trên một số khía cạnh :
• Chống các trào lưu phi mác xít nhằm bảo vệ chủ nghĩa Mác và mở đường
cho chủ nghĩa Mác thâm nhập vào nước Nga.
• Xây dựng lý luận về đảng kiểu mới của giai cấp công nhân.
• Phát triển hoàn thiện lý luận cách mạng XHCN, chuyên chính vô sản; lý luận
về dân tộc, cương lĩnh dân tộc; quan hệ quốc tế và chủ nghĩa quốc tế vô sản;
quan hệ cách mạng dân tộc và cách mạng vô sản. 9
• Chỉ rõ bản chất thống trị và sự phát triển không đồng đều của chủ nghĩa tư
bản trong thời kỳ đế quốc và đi đến kết luận: Cách mạng có thể nổ ra tại
“khâu yếu” trong dây chuyền của chủ nghĩa đế quốc.
• Khái quát tư tưởng về nhà nước dân chủ, hệ thống chuyên chính vô sản.
Sau chiến thắng của cuộc Cách mạng tháng Mười Nga, V.I.Lênin đã không
ngừng nghiên cứu, Tổng kết bài học kinh nghiệm của cách mạng Tháng Mười
Nga; Vạch ra phương hướng, nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời
kỳ quá độ; Áp dụng thực hiện mô hình “chính sách Cộng sản thời chiến” và
“Chính sách Kinh tế mới” (NEP) qua đó, phát triển lý luận chủ nghĩa xã hội
khoa học. Và Khái quát lý luận về dân chủ, về cải cách bộ máy hành chính nhà
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
2. Ý nghĩa của luận điểm so với Việt Nam hiện nay
Ngày Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản ra đời đã đánh dấu cho chủ nghĩa cộng
sản từ bóng ma trở thành khoa học. Hiện nay chủ nghĩa cộng sản khoa học ấy
đã thành hiện thực ở Việt Nam, đã, đang và sẽ có sức sống mãnh liệt, là lương
tri, là lý trí và là chân lý của loài người tiến bộ trên toàn thế giới. Công cuộc đổi
mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo từ Đại hội lần thứ VI
(1986) đã thu được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử. Trên tinh thần
“nhìn thẳng vào sự t ậ
h t, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật” Đảng Cộng sản
Việt Nam không chỉ thành công trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc
mà còn có những đóng góp to lớn vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin:
- Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là quy luật của cách mạng Việt
Nam, trong điều kiện thời đại ngày nay.
- Kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi
mới kinh tế làm trung tâm, đồng thời đổi mới từng bước về chính trị, đảm bảo 10
giữ vững sự ổn định chính trị, tạo điều kiện và môi trường thuận lợi để đổi mới
và phát triển kinh tế, xã hội; thực hiện gắn phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung
tâm và xây dựng Đảng là khâu then chốt với phát triển văn hóa là nền tảng tinh
thần của xã hội, tạo ra ba trụ cột cho sự phát triển nhanh và bền vững ở nước ta
- Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
tăng cường vai trò kiến tạo, quản lý của Nhà nước. Giải quyết đúng đắn mối
quan hệ giữa tăng trưởng, phát triển kinh tế với đảm bảo tiến bộ và công bằng
xã hội. Xây dựng phát triển kinh tế phải đi đôi với giữ gìn, phát huy bản sắc văn
hóa dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái;
- Phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ
nghĩa, đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính trị, từng bước xây dựng và hoàn
thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa bảo đảm toàn bộ quyền lực thuộc về nhân dân
- Mở rộng và phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức mạnh của
mọi giai cấp và tầng lớp nhân dân, mọi thành phần dân tộc và tôn giáo, mọi
công dân Việt Nam ở trong nước hay ở nước ngoài, tạo nên sự thống nhất và đồng th ậ
u n xã hội tạo động lực cho công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ tổ quốc
- Mở rộng quan hệ đối ngoại, thực hiện hội nhập quốc tế; tranh thủ tối đa sự
đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của nhân dân thế giới, khai thác mọi khả năng có
thể hợp tác nhằm mục tiêu xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại ;
- Giữ vững và tăng cường vai trog lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam nhân
tố quan trọng hàng đầu đảm bảo sự thắng lợi của sự nghiệp đổi mới, hội nhập
và phát triển đất nước. 11
Từ thực tiễn 30 năm đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã rút ra một số bài học
lớn, góp phần phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học trong thời kỳ mới :
Một là, trong quá trình đổi mới phải không ngừng chủ động, sáng tạo trên cơ sở
kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-L n
ê in, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy truyền thốn g dân
tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loạy, vận dụng kinh nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam.
Hai là, đổi mới phải luôn luôn quán triệt quan điểm “dân là gốc”, vì lợi ích của
nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm ,
sức sáng tạo và mọi nguồn lực của nhân dân; phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc.
Ba là, đổi mới phải toàn diện, đồng bộ, có bước đi phù hợp, tôn trọng quy luật
khách quan, xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn, coi trọng tổng kết thực
tiễn, nghiên cứu lý luận, tập trung giải quyết kịp thời hiệu quả những vấn đề d o thực tiễn đặt ra.
Bốn là, phải đặt lợi ích quốc gia – dân tộc lên trên hết; kiên định độc lập, tự chủ,
đồng thời chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở bình đẳng, cùng có
lợi; kết hợp phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để xây dựng và
bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Năm là, phải thường xuyên tự đổi mới, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng; xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, có đủ năng lực và phẩm
chất, ngang tầm nhiệm vụ; nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước,
Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị-xã hội và của cả hệ thống chính trị; tăng
cường mối quan hệ mật thiết với nhân dân.
Việt Nam, từ thực tiễn lịch sử, đã đặt chủ nghĩa xã hội trên mảnh đất hiện thực,
và nó có sức sống, sức lôi cuốn mãnh liệt. Lãnh tụ Hồ Chí Minh cũng đã nhìn 12
ra những điểm còn hạn chế của nhà nước Xô Viết, từ đó nhìn nhận vào tình hình
đất nước và áp dụng hợp lý những biện pháp cần phải thực hiện, dành lại độc
lập tự do, lấy lại chủ quyền đất nước
Ngày nay, Việt Nam vẫn đang từng bước quá độ lên xã hội chủ nghĩa, trong quá
trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn vận dụng những nguyên lý của các nhà
kinh điển vào thực tiễn Việt Nam một cách sáng tạo, hiệu quả. Văn kiện Đại hội
XII, Đảng ta chỉ rõ: “Chú trọng xây dựng Đảng về chính trị. Kiên định chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo và phát triển phù
hợp với thực tiễn Việt Nam; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội; kiên định đường lối đổi mới” Nghị quyết số 35-NQ/TW, ngày 22/10/2018
của Bộ Chính trị về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh
phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới” nêu rõ: Bảo vệ
nền tảng tư tưởng của Đảng trên cơ sở quán triệt sâu sắc, vận dụng đúng đắn,
sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn Việt Nam
trong thời đại ngày nay, trước hết là trong xây dựng đường lối chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và thể chế, nguyên tắc tổ chức hoạt
động của toàn hệ thống chính trị. Kiên trì thế giới quan, phương pháp luận khoa
học và các giá trị cốt lõi của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
truyền thống tốt đẹp của dân tộc; đồng thời tiếp thu các thành tựu mới, tinh hoa
của nhân loại. Nâng cao hiệu quả đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thì
địch; uốn nắn những nhận thức lệch lạc.
Trong khi chủ nghĩa xã hội thế giới lại đang ở bước thoái trào, những khó khăn
và thách thức của thời đại đã và đang cản trở sự phát triển của cách mạng, song
lịch sử xã hội loài người vẫn tiếp tục tiến lên theo những quy luật mà “Tuyên
ngôn của Đảng Cộng sản” đã dự báo; từ đó, khẳng định con đường độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội do Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh lựa chọn
là hoàn toàn đúng đắn và phù hợp với quy luật khách quan của lịch sử nhân loại. 13
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học (chủ biên GS.TS Hoàng Chí Bảo)
2. Slide môn chủ nghĩa xã hội khoa học TS Nguyễn Hồng Sơn
3. Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản Chủ nghĩa xã hội khoa học từ lý luận
đã trở thành hiện thực ở Việt Nam ThS Nguyễn Thành Phương 14