










Preview text:
lOMoAR cPSD| 61630929
LUẬT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ VẤN ĐỀ 1:
1, Phân tích được khái niệm luật thương mại quốc tế. -
Thương mại quốc tế là hoạt động thương mại có yếu tố nước ngoài. Các yếu
tố nướcngoài trong thương mại quốc tế được xác định trên cơ sở của ba dấu hiệu là:
+ Chủ thể trong quan hệ thương mại là các bên có quốc tịch khác nhau hoặc có trụ
sở thương mại ở các nước khác nhau;
+ Sự kiện làm phát sinh thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ thương mại xảy ra ở nước ngoài
+ Đối tượng của quan hệ thương mại như hàng hoá, dịch vụ hoặc các đối tượng khác ở nước ngoài. -
Luật thương mại quốc tế là tổng hợp các nguyên tắc, các quy phạm điều chỉnh
quanhệ giữa các chủ thể trong hoạt động thương mại quốc tế.
2, Các trường hợp áp dụng các loại nguồn luật thương mại quốc tế? (1) PL quốc gia
Pháp luật của mồi quốc gia dược áp dụng trong thương mại quốc tế trong hai trường
hợp, dó là: Khi các bên chù thổ thoà thuận áp dụng và khi có quy phạm xung đột dẫn
chiếu đến luật cùa quốc gia.
Thứ nhất, khi các bên chù the trong thương mại quốc tế thoả thuận áp dụng luật
quốc gia. Vi dụ: trong quá trình kí kết hợp dóng mua bán hàng hoá quốc tế, các bén có
quyổn thực hiện nguyên tấc thoả thuận. Theo dó, các bèn có thể thoả thuận mọi điẻu
khoản lien quan đến quyén và nghĩa vụ của mình bao gổm cả việc tự do thoả thuận
chọn pháp luật áp dụng. Các bồn có thể chọn pháp luật trong nước cùa mỏi bẽn hoặc
có thể chọn pháp luật của nước thứ ba, với điểu kiện việc chọn pháp luật áp dụng này
không trái với quy định cùa pháp luật nơi kí kết hợp đóng.
Trên thực tế, khi thoà thuận luật áp dụng, các bên có thổ thoà thuận áp dụng pháp
luật của mỗi bên. Việc áp dụng luật cùa bén nào trong quan hê hợp đống là vấn để
không đơn giàn. Bời vì mỗi bồn hiểu rô pháp luật cùa mình hơn ai hết, do vây nếu áp
dụng luật cùa nước mình thì bèn có pháp luật dược áp dụng sè thuận lợi hơn rất nhiổu
so với phía bẽn kia. đặc biệt trong trường hợp nếu có tranh chấp xảy ra trong quá trình
thực hiện hợp dóng. Vì các bên đểu muốn áp dụng luật cùa nước mình vào hợp đổng
lên việc thoà thuận chọn luật của một trong các bôn thường gâp nhiều khó khăn. Trôn
thực tế, để đi đến thống nhất áp dụi g pháp luật nước nào của một trong các bẽn chủ
thể thì hoàn toàn phụ thuộc vào sự nhân nhượng và sự thuyết phục cùa cúc bôn trong
quá trình đàm phán. Việc áp dụng pháp luật cùa một trong các bên trong trường hợp
này, thực chất là áp dụng luật cùa quốc gia theo sự thoả thuận cùa các bên.
Trong trường hợp các bên chủ thể khỏng thổ thoà thuận áp dụng pháp luật của
một trong các bên thì các bên có thể thoà thuận áp dụng phip luật của nước thứ ba. lOMoAR cPSD| 61630929
Pháp luật cùa nước thứ ba ờ đăy được hiểu là pháp luật cùa các nước có liôn quan đến
giao dịch kinh doanh quốc tế cùa các bồn. Vi dụ: Luật nơi kí ká hợp đổng, luật nơi thực
hiện hợp đổng, luật nơi có tài sản liên quan đến hợp đổng... Trong trường hợp này, luật
cùa nước thứ ba dược coi là luật quốc gia do các bồn lựa chọn để diổu chình quan hê
Ihương mại quốc tế cùa mình.
Trước khi thoà thuận áp dụng pháp luẠt cùa nước thứ ba. các bèn cần phải tìm
hiểu một cách kĩ lường nội dung pháp luật cùa nước thứ ba dó. Bời vì, nếu các bẻn
không hiểu biết pháp luật cùa nước thứ ba thì hâu quà do pháp luật được lựa chọn này
điều chình có thê’ không phù hợp với mong muốn cùa một trong các bên. thâm chí
khổng phù hợp với sự mong muốn của cả hai bên. Hơn nữa. trong nhiéu trường hợp
nếu không tìm hiếu kĩ pháp luật của nước thứ ba sỗ làm cho những điéu thoả thuận
chọn luật cùa các bên sỗ không có giá trị pháp lí. Điéu này xảy ra trong trường hợp khi
pháp luật cùa các bèn lựa chọn áp dụng bị cơ quan có thẩm quyổn tuyôn bô' không có
giá trị vì lí do bảo lưu trật tự công cộng.
Thứ hai, pháp luật quốc gia sỗ dược áp dụng nếu có quy phạm xung dột dẫn
chiếu đến. Trong trường hợp, màc dù các bôn chủ thể khổng thoả thuận chọn pháp luật
áp dụng nhưng trong các nguón luật liôn quan có quy phạm xung đột dẫn chiếu đến hệ
thống pháp luật của quốc gia nào dó thì pháp luật dược dản chiếu sê được dcm áp dụng
để điểu chỉnh quan hê thương mại quốc tế. Ví dụ: dể xác định nàng lực kí kết và thực
hiện hợp đóng thương mại quốc tế. tư pháp quổc tế của háu hết các nước đểu quy dịnh
áp dụng luât quốc tịch của các bôn chủ thể. Theo đó pháp luật cùa nước mà các bôn
mang quốc tịch sẽ là pháp luật quy định vé nãng lực pháp luật và năng lực hành vi giao
kết hợp dóng của mỗi bên. Như vậy. trong trường hợp này, mạc dù các bén khỏng thoà
thuận pháp luật áp dụng nhưng khi xác định nãng lực pháp luật cùa các bên chủ thể
trong quan hộ pháp luật thương mại quóc tế người ta vân áp dụng luật của quốc gia do
quy phạm xung đột dẫn chiếu đến.
Do đặc thù cùa quan hệ pháp luật trong hoạt động thương mại quốc tế mà các hệ
thuộc luật sau đây thường được quy phạm xung dột dẫn chiểu đến.
Luật quốc tịch cùa các bên chù thể (Lex nationalis);
Luật nơi cư trú cùa các bén chù thô' (Lex domicilii);
Luật nơi có vật (Lex rei sitae);
Luật nơi kí kết hợp đổng (Lex loci contractus); Luật
nơi thực hiên hợp dồng (Lex loci solutioniss).
(2) Điều ước quốc tế
Điều ước quốc tế là sự thoả thuận giữa các quốc gia, do đó các điéu ước này có
giá trị bắt buộc áp dụng dối với các nước thành viên trên nguyên tắc tự nguyộn thực
hiên các cam kết quốc tế (Pacta sunt servanda). Đày là nguyên tác được áp dụng trong
Công pháp quóc tế nhầm điéu chình các hành vi cùa các quốc gia. Như vậy, khi các
nưóc kí kết hoặc thain gia các diểu ước quổc tô' vể thương mại thì các quy phạm ghi lOMoAR cPSD| 61630929
nhân trong các điểu ước vố thương mại này sẽ dương nhiên áp dụng để diẻu chỉnh các
hành vi của quốc gia trong hoạt động thương mại quốc tế.
Trong quan hẹ thương mại quốc tế, các diều ước quốc tê' dược áp dụng trên các nguyên tấc sau đây: •
Đicu ước quốc tế về thương mại quốc tế chỉ có giá trị pháp lí bảt buộc đối vớicác
bồn chủ thể trong giao dịch thương mại quốc tế nếu các bên chủ thể này có quốc tịch
hoảc có nơi cư trú ở các quốc gia là các nước thành viôn cùa điéu ước quốc tế đó. •
Trong trường hợp có sự quy định khác nhau giữa diều ưóc quốc tẻ' về thương mại và
luật trong nước của nước là thành viên điéu ước quốc tế đó thì quy định cùa diổu ước
quốc tế được ưu ticn áp dụng. •
Trong trường hợp các bén chù thể trong giao dịch thương mại quốc tế
khôngmang quổc tịch hoặc không có nơi cư trú ở các nước thành vién của một điểu
ước quốc tê' về thương mại thì các quy định trong điổu ước này vần điểu chỉnh quyển
và nghĩa vụ của các bôn, nếu các bên thoà thuận áp dụng các điểu khoản cùa điểu ước quốc tế đó.
(3) Tập quán quốc tế (tr.34-36)
3, Phân tích được điều kiện để trở thành chủ thể của các giao dịch thương mại quốc tế.
(1) Cá nhân chủ thể trong Thương mại quốc tế
Cá nhân, với tư cách chủ thể trong thương mại quốc tế là thương nhân hội đủ các
điểu kiên mà pháp luật quy định. Do nhiều nguyên nhân khác nhau mà luật pháp các
nước có thể quy định một cách cụ thể hoặc không cụ thể các điểu kiện đối với cá nhân
khi tham gia quan hệ thương mại quốc tế với tư cách chủ thể.
Nếu pháp luật quy định một cách cụ thể các tiêu chuẩn của chủ thể là cá nhân thì
chì những người có đầy đủ tất cả những yêu cầu mà pháp luật quy định mới có thể trở
thành chủ thể trong quan hệ luật thương mại quốc tế thì khi xem xét tư cách chủ thể
cùa một người trong quan hệ thương mại quốc tế căn cứ vào các quy định đối với cá
nhân là thương nhân trong quan hệ pháp luật thương mại trong nước đồng thời có bổ
sung một số điều kiện nhất định. Nói cách khác, trong trường hợp này, cá nhân muốn
trở thành chủ thể trong luật thương mại quốc tế phải là thương nhân trong quan hệ
thương mại trong nước, đồng thời hội đủ các điều kiện bổ sung theo quy định cùa pháp
luật để có thể tham gia giao dịch thương mại quốc tế.
Ví dụ: theo quy định của pháp luật Việt Nam thì người đủ các điều kiện trở thành chủ
thể trong hoạt động thương mại trong nước, nếu muốn hoạt động thương mại với nước
ngoài thì phải có đầy dủ các điều kiện do Chính phủ quy định (Điều 73, Luật thương mại 2005). lOMoAR cPSD| 61630929
Mặc dù có những quy định cụ thể khác nhau nhưng nhìn chung khi đề cập việc
xác định tư cách chủ thể của cá nhân trong quan hệ thương mại nói chung và quan hệ
thương mại quốc tế nói riêng, luật pháp của hầu hết các nước đều dựa trên hai tiêu
chuẩn pháp lý liên quan trực tiếp tới cá nhân đó là: Các điều kiện về nhân thân và các
điều kiện về nghề nghiệp của cá nhân.
- Các điều kiện về nhân thân
Điều kiện nhân thân của cá nhân là điều kiện pháp lý gắn liền với một con người cụ
thể. Theo quy định pháp luật của hầu hết các nước trên thế giới, việc xem xét điều kiện
về nhân thân của một người để trở thành thương nhân không chỉ căn cứ vào năng lực
pháp luật và năng lực hành vi của người đó mà còn căn cứ vào những yêu cầu khác.
Ví dụ: Người muốn trở thành chủ thể trong thương mại quốc tế không chỉ đủ năng lực
hành vi theo luật định mà còn phải tuân thủ các quy định khác của pháp luật mỗi quốc
gia như không phải là người đang chấp hành án phạt tù...
Nếu pháp luật không quy định cụ thể các điều kiện của chủ thể là cá nhân trong quan
hệ của luật thương mại quốc tế cơ quan có thẩm quyền tước quyền tham gia kinh doanh
hoặc không phải là người đang chấp hành án phạt tù...
- Điều kiện về nghề nghiệp
Theo quy định của luật pháp nhiều nước, đặc biệl là các nước phương Tây thì những
người đang làm một số nghề nhất định sẽ không dược tham gia hoạt dộng thương mại,
trong đó có hoạt động thương mại quốc tế.
Ví dụ: theo Luật thương mại cùa Cộng hoà Pháp thì những người làm các nghề như
công chức, luật sư, bác sỹ, công chứng viên, chấp hành viên... không được tham gia
hoạt động thương mại nói chung và thương mại quốc tế nói riêng với tư cách chủ thể.
Theo quy dinh cùa pháp luật Việt Nam, thương nhân là cá nhân phải là người hoạt động
thương mại một cách độc lập thường xuyên và có đăng kí kinh doanh (Điều 6 Luật thương mại năm 2005).
Nhìn chung, các quy định của nhà nước vể tiêu chuẩn pháp lí để xác định tư cách chủ
thể của cá nhân trong quan hệ thương mại quốc tế chỉ được áp dụng cho các công dân
mang quốc tịch nước đó. Đối với công dân mang quốc tịch nước ngoài có được trở
thành thương nhân dể hoạt dộng thương mại quốc tế trên phạm vi lãnh thổ nước sở tại
hay không, điều này hoàn toàn phụ thuộc vào luật pháp của từng nước và tùy theo từng
trường hợp cụ thể. Trong quan hệ quốc tế, để giải quyết vấn đề này, các nước thường
kí kết hoặc tham gia các điều ước quốc tế, trong đó thoả thuận các nguyên tắc pháp lí
trong việc xác định địa vị pháp lí của công dân nước ngoài.
(2) Chủ thể của pháp nhân trong thương mại quốc tế
Pháp nhân là tổ chức được nhà nước thành lập hoặc công nhận khi hội đủ các diều kiện
pháp lí theo quy định của pháp luật. Pháp nhân với tư cách là chủ thể trong quan hệ
thương mại nói chung và trong quan hệ thương mại quốc tế nói riêng được tồn tại dưới
nhiều hình thức như công ty, hãng kinh doanh... Theo quy định của pháp luật nhiều lOMoAR cPSD| 61630929
nước trên thế giới, pháp nhân với tư cách chủ thể của quan hệ thương mại nói chung
và thương mại quốc tế nói riêng được gọi là thương nhân. Các tiêu chuẩn pháp lí dể
xác định tư cách thương nhân của pháp nhân được quy định trong luật thương mại của các nước.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, thương nhân là tổ chức kinh tế được thành lập
hợp pháp và có quyền hoạt động trong phạm vi ngành nghề tại các địa bàn, dưới các
hình thức, bằng các phương thức mà pháp luật không cấm (khoản 1.2 Điều 6 luật
thương mại năm 2005).
Trên nguyên tắc tự do kinh doanh trong thương mại quốc tế, pháp luật của hầu hết các
nước cho phép mọi pháp nhân là thương nhân khi có đầy đủ điều kiện tham gia hoạt
động thương mại trong nước thì cũng được phép tham gia hoạt động thương mại quốc
tế. Tuy nhiên, do tính quan trọng và phức tạp của hoạt động thương mại quốc tế mà
pháp luật cùa một số nước còn đưa ra một số điều kiện bổ sung để xác định tư cách chủ
thể đối với loại thương nhân này.
Thương nhân nước ngoài là thương nhân được thành lập hoặc đăng ký theo pháp luật
nước ngoài hoạt động tại nước sở tại. Trong quá trình hoạt động, thương nhân phải tuân
theo pháp luật của nước nơi nó hoạt động.
Ví dụ: theo quy định của pháp luật Việt Nam, thương nhân nước ngoài là thương nhân
được thành lập hoặc đăng kí kinh doanh theo quy định của pháp luật nước ngoài hoặc
được pháp luật nước ngoài công nhận. Thương nhân nước ngoài hoạt động tại Việt
Nam phải thực hiện quyềa và nghĩa vụ theo quy dinh của pháp luật Việt Nam
(Điều 16 Luật thương mại 2005).
(3) Chủ thể quốc gia trong thương mại quốc tế
Trong thương mại quốc tế, quốc gia tham gia với tư cách chủ thể trong hai trường hợp:
Một là, kí kết hoặc gia nhập các điều ước quốc tế về thương mại: với tư cách chủ thể
trong quan hệ quốc tế, quốc gia kí kết hoặc gia nhập các điều ước quốc tế. Trong đó,
quốc gia thỏa thuận với các quốc gia khác về quyền và nghĩa vụ của mình trong thương
mại quốc tế. Ví dụ: khi kí kết Hiệp định chung thuế quan và thương mại (GATT) các
nước thành viên đã cam kết thực hiện những điều đã thoả thuận; hoặc khi tham gia tổ
chức thương mại thế giới (WTO) các nước thành viên phải tuân thủ quy chế và các quy
định được ghi nhận trong các hiệp định của tổ chức này.
Hai là, tham gia giao dịch thương mại với các chủ thể khác như cá nhân và pháp nhân:
quốc gia tham gia quan hệ thương mại quốc tế với các chủ thể khác như cá nhân và
pháp nhân. Khi tham gia quan hệ này, quốc gia luôn là chủ thể đặc biệt và được hưởng
quy chế đặc biệt. Theo đó. một số nguyên tắc trong giao dịch hợp đồng sẽ bị hạn chế
áp dụng nếu các quốc gia tham gia với tư cách chủ thể không tuyên bố từ bỏ quyền
miễn trừ của mình, cụ thể là:
Thứ nhất, nguyên tắc bình đẳng. Về mặt lí luận, khi tham gia kí kết hợp đồng
dân sự nói chung và hợp đồng thương mại quốc tế nói riêng, các bên chủ thể của quan lOMoAR cPSD| 61630929
hệ hợp đồng luôn bình đẳng với nhau. Tuy nhiên, trong quan hệ hợp đồng mà một bên
chủ thể là nhà nước thì nguyên tắc bình đằng hầu như không được đặt ra. Nói cách
khác, khi hợp đồng kinh doanh được kí kết giữa quốc gia và thương nhân (thể nhân
hoặc pháp nhân) thì nguyên tắc bình đẳng giữa các bên chủ thể không được áp dụng.
Bởi vì, khác với các loại chủ thể khác như thể nhân và pháp nhân, quốc gia là loại chủ
thể có chủ quyền. Quốc gia có quyền tối cao trong quan hệ đối nội cũng như đối ngoại.
Về mặt thực tế, quốc gia có đầy đủ điều kiện để thực hiện quyền tối cao đó.
Ví dụ: quốc gia có pháp luật, nắm cơ sở kinh tế, hệ thống ngân hàng, tiền tệ, lực lượng
lao động, nguồn tài nguyên thiên nhiên... để thực hiện quyền tối cao của mình. Vì các
điều kiện trên đây mà khi tham gia quan hệ dân sự nói chung và quan hệ kinh doanh
quốc tế nói riêng, quốc gia được hưởng quyền miễn trừ về chủ quyền (sovereign immunity).
Thứ hai, nguyên tắc chọn luật: về mặt lí luận, hợp đồng là sự thỏa thuận của các
bên chủ thể, do dó các bên có quyền thoả thuận tất cả những vấn đề mà pháp luật không
cấm. Trên cơ sở của lí luận này, trong hợp đồng thương mại quốc tế, các bên có quyền
thoả thuận tất cả những vấn đề mà pháp luật nơi kí kết hợp đồng không cấm, trong đó
có cả việc chọn luật áp dụng cho hợp đồng. Các bên có thể chọn luật do các bên mang
quốc tịch, luật nơi kí kết hợp đồng, luật nơi thực hiện hợp đồng... Tuy nhiên, trong
trường hợp hợp đồng mà một bên chủ thể là quốc gia thì vấn đề chọn luật áp dụng cho
hợp đồng đó không được đặt ra vì pháp luật áp dụng cho hợp đồng sẽ là pháp luật của
quốc gia với tư cách chủ thể của quan hệ hợp đồng đó.
Như vậy, về mặt thực tế cũng như về mặt pháp lí, tất cả các quốc gia, không kể
diện tích lớn hay nhỏ, dân cư nhiều hay ít, tiềm lực kinh tế mạnh hay yếu... khi tham
gia kí kết các hợp đồng với thương nhân đều được hường quyền ưu đãi đặc biệt. Theo
đó, quốc gia có quyền đương nhiên áp dụng luật của nước mình vào hợp đồng và nếu
có tranh chấp xày ra thì được hưởng quyền miễn trừ tư pháp.
Nội dung cùa quyền miễn trừ tư pháp của quốc gia là: Không cơ quan xét xử nào
có quyền xét xử quốc gia; tài sản của quốc gia không bị áp để bảo đảm sơ bộ cho một
vụ kiện và quốc gia sẽ không bị ràng buộc bởi các phán quyết của toà án nước ngoài
chống lại quyền lợi cùa mình.
Quốc gia có thể tự hạn chế quyền miễn trừ của mình. Trong trường hợp này, quốc
gia sẽ chịu trách nhiêm pháp lí trong quan hệ hợp đồng giống như các chủ thể khác.
Việc quốc gia tuyên bố từ bỏ quyền miễn trừ của mình có ý nghĩa rất quan trọng về lí
luận cũng như thực tiễn đối với việc thúc đẩy các giao dịch thương mại quốc tế. Nó tạo
ra môi trường pháp lí bình đẳng giữa các bên tham gia quan hệ pháp luật dân sự, đặc
biệt là quan hệ hợp đồng, nhằm thu hút sự tham gia cùa các thể nhân và pháp nhân
nước ngoài. Đế thực hiện quyền này của mình, quốc gia quy định trong luât pháp nước
mình những trường hợp từ bỏ quyền miễn trừ quốc gia.
Ví dụ: Luật VC miễn trừ chủ quyền nước ngoài của Hoa Kỳ năm 1976 (Foreign
Sovereign Immunities Act 1976). lOMoAR cPSD| 61630929
Trong đó quy định ràng một quốc gia nước ngoài sẽ không được hường quyền miền
trừ xét xử trước toà án của Hoa Kỳ nếu quốc gia nước ngoài đó đã tuyên bố từ bỏ quyền
miễn trừ quốc gia (Điều 1605). Ngoài việc quy định trong luật pháp nước mình về các
trường hợp từ bỏ quyền miền trừ quốc gia, trong quan hệ quốc tế, các quốc gia tham
gia kí kết các điều ước quốc tế trong đó tự nguyện từ bỏ quyền miễn trừ quốc gia trong
một số trường hợp nhất định.
Ví dụ: để giải quyết những tranh chấp giữa quốc gia với công dân mang quốc tịch nước
ngoài trong lĩnh vực đầu tư quốc tế, một số nước đã kí kết và tham gia Công ước
Washington (1965) về giải quyết các tranh chấp trong lĩnh vực đầu tư giữa các quốc
gia và các công dân nước khác. Theo đó, việc giải quyết tranh chấp giữa các bên dược
tiến hành trước tổ chức trọng tài thiết chế và dưới sự giám sát của Trung tâm quốc tế
giải quyết các tranh chấp đầu tư (International Centre for the Settlement of Investment Disputes – ICSID).
4, So sánh việc áp dụng pháp luật quốc gia và tập quán quốc tế trong thương mại quốc tế ?
GIỐNG: Tập quán quốc tế và luật quốc gia đều là những hệ thống các nguyên tắc quy
phạm pháp luật được các quốc gia và các chủ thể tham gia quy phạm pháp luật xây dựng. KHÁC:
Tập quán quốc tế về thương mại có thể là luật áp dụng cho hợp đồng mua bán
hàng hoá quốc tế. Tập quán quốc tế về thương mại là những thói quen, phong tục về
thương mại được nhiều nước áp dụng và áp dụng một cách thường xuyên với nội dung
rõ ràng đẻ dựa vào đó các bên xác định quyền và nghĩa vụ với nhau.
Tập quán quốc tế về thương mại sẽ được áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế khi:
- Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế quy định.
- Các điều ước quốc tế liên quan quy định.
- Luật thực chất (luật quốc gia) do các bên lựa chọn không có hoặc có nhưng khôngđầy đủ.
Tập quán quốc tế về thương mại chỉ có giá trị bổ sung cho hợp đồng. Vì vậy,
những vấn đề gì hợp đồng đã quy định thì tập quán quốc tế không có giá trị, hay nói
cách khác, hợp đồng mua bán hàng hóa có giá trị pháp lý cao hơn so với tập quán
thương mại quốc tế. Khi áp dụng, cần chú ý là do tập quán quốc tế về thương mại có
nhiều loại nên để tránh sự nhầm lẫn hoặc hiểu không thống nhất về một tập quán nào
đó, cần phải quy định cụ thể tập quán đó trong hợp đồng.
Khi áp dụng tập quán quốc tế về thương mại, các bên cần phải chứng minh nội
dung của tập quán đó. Do đó, nếu các bên biết trước những thông tin về tập quán thương
mại quốc tế đó trước khi bước vào đàm phán sẽ rất thuận lợi. Các thông tin đó các bên
có thể tìm hiểu thông qua sách báo, tài liệu hoặc ở các văn bản của các Phòng Thương lOMoAR cPSD| 61630929
mại (Phòng Thương mại và Công nghiệp), ở các Thương vụ của Việt Nam ở nước ngoài…
Khi áp dụng tập quán thương mại quốc tế, cần phải tiến hành phân loại tập quán
quốc tế. Nếu có tập quán chung và tập quán riêng thì tập quán riêng có giá trị trội hơn.
Luật quốc gia trở thành luật áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế
khi hợp đồng quy định:
- Cách quy định 1: là các bên quy định về luật áp dụng ngay từ giai đoạn đàm phán, ký
kết hợp đồng, bằng cách chỉ rõ trong hợp đồng rằng luật của một nước nào đó sẽ được
áp dụng cho hợp đồng. Trường hợp này gọi là các bên đã quy định trong hợp đồng điều
khoản luật áp dụng cho hợp đồng. Ví dụ: “Mọi vấn đề không được quy định hoặc quy
định không đầy đủ trong hợp đồng này sẽ được giải quyết theo luật Việt Nam” hoặc
“Các vấn đề phát sinh từ hoặc liên quan đến hợp đồng này được giải quyết theo luật
nước người bán”. Khi tranh chấp phát sinh, các bên và tòa án có thể dựa vào luật Việt
Nam hoặc luật nước người bán để giải quyết.
Cách thứ hai là các bên thoả thuận lựa chọn luật quốc gia là luật áp dụng cho
hợp đồng sau khi ký kết hợp đồng, thậm chí khi tranh chấp phát sinh. Cách này được
các bên áp dụng khi trong hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế mà các bên đã ký trước
đó không có điều khoản về luật áp dụng. Trong thực tế, cách này là rất khó áp dụng vì
các bên khó có thể đạt được một sự nhất trí về việc chọn luật áp dụng khi mà tranh
chấp đã phát sinh: người bán thì chỉ muốn áp dụng luật của nước nào bảo vệ được
quyền lợi cho mình trong khi đó người mua cũng chỉ muốn áp dụng luật của nước bảo
vệ được quyền lợi cho mình. Trong trường hợp này, hai bên chỉ đạt được sự thống nhất
khi luật được lựa chọn là luật không nghiêng quá về bảo vệ quyền lợi cho bên nào.
Công ước Viên năm 1980 là giải pháp tối ưu cho các bên trong trường hợp này. Khi toà
án hoặc trọng tài quyết định: Điều 7 khoản 2 của Pháp lệnh Trọng tài
Thương mại năm 2003 quy định: “Đối với vụ tranh chấp có yếu tố nước ngoài, Hội
đồng Trọng tài áp dụng pháp luật do các bên lựa chọn (…) Trong trường hợp các bên
không lựa chọn được pháp luật để giải quyết vụ tranh chấp thì Hội đồng Trọng tài quyết
định”. Như vậy, Trọng tài thương mại Việt Nam sẽ có quyền chọn luật áp dụng cho hợp
đồng mua bán hàng hoá quốc tế khi phát sinh tranh chấp nếu như các bên không thoả
thuận được luật áp dụng. VẤN ĐỀ 2: 1, Nguyên tắc MFN * Nội dung:
Bất kỳ ưu đãi ưu tiên đặc quyền hoặc miễn trừ nào mà nước thành viên dành cho
sản phẩm của nước thành viên khác sẽ phải được dành cho sản phẩm cùng loại của các
nước thành viên còn lại. Mục đích của nguyên tắc này là đảm bảo rằng sản phẩm nhập
khẩu cùng loại sẽ được đối xử bình đẳng và không phân biệt tại nước nhập khẩu lOMoAR cPSD| 61630929
+ “Ngay lập tức”: 1 QG kể từ khi gia nhập WTO thì sẽ được hưởng chế độ ưu đãi về
sản phẩm, hàng hóa giống các QG trong khuôn khổ WTO được hưởng và nước này cx
phải dành chế độ ưu đãi như vậy cho các nước thành viên khác
+ “Vô ĐK”: 1 QG kể từ khi gia nhập WTO thì sẽ được hưởng chế độ ưu đãi về sản
phẩm, hàng hóa tại QG khác mà không cần phải có đi có lại, đáp ứng bất kì ĐK nào để
có được sự đối xử này * Ngoại lệ:
(1) Chế độ ưu đãi hải quan:
- Là chế độ ưu đãi đặc biệt về thuế quan truyền thống giữa một số nước thành viên hình
thành trong thời kì chế độ thuộc địa, tồn tại trước khi hiệp dịnh GATT 1947 ra đời. Chế
độ ưu đãi đặc biệt về thuế quan là các đặc lợi về thuế quan mang tính phân biệt đối xử
vì chỉ áp dụng riêng giữa một số nước với nhau hoặc trong một khu vực nhất định như
chế độ ưu đãi của Khối thịnh vượng chung, chế độ ưu đãi của Khối liên hiệp Pháp, ưu
đãi giữa Mỹ và Philipine v.v..
_ Lý do: Tuy mục tiêu của GATT 1947 là tự do hóa thương mại và chống phân biệt đối
xử giữa các nước thành viên nhưng khi ra đời GATT 1947 đã không thể xóá bỏ ngay
lập tức và toàn bộ các ưu đãi thuế quan này, cho nên nó đã buộc phải chấp nhận sự tổn
tại của chế độ ưu dãi đặc biệt này như một ngoại lệ - Điều kiện:
+ Thứ nhất là các ưu đãi này chỉ giới hạn trong thuế quan đối với hàng nhập khẩu và
không cho phép ưu đãi đặc biệt về thuế xuất khẩu, hạn chế xuất nhập khẩu và các hạng mục khác;
+ Thứ hai là ưu đãi đặc biệt này chỉ giới hạn giữa một số nước thành viên đã được chấp
nhận và không được phép thiết lập các ưu đãi mới sau khi GATT 1947 ra đời
+ Thứ ba là không cho phép tăng sự chênh lệch giữa thuế suất ưu đãi đặc biệt đã có khi
thành lập GATT 1947 với thuế suất tối huệ quốc.
(2) Hội nhập kinh tế khu vực
- Khoản 8 Điều 24 GATT 1994: nguyên tắc đối xử tối huệ quốc sẽ không áp dụng
đốivới khu vực mậu dịch tự do hoặc đồng minh thuế quan. Nói cách khác là hội nhập
kinh tế khu vực cụ thể là đồng minh thuế quan và khu vực mậu dịch tự do dược coi
là ngoại lệ của nguyên tắc đối xử tối huệ quốc.
+ Đồng minh thuế quan: về mặt nguyên tắc các nước thành viên của nó không thiết lập
các rào cản thương mại đối với thương mại của nhau, còn đối với thương mại ngoài
khu vực thì áp dụng hệ thống thuế quan cũng như các quy định chung về thương mại.
+ Khu vực mậu dịch tự do: về nguyên tắc các nước thành viên của khu vực không thiết
lập rào cản đối với thương mại của nhau nhưng mỗi nước thành viên duy trì hệ thống
thuế quan và các quy định thương mại của riêng mình đối với thương mại của các nước ngoài khu vực
- Lý do: khi GATT 1947 hình thành, đã tồn tại đồng minh thuế quan Benelux (gồm 3
nước Bỉ, Hà Lan và Lucxãmbua)." GATT 1947 thừa nhận rằng khu vực mậu dịch tự
do và đồng minh thuế quan giữa các nước thành viên sẽ có thể thúc đẩy tự do hóa
thương mại, tạo ra hiệu quả thương mại giữa các nước trong khối. Tuy nhiên, đây vắn lOMoAR cPSD| 61630929
chỉ là sự tự do thương mại giữa các nước trong khối mà thôi, cho nên mặt trấi của
việc thành lập khu vực mậu dịch tự do và đồng minh thuế quan là tạo ra rào cản phân
biệt đối xử với các nước ngoài khối. Tùy theo mức độ của các rào cản này mà có thể
nhập khẩu của các nước ngoài khối có hiệu suất cao lại bị thay thế bởi sản phẩm có
hiệu suất thấp của các nhà sản xuất trong khối. - Điều kiện:
+ Thứ nhất, thuế quan và các ràp cản thương mại khác về mặt thực chất giữa các nước
trong khu vực phải được dỡ bỏ hoàn toàn;
+ Thứ hai, thuế quan và các rào cản thương mại khác dỗi với các nước ngoài khu vực
không được phép tăng hơn so với trước khi thành lập đồng minh thuế quan hay khu vực mậu dịch tự do;
+ Thứ ba, đồng minh thuế quan, khu vực mậu dịch tự do phải được xây dựng theo lịch
trình hợp lí trong một khoảng thời gian hợp lí. (3) …
2, So sánh nguyên tắc MFN và NT
Nguyên tắc đối xử tối huệ quốc (MNF) và Nguyên tắc đối xử quốc gia( NT) đều
là các nguyên tắc cơ bản của WTO nhằm dành những ưu đãi có lợi nhất cho các loại
hàng hóa nhập khẩu của các quốc gia. Trong đó:
Nguyên tắc đối xử tối huệ quốc được hiểu là: dựa trên cam kết mà một nước dành
cho nước đối tác những ưu đãi có lợi nhất mà nước đó đang và sẽ dành cho các quốc gia khác.
Nguyên tắc đối xử quốc gia được hiểu là: dựa trên cam kết mà một nước sẽ dành cho
các sản phẩm, dịch vụ, nhà cung cấp trong nước những ưu đãi không kém hơn so với
những sản phẩm, dịch vụ, nhà cung cấp của quốc gia khác. – Về bản chất:
MNF vừa là quyền đặc biệt vừa là nghĩa vụ mà các quốc gia phải tuân theo. MNF thể
hiện sự công bằng, bình đẳng, không phân biệt đối xử giữa các sản phẩm cùng loại đến
từ các quốc gia khác nhau. Nước nhập khẩu có thể áp dụng MNF đối với các quốc gia
với điều kiện hoặc vô điều kiện tùy thuộc vào chính sách của từng nước cũng như thỏa thuận của các bên.
NT là nguyên tắc thể hiện sự công bằng, bình đẳng, không phân biệt đối xử đối với sản
phẩm cùng loại đến từ nước xuất khẩu với sản phẩm trong nước.
– Về phạm vi áp dụng:
MNF áp dụng thông qua
+ Biện pháp cửa khẩu: thông qua thuế quan và phi thuế quan
+ Biện pháp nội địa: thông qua thuế và phí nội địa, quy chế mua bán lOMoAR cPSD| 61630929
NF áp dụng thông qua
+ Thuế và phí trong nước: các quốc gia không được áp dụng các mức thuế và lệ phí
đối với sản phẩm nhập khẩu cao hơn so với sản phẩm cùng loại trong nước hay áp dụng
các biện pháp khác sử dụng thuế và lệ phí để bảo hộ sản xuất trong nước.
+ Quy chế về số lượng: Các quốc gia không được quy định về số lượng, tỉ lệ pha trộn,
chế biến của sản phẩm sao cho số lượng, tỉ lệ đó trong các sản phẩm phải đến từ nội địa.
+ Quy chế mua bán: Quy định, yêu cầu về bày bán, sử dụng, vận tải,… đối với các sản
phẩm trong nước không được phân biệt đối xử đối với các sản phẩm cùng loại đến từ
nước nhập khẩu. Các yếu tố cạnh tranh cũng cần phải được đảm bảo công bằng.
– Các trường hợp ngoại lệ:
Ngoại lệ đối với MNF:
+ Chế độ ưu đãi thuế quan đặc biệt( Khoản 3 điều 1 GATT): áp dụng đối với 1 số
trường hợp như trong Khối thịnh vượng chung, Khối liên hiệp Pháp,…
+ Khu vực hội nhập kinh tế ( khoản 4-> khoản 10 điều 24 GATT): các khu vực mậu
dịch tự do và đồng minh thuế quan là các khu vực được hưởng ngoại lệ về nguyên tắc
đối xử tối huệ quốc.
+ Chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập ( Quyết định ngày 25/06/1971 của Đại hội đồng
GATT): quy định này áp dụng nhằm mục đích giúp các nước đang phát triển có thể
thúc đẩy nền kinh tế của nước mình. Theo đó, các nước phát triển tự nguyện dành cho
các nước đang phát triển mức thuế quan ưu đãi hơn so với các nước phát triển khác mà
không yêu cầu các nước đang phát triển phải cam kết dựa nguyên tắc ” có đi có lại”.
+ Ngoại lệ khác: trong trường hợp bảo vệ trật tự công cộng, bảo vệ an ninh quốc gia,
bảo vệ tài nguyên thiên nhiên,… Ngoại lệ đối với NT:
+ Mua sắm chính phủ: ưu tiên các loại hàng hóa và các nhà đầu tư trong nước.
+ Trợ cấp: mỗi quốc gia được phép hỗ trợ, trợ cấp cho các doanh nghiệp trong nước mình.
+ Phân bổ thời gian chiếu phim: các quốc gia được quyền tự chủ đối với việc phân bổ
thời gian chiếu phim vì đây là dịch vụ đặc biệt, các quốc gia có quyền bảo vệ phim nội.
??? Sự khác biệt giữa ngoại lệ mức thuế quan giữa chế độ đãi ngộ đặc biệt và
chế độ đãi ngộ phổ cập? Tại sao được gọi là phổ cập