lOMoARcPSD| 58540065
Các yếu tố dẫn đến sự ra đời của ĐCS VN
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời từ sự kết hợp 3 yếu tố: chủ nghĩa Mác-Lênin, phong trào công nhân, phong
trào yêu nước. Đây là sự vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết Mác-Lênin về sự ra đời của Đảng Cộng
sản ở một nước thuộc địa nửa phong kiến và có truyền thống yêu nước từ hàng ngàn năm.
Sự vận dụng phát triển sáng tạo học thuyết về sự ra đời của Đảng Cộng sản dựa trên căn cứ luận
điều kiện lịch sử cụ thể:
Một là, sau khi xâm lược nước ta, thực dân Pháp thực hiện chính sách khai thác tài nguyên, bóc lột sức lao
động, chỉ xây dựng một số nhà máy trực tiếp phục vụ cho chính sách khai thác. So với nhiều nước trên thế
giới khu vực, giai cấp công nhân Việt Nam ra đời chậm nhỏ bé. Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời
từ cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất (1897-1914).
Hai là, từ khi thực dân Pháp xâm lược đất nước ta, phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp liên tục diễn
ra. Phong trào yêu nước chống Pháp trước phong trào công nhân. Phong trào yêu nước chống Pháp đã
nuôi dưỡng lòng yêu nước và tinh thần dân tộc trong các tầng lớp nhân dân, trong công nhân. Mục tiêu đấu
tranh trước mắt của phong trào công nhân phù hợp với mục tiêu của phong trào yêu nước đánh đổ thực
dân Pháp, đem lại độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân. Do đó, vào cuối những năm 30 của thế kỷ XX,
phong trào yêu nước dần dần trở thành một bộ phận của cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp. Ba là, Nguyễn
Ái Quốc sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Người đã đi từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác-
Lênin. Trong quá trình tìm đường cứu nước, Người đã đến với chủ nghĩa Mác-Lênin và từ đó Người đã dày
công truyền chủ nghĩa Mác-Lênin vào nước ta, vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Việc
thành lập Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên (1925) bao gồm những chiến yêu nước để truyền chủ
nghĩa Mác-Lênin vào trong nước là hiện thân của sự kết hợp ba yếu tố ngay từ những bước chuẩn bị ra đời
của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin, phong trào công nhân, phong trào yêuớc đã giúp Đảng
ta ngay từ khi mới ra đời phát huy được truyền thống yêu nước, đoàn kết được các lực lượng cách mạng và
nhờ đó giữ được quyền lãnh đạo cách mạng. Đảng Cộng sản Việt Nam tuyển lựa đảng viên không những
trong phong trào công nhân còn chọn những phần tử tiên tiến giác ngộ chủ nghĩa cộng sản trong nông
dân lao động, trí thức và trong phong trào yêu nước.
Nêu vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong việc thành lập Đảng Cộng sản VN
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam (ngày 03/02/1930) là một tất yếu khách quan từ thực tiễn cuộc đấu
tranh của Nhân dân ta chống sự nô dịch đế quốc; dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, phù hợp với quy
luật vận động của cách mạng thế giới và sự nghiệp cách mạng nước ta. Đảng ta được thành lập đã đáp ứng
những yêu cầu khách quan và cấp bách của dân tộc là độc lập, tự do và phát triển; là kết quả của nhiều yếu
tố, trong đó có vai trò rất to lớn của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, người thực hiện sứ mệnh lịch
sử sáng lập chính đảng sản Việt Nam, với những sáng tạo luận xuất sắc. Từ đây, cách mạng Việt Nam
có một đảng cách mạng chân chính dẫn đường cho toàn dân đứng lên đánh đổ ách áp bức, bóc lột của thực
dân, phong kiến đem lại độc lập cho dân tộc, ấm no, tự do, hạnh phúc cho Nhân dân.
- Thứ nhất, Nguyễn Ái Quốc tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc.
Trước khi Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước, tại Việt Nam năm 1858, thực dân Pháo đã nsúng tấn
công xâm lượng và từng bước thiết lập bộ máy thống trị, biến một quốc gia phong kiến thành thuộc địa nửa
phong kiến.
Vào thời điểm này, về chính trị, thực dân Pháp áp đặt chính sách cai trị thực dân, tước bỏ quyền lực đối nội
và đối ngoại của chính quyền phong kiến nhà Nguyễn; chia Việt Nam thành ba xứ: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam
Kỳ và thực hiện ở mỗi kỳ một chế độ cai trị khác nhau.
Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, các phong trào yêu nước của nhân dân ta diễn ra liên tục và sôi nổi
nhưng đều không mang lại kết quả và đều rơi vào bế tắc. Đây đều là các phong trào đấu tranh kế thừa truyền
thống yêu nước, bất khuất của dân tộc được hun đúc qua hàng ngàn năm lịch sử. Tuy nhiên do thiếu đường
lối đúng đắn, thiếu tổ chức và lực lượng nên các phong trào ấy mới lần lượt thất bại, cách mạng Việt Nam
chìm trong cuộc khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước.
Trước tình hình đó, ngày 5/6/1911 người thanh niên Nguyễn Tất Thành (Nguyễn Ái Quốc) đã ra đi tìm đường
cứu nước theo phương hướng mới. Người đã đi qua nhiều quốc gia trên thế giới để phát hiện ra chân lý: chủ
nghĩa đế quốc ở đâu cũng là kẻ thù, giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở đâu cũng là bạn. Năm 1917,
Người trở lại Pháp, đến Paris và đến năm 1919 gia nhập Đảng xã hội Pháp.
lOMoARcPSD| 58540065
Tháng 6/1919 thay mặt những người yêu nước Việt Nam, Người gửi bản yêu sách 8 điểm tới Hội ngh
Vécxây.
Tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc đọc được "Đề cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa" của Lênin. Người đã
tìm thấy ở đó con đường đúng đắn giải phóng đất nước là con đường cách mạng vô sản, giải phóng dân tộc
để tiến tới giải phóng con người. Người đã nhận thấy sự cần thiết của một Đảng lãnh đạo và chỉ có kết hợp
chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước thì mới có thể xây dựng được một
Đảng cách mạng chân chính, đảm bảo cách mạng phát triển đúng hướng và đi đến thắng lợi.
Tại Đại hội Đảng hội Pháp (tháng 12/1920), Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành Quốc tế III (Quốc tế
Cộng sản do Lênin sáng lập) và tham gia thành lập Đảng cộng sản Pháp, trở thành người cộng sản đầu tiên
của Việt Nam.
- Thứ hai, Nguyễn Ái Quốc tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin vào trong nước và chuẩn bị những điều
kiện cho sự thành lập Đảng.
+ Về chính trị: Người tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin vào trong nước. Người đã phác thảo những
vấn đề bản về đường lối cứu nước đúng đắn của cách mạng Việt Nam, thể hiện tập trung qua những bài
giảng của Người cho những cán bộ cốt cán của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên.
+ Về tư tưởng: Nguyễn Ái Quốc đã tích cực truyền chủ nghĩa Mác Lênin vào Việt Nam nhằm làm chuyển
biến nhận thức của quần chúng, đặc biệt là giai cấp công nhân, làm cho hệ tưởng Mác Lênin từng bước
chiếm ưu thế trong đời sống xã hội, làm chuyển biến mạnh mẽ phong trào yêu nước. Nội dung truyền bá là
những nguyên bản của chủ nghĩa Mác - Lênin được cụ thể hoá cho phù hợp với trình độ của các giai
tầng trong xã hội.
+ Về tổ chức: Nguyễn Ái Quốc dày công chuẩn bị về mặt tổ chức cho sự ra đời của chính đảng vô sản của
giai cấp công nhân Việt Nam. Đó là huấn luyện, đào tạo cán bộ từ các lớp huấn luyện do Người tiến hàng ở
Quảng Châu để vừa chuẩn bị cán bộ, vừa truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin. Năm 1925, Nguyễn Ái Quốc
thành lập hội Việt Nam cách mạng thanh niên, ra báo Thanh niên, mở lớp đào tạo cán bộ cách mạng cho 75
đồng chí, từ đó giúp chõ những người Việt Nam yêu nước xuất thân từ các thành phần, tầng lớp dễ tiếp thu
tư tưởng cách mạng của Người, phản ánh tư duy sáng tạo và là thành công của Nguyễn Ái Quốc trong
chuẩn bị về mặt tổ chức cho Đảng ra đời.
Đồng thời, trong những m 1928 - 1929, phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân ta tiếp tục phát triển
mạnh về số lượng và chất lượng. Chủ nghĩa Mác được Nguyễn Ái Quốc những chiến tiên phong truyền
về trong nước, cùng với phong trào "vô sản hoá" đã làm chuyển biến phong trào công nhân và giác ngộ
họ. Thông qua phong trào "vô sản hoá", lớp lớp thanh niên yêu nước được rèn luyện trong thực tiễn, giác
ngộ lập trường giai cấp công nhân sâu sắc, hiểu rõ nguyện vọng, lợi ích của nhân dân, thúc đẩy phong trào
công nhân phong trào yêu nước phát triển mạnh mẽ, tiến tới sự ra đời của tổ chức cộng sản đầu tiên Việt
Nam, tạo điều kiện chín muồi cho sự ra đời của Đảng.
- Thứ ba, Nguyễn Ái Quốc đã chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản.
Với vai trò, trách nhiệm quan trọng trong hệ thống Quốc tế cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã chủ động triệu tập
Hội nghị hợp nhất, sáng lập ra Đảng Cộng Sản Việt Nam. Từ ngày 06/01/1930 đến ngày 07/02/1930, tại Cửu
Long Hồng Công (Trung Quốc), Hội nghị hợp nhất đã được tiến hành dưới sự chtrì của Nguyễn Ái Quốc.
Với sự nhất trí cao, Hội nghị đã đặt tên Đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam và thông qua Chánh cương vắn tắt
của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng, Điều lệ vắn tắt của Đảng, Chương trình tóm tắt của Đảng do lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc soạn thảo.
- Thứ tư, Nguyễn Ái Quốc trực tiếp soạn thảo những văn kiện quan trọng ý nghĩa chiến lược. Trong bối
cảnh lúc bấy giờ, sựthống nhất đường lối chính trị cấp thiết hơn bao giờ hết. Hội nghị hợp nhất đã thống
nhất thông qua Chán cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt và Lời kêu gọi
nhân dịp thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Đặc biệt, nội dung của Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn
tắt do đồng chí Nguyễn Ái quốc soạn thảo được Hội nghị thông qua đã trở thành Cương nh chính trị
đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đề: Anh/chị hãy phân tích mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề dân chủ của cách mạng Việt Nam
trong giai đoạn 19301945.
Trong giai đoạn 1930 – 1945, vấn đề dân tộc và vấn đề dân chủ được xem là hai nhiệm vụ quan
trọng nhất của cách mạng Việt Nam. Ngay từ khi Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời năm 1930, hai nhiệm vụ
này đã được xác định rõ ràng trong Chính cương vắn tắt của Đảng được thông qua tại Hội nghị thành lập
lOMoARcPSD| 58540065
Đảng do Hồ Chí Minh khởi thảo. Chính cương đã xác định rõ con đường tiến lên của cách mạng Việt Nam
là “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Trong Luận cương
chính trị được thông qua tại Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng (10 - 1930) cũng đã
chỉ ra các bước tiến triển của cách mạng Việt Nam là: Trong lúc đầu sẽ là cuộc cách mạng tư sản dân quyền
tiếp sau đó sẽ tiếp tục đấu tranh thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa. Như vậy hai nhà lãnh đạo lỗi lạc của
Việt Nam là Hồ CHí Minh và Trần Phú đều nhấn mạnh hai nhiệm vụ quan trọng của cách mạng Việt Nam
là "tư sản dân quyền cách mạng" (cách mạng giải phóng dân tộc, đánh đổ thực dân, đế quốc) và "thổ địa
cách mạng" (cách mạng dân chủ, chống phong kiến). Tuy nhiên, hai nhiệm vụ này lại được các nhà lãnh
đạo xác định khác nhau: nhiệm vụ nào làm trước, nhiệm vụ nào làm sau? hay cùng làm một lúc? Tất cả
những câu hỏi này cũng là sự trăn trở, tư duy không ngừng của các nhà lãnh đạo Việt Nam thời kỳ đó - nó
cũng thể hiện sự nhận thức từng bước của Đảng Cộng sản Việt Nam cùng với những điều kiện cụ thể của
cách mạng Việt Nam qua từng thời kỳ.
Sự khác nhau giữa Chính cương và Luận cương đã thể hiện tư duy phản biện trong Đảng, không
chấp nhận quan điểm một chiều. Quan điểm của Hồ Chí Minh trong Chính cương nhấn mạnh nhiệm vụ dân
tộc làm trước, nhiệm vụ dân chủ làm sau. Với quan điểm này Hồ Chí Minh đã kêu gọi và tập hợp hầu hết
các tầng lớp nhân dân đứng về phía công nông để thực hiện cuộc cách mạng dân tộc nhân dân. Nhưng quan
điểm của Trần Phú trong Luận cương lại ngược lại: nhấn mạnh nhiệm vụ dân chủ, sau mới thực hiện nhiệm
vụ dân tộc. Vì thế Trần Phú mới chỉ thấy được vai trò của lực lượng đấu tranh chính là lực công nông mà
chưa thấy hết vai trò của các lực lượng khác trong xã hội.
Tháng 10/ 1930 sau khi Luận cương ra đời, được sự ủng hộ của Quốc tế cộng sản, Đảng Cộng sản Việt
Nam đã đổi tên thành Đảng Cộng sản Đông Dương. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông dương và
Trần Phú, cao trào Xô Viết Nghệ tĩnh đã nổ ra - cao trào là điển hình của việc thực hiện nhiệm vụ dân chủ,
công nông kéo lên đập phá chính quyền tại địa phương ở một vai huyện như Thanh Chương, Nghệ An. Sau
khi giành được huyện lị trong thời gian ngắn, quan lại phong kiến địa phương được sự hậu thuẫn của thực
dân pháp đã giành lại huyện lị nhanh chóng và tiến hành cuộc đàn áp đẫm máu lực lượng cách mạng của
chúng ta.
Năm 1932 - 1935 là giai đoạn khủng bố trắng của địch, Đảng cộng sản non trẻ của chúng ta bị đàn áp và
tiêu diệt trên trên tất cả các miền của Tố quốc. Nhưng thời điểm này Đảng Cộng sản Đông Dương tiếp tục
nhiệm vụ dân chủ với ngọn cờ "Trí, phú, địa, hào đào tận gốc trốc tận rễ" - đây tiếp tục là một sai lầm khi
đặt nhiệm vụ dân chủ trước nhiệm vụ dân tộc vì "nước mất thì nhà tan".
Giai đoạn cuối 1935 Đảng ta đã cố gắng phục hồi các tổ chức đảng và bình tĩnh để đưa ra những lựa
chọn sáng suốt hơn cho cách mạng Việt Nam.
Giai đoạn 1936 - 1939 được coi là giai đoạn nhận thức mới của Đảng. Đảng bắt đầu nhìn nhận 2
nhiệm vụ này trong mối quan hệ biện chứng với nhau. Thời điểm này: đảng ta xác định: nhiệm vụ dân tộc
hay nhiệm vụ dân chủ, nhiệm vụ nào làm trước, nhiệm vụ nào làm sau đều được miễn là phải phù hợp với
hoàn cảnh và điều kiện của Việt Nam tại thời điểm đó. Vì vậy cao trào 1926 - 1939 là cao trào đòi dân chủ
dân sinh, tiếp tục thực hiện dân chủ nhưng lại là sự lựa chọn vô cùng đúng đắn trong giai đoạn này khi đời
sống của nhân dân VN quá khổ cực. Thực dân Pháp bị ảnh hưởng bởi khủng hoảng kinh tế 1929 - 1933,
dẫn tới chúng đổ hết mọi hậu quả của khủng hoảng lên nhân dân Việt Nam, chúng còn bắt bớ người dân
Việt Nam đi làm bia đỡ đạn cho chúng. Vì vậy việc biểu tình đưa lời thỉnh cầu dân nguyện, đấu tranh nghị
trường, đấu tranh công khai, nửa hợp pháp... hoàn toàn là những phương pháp đấu tranh dân chủ, công
khai, tuy không triệt để nhưng lại cần thiết tại thời điểm này - nhằm mục đích củng cố sức dân, động viên
tinh thần người dân, chờ đợi cuộc chiến lớn hơn sau đó.
Giai đoạn 1939 - 1945 là giai đoạn thay đổi hoàn toàn chiến lược cách mạng Việt Nam từ cách mạng dân
chủ sang cách
mạng dân tộc. Lần đầu tiên chúng ta chính thức giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Quá
trình đổi mới này cũng không diễn ra ngay lập tức mà có sự nhận thức khá đầy đủ toàn diện của Đảng
thông quan Hội nghị Trung ương 6, 7, 8. Cuối cùng chúng ta xác định: Một là giương cao ngọn cờ đấu
tranh giải phóng dân tộc lên hàng đầu; Hai là, thành lập mặt trận Việt minh để tập hợp lực lượng; Ba là
chuẩn bị lực lượng vũ trang và căn cứ địa cách mạng. Đến đây sự nhận thức của Đảng về nhiệm vụ dân tộc
và nhiệm dân chủ dân chủ đã tương đối rõ ràng, đã thấy được đâu là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Từ đây
cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân của chúng ta chính thức phát triển lên một tầm cao mới và
nhiệm vụ dân chủ chỉ chính thức hoàn thành khi chúng ta tiến hành thành công cuộc cách mạng tháng Tám
năm 1946 (Xoá bỏ chế độ phong kiến cuối cùng trong lịch sử Việt Nam, khai sinh ra nước Việt Nam dân
lOMoARcPSD| 58540065
chủ cộng hoà) và cuộc cách mạng dân tộc của chúng ta chỉ chính thức thành công khi chúng đánh đuổi đế
quốc Mỹ năm 1975.
Tại sao cương lĩnh chính trị của Đảng thể hiện sự độc lập, tự chủ, sáng tạo?
(So sánh với luận cương tháng 10)
1. Phạm vi
- Luận cương chính trị: xây dựng đường lối cách mạng cho Việt Nam nói riêng các nước Đông
Dương nói chung. - Cương lĩnh chính trị: xây dựng đường lối của cách mạng Việt Nam
2. Tính chất XH: khác biệt lớn nhất vì
- Luận cương chính trị: Xã hội Đông Dương gồm hai mâu thuẫn dân tộc giai cấp, trong đó mâu thuẫn
giai cấp là cơ bản nhất. - Cương lĩnh chính trị:
Cương lĩnh là của riêng người Việt Nam, dưới ngọn cờ chỉ đạo của Đảng, nó không bị lệ thuộc hay bị áp đặt
bởi bất kì một tổ chức nào khác. Với tư tưởng cốt lõi bao trùm là độc lập, tự do, cương lĩnh chính trị đã vạch
con đường cách mạng của Đảng đã lựa chọn, đó con đường kết hợp: giương cao ngọn cờ độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội.
- Vào thời kì này, ta không lệ thuộc vào quan điểm tổ chức quốc tế cộng sản - tổ chức lãnh đạo chung
của phong trào công nhânquốc tế, đề cao chủ nghĩa quốc tế chứ không phải dân tộc. Chủ nghĩa Mác Angen
- Bộ phận lớn của quốc tế cộng sản đề cao giai cấp trong khi Bác Hồ đề cao vấn đề dân tộc gây khó
khăn với cách mạng VN trong quan hệ với quốc tế cộng sản. Quan điểm của cương lĩnh chính trị đầu tiên
khác với quan điểm Quốc tế cộng sản là đề cao mọi tầng lớp giai cấp trong xã hội, đặt lợi ích của dân tộc lên
hàng đầu. Chúng ta đã không đi theo quốc tế cộng sản đưa ra quan điểm phù hợp với điều kiện cụ thể
thời điểm hiện tại của VN: vấn đề dân tộc cấp bách hơn, là mâu thuẫn được đẩy lên hàng đầu, đặt nhiệm vụ
giải phóng, giành độc lập dân tộc lên cao nhất và chỉ khi đó mới huy động được lực lượng toàn dân.
- Thực tiễn CM VN, đặc biệt giai đoạn 1939-1945 cũng đã chứng minh nhờ việc giương cao ngọn
cờ giải phóng dân tộc màchúng ta đã tập hợp được lực lượng đông đảo quần chúng nhân dân trong mặt trận
Việt Minh để làm nên thành công của cách mạng tháng 8 đánh giá là cuộc CM diễn ra nhanh gọn, không
tốn kém hầu như không đổ máu. Đây cũng chính sự sáng tạo trong đường lối của Đảng, nhà nước
và chủ tịch HCM.
=> Bác vượt qua quan điểm của chủ nghũa cộng sản xuất phát từ điều kiện hoàn cảnh thực tiễn VN để
đưa ra chính sách 3. Xác định lực lượng tham gia cách mạng
- Quan điểm QTCS chỉ đề cao công nhân nông dân, triệt để CM, còn các giai cấp khác không phải
lực lượng tham gia CM.Nhưng quan điểm cương lĩnh không chỉ công nhân, nông dân mà mọi tầng lớp giai
cấp trong XH đều được đề cao. Đảng đã xác định cần tập hợp hầu hết giai cấp trong xã hội (sáng tạo) đại bộ
phận công nhân, nông dân; lôi kéo tiểu tư sản, trí thức, trung nông… làm cho phú nông, trung tiểu địa chủ
và tư bản Việt Nam đứng trung lập, từ đó xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân vững mạnh.
- Chủ trương đề ra trong cương lĩnh chính trị hoàn toàn phù hợp hoàn cảnh VN lúc bấy giờ trong
XH thuộc địa 1 phongkiến, không chỉ CN, ND mâu thuẫn với thực dân Pháp mà mọi tầng lớp giai cấp đều
bị ảnh hưởng và đều mâu thuẫn, do vậy việc lôi kéo, tập hợp đông đảo lực lượng là việc đúng đắn. Thực tiễn
lịch sử cũng đã chứng minh, nhờ có việc tập hợp lực lượng, cụ thể là qua mặt trận Việt minh, Hội cứu quốc,
phụ nữ cứu quốc, nông dân cứu quốc..., chúng ta đã giành được chiến thắng vang dội t8/1945. - Tính sáng
tạo:
· Phương hướng chiến lược: “tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi
tới xã hội cộng sản” · Nhiệm vụ:
Vchính trị: đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến; làm cho nước Việt Nam được hoàn toàn
độc lập; lập chính phủ công nông binh tchức quân đội công nông, nhiệm vụ chống đế quốc đặt lên
hang đầu
Về xã hội- kinh tế: tịch thu toàn bộ các sản nghiệp lớn của bọn đế quốc giao cho Chính phủ công nông binh;
tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc làm của công chia cho dân nghèo, mở mang công nghiệp nông
nghiệp, miễn thuế cho dân cày nghèo, thi hành luật ngày làm 8h.
Về văn hóa – xã hội: dân chúng được tự do tổ chức, nam nữ bình quyền; phổ thông giáo dục theo công nông
hóa.
lOMoARcPSD| 58540065
Về lực lượng và phương pháp cách mạng: Tập hợp hầu hết giai cấp trong xã hội (sáng tạo) đại bộ phận công
nhân, nông dân; lôi kéo tiểu sản, trí thức, trung nông… làm cho phú nông, trung tiểu địa chủ tư bản
Việt Nam đứng trung lập. Phải đoàn kết công nhân, nông dân; dựa vào dân nghèo, lãnh đạo nông dân làm
cách mạng ruộng đất. Lôi kéo tiểu tư sản, tri thức, trung nông… đi vào phe vô sản giai cấp. Bộ phận nào đã
ra mặt phản cách mạng như Đảng Lập hiến thì phải đánh đổ. -> cơ sở chiến lược xây dựng đại đoàn kết dân
tộc, rộng rãi giữa các giai cấp .
Về lãnh đạo của Đảng: Đảng là đội tiên phong của sản giai cấp, làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân
chúng. Đồng thời là đội tiên phong của đạo quân vô sản gồm 1 số lớn của giai cấp công nhân và làm cho họ
có đủ năng lực lãnh đạo quần chúng. Về mối quan hệ quốc tế: Cách mạng Việt Nam một bộ phận của cách
mạng thế giới; phải liên kết với những dân tộc bị áp bức và quần chúng vô sản trên thế giới nhất là VS Pháp.
Trong khi thực hiện nhiệm vụ giải phóng dân tộc phải tranh thủ sự đoàn kết, ủng hộ các dân tộc bị áp bức và
giai cấp vô sản thế giới, nhất là giai cấp sản Pháp => ĐCS VN đã nêu cao chủ nghĩa quốc tế và mang bản
chất quốc tế của giai cấp công nhân. Ý nghĩa Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng (T2/1930)
Giá trị lý luận:
+ Cương lĩnh đã xác định đúng đắn những vấn đề chiến lược, sách lược của cách mạng Việt Nam, phản ánh
được quy luật khách quan của hội Việt Nam, đáp ứng được yêu cầu cấp bách bản của cách mạng
Việt Nam, phù hợp với xu thế thời đại.
+ Những nội dung của Cương lĩnh chính trị sự vận dụng, sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện
nước ta, một nước thuộc địa nửa phong kiến, giải quyết đúng đắn hàng loạt vấn đề như: mối quan hệ giữa
dân tộc và giai cấp, giữa hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến, về lực lượng cách mạng… Qua
đó, cương lĩnh đã góp phần bổ sung, phát triển làm phong phú CN Mác – Lênin.
+ Cương lĩnh chính trị đầu tiên ghi đậm dấu ấn tư tưởng Hồ Chí Minh, phản ánh công lao to lớn của Hồ Chí
Minh đối với Đảng và cách mạng Việt Nam. Thủ tướng Phạm Văn Đồng sau này đã nhận xét: “Vào thời ấy,
hệ thống luận điểm của Hồ Chí Minh mới mẻ đến kỳ lạ, khó lòng tưởng tượng. Nó nằm trong dòng sáng tạo
cách mạng của những con người mà cống hiến lý luận và sự nghiệp đấu tranh vạch đường cho thời đại”.
Giá trị thực tiễn:
+ Cương lĩnh chính trị đầu tiên ngay khi mới ra đời đã đáp ứng được nguyện vọng của nhân dân thâm
nhập vào quần chúng trở thành sức mạnh vật chất, biến thành phong trào cách mạng, chấm dứt tình trạng bế
tắc, khủng hoảng về đường lối cách mạng.
+ Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng trở thành ngọn cờ dẫn dắt nhân dân ta đi từ thắng lợi này đến thắng
lợi khác, đưa dân tộc Việt Nam từ dân tộc thuộc địa trở thành dân tộc độc lập, đưa nhân dân ta từ thân phận
nô lệ trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình.
Cương lĩnh ra đời gần một thế kỷ, nhưng đến nay nó vẫn giữ nguyên giá trị, vẫn là ngọn cờ dẫn lối cho cách
mạng Việt Nam tiến bước trên con đường mà Đảng, chủ tịch Hồ Chí Minh dân tộc đã lựa chọn. Cương
lĩnh đã, đang, sẽ được toàn Đảng, toàn dân trung thành, vận dụng vào công cuộc đổi mới hiện nay.
Phân tích mqh giữa vđề DT vs vđề dân chủ 1930 – 1945
(giai đoạn nào đấu tranh DT, gđ nào đấu tranh giai cấp)
1930 – 1939: đấu tranh giải phóng giai cấp
1930 – 1931: Xô Viết Nghệ Tĩnh
=> tổng diễn tập lần thứ nhất chuẩn bị về mặt lực lượng cho CM T8 (pp đấu tranh vũ trang)
Khẩu hiệu đấu tranh: người cày có ruộng, thực hiện giảm giảm sức giảmsưu giảm thuế, tăng lương giảm
giờ làm
-
-
lOMoARcPSD| 58540065
Phong trào cách mạng 1930 – 1931 để lại cho Đảng những kinh nghiệm quý báu “về kết hợp hai nhiệm vụ
chiếm lược phản đế phản phong kiến, kết hợp phong trào đấu tranh của công nhân với phong trào đấu
tranh của nông dân, thực hiện liên minh công nông dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân; kết hợp phong
trào cách mạng ở nông thon với phong trào cách mạng ở thành thị, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh
vũ trang.
1936 – 1939: pt đấu tranh dân sinh dân chủ
Pp đấu tranh chính trị (hợp pháp nửa hợp pháp, công khia bán công khai: mít
ting, biểu tình) Khẩu hiệu đấu tranh: k thay đổi
*1939 – 1945: đấu tranh giải phóng dân tộc
Nhật đảo chính Pháp để độc chiếm Đông Dương đã tạo nên 1 cuộc khủng hoảng chính trị sâu sắc,
vậy khủng hoảng chính trị ở đây là gì?
Tình thế CM đã xuất hiện nhưng thời CM chưa thực sự chín muồi mà hiện chỉ những thời tốt để
tiến tới thực hiện tổng khởi nghĩa đấu tranh giành chính quyền
- Tình hình quốc tế: Liên Xô thắng lớn, Pháp đc giải phóng, ưu thế
trên chiến trường dần nghiêng về phe đồng minh, phe phátxít đang dần
thất bại hoàn toàn
- Tình hình trong nước: Nhật đảo chính Pháp (9/3/1944) - Hội nghị
mở rộng tại Đình Bảng – Bắc Ninh (9/3/194):
Chỉ thị “Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” (12/3/1945)
+ Nhận định tình hình: Chỉ rõ bản chất hành động của Nhật ngày 09/03/1945 một cuộc đảo chính tranh
giành lợi ích giữa Nhật và Pháp.
+ Xác định kẻ thù trước mắt duy nhất của Đông Dương là phát xít Nhật, quyết định thay đổi khẩu hiệu “Đánh
đuổi phát xít Nhật – Pháp” bằng khẩu hiệu “Đánh đuổi phát xít Nhật”.
+ Nhiệm vụ trước mắt: đẩy mạnh các hình thức đấu tranh vũ trang, tuyên truyền
Khẩu hiệu đấu tranh “Đánh đuổi phát xít Nhật, thành lập chính quyền CM của
nhân dân Đông Dương” + Phương châm đấu tranh: tiến hành KN từng phần dẫn
đến Tổng KN + Dự kiến thời cơ:
Nếu Nhật để mất nước giống Pháp năm 1940 ta sẽ nổi dậy đấu tranh giành chính quyền
Khi quân Đồng minh kéo vào để giải giáp quân đội Nhật thì quân Nhật sẽ kéo ra ứng phó, ta sẽ cùng quân
ĐM tạo thế 2 gọng kìm, lật đổ ách thống trị của PX Nhâth
Tuy nhiên, bất cứ khi nào thời cơ CM xuất hiện, ta sẽ ngay lập tức Tổng KN đấu tranh giành chính quyền
Tình thế CM đã xuất hiện nhưng thời CM chưa thực sự chín muồi mà hiện chỉ những thời tốt để
tiến tới thực hiện tổng khởi nghĩa đấu tranh giành chính quyền
22/9/1945, khi Nhật nhảy vào Đông Dương, để rảnh tay tham gia CTTTG II và để ngay lập tức có 1 bộ máy
tay sai phục vụ Nhật mà k phải mất thời gian đào tạo, xây dựng thì họ đã sử dụng lại ngay bộ máy cai trị của
TDP để làm bàn đạp thống trị nhân dân ta lúc bấy giờ. TDP tay sai của phát xít Nhật trong công cuộc áp
bức bóc lột nd ta nhưng đến bây giờ, Nhật đã đảo chính Pháp để độc chiếm Đông Dương. Đối với phát xít
Nhật , Đông Dương là cứ điểm cuối cùng của phát xít Nhật, Anh và Mỹ đã giải phóng được nước Pháp.
=> cái (công cụ của TDP) đã mất đi, cái mới thì trong khoảng thời gian ngắn PX Nhật không thể gây
dựng lại ngay 1 bộ máy cai trị mới. Trong khi đó, các tầng lớp trung gian đang ngả nghiêng dao động không
biết đi đâu về đâu => Đảng ta đã nhận định đây là 1 khoảng trống về mặt quyền lực của nhân dân ta lúc bấy
giờ
=>Tình thế CM là 2 kẻ thù trực tiếp đã tiến hành đấu tranh với nhau
Nhưng thời cơ CM chưa thực sự chín muồi vì rõ ràng trên chiến truòng, Nhật đang trong thế thất bại nhưng
Nhật xác định Đông Dương là sào huyệt cuối cùng nên sẽ làm mọi cách để giữ Đông Dương. Quân Nhật ở
Đông Dương còn rất mạnh, chưa bị tan rã, chưa bị hoang mang =>Ý nghĩa:
lOMoARcPSD| 58540065
· - Thể hiện sự nhận định sáng suốt, có những chủ trương kiên quyết, kịp thời của Đảng ta, nhờ đó đẩy
lên 1 cao trào CM, thúc đẩy tình thế CM mau chóng chín muồi
- Là kim chỉ nam cho hành động của toàn Đảng, toàn dân để thực hiện KN vũ trang từng phần, tiến tới Tổng
KN.
- Thể hiện năng lực của Đảng trong việc nắm bắt thời cơ và đưa ra đường lối phù hợp
Phân tích vấn đề thời cơ của CM tháng 8 và vận dụng bài học đó trong bối
cảnh quốc tế hiện nay a. Tổng khởi nghĩa giàng chính quyền - Tình hình quốc
tế:
+ Chiến tranh thế giới thứ II kết thúc
+ PX Đức, Nhật đầu hàng vô điều kiện
+ Quân Đồng minh chuẩn bị vào Đông Dương
- Tình hình trong nước
+ Cao trào tiền khởi nghĩa
1. Tính chất, ý nghĩa và bài học kinh nghiệm của CMT8 năm 1945
* Nguyên nhân
- Nguyên nhân khách quan: Nhật
đầu hàng Đồng minh - Nguyên
nhân chủ quan:
+ Sự chuẩn bị của CM
+ ĐCS lãnh đạo
+ Tinh thần chiến đấu
a. Tính chất
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc điển hình
- Tập trung hoàn thành nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng là giải phóng dân tộc
- Lực lượng cách mạng bao gồm toàn dân tộc
- Thành lập chính quyền nhà nước “của chung toàn dân tộc”
b. Ý nghĩa lịch sử
* Đối với dân tộc VN
- Đập tan đế quốc phong kiến
- Nhân dân làm chủ
- Bước nhảy vọt của dân tộc
* Đối với quốc tế
- GPDT điển hình
- CNTD cũ sụp đổ
- Cổ vũ CM GPDT
lOMoARcPSD| 58540065
- Lần đầu tiên CM giải phóng DT theo con đường CM sản đã giành thắng lợi 1 nước thuộc địac.
Kinh nghiệm lịch sử
- Về chỉ đạo chiến lược: Giương cao ngọn cờ ĐLDT, kết hợp đúng đắn hai nhiệm vụ chống ĐQ và PK
- Về xây dựng lực lượng: Đoàn kết toàn dân tộc trong Mặt trận Việt Minh
- Về phương pháp cách mạng: Kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh trang. Nắm vững nghệ thuật
khởi nghĩa
- Về xây dựng Đảng: Xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tưởng, tổ chức, thống nhất ý chí
hành động - Lợi dụng mâu thuẫn của kẻ thù, chọn đúng thời cơ
Nếu Nhật để mất nước giống Pháp năm 1940 ta sẽ nổi dậy đấu tranh giành chính quyền
Khi quân Đồng minh kéo vào đgiải giáp quân đội Nhật thì quân Nhật sẽ kéo ra ng phó, ta sẽ cùng quân
ĐM tạo thế 2 gọng kìm, lật đổ ách thống trị của PX Nhâth
Tuy nhiên, bất cứ khi nào thời CM xuất hiện, ta sẽ ngay lập tức Tổng KN đấu tranh giành chính quyền
Từ việc phân tích bài học kinh nghiệm của CMT8, anh chị vận dụng như thế nào vào bối cảnh quốc
tế hiện nay? (giữa kỳ)
Bài học về lợi dụng triệt để mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù vẫn còn nguyên giá trị thực tiễn với giai
đoạn hiện nay, hay nói cách khác, chính là lợi dụng mâu thuẫn giữa các nước lớn trên thế giới.
Chiến tranh thương mại Mỹ-Trung
- Trung Quốc ngày càng lớn mạnh, có khả năng thay thế Mỹ - cuộc chiến tranh thương mại ngày càng
căng thẳng hơn. Nhìn sâuxa hơn, mối bất đồng của Hoa Kỳ đối với Trung Quốc vượt xa lãnh vực thương
mại. Trung Quốc táo bạo đã lợi dụng thế giới thương mại tự do để tăng cường sức mạnh kinh tế và quân sự
để chiếm lấy vị trí quốc gia hàng đầu thế giới. Mỹ lo ngại sự lớn mạnh nhanh chóng của Trung Quốc có thể
gây ảnh hưởng lớn về chính trị, kinh tế, thách thức địa vị của Mỹ. Về an ninh, Mỹ lo ngại Trung Quốc phá
vỡ cân bằng sức mạnh ở khu vực châu á - Thái Bình Dương, làm lung lay địa vị bá chủ của Mỹ.
- Tham vọng này đã được thể hiện trong kế hoạch 2025, kế hoạch Vành Đai Con Đường, hành vi hung
hăng của Trung Quốcđối với các nước láng giềng từ Ấn Độ đến Malaysia đến Nhật Bản đến Philippines đến
Việt Nam, v.v. Điều này kéo theo mâu thuẫn giữa các nước thân vs Mỹ/ Trung Quốc, cũng như quan hệ giữa
TQ và các nước châu Âu, vô hình chung thế giới sẽ được chia thành hai phe: phe Trung Quốc và phe không
Trung Quốc do Hoa Kỳ lãnh đạo. nền kinh tế có độ mở nhất nhì khu vực, là đối tác thương mại lớn của
cả Trung Quốc và Mỹ, Việt Nam sẽ khó tránh khỏi hệ lụy nếu không có kịch bản ứng phó chủ động.
+ Việt Nam đã những chính sách lợi dụng mâu thuẫn này một cách khéo léo để tạo lấy cơ hội cho quốc
gia. Ví dụ, Việt Nam thể nổi lên như một nhà cung cấp thay thế một số mặt hàng giá trị đối với Mỹ.
Báo cáo đã ghi lại xuất khẩu VN sang Hoa Kỳ tăng gần 15% trong hai tháng đầu năm 2018. Đây là một kết
quả trực tiếp của cuộc chiến tranh thương mại leo thang giữa hai siêu cường.
+ Đầu tư nước ngoài vào Trung Quốc cũng có thể được chuyển hướng từ Trung Quốc sang Việt Nam để tránh
thuế. Ngoài ra, công ty Trung Quốc phải đối mặt với mức thuế cao hơn từ chính quyền Trump có nhiều khả
năng để chuyển hướng các tài liệu xuất khẩu thô của họ sang Việt Nam trong một nỗ lực để che giấu nguồn
gốc thực sự của sản phẩm Trung Quốc sản xuất của họ.
Mâu thuẫn trên biển:
- Các nước đều có lợi ích ở biển Đông, trong khi đó hiện nay tình hình biển Đông rất phức tạp, tiềm ẩn
nguy cơ xung đột, mấtổn định, đặt ra những nhiệm vụ khó khăn đầy thách thức dành cho Đảng và Nhà nước
ta: TQ rất quyết liệt ở biển Đông (đặt giàn khoan trái phép, nhận diện phòng không, kiểm soát tàu bè, đánh
dấu chủ quyền…) ngày càng muốn độc chiếm biển Đông, hiện thực hóa đường “lưỡi bò”. TQ xem Biển
Đông khu vực để thể hiện sức mạnh và độc chiếm Biển Đông là bước đầu tiên trong việc xác lập TQ chính
cường quốc hàng đầu thế giới trong thời kỳ mới thông qua tham vọng chủ quyền biển Đông. - Trong khi
đó, Mcoi việc duy thiện diện châu Á-Thái Bình Dương xác định việc duy trì an ninh, ổn định ở Biển
Đông là lợi ích quốc gia. Điều này đã dân tới mâu thuẫn gay gắt ngày càng dâng cao giữa 2 cường quốc này.
lOMoARcPSD| 58540065
- Tình hình thế giới xuất hiện nhiều diễn biến khó lường làm gia tăng căng thẳng ở Biển Đông; sự xuất
hiện của Mỹ và các đồng minh ở đây đã ngăn cản đáng kể tham vọng bá quyền của Trung Quốc.
- Cuộc cạnh tranh quyền lực giữa Mỹ Trung Quốc (TQ) bước vào giai đoạn cao trào, đặt ra nhiều
thách thức cho những nướcxung quanh, trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, đi kèm với những thách thức này
là hàng loạt cơ hội mà chúng ta phải biết tận dụng để vươn lên trong điều kiện mới.
- Nhà nước đã lợi dụng khéo léo mâu thuẫn biển đảo này giữa các nước lớn thông qua việc hiện tinh
thần đấu tranh kiên quyết,kiên trì bằng các biện pháp hòa bình, cụ thể là qua các diễn đàn, các cuộc gặp gỡ
trong các lĩnh vực chính trị, ngoại giao... với các nước khác trên trường quốc tế. Nhà nước đã có chính sách
đối ngoại rộng mở, hội nhập quốc tế hợp tác, hòa bình tốt; tránh đối đầu không gây thù oán với ai.
Trong quan hệ với các nước, các tổ chức quốc tế, cần tìm ra những điểm tương đồng, khai thác mọi khả năng
có thể, nhằm tập hợp lực lượng đoàn kết ủng hộ Việt Nam.
- Làm theo lời Bác, để tập hợp các lực lượng quốc tế đoàn kết ủng hộ Việt Nam, vấn đề quan trọng hàng
đầu phải làm chonhân dân thế giới hiểu về Việt Nam, về cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân ta.
Những năm gần đây, khi vai trò của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao, chúng ta càng
thêm nhiều hội để đưa ra tiếng nói, khẳng định chủ quyền Biển Đông tại các chế, diễn đàn đa
phương. Điều này đã giúp VN đưa đến cộng đồng quốc tế đcái nhìn khách quan, đúng đắn về vấn đề này, t
đó tranh thủ được sự ủng hộ, giúp đỡ của quốc tế.
- Đảng và Nhà nước ta đã tố cáo hành vi ngang ngược của nhà nước Trung Quốc trên trường quốc tế để
tranh thủ dư luận tiếnbộ trên toàn thế giới; đồng thời chúng ta kiên trì dùng ngoại giao để các nước có chung
quyền lợi trên biển Đông hợp sức với
Việt Nam ngăn chặn âm mưu và hành động độc chiếm biển Đông của Trung Quốc
- Việt Nam ngày càng mở rộng quan hệ, tăng cường hợp tác với nhiều quốc gia và tổ chức quốc tế, linh
hoạt, khôn khéo sửdụng các phương sách ngoại giao. Điển hình như nước ta đã có những chủ trương, hành
động ngoại giao mềm dẻo với Mỹ - tận dụng sự quan m của Mỹ với vấn đề này để hỗ trợ, giúp đỡ ta. Chính
sách ngoại giao: không nên đứng hẳn về 1 phía
-> Cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo hiện nay là lâu dài, gian khổ, đòi hỏi chúng ta phải kiên quyết,
nhưng phải bình tĩnh, kiên trì, vận dụng đúng đắn những bài học rút ra từ thắng lợi của Cách mạng Tháng
Tám lịch sử nhằm đạt mục đích cuối cùng độc lập, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, hội dân
chủ, công bằng, văn minh.
Bài học kinh nghiệm để Đảng ta hôm nay tiếp tục quán triệt vận dụng, đặc biệt là trong công cuộc xây
dựng bảo vệ tổ quốc, phòng chống đại dịch Coovit 19 chính phát huy năng lực lãnh đạo, kịp thời điều
chỉnh, chuyển hướng chỉ đạo chiến lược một cách linh hoạt, sáng tạo khi tình hình thay đổi.
Bài học về phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, tập hợp đông đảo mọi giai tầng trong hội tham gia
theo một chỉ đạo đường lối chung.
Bài học về hợp tác quốc tế, liên minh tương trợ giữa ba nước Đông Dương anh em dân tộc trở nên cấp bách.
Bài học kinh nghiệm về tập hợp lực lượng cách mạng, xây dựng phát huy sức mạnh của khối đại
đoàn kết toàn dân tộc từ cuộc Cách mạng T8 còn nguyên giá trị trong sự nghiệp xây dựng bảo vệ Tổ
quốc ngày nay, đặt ra những yêu cầu mới cho Đảng và nhà nước
Xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, thống nhất ý chí và hành động
+ thường xuyên quán triệt sâu sắc quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về
công tác vận động quần chúng; nâng cao nhận thức cho đội ngũ cán bộ, đảng viên về yêu cầu, mục đích, ý
nghĩa, tầm quan trọng của việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc
+ đề cao trách nhiệm, tổ chức thực hiện nghiêm túc; không ngừng đổi mới, tự chỉnh đốn
+ tập trung nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống; khắc phục những biểu hiện tham nhũng, lãng phí, quan liêu xa rời quần chúng
nhân dân.
+ Cán bộ, đảng viên phải thường xuyên tu dưỡng đạo đức cách mạng, giữ vững tính tiền phong, gương mẫu,
gắn mật thiết với quần chúng, luôn luôn đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc lên trên lợi ích của nhân,
phấn đấu vì mục tiêu, lý tưởng của Đảng, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh
phúc của nhân dân.
+ tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân, lấy đoàn kết trong Đảng làm cơ sở để xây dựng khối đại
đoàn kết toàn dân tộc.
lOMoARcPSD| 58540065
+ kiên định đường lối đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước hội nhập quốc tế; chăm lo lợi ích thiết
thực, chính đáng, hợp pháp của các giai cấp, các tầng lớp nhân dân; nhất đồng bào dân tộc thiểu số vùng
sâu, vùng xa; giải quyết kịp thời các mâu thuẫn phát sinh.
thể nói, Qua 35 năm thực hiện sự nghiệp đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta đã vượt qua
nhiều khó khăn, thách thức đạt được nhiều thành tựu to lớn. được điều đó nhờ nhận thức về
KĐĐKTDT tiếp tục được bổ sung, phát triển phù hợp với tình hình mới, trong điều kiện xây dựng nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; theo đó, quyền lợi hợp pháp, chính đáng của nhân dân ngày càng
được quan tâm. Sự quyết tâm, quyết liệt của Đảng, Nhà nước trong phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững quốc
phòng, an ninh, chăm lo đời sống nhân dân đã củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng, củng cố vững chắc
KĐĐKTDT trong xây dựng bảo vệ Tổ quốc. Chỉ khi người dân đoàn kết xung quanh Đảng, tin tưởng vào
Đảng, đất nước mới có thể phát triển lâu dài.
Ngày nay, bối cảnh thế giới biến động nhanh chóng, phức tạp, khó lường, đặt dân tộc ta trước hàng loạt thời
cơ, thuận lợi và không ít khó khăn, thách thức. Vận dụng sáng tạo bài học chớp thời cơ trong bối cảnh mới
hiện nay đòi hỏi Đảng phải nâng cao năng lực phân tích thực tiễn sâu sắc, tầm nhìn xa trông rộng, trên cơ sở
thấm nhuần vận dụng một cách xuất sắc luận của chủ nghĩa Mác- Lênin vào điều kiện lịch sử cụ thể,
nhận diện và nắm bắt đúng thời cơ để đưa ra các quyết sách có lợi cho cách mạng, cho đất nước. Trong quá
trình hội nhập khu vực thế giới, trên cơ sở giữ vững quyền độc lập và tự chủ, giữ gìn môi trường hòa bình
và với nguyên tắc bình đẳng, cùnglợi, Việt Nam phải tạo ra được một năng lực nội sinh làm nền tảng cho
sự phát triển bền vững. Chủ động ngăn chặn suy giảm kinh tế, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tăng
trưởng kinh tế hợp lý, bền vững; tập trung giải quyết những vấn đề dân sinh bức xúc, bảo đảm an sinh xã hội
và những yếu tố định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường; tăng cường quốc phòng an
ninh; thực hiện hiệu quả đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ
quốc tế hòa nh, hợp tác, phát triển; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, lãnh hải
thiêng liêng của Tổ quốc. Vận hội mới, điều kiện mới càng thấy yêu cầu nâng cao tầm nhìn chiến lược,
nắm bắt thời cơ của người tổ chức, lãnh đạo cách mạng- Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tại sao Đảng chuyển từ đấu tranh chính trị sang đấu tranh vũ trang?
1954 – 1957: đấu trang chính trị
- đây khoảng thời gian ta đòi Mỹ thi hành Hiệp định Giơ ne (2 bên thực hiện ngừng bắn, VN
tạm thời chia cắt thành 2 miền, sau 2 năm sẽ thực hiện Tổng tuyển cử thống nhất) nên không thực hiện đấu
tranh vũ trang được - So sánh về tương quan lực lượng
+ Kinh tế: Mỹ là nền kinh tế số 1 thế giới, VN có xuất phát điểm là nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, kém phát
triển
+ Chính trị: chỉ chính quyền miền Bắc, miền Nam
không có chính quyền + Quân sự:
Theo tinh thần của Hiệp định Giơ- ne vơ, tất cả quân bộ đội phải tập kết ra Bắc để thực hiện việc chuyển
giao quân, ở miền
Nam không đóng bất kỳ liên minh quân sự nào, chỉ 1 bộ phận rất nhỏ lại dưới danh nghĩa công nhân,
nông dân,…
Trong khi đó, Mỹ đã kịp xây dựng 1 chế độ nguỵ quân nguỵ quyền từ 8/1950
=> Ta chưa kịp chuẩn bị cho khởi nghĩa vũ trang và buộc thi hành HĐ Giơ – ne - vơ
1958 – 1960: đấu tranh vũ trang
- Tháng 8/1956 ( 1 năm sau được kết), Mỹ tuyên bố không hiệp thương Tổng tuyển cử
thống nhất đất nước- Do chính sách của Mỹ Diệm
lOMoARcPSD| 58540065
Đầu 1968, Mỹ Diệm thực hiện chính sách Tố cộng diệt cộng, máy chém khắp miền Nam VN, thực hiện
đạo luật 10/59 (với phương châm “giết nhầm còn hơn bsót” đã làm cho lực lượng CMVN tổn thất nặng nề.
Theo thống kê, trong vòng 2 năm, chúng đã bắt và giết hại hơn 108 nghìn người dân vô tội)
=> Đảng đi đến nhận định: chính sách của Mỹ Diệm sẽ gây cho ta rất nhiều khó khăn nhưng nhân dân ta sẽ
đứng lên đấu tranh theo quy luật tức nước vỡ bờ
=> Tháng 1/1959, Nghị quyết số 15 về tình hình mới, đây là Nghị quyết về tình hình phát triển ở miền Nam,
như 1 ngọn đuốc ném vào đống cỏ khô để mở đường cho CM miền Nam tiến lên. nội dung của Nghị quyết
vạch con đường CM khởi nghĩa ở VN phải con đường khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân
trong đó sử dụng lực lượng chính trị kết hợp với lực lượng vũ trang
- Dưới ánh sáng của Nghị quyết 15, ngày 17/6/1960, phong trào đồng khởi Bến Tre nra do đồng
chí Nguyễn Thị ĐỊnh lãnhđạo ở Mỏ Cày. Đây được xem như dấu mốc đánh dấu cuộc chiến của nhân
dân ta từ thế gìn giữ lực lượng chuyển sang thế tiến công
Phân tích 1 trong những bài học kinh nghiệm từ CMT8/1945, vận dụng vào bối cảnh quốc tế ngày nay
(Phương pháp cách mạng: Kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang) Phân tích:
Một trong những nhân tố quyết định thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đó Đảng ta đã làm
tốt công tác vận động, tập hợp quần chúng trong một mặt trận thống nhất, kết hợp đúng đắn giữa xây dựng
lực lượng chính trị với lực lượng trang, tạo sức mạnh to lớn cho cuộc Tổng khởi nghĩa. Xây dựng lực
lượng chính trị
Nhận thức rõ vai trò của quần chúng nhân dân là một trong những yếu tố quyết định thành công hay thất bại
nên ngay sau khi ra đời và trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn coi trọng công tác tuyên
truyền, vận động, giác ngộ quần chúng, tập hợp các lực lượng yêu nước tham gia cách mạng.
Từ xác định “vô sản giai cấp và nông dân hai động lực chánh”(1) ngay trong Chánh cương vắn tắt đã nhấn
mạnh: “Đảng phải thu phục cho được đại bộ phận dân cày và phải dựa vào hạng dân cày nghèo làm thổ địa
c.m đánh trúc bọn đại địa chủ phong kiến… Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu sản, trí thức, trung nông,
Thanh niên, Tân Việt, v.v. đkéo họ đi vào phe vô sản giai cấp”(2). Bản Luận cương Chính trị cũng xác định
vô sản giai cấp là “động lực chánh và rất mạnh của cách mạng ở Đông Dương”(3).
Tháng 11-1939, Hội nghị Trung ương 6 của Đảng nhấn mạnh phải mở rộng nâng cao tinh thần dân tộc,
làm cho mỗi người trong các giai cấp có ý thức về sự tồn vong của dân tộc và sự liên quan mật thiết của vận
mạng dân tộc với lợi ích nhân; đặt quyền lợi dân tộc lên trên các quyền lợi khác, bao gồm cả tầng lớp tiểu
tư sản và tư sản bản xứ còn ít nhiều tinh thần chống đế quốc. Như vậy, từ Luận cương chính trị năm 1930,
đến Hội nghị Trung ương 6 năm 1939, Đảng ta đã có sự phát triển nhận thức về vai trò của quần chúng nhân
dân.
Tháng 5-1941, Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ra nghị quyết về đoàn kết toàn dân
tộc, tạo sở để thành lập Mặt trận Dân tộc thống nhất, lấy tên Việt Nam độc lập đồng minh, gọi tắt
Việt Minh. Mục tiêu của Mặt trận Việt Minh là “Chủ trương liên hiệp hết thảy các từng lớp nhân dân không
phân biệt tôn giáo, đảng phái, xu hướng chính trị nào, giai cấp nào, đoàn kết chiến đấu để đánh đuổi Pháp -
Nhật giành quyền độc lập cho xứ sở”(4). Mặt trận Việt Minh đã xây dựng được cơ sở rộng khắp cả vùng
nông thôn đô thị, ở cả trong nước nước ngoài. Ở Vân Nam (Trung Quốc), Hội Giải phóng Việt Nam
cũng được thành lập, đến cuối năm 1942 cũng đã trở thành một bộ phận của Mặt trận Việt Minh. Các tổ chức
này đều có cơ cấu từ Trung ương xuống các địa phương, thu hút được mọi lứa tuổi, mọi thành phần xã hội,
trở thành lực lượng quan trọng cho cuộc Tổng khởi nghĩa, giành chính quyền trong cả nước.
Phát triển lực lượng vũ trang
Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp từ ngày 25 đến ngày 28-02-1943, tại Võng La, Đông Anh
đã quyết định mở rộng Mặt trận Dân tộc thống nhất và chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa trang. Từ nhận định:
ở Đông Dương hiện nay thiếu một phong trào cách mạng quốc gia tư sản và phong trào thanh niên học sinh
nên cuộc cách mạng ở Đông Dương vẫn hẹp hòi, có tính cách công nông hơn là tính cách toàn dân tộc, Hội
nghị đã đề ra chủ trương tập hợp, đoàn kết tất cả các thành phần, đảng phái, các nhóm yêu nước chưa gia
nhập Mặt trận Việt Minh thông qua công tác vận động. Đến cuối năm 1944, Đảng Cộng sản Việt Nam
Mặt trận Việt Minh đã xây dựng được một lực lượng cách mạng hùng hậu, thực sự là một “đạo quân chính
trị”. Cũng từ đây, cuộc đấu tranh đã được nâng lên một hình thức mới, từ đấu tranh chính trị lên đấu tranh
vũ trang. Dấu mốc ngày 22-12-1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân - tiền thân của Quân đội
lOMoARcPSD| 58540065
nhân dân Việt Nam đã được thành lập. Sau một thời gian, ngày 15-5-1945 Việt Nam giải phóng quân được
thành lập trên cơ sở thống nhất cứu quốc quân và Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân.
Như vậy, cả hai lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang đã phát triển mạnh mẽ ở các địa phương và tích
cực chuẩn bị mọi mặt cho một cuộc khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền. Ngày 16-4-1945, Tổng bộ Việt
Minh lập ra Ủy ban Dân tộc giải phóng, tổ chức các lớp huấn luyện, tập dượt cho nhân dân nắm chính
quyền.
Phối hợp hai lực lượng, tạo thành sức mạnh to lớn cho Tổng khởi nghĩa giành chính quyền
Vận dụng một cách khoa học và sáng tạo chủ nghĩa Mác - -nin về con đường bạo lực trong cách mạng
sản, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quyết định con đường cách mạng Việt Nam là khởi nghĩa vũ trang, toàn dân
đánh giặc, bạo lực của quần chúng dưới sự lãnh đạo của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng cả
hai lực lượng: lực lượng chính trị quần chúng và lực lượng vũ trang nhân dân, và hai hình thức đấu tranh cơ
bản: đấu tranh chính trị đấu tranh trang. Trong đó, lực lượng chính trị được coi là lực lượng bản,
nền tảng của cách mạng, đồng thời sở để xây dựng, phát triển lực lượng vũ trang quân đội nhân dân.
Chính vì vậy, lực lượng chính trị mạnh thì lực lượng vũ trang mạnh.
Từ chỗ biết chuẩn bị lực lượng từ trước, biết phát huy sức mạnh của cả dân tộc đúng lúc, đúng thời điểm,
Đảng ta đã thực hiện thành công cuộc tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Ngay sau khi Nhật đảo chính Pháp, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã kịp thời ban hành Chỉ thị “Nhật -
Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”, trong đó xác định kẻ thù chính của nhân dân Đông Dương lúc
này là phát-xít Nhật và nhấn mạnh sự cần thiết phải mở rộng Mặt trận Việt Minh để đoàn kết, vận động, tập
hợp nhân dân tham gia cao trào kháng Nhật, cứu nước. Trong thời kỳ này, Đảng ta đã ban hành nhiều chủ
trương, chính sách, đề ra các khẩu hiệu đấu tranh thích hợp, đáp ứng yêu cầu cấp thiết của thực tiễn cách
mạng. Đồng thời, phát động phong trào “Phá kho thóc để giải quyết nạn đói”, cứu dân, để nhân dân lao động
- “những người cùng khổ” thấy rằng, muốn giành quyền sống thì nhất thiết phải đoàn kết dưới ngọn cờ Việt
Minh, đấu tranh đánh đổ ách thống trị của phát-xít Nhật và bè lũ tay sai.
thể thấy, trong thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, việc chuẩn bị lực lượng, từ lực lượng
chính trị đến lực lượng vũ trang đủ mạnh để kịp thời tiến hành tổng khởi nghĩa đúng lúc có vai trò đặc biệt
quan trọng. Đường lối đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh vũ trang đã trở thành định hướng quan trọng
cho cả một quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam, mà kết quả là thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa
Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Vận dụng (Căng thẳng trên biển Đông
Các nước đều có lợi ích ở biển Đông, trong khi đó hiện nay tình hình biển Đông rất phức tạp, tiềm ẩn nguy
xung đột, mất ổn định, đặt ra những nhiệm vụ khó khăn đầy thách thức dành cho Đảng Nhà nước ta:
TQ rất quyết liệt ở biển Đông (đặt giàn khoan trái phép, nhận diện phòng không, kiểm soát tàu bè, đánh dấu
chủ quyền…) ngày càng muốn độc chiếm biển Đông, hiện thực hóa đường “lưỡi bò”. TQ xem Biển Đông
khu vực để thể hiện sức mạnh độc chiếm Biển Đông bước đầu tiên trong việc xác lập TQ chính là cường
quốc hàng đầu thế giới trong thời kỳ mới thông qua tham vọng chủ quyền biển Đông.
Đấu tranh chính trị: điện đàm, phát biểu, đấu tranh pháp lý, nâng cao nhận thức của người dân VN cũng như
nhân dân thế giới Người dân: Mít – tinh và biểu tình phản đối
Ngày 6/5/2014, cuộc biểu tình sớm nhất để phản đối hành động này của Trung Quốc được tổ chức trước Tòa
Lãnh sự Trung Quốc tại Los Angeles. Chiều 9 tháng 5, một cuộc biểu tình nhỏ đã diễn ra trước Đại sứ quán
Trung Quốc Nội. Sáng ngày 10 tháng 5, một cuộc biểu tình phản đối Trung Quốc đã diễn ra tại TP.
HCM, được báo chí chính thống của Việt Nam đăng tải ngay trong ngày nhằm phản đối vụ hạ giàn khoan
Hải Dương 981 của TQ
Đấu tranh quân sự: đưa tàu ra đương đầu, sẵn sàng chiến đấu nếu có hành động quá khích
Hải quân VN chuẩn bị tàu chiến hiện đại)
- Đảng Nhà nước ta không ngừng xây dựng củng cố lực lượng cách mạng. Để thực hiện thắng lợi nhiệm
vụ xây dựng Chủ nghĩa xã hội và bảo vTổ quốc Việt Nam, điều kiện tiên quyết là phải duy trì hòa bình, ổn
định thì mới phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Để bảo vệ Tổ quốc thì phải xây dựng nền quốc phòng toàn
dân và thế trận chiến tranh nhân dân, trong đó xây dựng tiềm lực quốc phòng là nhiệm vụ trung tâm, chúng
ta trang bị khí để phòng thủ, tự vệ; xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh thì chúng ta mới thể tự
mình bảo vệ chủ quyền được. Cụ thể, để bảo vệ chủ quyền biển đảo, Chính phủ đã tăng cường xây dựng lực
lượng thực thi pháp luật trên biển, kêu gọi hợp tác đầu ở vùng biển thuộc chủ quyền Việt Nam, hỗ trợ ngư
dân đóng tàu lớn, hiện đại để vươn ra khơi xa đánh bắt hải sản…là những việc làm hết sức đúng đắn và cần
thiết.
lOMoARcPSD| 58540065
Đấu tranh chính trị
- Đảng và Nhà nước ta đã huy động lực lượng toàn dân, phát huy sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh
thời đại vào cuộc đấu tranh chung. Để bảo vệ chủ quyền biển, đảo Nhân dân cả nước và kiều bào Việt Nam
ở nước ngoài đã cùng lực lượng thực thi pháp luật trên thực địa bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc.
Đảng và Nhà nước ta đã tố cáo hành vi ngang ngược của nhà nước Trung Quốc trên trường quốc tế để tranh
thủ luận tiến bộ trên toàn thế giới; đồng thời chúng ta kiên trì dùng ngoại giao để các nước chung
quyền lợi trên biển Đông hợp sức với Việt Nam ngăn chặn âm mưu và hành động độc chiếm biển Đông của
Trung Quốc như cách mà Hồ Chủ tịch đã làm trong việc tranh thủ các lực lượng tiến bộ bên ngoài, phát huy
nội lực bên trong tạo nên sức mạnh tổng hợp để làm nên thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám lịch sử. (Về
phương pháp cách mạng: Nắm vững nghệ thuật khởi nghĩa)
Phân tích
Thời cơ là một vấn đề tầm quan trọng đặc biệt trong nghệ thuật chỉ đạo cách mạng. Muốn thời cơ thì
phải biết tạo ra thời cơ và khi thời cơ đến thì phải tận dụng và tranh thủ thời cơ, không được bỏ lỡ.
Cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền Tháng Tám 1945 một minh chứng sinh động về sự nhạy bén
trong nhận định và chỉ đạo chớp thời cơ khởi nghĩa của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, việc nắm bắt thời được thể hiện ngay khi Đảng đưa ra những dự
báo về tình thế cách mạng để dân tộc Việt Nam vùng lên giành chính quyền về tay Nhân dân.
Trong đêm 9-3-1945, Nhật đảo chính Pháp chiếm để độc chiếm Việt Nam và Đông Dương. Tuy nhiên, Ban
Thường vụ Trung ương Đảng xác định thời điểm này chưa phải là thời cơ chín muồi để làm cuộc Tổng khởi
nghĩa mà chủ trương chủ trương phát động cao trào kháng Nhật, cứu nước mạnh mẽ để làm tiền đề. Chỉ thị
Nhật-Pháp bắn nhau hành động của chúng ta (12-31945) đã chỉ về vấn đề thời khởi nghĩa: “Mặc
dầu tình hình chính trị khủng hoảng sâu sắc, nhưng điều kiện khởi nghĩa ở Đông Dương hiện nay chưa thực
chín muồi”. Đến nửa cuối năm 1945, phe phát xít đã thất bại hoàn toàn trước quân đồng minh Liên Xô.
Trước tình hình đó, từ ngày 13 đến 15-8-1945, tại Tân Trào, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp và phát động
Tổng khởi nghĩa trong cả nước trước khi quân đồng minh vào Đông Dương. Hội nghị chỉ rõ: “Tình thế
cùng khẩn cấp, tất cả mọi người đều phải nhằm vào những việc chính, thống nhất về mọi phương tiện, không
bỏ lỡ hội”. Quân lệnh số 1 của Uỷ ban khởi nghĩa ra ngày 13-8-1945 khẳng định: “Giờ Tổng khởi đã đến!
cơ hội có một cho quân dân Việt Nam vùng dậy giành lấy quyền độc lập của nước nhà! Chúng ta phải hành
động cho nhanh…” Hội nghị toàn quốc của Đảng bế mạc thì Đại hội quốc dân do Tổng bộ Việt Minh triệu
tập họp ngay ở Tân Trào (Tuyên Quang) trong hai ngày 16 17-8-1945. Đại hội tán thành hoàn toàn chủ
trương tổng khởi nghĩa của Đảng.
Khi phát xít Nhật nổ súng lật đổ thực dân Pháp Đông Dương (ngày 9/3/1945), với chỉ thị “Nhật - Pháp
bắn nhau hành động của chúng ta” (ngày 12/3/1945), Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương mở rộng đã
nhận định tình hình và dự đoán hai tình huống có thể diễn ra: thứ nhất là, quân đồng minh vào Đông Dương
đánh Nhật; thứ hai là, phát xít Nhật đầu hàng đồng minh. Và tình hình đã diễn ra đúng như dự đoán thứ hai
của Đảng ta, ngày 14/8/1945, phát xít Nhật tuyên bố đầu hàng đồng minh điều kiện đã khiến cho quân
Nhật ở Đông Dương hoang mang cực độ, đồng thời chính phủ thân Nhật ở Việt Nam cũng tỏ ra hoàn toàn
liệt. Đến đây, kẻ thù của cách mạng Việt Nam đã suy yếu, không còn khả năng thống trị như được nữa,
thời “ngàn năm có một” cho chúng ta giành chính quyền đã xuất hiện, đòi hỏi chúng ta phải hành động
mau lẹ và kiên quyết. Nếu không kịp thời phát động tổng khởi nghĩa giành chính quyền thì “vạn năm” cũng
không thể được bởi lúc này quân Tưởng Anh đang sẵn sàng nhảy vào Việt Nam đgiải giáp quân đội Nhật
nhưng thực chất là để thực hiện âm mưu mới của chủ nghĩa đế quốc trên danh nghĩa đồng minh.
Trước tình thế vô cùng khẩn cấp và thuận lợi đó, Đảng đã quyết định phát động toàn dân đứng lên tổng khởi
nghĩa giành chính quyền chỉ từ ngày 14 đến ngày 28-8-1945, với sự kết hợp linh hoạt các hình thức,
phương pháp đấu tranh cả đấu tranh chính trị đấu tranh trang, tuyên truyền kết hợp với bạo lực cách
mạng, nhằm phân hóa, cô lập kẻ thù, cuộc Tổng khởi nghĩa đã giành thắng lợi một cách nhanh, gọn, không
đổ nhiều máu và thành công triệt để.
Thành công của Cách mạng Tháng Tám 1945 đã chứng tỏ Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh
tầm nhìn vượt trước thời gian xác định đúng thời khởi nghĩa, cho nên Đảng nhân dân ta đã sự
chuẩn bị lâu dài, chu đáo. Công cuộc chuẩn bị đó không chỉ diễn ra trong thời kỳ (1939 1945) sự
chuẩn bị suốt 15 năm kể từ khi Đảng ra đời. Khi thời cơ đến, Đảng ta chủ động, chớp thời cơ lãnh đạo nhân
dân đứng lên tổng khởi nghĩa giành thắng lợi. Thắng lợi đó đã chấm dứt gần 100 năm nước ta dưới sự áp bức
bóc lột của thực dân Pháp và xoá bỏ chế độ phong kiến tồn tại hàng nghìn năm ở nước ta, đưa nước ta bước
vào một kỷ nguyên mới từ một nước thuộc địa nửa phong kiến trở thành một nước tự do, độc lập; là sự vận
lOMoARcPSD| 58540065
dụng sáng tạo quy luật vận động và phát triển của khởi nghĩa và cách mạng khôn khéo trong nghệ thuật chỉ
đạo chớp thời cơ, giành thắng lợi.
* Xây dựng CNXH ở miền Bắc, phát triển thế tiến công của cách mạng miền
Nam 1961 – 1965 Xây dựng CNXH ở miền Bắc
ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC LẦN THỨ III CỦA ĐẢNG (9/1960)
? Phân tích cơ sở, thuận lợi của
CMVN sau 7/1954 - Thuận lợi:
+ Sau 1954, hệ thống các nước XHCN phát triển mạnh mẽ, đặc biệt với sự vươn lên phát triển mạnh mẽ của
Liên (năm 1950, vươn lên trở thành cường quốc công nghiệp lớn thứ 2 trên thế giới), đạt được nhiều
thành tựu liên quan đến kte quân sự, đặc biệt năm 1949, Liên Xô chế tạo thành công bom nguyên tử, phá
vỡ thế độc quyền của Mỹ, tạo ra sự cân bằng trên cả góc độ kinh tế và quân sự.
Hơn nữa, đây là thời điểm CTTG II kết thúc đuợc 5 năm, Liên Xô đã khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương
chiến tranh đồng thời đã giúp các nước XHCN Đông Âu đi lên xây dựng XHCN
=> Trở thành chỗ dựa của cách mạng thế giới. Đặc biệt, đối với VN trong hơn 20 năm, Liên Xô đã có sự hỗ
trợ rất lớn về mọi mặt (vd: viện trợ kinh tế chiếm 50% GDP)
+ Phong trào đấu tranh giải phóng dt trên thế giới phát triển mạnh mẽ, đặc biêtj sau thắng lợi của nhân dân
VN trước TDP đã góp phần cổ vũ mạnh mẽ pt đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa Pháp trên
toàn thế giới
Bên cạnh đó, tất cả pt đấu tranh của VN trong giai đoạn này nhận được sự đồng nh giúp đỡ của các lực
lượng dân chủ ưa chuộng hoà bình trên thế giới trong đó có cả nhân dân Mỹ
+ Phong trào công nhân ở các nước phát triển cũng đang phát triển
- Khó khăn: sau 1945, Tình hình quốc tế thay đổi rất lớn, kẻ thù lớn nhất, mạnh nhất thế giới
Mỹ với âm mưu trở thành bá chủ thế giới với thế mạnh lớn về cả kinh tế và quân sự, liên tục đề ra các chiến
lược toàn cầu phản cách mạng (Chiến tranh cục bộ, chiến tranh toàn đặc biệt, Việt Nam hóa chiến tranh)
+ Sự bất đồng, chia rẽ dẫn đến mâu thuẫn sâu sắc giữa 2 nước lớn trong XHCN –
Liên Xô Trung Quốc * Trong nước - Thuận lợi:
+ Sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân, người dân vẫn tin tưởng vào Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh, hướng
tới khát vọng chung là giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
+ Miền Bắc: tuyên bố được giải phóng, độc lập, quá độ lên CNXH, trở thành hậu phương vững
chắc cho miền Nam VN - Khó khăn: Đế quốc Mỹ hùng mạnh đã trở thành kẻ thù trực tiếp của
nhân dân VN Tại sao Đảng chuyển từ đấu tranh chính trị sang đấu tranh vũ trang?
1954 – 1957: đấu trang chính trị
- đây khoảng thời gian ta đòi Mỹ thi hành Hiệp định Giơ ne (2 bên thực hiện ngừng bắn, VN
tạm thời chia cắt thành 2 miền, sau 2 năm sẽ thực hiện Tổng tuyển cử thống nhất) nên không thực hiện đấu
tranh vũ trang được - So sánh về tương quan lực lượng
+ Kinh tế: Mỹ là nền kinh tế số 1 thế giới, VN có xuất phát điểm là nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, kém phát
triển
+ Chính trị: chỉ chính quyền miền Bắc, miền Nam
không có chính quyền + Quân sự:
Theo tinh thần của Hiệp định Giơ- ne vơ, tất cả quân bộ đội phải tập kết ra Bắc để thực hiện việc chuyển
giao quân, ở miền
Nam không đóng bất kỳ liên minh quân sự nào, chỉ 1 bộ phận rất nhỏ lại dưới danh nghĩa công nhân,
nông dân,…
Trong khi đó, Mỹ đã kịp xây dựng 1 chế độ nguỵ quân nguỵ quyền từ 8/1950
=> Ta chưa kịp chuẩn bị cho khởi nghĩa vũ trang và buộc thi hành HĐ Giơ – ne - vơ
1958 – 1960: đấu tranh vũ trang
lOMoARcPSD| 58540065
- Tháng 8/1956 ( 1 m sau được kết), Mỹ tuyên bố không hiệp thương Tổng tuyển cử thống nhất đất
nước- Do chính sách của Mỹ Diệm
Đầu 1968, Mỹ Diệm thực hiện chính sách Tố cộng diệt cộng, máy chém khắp miền Nam VN, thực hiện
đạo luật 10/59 (với phương châm “giết nhầm còn hơn bsót” đã làm cho lực lượng CMVN tổn thất nặng nề.
Theo thống kê, trong vòng 2 năm, chúng đã bắt và giết hại hơn 108 nghìn người dân vô tội)
=> Đảng đi đến nhận định: chính sách của Mỹ Diệm sẽ gây cho ta rất nhiều khó khăn nhưng nhân dân ta sẽ
đứng lên đấu tranh theo quy luật tức nước vỡ bờ
=> Tháng 1/1959, Nghị quyết số 15 về tình hình mới, đây là Nghị quyết về tình hình phát triển ở miền Nam,
như 1 ngọn đuốc ném vào đống cỏ khô để mở đường cho CM miền Nam tiến lên. nội dung của Nghị quyết
vạch con đường CM khởi nghĩa ở VN phải con đường khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân
trong đó sử dụng lực lượng chính trị kết hợp với lực lượng vũ trang
- Dưới ánh sáng của Nghị quyết 15, ngày 17/6/1960, phong trào đồng khởi Bến Tre nổ ra do đồng chí Nguyễn
Thị ĐỊnh lãnhđạo ở Mỏ Cày. Đây được xem như dấu mốc đánh dấu cuộc chiến của nhân dân ta từ thế gìn
giữ lực lượng chuyển sang thế tiến công
Mối quan hệ của cách mạng 2 miền? Vị trí, vai trò, nhiệm vụ cụ thể của từng chiến lực cách mạng ở
mỗi miền?
- Vị trí, vai trò:
+ CM miền Bắc giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ CM Việt Nam (cung cấp sức
người, sức của)
+ CM miền Nam giữ vai trò quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam thống nhất nước
nhà
+ Miền Bắc là hậu phương lớn, miền Nam là tiền tuyến lớn
+ Miền Bắc là căn cứ địa cách mạng của cả nước
- Mối quan hệ: đều có mục tiêu chung là hoà bình và thống nhất nước nhà
Trình bày cơ sở của việc Đảng đề ra chiến lược chống Mỹ trong phạm vi cả nước
Bối cảnh lịch sử
- Thuận lợi: Cách mạng thế giới đang ở thế tiến công; kế hoạch 5 năm lần thứ nhất ở miền Bắc đã đạt
được thành tựu quantrọng; cách mạng miền Nam có bước phát triển mới
- Khó khăn: Mâu thuẫn Xô - Trung ngày càng trở nên gay gắt gây bất lợi cho CM nước ta; Mỹ đưa quân
ạt vào miền Namthực hiện chiến lược chiến tranh cục bộ bắn phá miền Bắc bằng không quân hải
quân
b. Đường lối kháng chiến chống Mỹ cứu nước của Đảng
Hôi nghị TW12(12-1965) đề ra đường lối chống Mỹ trên cả nước với nội dung:
Mục tiêu chiến lược: Kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh của Mỹ để bảo vệ MB, giải phóng MN
Phương châm chỉ đạo chiến lược: Đánh lâu dài, dựa vào sức mình là chính
Phương châm đấu tranh:quân sự kết hợp với chính trị; triệt để vận dụng ba mũi giáp công
lOMoARcPSD| 58540065
Nhiệm vụ và mối quan hệ của cuộc chiến đấu 2 miền: MN tiền tuyến lớn, MB hậu
phương lớn Nhiệm vụ của miền Bắc
Một là, chuyển hướng xây dựng kinh tế cho phù hợp với tình hình chiến tranh phá hoại, bảo đảm sẵn sàng
chiến đấu, chi viện cho miền Nam
Hai là, tăng cường lực lượng quốc phòng cho kịp với sự phát triển tình hình mới
Ba là, ra sức chi viện cho miền Nam với mức cao nhất
Bốn là, chuyển hướng tư tưởng và tổ chức phù hợp với yêu cầu mới.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 58540065
Các yếu tố dẫn đến sự ra đời của ĐCS VN
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời từ sự kết hợp 3 yếu tố: chủ nghĩa Mác-Lênin, phong trào công nhân, phong
trào yêu nước. Đây là sự vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết Mác-Lênin về sự ra đời của Đảng Cộng
sản ở một nước thuộc địa nửa phong kiến và có truyền thống yêu nước từ hàng ngàn năm.
Sự vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết về sự ra đời của Đảng Cộng sản dựa trên căn cứ lý luận và
điều kiện lịch sử cụ thể:
Một là, sau khi xâm lược nước ta, thực dân Pháp thực hiện chính sách khai thác tài nguyên, bóc lột sức lao
động, chỉ xây dựng một số nhà máy trực tiếp phục vụ cho chính sách khai thác. So với nhiều nước trên thế
giới và khu vực, giai cấp công nhân Việt Nam ra đời chậm và nhỏ bé. Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời
từ cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất (1897-1914).
Hai là, từ khi thực dân Pháp xâm lược đất nước ta, phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp liên tục diễn
ra. Phong trào yêu nước chống Pháp có trước phong trào công nhân. Phong trào yêu nước chống Pháp đã
nuôi dưỡng lòng yêu nước và tinh thần dân tộc trong các tầng lớp nhân dân, trong công nhân. Mục tiêu đấu
tranh trước mắt của phong trào công nhân phù hợp với mục tiêu của phong trào yêu nước là đánh đổ thực
dân Pháp, đem lại độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân. Do đó, vào cuối những năm 30 của thế kỷ XX,
phong trào yêu nước dần dần trở thành một bộ phận của cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp. Ba là, Nguyễn
Ái Quốc sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Người đã đi từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác-
Lênin. Trong quá trình tìm đường cứu nước, Người đã đến với chủ nghĩa Mác-Lênin và từ đó Người đã dày
công truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào nước ta, vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Việc
thành lập Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên (1925) bao gồm những chiến sĩ yêu nước để truyền bá chủ
nghĩa Mác-Lênin vào trong nước là hiện thân của sự kết hợp ba yếu tố ngay từ những bước chuẩn bị ra đời
của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin, phong trào công nhân, phong trào yêu nước đã giúp Đảng
ta ngay từ khi mới ra đời phát huy được truyền thống yêu nước, đoàn kết được các lực lượng cách mạng và
nhờ đó giữ được quyền lãnh đạo cách mạng. Đảng Cộng sản Việt Nam tuyển lựa đảng viên không những
trong phong trào công nhân mà còn chọn những phần tử tiên tiến giác ngộ chủ nghĩa cộng sản trong nông
dân lao động, trí thức và trong phong trào yêu nước.
Nêu vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong việc thành lập Đảng Cộng sản VN
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam (ngày 03/02/1930) là một tất yếu khách quan từ thực tiễn cuộc đấu
tranh của Nhân dân ta chống sự nô dịch đế quốc; dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, phù hợp với quy
luật vận động của cách mạng thế giới và sự nghiệp cách mạng nước ta. Đảng ta được thành lập đã đáp ứng
những yêu cầu khách quan và cấp bách của dân tộc là độc lập, tự do và phát triển; là kết quả của nhiều yếu
tố, trong đó có vai trò rất to lớn của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, người thực hiện sứ mệnh lịch
sử sáng lập chính đảng vô sản ở Việt Nam, với những sáng tạo lý luận xuất sắc. Từ đây, cách mạng Việt Nam
có một đảng cách mạng chân chính dẫn đường cho toàn dân đứng lên đánh đổ ách áp bức, bóc lột của thực
dân, phong kiến đem lại độc lập cho dân tộc, ấm no, tự do, hạnh phúc cho Nhân dân.
- Thứ nhất, Nguyễn Ái Quốc tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc.
Trước khi Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước, tại Việt Nam năm 1858, thực dân Pháo đã nổ súng tấn
công xâm lượng và từng bước thiết lập bộ máy thống trị, biến một quốc gia phong kiến thành thuộc địa nửa phong kiến.
Vào thời điểm này, về chính trị, thực dân Pháp áp đặt chính sách cai trị thực dân, tước bỏ quyền lực đối nội
và đối ngoại của chính quyền phong kiến nhà Nguyễn; chia Việt Nam thành ba xứ: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam
Kỳ và thực hiện ở mỗi kỳ một chế độ cai trị khác nhau.
Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, các phong trào yêu nước của nhân dân ta diễn ra liên tục và sôi nổi
nhưng đều không mang lại kết quả và đều rơi vào bế tắc. Đây đều là các phong trào đấu tranh kế thừa truyền
thống yêu nước, bất khuất của dân tộc được hun đúc qua hàng ngàn năm lịch sử. Tuy nhiên do thiếu đường
lối đúng đắn, thiếu tổ chức và lực lượng nên các phong trào ấy mới lần lượt thất bại, cách mạng Việt Nam
chìm trong cuộc khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước.
Trước tình hình đó, ngày 5/6/1911 người thanh niên Nguyễn Tất Thành (Nguyễn Ái Quốc) đã ra đi tìm đường
cứu nước theo phương hướng mới. Người đã đi qua nhiều quốc gia trên thế giới để phát hiện ra chân lý: chủ
nghĩa đế quốc ở đâu cũng là kẻ thù, giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở đâu cũng là bạn. Năm 1917,
Người trở lại Pháp, đến Paris và đến năm 1919 gia nhập Đảng xã hội Pháp. lOMoAR cPSD| 58540065
Tháng 6/1919 thay mặt những người yêu nước Việt Nam, Người gửi bản yêu sách 8 điểm tới Hội nghị Vécxây.
Tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc đọc được "Đề cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa" của Lênin. Người đã
tìm thấy ở đó con đường đúng đắn giải phóng đất nước là con đường cách mạng vô sản, giải phóng dân tộc
để tiến tới giải phóng con người. Người đã nhận thấy sự cần thiết của một Đảng lãnh đạo và chỉ có kết hợp
chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước thì mới có thể xây dựng được một
Đảng cách mạng chân chính, đảm bảo cách mạng phát triển đúng hướng và đi đến thắng lợi.
Tại Đại hội Đảng Xã hội Pháp (tháng 12/1920), Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành Quốc tế III (Quốc tế
Cộng sản do Lênin sáng lập) và tham gia thành lập Đảng cộng sản Pháp, trở thành người cộng sản đầu tiên của Việt Nam.
- Thứ hai, Nguyễn Ái Quốc tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin vào trong nước và chuẩn bị những điều
kiện cho sự thành lập Đảng.
+ Về chính trị: Người tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin vào trong nước. Người đã phác thảo những
vấn đề cơ bản về đường lối cứu nước đúng đắn của cách mạng Việt Nam, thể hiện tập trung qua những bài
giảng của Người cho những cán bộ cốt cán của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên.
+ Về tư tưởng: Nguyễn Ái Quốc đã tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin vào Việt Nam nhằm làm chuyển
biến nhận thức của quần chúng, đặc biệt là giai cấp công nhân, làm cho hệ tư tưởng Mác Lênin từng bước
chiếm ưu thế trong đời sống xã hội, làm chuyển biến mạnh mẽ phong trào yêu nước. Nội dung truyền bá là
những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin được cụ thể hoá cho phù hợp với trình độ của các giai tầng trong xã hội.
+ Về tổ chức: Nguyễn Ái Quốc dày công chuẩn bị về mặt tổ chức cho sự ra đời của chính đảng vô sản của
giai cấp công nhân Việt Nam. Đó là huấn luyện, đào tạo cán bộ từ các lớp huấn luyện do Người tiến hàng ở
Quảng Châu để vừa chuẩn bị cán bộ, vừa truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin. Năm 1925, Nguyễn Ái Quốc
thành lập hội Việt Nam cách mạng thanh niên, ra báo Thanh niên, mở lớp đào tạo cán bộ cách mạng cho 75
đồng chí, từ đó giúp chõ những người Việt Nam yêu nước xuất thân từ các thành phần, tầng lớp dễ tiếp thu
tư tưởng cách mạng của Người, phản ánh tư duy sáng tạo và là thành công của Nguyễn Ái Quốc trong
chuẩn bị về mặt tổ chức cho Đảng ra đời.
Đồng thời, trong những năm 1928 - 1929, phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân ta tiếp tục phát triển
mạnh về số lượng và chất lượng. Chủ nghĩa Mác được Nguyễn Ái Quốc và những chiến sĩ tiên phong truyền
bá về trong nước, cùng với phong trào "vô sản hoá" đã làm chuyển biến phong trào công nhân và giác ngộ
họ. Thông qua phong trào "vô sản hoá", lớp lớp thanh niên yêu nước được rèn luyện trong thực tiễn, giác
ngộ lập trường giai cấp công nhân sâu sắc, hiểu rõ nguyện vọng, lợi ích của nhân dân, thúc đẩy phong trào
công nhân và phong trào yêu nước phát triển mạnh mẽ, tiến tới sự ra đời của tổ chức cộng sản đầu tiên ở Việt
Nam, tạo điều kiện chín muồi cho sự ra đời của Đảng.
- Thứ ba, Nguyễn Ái Quốc đã chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản.
Với vai trò, trách nhiệm quan trọng trong hệ thống Quốc tế cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã chủ động triệu tập
Hội nghị hợp nhất, sáng lập ra Đảng Cộng Sản Việt Nam. Từ ngày 06/01/1930 đến ngày 07/02/1930, tại Cửu
Long – Hồng Công (Trung Quốc), Hội nghị hợp nhất đã được tiến hành dưới sự chủ trì của Nguyễn Ái Quốc.
Với sự nhất trí cao, Hội nghị đã đặt tên Đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam và thông qua Chánh cương vắn tắt
của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng, Điều lệ vắn tắt của Đảng, Chương trình tóm tắt của Đảng do lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc soạn thảo.
- Thứ tư, Nguyễn Ái Quốc trực tiếp soạn thảo những văn kiện quan trọng có ý nghĩa chiến lược. Trong bối
cảnh lúc bấy giờ, sựthống nhất đường lối chính trị cấp thiết hơn bao giờ hết. Hội nghị hợp nhất đã thống
nhất thông qua Chán cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt và Lời kêu gọi
nhân dịp thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Đặc biệt, nội dung của Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn
tắt là do đồng chí Nguyễn Ái quốc soạn thảo được Hội nghị thông qua đã trở thành Cương lĩnh chính trị
đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đề: Anh/chị hãy phân tích mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề dân chủ của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn 19301945.
Trong giai đoạn 1930 – 1945, vấn đề dân tộc và vấn đề dân chủ được xem là hai nhiệm vụ quan
trọng nhất của cách mạng Việt Nam. Ngay từ khi Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời năm 1930, hai nhiệm vụ
này đã được xác định rõ ràng trong Chính cương vắn tắt của Đảng được thông qua tại Hội nghị thành lập lOMoAR cPSD| 58540065
Đảng do Hồ Chí Minh khởi thảo. Chính cương đã xác định rõ con đường tiến lên của cách mạng Việt Nam
là “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Trong Luận cương
chính trị được thông qua tại Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng (10 - 1930) cũng đã
chỉ ra các bước tiến triển của cách mạng Việt Nam là: Trong lúc đầu sẽ là cuộc cách mạng tư sản dân quyền
tiếp sau đó sẽ tiếp tục đấu tranh thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa. Như vậy hai nhà lãnh đạo lỗi lạc của
Việt Nam là Hồ CHí Minh và Trần Phú đều nhấn mạnh hai nhiệm vụ quan trọng của cách mạng Việt Nam
là "tư sản dân quyền cách mạng" (cách mạng giải phóng dân tộc, đánh đổ thực dân, đế quốc) và "thổ địa
cách mạng" (cách mạng dân chủ, chống phong kiến). Tuy nhiên, hai nhiệm vụ này lại được các nhà lãnh
đạo xác định khác nhau: nhiệm vụ nào làm trước, nhiệm vụ nào làm sau? hay cùng làm một lúc? Tất cả
những câu hỏi này cũng là sự trăn trở, tư duy không ngừng của các nhà lãnh đạo Việt Nam thời kỳ đó - nó
cũng thể hiện sự nhận thức từng bước của Đảng Cộng sản Việt Nam cùng với những điều kiện cụ thể của
cách mạng Việt Nam qua từng thời kỳ.
Sự khác nhau giữa Chính cương và Luận cương đã thể hiện tư duy phản biện trong Đảng, không
chấp nhận quan điểm một chiều. Quan điểm của Hồ Chí Minh trong Chính cương nhấn mạnh nhiệm vụ dân
tộc làm trước, nhiệm vụ dân chủ làm sau. Với quan điểm này Hồ Chí Minh đã kêu gọi và tập hợp hầu hết
các tầng lớp nhân dân đứng về phía công nông để thực hiện cuộc cách mạng dân tộc nhân dân. Nhưng quan
điểm của Trần Phú trong Luận cương lại ngược lại: nhấn mạnh nhiệm vụ dân chủ, sau mới thực hiện nhiệm
vụ dân tộc. Vì thế Trần Phú mới chỉ thấy được vai trò của lực lượng đấu tranh chính là lực công nông mà
chưa thấy hết vai trò của các lực lượng khác trong xã hội.
Tháng 10/ 1930 sau khi Luận cương ra đời, được sự ủng hộ của Quốc tế cộng sản, Đảng Cộng sản Việt
Nam đã đổi tên thành Đảng Cộng sản Đông Dương. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông dương và
Trần Phú, cao trào Xô Viết Nghệ tĩnh đã nổ ra - cao trào là điển hình của việc thực hiện nhiệm vụ dân chủ,
công nông kéo lên đập phá chính quyền tại địa phương ở một vai huyện như Thanh Chương, Nghệ An. Sau
khi giành được huyện lị trong thời gian ngắn, quan lại phong kiến địa phương được sự hậu thuẫn của thực
dân pháp đã giành lại huyện lị nhanh chóng và tiến hành cuộc đàn áp đẫm máu lực lượng cách mạng của chúng ta.
Năm 1932 - 1935 là giai đoạn khủng bố trắng của địch, Đảng cộng sản non trẻ của chúng ta bị đàn áp và
tiêu diệt trên trên tất cả các miền của Tố quốc. Nhưng thời điểm này Đảng Cộng sản Đông Dương tiếp tục
nhiệm vụ dân chủ với ngọn cờ "Trí, phú, địa, hào đào tận gốc trốc tận rễ" - đây tiếp tục là một sai lầm khi
đặt nhiệm vụ dân chủ trước nhiệm vụ dân tộc vì "nước mất thì nhà tan".
Giai đoạn cuối 1935 Đảng ta đã cố gắng phục hồi các tổ chức đảng và bình tĩnh để đưa ra những lựa
chọn sáng suốt hơn cho cách mạng Việt Nam.
Giai đoạn 1936 - 1939 được coi là giai đoạn nhận thức mới của Đảng. Đảng bắt đầu nhìn nhận 2
nhiệm vụ này trong mối quan hệ biện chứng với nhau. Thời điểm này: đảng ta xác định: nhiệm vụ dân tộc
hay nhiệm vụ dân chủ, nhiệm vụ nào làm trước, nhiệm vụ nào làm sau đều được miễn là phải phù hợp với
hoàn cảnh và điều kiện của Việt Nam tại thời điểm đó. Vì vậy cao trào 1926 - 1939 là cao trào đòi dân chủ
dân sinh, tiếp tục thực hiện dân chủ nhưng lại là sự lựa chọn vô cùng đúng đắn trong giai đoạn này khi đời
sống của nhân dân VN quá khổ cực. Thực dân Pháp bị ảnh hưởng bởi khủng hoảng kinh tế 1929 - 1933,
dẫn tới chúng đổ hết mọi hậu quả của khủng hoảng lên nhân dân Việt Nam, chúng còn bắt bớ người dân
Việt Nam đi làm bia đỡ đạn cho chúng. Vì vậy việc biểu tình đưa lời thỉnh cầu dân nguyện, đấu tranh nghị
trường, đấu tranh công khai, nửa hợp pháp... hoàn toàn là những phương pháp đấu tranh dân chủ, công
khai, tuy không triệt để nhưng lại cần thiết tại thời điểm này - nhằm mục đích củng cố sức dân, động viên
tinh thần người dân, chờ đợi cuộc chiến lớn hơn sau đó.
Giai đoạn 1939 - 1945 là giai đoạn thay đổi hoàn toàn chiến lược cách mạng Việt Nam từ cách mạng dân chủ sang cách
mạng dân tộc. Lần đầu tiên chúng ta chính thức giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Quá
trình đổi mới này cũng không diễn ra ngay lập tức mà có sự nhận thức khá đầy đủ toàn diện của Đảng
thông quan Hội nghị Trung ương 6, 7, 8. Cuối cùng chúng ta xác định: Một là giương cao ngọn cờ đấu
tranh giải phóng dân tộc lên hàng đầu; Hai là, thành lập mặt trận Việt minh để tập hợp lực lượng; Ba là
chuẩn bị lực lượng vũ trang và căn cứ địa cách mạng. Đến đây sự nhận thức của Đảng về nhiệm vụ dân tộc
và nhiệm dân chủ dân chủ đã tương đối rõ ràng, đã thấy được đâu là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Từ đây
cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân của chúng ta chính thức phát triển lên một tầm cao mới và
nhiệm vụ dân chủ chỉ chính thức hoàn thành khi chúng ta tiến hành thành công cuộc cách mạng tháng Tám
năm 1946 (Xoá bỏ chế độ phong kiến cuối cùng trong lịch sử Việt Nam, khai sinh ra nước Việt Nam dân lOMoAR cPSD| 58540065
chủ cộng hoà) và cuộc cách mạng dân tộc của chúng ta chỉ chính thức thành công khi chúng đánh đuổi đế quốc Mỹ năm 1975.
Tại sao cương lĩnh chính trị của Đảng thể hiện sự độc lập, tự chủ, sáng tạo?
(So sánh với luận cương tháng 10) 1. Phạm vi
- Luận cương chính trị: xây dựng đường lối cách mạng cho Việt Nam nói riêng và các nước Đông
Dương nói chung. - Cương lĩnh chính trị: xây dựng đường lối của cách mạng Việt Nam
2. Tính chất XH: khác biệt lớn nhất vì -
Luận cương chính trị: Xã hội Đông Dương gồm hai mâu thuẫn dân tộc và giai cấp, trong đó mâu thuẫn
giai cấp là cơ bản nhất. - Cương lĩnh chính trị:
Cương lĩnh là của riêng người Việt Nam, dưới ngọn cờ chỉ đạo của Đảng, nó không bị lệ thuộc hay bị áp đặt
bởi bất kì một tổ chức nào khác. Với tư tưởng cốt lõi bao trùm là độc lập, tự do, cương lĩnh chính trị đã vạch
rõ con đường cách mạng của Đảng đã lựa chọn, đó là con đường kết hợp: giương cao ngọn cờ độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội. -
Vào thời kì này, ta không lệ thuộc vào quan điểm tổ chức quốc tế cộng sản - tổ chức lãnh đạo chung
của phong trào công nhânquốc tế, đề cao chủ nghĩa quốc tế chứ không phải dân tộc. Chủ nghĩa Mác Angen
- Bộ phận lớn của quốc tế cộng sản đề cao giai cấp trong khi Bác Hồ đề cao vấn đề dân tộc dù nó gây khó
khăn với cách mạng VN trong quan hệ với quốc tế cộng sản. Quan điểm của cương lĩnh chính trị đầu tiên
khác với quan điểm Quốc tế cộng sản là đề cao mọi tầng lớp giai cấp trong xã hội, đặt lợi ích của dân tộc lên
hàng đầu. Chúng ta đã không đi theo quốc tế cộng sản mà đưa ra quan điểm phù hợp với điều kiện cụ thể
thời điểm hiện tại của VN: vấn đề dân tộc cấp bách hơn, là mâu thuẫn được đẩy lên hàng đầu, đặt nhiệm vụ
giải phóng, giành độc lập dân tộc lên cao nhất và chỉ khi đó mới huy động được lực lượng toàn dân. -
Thực tiễn CM VN, đặc biệt giai đoạn 1939-1945 cũng đã chứng minh nhờ có việc giương cao ngọn
cờ giải phóng dân tộc màchúng ta đã tập hợp được lực lượng đông đảo quần chúng nhân dân trong mặt trận
Việt Minh để làm nên thành công của cách mạng tháng 8 – đánh giá là cuộc CM diễn ra nhanh gọn, không
tốn kém và hầu như không có đổ máu. Đây cũng chính là sự sáng tạo trong đường lối của Đảng, nhà nước và chủ tịch HCM.
=> Bác vượt qua quan điểm của chủ nghũa cộng sản mà xuất phát từ điều kiện hoàn cảnh thực tiễn VN để
đưa ra chính sách 3. Xác định lực lượng tham gia cách mạng -
Quan điểm QTCS chỉ đề cao công nhân và nông dân, triệt để CM, còn các giai cấp khác không phải
lực lượng tham gia CM.Nhưng quan điểm cương lĩnh không chỉ công nhân, nông dân mà mọi tầng lớp giai
cấp trong XH đều được đề cao. Đảng đã xác định cần tập hợp hầu hết giai cấp trong xã hội (sáng tạo) đại bộ
phận công nhân, nông dân; lôi kéo tiểu tư sản, trí thức, trung nông… làm cho phú nông, trung tiểu địa chủ
và tư bản Việt Nam đứng trung lập, từ đó xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân vững mạnh. -
Chủ trương đề ra trong cương lĩnh chính trị là hoàn toàn phù hợp hoàn cảnh VN lúc bấy giờ – trong
XH thuộc địa 1 phongkiến, không chỉ CN, ND mâu thuẫn với thực dân Pháp mà mọi tầng lớp giai cấp đều
bị ảnh hưởng và đều mâu thuẫn, do vậy việc lôi kéo, tập hợp đông đảo lực lượng là việc đúng đắn. Thực tiễn
lịch sử cũng đã chứng minh, nhờ có việc tập hợp lực lượng, cụ thể là qua mặt trận Việt minh, Hội cứu quốc,
phụ nữ cứu quốc, nông dân cứu quốc..., chúng ta đã giành được chiến thắng vang dội t8/1945. - Tính sáng tạo:
· Phương hướng chiến lược: “tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi
tới xã hội cộng sản” · Nhiệm vụ:
Về chính trị: đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến; làm cho nước Việt Nam được hoàn toàn
độc lập; lập chính phủ công nông binh và tổ chức quân đội công nông, nhiệm vụ chống đế quốc đặt lên hang đầu
Về xã hội- kinh tế: tịch thu toàn bộ các sản nghiệp lớn của bọn đế quốc giao cho Chính phủ công nông binh;
tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc làm của công và chia cho dân nghèo, mở mang công nghiệp và nông
nghiệp, miễn thuế cho dân cày nghèo, thi hành luật ngày làm 8h.
Về văn hóa – xã hội: dân chúng được tự do tổ chức, nam nữ bình quyền; phổ thông giáo dục theo công nông hóa. lOMoAR cPSD| 58540065
Về lực lượng và phương pháp cách mạng: Tập hợp hầu hết giai cấp trong xã hội (sáng tạo) đại bộ phận công
nhân, nông dân; lôi kéo tiểu tư sản, trí thức, trung nông… làm cho phú nông, trung tiểu địa chủ và tư bản
Việt Nam đứng trung lập. Phải đoàn kết công nhân, nông dân; dựa vào dân nghèo, lãnh đạo nông dân làm
cách mạng ruộng đất. Lôi kéo tiểu tư sản, tri thức, trung nông… đi vào phe vô sản giai cấp. Bộ phận nào đã
ra mặt phản cách mạng như Đảng Lập hiến thì phải đánh đổ. -> cơ sở chiến lược xây dựng đại đoàn kết dân
tộc, rộng rãi giữa các giai cấp .
Về lãnh đạo của Đảng: Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp, làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân
chúng. Đồng thời là đội tiên phong của đạo quân vô sản gồm 1 số lớn của giai cấp công nhân và làm cho họ
có đủ năng lực lãnh đạo quần chúng. Về mối quan hệ quốc tế: Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách
mạng thế giới; phải liên kết với những dân tộc bị áp bức và quần chúng vô sản trên thế giới nhất là VS Pháp.
Trong khi thực hiện nhiệm vụ giải phóng dân tộc phải tranh thủ sự đoàn kết, ủng hộ các dân tộc bị áp bức và
giai cấp vô sản thế giới, nhất là giai cấp vô sản Pháp => ĐCS VN đã nêu cao chủ nghĩa quốc tế và mang bản
chất quốc tế của giai cấp công nhân. Ý nghĩa Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng (T2/1930)
Giá trị lý luận:
+ Cương lĩnh đã xác định đúng đắn những vấn đề chiến lược, sách lược của cách mạng Việt Nam, phản ánh
được quy luật khách quan của xã hội Việt Nam, đáp ứng được yêu cầu cấp bách và cơ bản của cách mạng
Việt Nam, phù hợp với xu thế thời đại.
+ Những nội dung của Cương lĩnh chính trị là sự vận dụng, sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện
nước ta, một nước thuộc địa nửa phong kiến, giải quyết đúng đắn hàng loạt vấn đề như: mối quan hệ giữa
dân tộc và giai cấp, giữa hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến, về lực lượng cách mạng… Qua
đó, cương lĩnh đã góp phần bổ sung, phát triển làm phong phú CN Mác – Lênin.
+ Cương lĩnh chính trị đầu tiên ghi đậm dấu ấn tư tưởng Hồ Chí Minh, phản ánh công lao to lớn của Hồ Chí
Minh đối với Đảng và cách mạng Việt Nam. Thủ tướng Phạm Văn Đồng sau này đã nhận xét: “Vào thời ấy,
hệ thống luận điểm của Hồ Chí Minh mới mẻ đến kỳ lạ, khó lòng tưởng tượng. Nó nằm trong dòng sáng tạo
cách mạng của những con người mà cống hiến lý luận và sự nghiệp đấu tranh vạch đường cho thời đại”.
Giá trị thực tiễn: -
+ Cương lĩnh chính trị đầu tiên ngay khi mới ra đời đã đáp ứng được nguyện vọng của nhân dân và thâm
nhập vào quần chúng trở thành sức mạnh vật chất, biến thành phong trào cách mạng, chấm dứt tình trạng bế
tắc, khủng hoảng về đường lối cách mạng.
+ Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng trở thành ngọn cờ dẫn dắt nhân dân ta đi từ thắng lợi này đến thắng
lợi khác, đưa dân tộc Việt Nam từ dân tộc thuộc địa trở thành dân tộc độc lập, đưa nhân dân ta từ thân phận
nô lệ trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình.
Cương lĩnh ra đời gần một thế kỷ, nhưng đến nay nó vẫn giữ nguyên giá trị, vẫn là ngọn cờ dẫn lối cho cách
mạng Việt Nam tiến bước trên con đường mà Đảng, chủ tịch Hồ Chí Minh và dân tộc đã lựa chọn. Cương
lĩnh đã, đang, sẽ được toàn Đảng, toàn dân trung thành, vận dụng vào công cuộc đổi mới hiện nay.
Phân tích mqh giữa vđề DT vs vđề dân chủ 1930 – 1945
(giai đoạn nào đấu tranh DT, gđ nào đấu tranh giai cấp)
1930 – 1939: đấu tranh giải phóng giai cấp -
1930 – 1931: Xô Viết Nghệ Tĩnh
=> tổng diễn tập lần thứ nhất chuẩn bị về mặt lực lượng cho CM T8 (pp đấu tranh vũ trang)
Khẩu hiệu đấu tranh: người cày có ruộng, thực hiện giảm tô giảm sức giảmsưu giảm thuế, tăng lương giảm giờ làm lOMoAR cPSD| 58540065
Phong trào cách mạng 1930 – 1931 để lại cho Đảng những kinh nghiệm quý báu “về kết hợp hai nhiệm vụ
chiếm lược phản đế và phản phong kiến, kết hợp phong trào đấu tranh của công nhân với phong trào đấu
tranh của nông dân, thực hiện liên minh công nông dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân; kết hợp phong
trào cách mạng ở nông thon với phong trào cách mạng ở thành thị, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang.
1936 – 1939: pt đấu tranh dân sinh dân chủ
Pp đấu tranh chính trị (hợp pháp nửa hợp pháp, công khia bán công khai: mít
ting, biểu tình) Khẩu hiệu đấu tranh: k thay đổi
*1939 – 1945: đấu tranh giải phóng dân tộc
Nhật đảo chính Pháp để độc chiếm Đông Dương đã tạo nên 1 cuộc khủng hoảng chính trị sâu sắc,
vậy khủng hoảng chính trị ở đây là gì?
Tình thế CM đã xuất hiện nhưng thời cơ CM chưa thực sự chín muồi mà hiện chỉ có những thời cơ tốt để
tiến tới thực hiện tổng khởi nghĩa đấu tranh giành chính quyền -
Tình hình quốc tế: Liên Xô thắng lớn, Pháp đc giải phóng, ưu thế
trên chiến trường dần nghiêng về phe đồng minh, phe phátxít đang dần thất bại hoàn toàn -
Tình hình trong nước: Nhật đảo chính Pháp (9/3/1944) - Hội nghị
mở rộng tại Đình Bảng – Bắc Ninh (9/3/194):
Chỉ thị “Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” (12/3/1945)
+ Nhận định tình hình: Chỉ rõ bản chất hành động của Nhật ngày 09/03/1945 là một cuộc đảo chính tranh
giành lợi ích giữa Nhật và Pháp.
+ Xác định kẻ thù trước mắt duy nhất của Đông Dương là phát xít Nhật, quyết định thay đổi khẩu hiệu “Đánh
đuổi phát xít Nhật – Pháp” bằng khẩu hiệu “Đánh đuổi phát xít Nhật”.
+ Nhiệm vụ trước mắt: đẩy mạnh các hình thức đấu tranh vũ trang, tuyên truyền
Khẩu hiệu đấu tranh “Đánh đuổi phát xít Nhật, thành lập chính quyền CM của
nhân dân Đông Dương” + Phương châm đấu tranh: tiến hành KN từng phần dẫn
đến Tổng KN + Dự kiến thời cơ:
Nếu Nhật để mất nước giống Pháp năm 1940 ta sẽ nổi dậy đấu tranh giành chính quyền
Khi quân Đồng minh kéo vào để giải giáp quân đội Nhật thì quân Nhật sẽ kéo ra ứng phó, ta sẽ cùng quân
ĐM tạo thế 2 gọng kìm, lật đổ ách thống trị của PX Nhâth
Tuy nhiên, bất cứ khi nào thời cơ CM xuất hiện, ta sẽ ngay lập tức Tổng KN đấu tranh giành chính quyền
Tình thế CM đã xuất hiện nhưng thời cơ CM chưa thực sự chín muồi mà hiện chỉ có những thời cơ tốt để
tiến tới thực hiện tổng khởi nghĩa đấu tranh giành chính quyền
22/9/1945, khi Nhật nhảy vào Đông Dương, để rảnh tay tham gia CTTTG II và để ngay lập tức có 1 bộ máy
tay sai phục vụ Nhật mà k phải mất thời gian đào tạo, xây dựng thì họ đã sử dụng lại ngay bộ máy cai trị của
TDP để làm bàn đạp thống trị nhân dân ta lúc bấy giờ. TDP là tay sai của phát xít Nhật trong công cuộc áp
bức bóc lột nd ta nhưng đến bây giờ, Nhật đã đảo chính Pháp để độc chiếm Đông Dương. Đối với phát xít
Nhật , Đông Dương là cứ điểm cuối cùng của phát xít Nhật, Anh và Mỹ đã giải phóng được nước Pháp.
=> cái cũ (công cụ của TDP) đã mất đi, cái mới thì trong khoảng thời gian ngắn PX Nhật không thể gây
dựng lại ngay 1 bộ máy cai trị mới. Trong khi đó, các tầng lớp trung gian đang ngả nghiêng dao động không
biết đi đâu về đâu => Đảng ta đã nhận định đây là 1 khoảng trống về mặt quyền lực của nhân dân ta lúc bấy giờ
=>Tình thế CM là 2 kẻ thù trực tiếp đã tiến hành đấu tranh với nhau
Nhưng thời cơ CM chưa thực sự chín muồi vì rõ ràng trên chiến truòng, Nhật đang trong thế thất bại nhưng
Nhật xác định Đông Dương là sào huyệt cuối cùng nên sẽ làm mọi cách để giữ Đông Dương. Quân Nhật ở
Đông Dương còn rất mạnh, chưa bị tan rã, chưa bị hoang mang =>Ý nghĩa: lOMoAR cPSD| 58540065
· - Thể hiện sự nhận định sáng suốt, có những chủ trương kiên quyết, kịp thời của Đảng ta, nhờ đó đẩy
lên 1 cao trào CM, thúc đẩy tình thế CM mau chóng chín muồi
- Là kim chỉ nam cho hành động của toàn Đảng, toàn dân để thực hiện KN vũ trang từng phần, tiến tới Tổng KN.
- Thể hiện năng lực của Đảng trong việc nắm bắt thời cơ và đưa ra đường lối phù hợp
Phân tích vấn đề thời cơ của CM tháng 8 và vận dụng bài học đó trong bối
cảnh quốc tế hiện nay a.
Tổng khởi nghĩa giàng chính quyền - Tình hình quốc tế:
+ Chiến tranh thế giới thứ II kết thúc
+ PX Đức, Nhật đầu hàng vô điều kiện
+ Quân Đồng minh chuẩn bị vào Đông Dương - Tình hình trong nước
+ Cao trào tiền khởi nghĩa
1. Tính chất, ý nghĩa và bài học kinh nghiệm của CMT8 năm 1945 * Nguyên nhân
- Nguyên nhân khách quan: Nhật
đầu hàng Đồng minh - Nguyên nhân chủ quan: + Sự chuẩn bị của CM + ĐCS lãnh đạo + Tinh thần chiến đấu a. Tính chất
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc điển hình
- Tập trung hoàn thành nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng là giải phóng dân tộc
- Lực lượng cách mạng bao gồm toàn dân tộc
- Thành lập chính quyền nhà nước “của chung toàn dân tộc”
b. Ý nghĩa lịch sử * Đối với dân tộc VN
- Đập tan đế quốc phong kiến - Nhân dân làm chủ
- Bước nhảy vọt của dân tộc * Đối với quốc tế - GPDT điển hình - CNTD cũ sụp đổ - Cổ vũ CM GPDT lOMoAR cPSD| 58540065
- Lần đầu tiên CM giải phóng DT theo con đường CM vô sản đã giành thắng lợi ở 1 nước thuộc địac.
Kinh nghiệm lịch sử
- Về chỉ đạo chiến lược: Giương cao ngọn cờ ĐLDT, kết hợp đúng đắn hai nhiệm vụ chống ĐQ và PK
- Về xây dựng lực lượng: Đoàn kết toàn dân tộc trong Mặt trận Việt Minh
- Về phương pháp cách mạng: Kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang. Nắm vững nghệ thuật khởi nghĩa
- Về xây dựng Đảng: Xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, thống nhất ý chí và
hành động - Lợi dụng mâu thuẫn của kẻ thù, chọn đúng thời cơ
Nếu Nhật để mất nước giống Pháp năm 1940 ta sẽ nổi dậy đấu tranh giành chính quyền
Khi quân Đồng minh kéo vào để giải giáp quân đội Nhật thì quân Nhật sẽ kéo ra ứng phó, ta sẽ cùng quân
ĐM tạo thế 2 gọng kìm, lật đổ ách thống trị của PX Nhâth
Tuy nhiên, bất cứ khi nào thời cơ CM xuất hiện, ta sẽ ngay lập tức Tổng KN đấu tranh giành chính quyền
Từ việc phân tích bài học kinh nghiệm của CMT8, anh chị vận dụng như thế nào vào bối cảnh quốc
tế hiện nay? (giữa kỳ)
Bài học về lợi dụng triệt để mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù vẫn còn nguyên giá trị thực tiễn với giai
đoạn hiện nay, hay nói cách khác, chính là lợi dụng mâu thuẫn giữa các nước lớn trên thế giới.
Chiến tranh thương mại Mỹ-Trung -
Trung Quốc ngày càng lớn mạnh, có khả năng thay thế Mỹ - cuộc chiến tranh thương mại ngày càng
căng thẳng hơn. Nhìn sâuxa hơn, mối bất đồng của Hoa Kỳ đối với Trung Quốc vượt xa lãnh vực thương
mại. Trung Quốc táo bạo đã lợi dụng thế giới thương mại tự do để tăng cường sức mạnh kinh tế và quân sự
để chiếm lấy vị trí quốc gia hàng đầu thế giới. Mỹ lo ngại sự lớn mạnh nhanh chóng của Trung Quốc có thể
gây ảnh hưởng lớn về chính trị, kinh tế, thách thức địa vị của Mỹ. Về an ninh, Mỹ lo ngại Trung Quốc phá
vỡ cân bằng sức mạnh ở khu vực châu á - Thái Bình Dương, làm lung lay địa vị bá chủ của Mỹ. -
Tham vọng này đã được thể hiện trong kế hoạch 2025, kế hoạch Vành Đai Con Đường, hành vi hung
hăng của Trung Quốcđối với các nước láng giềng từ Ấn Độ đến Malaysia đến Nhật Bản đến Philippines đến
Việt Nam, v.v. Điều này kéo theo mâu thuẫn giữa các nước thân vs Mỹ/ Trung Quốc, cũng như quan hệ giữa
TQ và các nước châu Âu, vô hình chung thế giới sẽ được chia thành hai phe: phe Trung Quốc và phe không
Trung Quốc do Hoa Kỳ lãnh đạo. Là nền kinh tế có độ mở nhất nhì khu vực, là đối tác thương mại lớn của
cả Trung Quốc và Mỹ, Việt Nam sẽ khó tránh khỏi hệ lụy nếu không có kịch bản ứng phó chủ động.
+ Việt Nam đã có những chính sách lợi dụng mâu thuẫn này một cách khéo léo để tạo lấy cơ hội cho quốc
gia. Ví dụ, Việt Nam có thể nổi lên như một nhà cung cấp thay thế một số mặt hàng có giá trị đối với Mỹ.
Báo cáo đã ghi lại xuất khẩu VN sang Hoa Kỳ tăng gần 15% trong hai tháng đầu năm 2018. Đây là một kết
quả trực tiếp của cuộc chiến tranh thương mại leo thang giữa hai siêu cường.
+ Đầu tư nước ngoài vào Trung Quốc cũng có thể được chuyển hướng từ Trung Quốc sang Việt Nam để tránh
thuế. Ngoài ra, công ty Trung Quốc phải đối mặt với mức thuế cao hơn từ chính quyền Trump có nhiều khả
năng để chuyển hướng các tài liệu xuất khẩu thô của họ sang Việt Nam trong một nỗ lực để che giấu nguồn
gốc thực sự của sản phẩm Trung Quốc sản xuất của họ.
Mâu thuẫn trên biển: -
Các nước đều có lợi ích ở biển Đông, trong khi đó hiện nay tình hình biển Đông rất phức tạp, tiềm ẩn
nguy cơ xung đột, mấtổn định, đặt ra những nhiệm vụ khó khăn đầy thách thức dành cho Đảng và Nhà nước
ta: TQ rất quyết liệt ở biển Đông (đặt giàn khoan trái phép, nhận diện phòng không, kiểm soát tàu bè, đánh
dấu chủ quyền…) ngày càng muốn độc chiếm biển Đông, hiện thực hóa đường “lưỡi bò”. TQ xem Biển
Đông là khu vực để thể hiện sức mạnh và độc chiếm Biển Đông là bước đầu tiên trong việc xác lập TQ chính
là cường quốc hàng đầu thế giới trong thời kỳ mới thông qua tham vọng chủ quyền biển Đông. - Trong khi
đó, Mỹ coi việc duy trì hiện diện ở châu Á-Thái Bình Dương và xác định việc duy trì an ninh, ổn định ở Biển
Đông là lợi ích quốc gia. Điều này đã dân tới mâu thuẫn gay gắt ngày càng dâng cao giữa 2 cường quốc này. lOMoAR cPSD| 58540065 -
Tình hình thế giới xuất hiện nhiều diễn biến khó lường làm gia tăng căng thẳng ở Biển Đông; sự xuất
hiện của Mỹ và các đồng minh ở đây đã ngăn cản đáng kể tham vọng bá quyền của Trung Quốc. -
Cuộc cạnh tranh quyền lực giữa Mỹ và Trung Quốc (TQ) bước vào giai đoạn cao trào, đặt ra nhiều
thách thức cho những nướcxung quanh, trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, đi kèm với những thách thức này
là hàng loạt cơ hội mà chúng ta phải biết tận dụng để vươn lên trong điều kiện mới. -
Nhà nước đã lợi dụng khéo léo mâu thuẫn biển đảo này giữa các nước lớn thông qua việc hiện tinh
thần đấu tranh kiên quyết,kiên trì bằng các biện pháp hòa bình, cụ thể là qua các diễn đàn, các cuộc gặp gỡ
trong các lĩnh vực chính trị, ngoại giao... với các nước khác trên trường quốc tế. Nhà nước đã có chính sách
đối ngoại rộng mở, hội nhập quốc tế và hợp tác, hòa bình tốt; tránh đối đầu và không gây thù oán với ai.
Trong quan hệ với các nước, các tổ chức quốc tế, cần tìm ra những điểm tương đồng, khai thác mọi khả năng
có thể, nhằm tập hợp lực lượng đoàn kết ủng hộ Việt Nam. -
Làm theo lời Bác, để tập hợp các lực lượng quốc tế đoàn kết ủng hộ Việt Nam, vấn đề quan trọng hàng
đầu là phải làm chonhân dân thế giới hiểu rõ về Việt Nam, về cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân ta.
Những năm gần đây, khi vai trò của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao, chúng ta càng
có thêm nhiều cơ hội để đưa ra tiếng nói, khẳng định chủ quyền ở Biển Đông tại các cơ chế, diễn đàn đa
phương. Điều này đã giúp VN đưa đến cộng đồng quốc tế đcái nhìn khách quan, đúng đắn về vấn đề này, từ
đó tranh thủ được sự ủng hộ, giúp đỡ của quốc tế. -
Đảng và Nhà nước ta đã tố cáo hành vi ngang ngược của nhà nước Trung Quốc trên trường quốc tế để
tranh thủ dư luận tiếnbộ trên toàn thế giới; đồng thời chúng ta kiên trì dùng ngoại giao để các nước có chung
quyền lợi trên biển Đông hợp sức với
Việt Nam ngăn chặn âm mưu và hành động độc chiếm biển Đông của Trung Quốc -
Việt Nam ngày càng mở rộng quan hệ, tăng cường hợp tác với nhiều quốc gia và tổ chức quốc tế, linh
hoạt, khôn khéo sửdụng các phương sách ngoại giao. Điển hình như nước ta đã có những chủ trương, hành
động ngoại giao mềm dẻo với Mỹ - tận dụng sự quan tâm của Mỹ với vấn đề này để hỗ trợ, giúp đỡ ta. Chính
sách ngoại giao: không nên đứng hẳn về 1 phía
-> Cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo hiện nay là lâu dài, gian khổ, đòi hỏi chúng ta phải kiên quyết,
nhưng phải bình tĩnh, kiên trì, vận dụng đúng đắn những bài học rút ra từ thắng lợi của Cách mạng Tháng
Tám lịch sử nhằm đạt mục đích cuối cùng là độc lập, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, xã hội dân
chủ, công bằng, văn minh.
Bài học kinh nghiệm để Đảng ta hôm nay tiếp tục quán triệt và vận dụng, đặc biệt là trong công cuộc xây
dựng bảo vệ tổ quốc, phòng chống đại dịch Coovit 19 chính là phát huy năng lực lãnh đạo, kịp thời điều
chỉnh, chuyển hướng chỉ đạo chiến lược một cách linh hoạt, sáng tạo khi tình hình thay đổi.

Bài học về phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, tập hợp đông đảo mọi giai tầng trong xã hội tham gia
theo một chỉ đạo đường lối chung.
Bài học về hợp tác quốc tế, liên minh tương trợ giữa ba nước Đông Dương anh em dân tộc trở nên cấp bách.
Bài học kinh nghiệm về tập hợp lực lượng cách mạng, xây dựng và phát huy sức mạnh của khối đại
đoàn kết toàn dân tộc từ cuộc Cách mạng T8 còn nguyên giá trị trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc ngày nay, đặt ra những yêu cầu mới cho Đảng và nhà nước
Xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, thống nhất ý chí và hành động
+ thường xuyên quán triệt sâu sắc quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về
công tác vận động quần chúng; nâng cao nhận thức cho đội ngũ cán bộ, đảng viên về yêu cầu, mục đích, ý
nghĩa, tầm quan trọng của việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc
+ đề cao trách nhiệm, tổ chức thực hiện nghiêm túc; không ngừng đổi mới, tự chỉnh đốn
+ tập trung nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống; khắc phục những biểu hiện tham nhũng, lãng phí, quan liêu xa rời quần chúng nhân dân.
+ Cán bộ, đảng viên phải thường xuyên tu dưỡng đạo đức cách mạng, giữ vững tính tiền phong, gương mẫu,
gắn bó mật thiết với quần chúng, luôn luôn đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc lên trên lợi ích của cá nhân,
phấn đấu vì mục tiêu, lý tưởng của Đảng, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân.
+ tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân, lấy đoàn kết trong Đảng làm cơ sở để xây dựng khối đại
đoàn kết toàn dân tộc. lOMoAR cPSD| 58540065
+ kiên định đường lối đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước và hội nhập quốc tế; chăm lo lợi ích thiết
thực, chính đáng, hợp pháp của các giai cấp, các tầng lớp nhân dân; nhất là đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng
sâu, vùng xa; giải quyết kịp thời các mâu thuẫn phát sinh.
Có thể nói, Qua 35 năm thực hiện sự nghiệp đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta đã vượt qua
nhiều khó khăn, thách thức và đạt được nhiều thành tựu to lớn. Có được điều đó là nhờ nhận thức về
KĐĐKTDT tiếp tục được bổ sung, phát triển phù hợp với tình hình mới, trong điều kiện xây dựng nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; theo đó, quyền lợi hợp pháp, chính đáng của nhân dân ngày càng
được quan tâm. Sự quyết tâm, quyết liệt của Đảng, Nhà nước trong phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững quốc
phòng, an ninh, chăm lo đời sống nhân dân đã củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng, củng cố vững chắc
KĐĐKTDT trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chỉ khi người dân đoàn kết xung quanh Đảng, tin tưởng vào
Đảng, đất nước mới có thể phát triển lâu dài.
Ngày nay, bối cảnh thế giới biến động nhanh chóng, phức tạp, khó lường, đặt dân tộc ta trước hàng loạt thời
cơ, thuận lợi và không ít khó khăn, thách thức. Vận dụng sáng tạo bài học chớp thời cơ trong bối cảnh mới
hiện nay đòi hỏi Đảng phải nâng cao năng lực phân tích thực tiễn sâu sắc, tầm nhìn xa trông rộng, trên cơ sở
thấm nhuần và vận dụng một cách xuất sắc lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin vào điều kiện lịch sử cụ thể,
nhận diện và nắm bắt đúng thời cơ để đưa ra các quyết sách có lợi cho cách mạng, cho đất nước. Trong quá
trình hội nhập khu vực và thế giới, trên cơ sở giữ vững quyền độc lập và tự chủ, giữ gìn môi trường hòa bình
và với nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, Việt Nam phải tạo ra được một năng lực nội sinh làm nền tảng cho
sự phát triển bền vững. Chủ động ngăn chặn suy giảm kinh tế, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tăng
trưởng kinh tế hợp lý, bền vững; tập trung giải quyết những vấn đề dân sinh bức xúc, bảo đảm an sinh xã hội
và những yếu tố định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường; tăng cường quốc phòng an
ninh; thực hiện có hiệu quả đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ
quốc tế vì hòa bình, hợp tác, phát triển; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, lãnh hải
thiêng liêng của Tổ quốc. Vận hội mới, điều kiện mới càng thấy rõ yêu cầu nâng cao tầm nhìn chiến lược,
nắm bắt thời cơ của người tổ chức, lãnh đạo cách mạng- Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tại sao Đảng chuyển từ đấu tranh chính trị sang đấu tranh vũ trang?
1954 – 1957: đấu trang chính trị
- Vì đây là khoảng thời gian ta đòi Mỹ thi hành Hiệp định Giơ – ne – vơ (2 bên thực hiện ngừng bắn, VN
tạm thời chia cắt thành 2 miền, sau 2 năm sẽ thực hiện Tổng tuyển cử thống nhất) nên không thực hiện đấu
tranh vũ trang được - So sánh về tương quan lực lượng
+ Kinh tế: Mỹ là nền kinh tế số 1 thế giới, VN có xuất phát điểm là nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, kém phát triển
+ Chính trị: chỉ có chính quyền ở miền Bắc, miền Nam
không có chính quyền + Quân sự:
Theo tinh thần của Hiệp định Giơ- ne – vơ, tất cả quân bộ đội phải tập kết ra Bắc để thực hiện việc chuyển giao quân, ở miền
Nam không đóng bất kỳ liên minh quân sự nào, chỉ có 1 bộ phận rất nhỏ ở lại dưới danh nghĩa công nhân, nông dân,…
Trong khi đó, Mỹ đã kịp xây dựng 1 chế độ nguỵ quân nguỵ quyền từ 8/1950
=> Ta chưa kịp chuẩn bị cho khởi nghĩa vũ trang và buộc thi hành HĐ Giơ – ne - vơ
1958 – 1960: đấu tranh vũ trang -
Tháng 8/1956 ( 1 năm sau HĐ được ký kết), Mỹ tuyên bố không hiệp thương Tổng tuyển cử
thống nhất đất nước- Do chính sách của Mỹ Diệm lOMoAR cPSD| 58540065
Đầu 1968, Mỹ Diệm thực hiện chính sách Tố cộng diệt cộng, lê máy chém khắp miền Nam VN, thực hiện
đạo luật 10/59 (với phương châm “giết nhầm còn hơn bỏ sót” đã làm cho lực lượng CMVN tổn thất nặng nề.
Theo thống kê, trong vòng 2 năm, chúng đã bắt và giết hại hơn 108 nghìn người dân vô tội)
=> Đảng đi đến nhận định: chính sách của Mỹ Diệm sẽ gây cho ta rất nhiều khó khăn nhưng nhân dân ta sẽ
đứng lên đấu tranh theo quy luật tức nước vỡ bờ
=> Tháng 1/1959, Nghị quyết số 15 về tình hình mới, đây là Nghị quyết về tình hình phát triển ở miền Nam,
như 1 ngọn đuốc ném vào đống cỏ khô để mở đường cho CM miền Nam tiến lên. Vì nội dung của Nghị quyết
vạch rõ con đường CM khởi nghĩa ở VN phải là con đường khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân
trong đó sử dụng lực lượng chính trị kết hợp với lực lượng vũ trang -
Dưới ánh sáng của Nghị quyết 15, ngày 17/6/1960, phong trào đồng khởi Bến Tre nổ ra do đồng
chí Nguyễn Thị ĐỊnh lãnhđạo ở Mỏ Cày. Đây được xem như dấu mốc đánh dấu cuộc chiến của nhân
dân ta từ thế gìn giữ lực lượng chuyển sang thế tiến công
Phân tích 1 trong những bài học kinh nghiệm từ CMT8/1945, vận dụng vào bối cảnh quốc tế ngày nay
(Phương pháp cách mạng
: Kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang) Phân tích:
Một trong những nhân tố quyết định thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đó là Đảng ta đã làm
tốt công tác vận động, tập hợp quần chúng trong một mặt trận thống nhất, kết hợp đúng đắn giữa xây dựng
lực lượng chính trị với lực lượng vũ trang, tạo sức mạnh to lớn cho cuộc Tổng khởi nghĩa. Xây dựng lực lượng chính trị
Nhận thức rõ vai trò của quần chúng nhân dân là một trong những yếu tố quyết định thành công hay thất bại
nên ngay sau khi ra đời và trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn coi trọng công tác tuyên
truyền, vận động, giác ngộ quần chúng, tập hợp các lực lượng yêu nước tham gia cách mạng.
Từ xác định “vô sản giai cấp và nông dân là hai động lực chánh”(1) ngay trong Chánh cương vắn tắt đã nhấn
mạnh: “Đảng phải thu phục cho được đại bộ phận dân cày và phải dựa vào hạng dân cày nghèo làm thổ địa
c.m đánh trúc bọn đại địa chủ và phong kiến… Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông,
Thanh niên, Tân Việt, v.v. để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp”(2). Bản Luận cương Chính trị cũng xác định
vô sản giai cấp là “động lực chánh và rất mạnh của cách mạng ở Đông Dương”(3).
Tháng 11-1939, Hội nghị Trung ương 6 của Đảng nhấn mạnh phải mở rộng và nâng cao tinh thần dân tộc,
làm cho mỗi người trong các giai cấp có ý thức về sự tồn vong của dân tộc và sự liên quan mật thiết của vận
mạng dân tộc với lợi ích cá nhân; đặt quyền lợi dân tộc lên trên các quyền lợi khác, bao gồm cả tầng lớp tiểu
tư sản và tư sản bản xứ còn có ít nhiều tinh thần chống đế quốc. Như vậy, từ Luận cương chính trị năm 1930,
đến Hội nghị Trung ương 6 năm 1939, Đảng ta đã có sự phát triển nhận thức về vai trò của quần chúng nhân dân.
Tháng 5-1941, Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ra nghị quyết về đoàn kết toàn dân
tộc, tạo cơ sở để thành lập Mặt trận Dân tộc thống nhất, lấy tên là Việt Nam độc lập đồng minh, gọi tắt là
Việt Minh. Mục tiêu của Mặt trận Việt Minh là “Chủ trương liên hiệp hết thảy các từng lớp nhân dân không
phân biệt tôn giáo, đảng phái, xu hướng chính trị nào, giai cấp nào, đoàn kết chiến đấu để đánh đuổi Pháp -
Nhật giành quyền độc lập cho xứ sở”(4). Mặt trận Việt Minh đã xây dựng được cơ sở rộng khắp ở cả vùng
nông thôn và đô thị, ở cả trong nước và nước ngoài. Ở Vân Nam (Trung Quốc), Hội Giải phóng Việt Nam
cũng được thành lập, đến cuối năm 1942 cũng đã trở thành một bộ phận của Mặt trận Việt Minh. Các tổ chức
này đều có cơ cấu từ Trung ương xuống các địa phương, thu hút được mọi lứa tuổi, mọi thành phần xã hội,
trở thành lực lượng quan trọng cho cuộc Tổng khởi nghĩa, giành chính quyền trong cả nước.
Phát triển lực lượng vũ trang
Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp từ ngày 25 đến ngày 28-02-1943, tại Võng La, Đông Anh
đã quyết định mở rộng Mặt trận Dân tộc thống nhất và chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa vũ trang. Từ nhận định:
ở Đông Dương hiện nay thiếu một phong trào cách mạng quốc gia tư sản và phong trào thanh niên học sinh
nên cuộc cách mạng ở Đông Dương vẫn hẹp hòi, có tính cách công nông hơn là tính cách toàn dân tộc, Hội
nghị đã đề ra chủ trương tập hợp, đoàn kết tất cả các thành phần, đảng phái, các nhóm yêu nước chưa gia
nhập Mặt trận Việt Minh thông qua công tác vận động. Đến cuối năm 1944, Đảng Cộng sản Việt Nam và
Mặt trận Việt Minh đã xây dựng được một lực lượng cách mạng hùng hậu, thực sự là một “đạo quân chính
trị”. Cũng từ đây, cuộc đấu tranh đã được nâng lên một hình thức mới, từ đấu tranh chính trị lên đấu tranh
vũ trang. Dấu mốc là ngày 22-12-1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân - tiền thân của Quân đội lOMoAR cPSD| 58540065
nhân dân Việt Nam đã được thành lập. Sau một thời gian, ngày 15-5-1945 Việt Nam giải phóng quân được
thành lập trên cơ sở thống nhất cứu quốc quân và Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân.
Như vậy, cả hai lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang đã phát triển mạnh mẽ ở các địa phương và tích
cực chuẩn bị mọi mặt cho một cuộc khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền. Ngày 16-4-1945, Tổng bộ Việt
Minh lập ra Ủy ban Dân tộc giải phóng, tổ chức các lớp huấn luyện, tập dượt cho nhân dân nắm chính quyền.
Phối hợp hai lực lượng, tạo thành sức mạnh to lớn cho Tổng khởi nghĩa giành chính quyền
Vận dụng một cách khoa học và sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin về con đường bạo lực trong cách mạng vô
sản, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quyết định con đường cách mạng Việt Nam là khởi nghĩa vũ trang, toàn dân
đánh giặc, là bạo lực của quần chúng dưới sự lãnh đạo của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng cả
hai lực lượng: lực lượng chính trị quần chúng và lực lượng vũ trang nhân dân, và hai hình thức đấu tranh cơ
bản: đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang. Trong đó, lực lượng chính trị được coi là lực lượng cơ bản,
nền tảng của cách mạng, đồng thời là cơ sở để xây dựng, phát triển lực lượng vũ trang quân đội nhân dân.
Chính vì vậy, lực lượng chính trị mạnh thì lực lượng vũ trang mạnh.
Từ chỗ biết chuẩn bị lực lượng từ trước, biết phát huy sức mạnh của cả dân tộc đúng lúc, đúng thời điểm,
Đảng ta đã thực hiện thành công cuộc tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Ngay sau khi Nhật đảo chính Pháp, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã kịp thời ban hành Chỉ thị “Nhật -
Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”, trong đó xác định kẻ thù chính của nhân dân Đông Dương lúc
này là phát-xít Nhật và nhấn mạnh sự cần thiết phải mở rộng Mặt trận Việt Minh để đoàn kết, vận động, tập
hợp nhân dân tham gia cao trào kháng Nhật, cứu nước. Trong thời kỳ này, Đảng ta đã ban hành nhiều chủ
trương, chính sách, đề ra các khẩu hiệu đấu tranh thích hợp, đáp ứng yêu cầu cấp thiết của thực tiễn cách
mạng. Đồng thời, phát động phong trào “Phá kho thóc để giải quyết nạn đói”, cứu dân, để nhân dân lao động
- “những người cùng khổ” thấy rằng, muốn giành quyền sống thì nhất thiết phải đoàn kết dưới ngọn cờ Việt
Minh, đấu tranh đánh đổ ách thống trị của phát-xít Nhật và bè lũ tay sai.
Có thể thấy, trong thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, việc chuẩn bị lực lượng, từ lực lượng
chính trị đến lực lượng vũ trang đủ mạnh để kịp thời tiến hành tổng khởi nghĩa đúng lúc có vai trò đặc biệt
quan trọng. Đường lối đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh vũ trang đã trở thành định hướng quan trọng
cho cả một quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam, mà kết quả là thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa
Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Vận dụng (Căng thẳng trên biển Đông
Các nước đều có lợi ích ở biển Đông, trong khi đó hiện nay tình hình biển Đông rất phức tạp, tiềm ẩn nguy
cơ xung đột, mất ổn định, đặt ra những nhiệm vụ khó khăn đầy thách thức dành cho Đảng và Nhà nước ta:
TQ rất quyết liệt ở biển Đông (đặt giàn khoan trái phép, nhận diện phòng không, kiểm soát tàu bè, đánh dấu
chủ quyền…) ngày càng muốn độc chiếm biển Đông, hiện thực hóa đường “lưỡi bò”. TQ xem Biển Đông là
khu vực để thể hiện sức mạnh và độc chiếm Biển Đông là bước đầu tiên trong việc xác lập TQ chính là cường
quốc hàng đầu thế giới trong thời kỳ mới thông qua tham vọng chủ quyền biển Đông.
Đấu tranh chính trị: điện đàm, phát biểu, đấu tranh pháp lý, nâng cao nhận thức của người dân VN cũng như
nhân dân thế giới Người dân: Mít – tinh và biểu tình phản đối
Ngày 6/5/2014, cuộc biểu tình sớm nhất để phản đối hành động này của Trung Quốc được tổ chức trước Tòa
Lãnh sự Trung Quốc tại Los Angeles. Chiều 9 tháng 5, một cuộc biểu tình nhỏ đã diễn ra trước Đại sứ quán
Trung Quốc ở Hà Nội. Sáng ngày 10 tháng 5, một cuộc biểu tình phản đối Trung Quốc đã diễn ra tại TP.
HCM, được báo chí chính thống của Việt Nam đăng tải ngay trong ngày nhằm phản đối vụ hạ giàn khoan Hải Dương 981 của TQ
Đấu tranh quân sự: đưa tàu ra đương đầu, sẵn sàng chiến đấu nếu có hành động quá khích
Hải quân VN chuẩn bị tàu chiến hiện đại)
- Đảng và Nhà nước ta không ngừng xây dựng và củng cố lực lượng cách mạng. Để thực hiện thắng lợi nhiệm
vụ xây dựng Chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam, điều kiện tiên quyết là phải duy trì hòa bình, ổn
định thì mới phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Để bảo vệ Tổ quốc thì phải xây dựng nền quốc phòng toàn
dân và thế trận chiến tranh nhân dân, trong đó xây dựng tiềm lực quốc phòng là nhiệm vụ trung tâm, chúng
ta trang bị vũ khí để phòng thủ, tự vệ; xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh thì chúng ta mới có thể tự
mình bảo vệ chủ quyền được. Cụ thể, để bảo vệ chủ quyền biển đảo, Chính phủ đã tăng cường xây dựng lực
lượng thực thi pháp luật trên biển, kêu gọi hợp tác đầu tư ở vùng biển thuộc chủ quyền Việt Nam, hỗ trợ ngư
dân đóng tàu lớn, hiện đại để vươn ra khơi xa đánh bắt hải sản…là những việc làm hết sức đúng đắn và cần thiết. lOMoAR cPSD| 58540065 Đấu tranh chính trị
- Đảng và Nhà nước ta đã huy động lực lượng toàn dân, phát huy sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh
thời đại vào cuộc đấu tranh chung. Để bảo vệ chủ quyền biển, đảo Nhân dân cả nước và kiều bào Việt Nam
ở nước ngoài đã cùng lực lượng thực thi pháp luật trên thực địa bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc.
Đảng và Nhà nước ta đã tố cáo hành vi ngang ngược của nhà nước Trung Quốc trên trường quốc tế để tranh
thủ dư luận tiến bộ trên toàn thế giới; đồng thời chúng ta kiên trì dùng ngoại giao để các nước có chung
quyền lợi trên biển Đông hợp sức với Việt Nam ngăn chặn âm mưu và hành động độc chiếm biển Đông của
Trung Quốc như cách mà Hồ Chủ tịch đã làm trong việc tranh thủ các lực lượng tiến bộ bên ngoài, phát huy
nội lực bên trong tạo nên sức mạnh tổng hợp để làm nên thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám lịch sử. (Về
phương pháp cách mạng
: Nắm vững nghệ thuật khởi nghĩa) Phân tích
Thời cơ là một vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt trong nghệ thuật chỉ đạo cách mạng. Muốn có thời cơ thì
phải biết tạo ra thời cơ và khi thời cơ đến thì phải tận dụng và tranh thủ thời cơ, không được bỏ lỡ.
Cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền Tháng Tám 1945 là một minh chứng sinh động về sự nhạy bén
trong nhận định và chỉ đạo chớp thời cơ khởi nghĩa của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, việc nắm bắt thời cơ được thể hiện ngay khi Đảng đưa ra những dự
báo về tình thế cách mạng để dân tộc Việt Nam vùng lên giành chính quyền về tay Nhân dân.
Trong đêm 9-3-1945, Nhật đảo chính Pháp chiếm để độc chiếm Việt Nam và Đông Dương. Tuy nhiên, Ban
Thường vụ Trung ương Đảng xác định thời điểm này chưa phải là thời cơ chín muồi để làm cuộc Tổng khởi
nghĩa mà chủ trương chủ trương phát động cao trào kháng Nhật, cứu nước mạnh mẽ để làm tiền đề. Chỉ thị
Nhật-Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta (12-31945) đã chỉ rõ về vấn đề thời cơ khởi nghĩa: “Mặc
dầu tình hình chính trị khủng hoảng sâu sắc, nhưng điều kiện khởi nghĩa ở Đông Dương hiện nay chưa thực
chín muồi”. Đến nửa cuối năm 1945, phe phát xít đã thất bại hoàn toàn trước quân đồng minh và Liên Xô.
Trước tình hình đó, từ ngày 13 đến 15-8-1945, tại Tân Trào, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp và phát động
Tổng khởi nghĩa trong cả nước trước khi quân đồng minh vào Đông Dương. Hội nghị chỉ rõ: “Tình thế vô
cùng khẩn cấp, tất cả mọi người đều phải nhằm vào những việc chính, thống nhất về mọi phương tiện, không
bỏ lỡ cơ hội”. Quân lệnh số 1 của Uỷ ban khởi nghĩa ra ngày 13-8-1945 khẳng định: “Giờ Tổng khởi đã đến!
cơ hội có một cho quân dân Việt Nam vùng dậy giành lấy quyền độc lập của nước nhà! Chúng ta phải hành
động cho nhanh…” Hội nghị toàn quốc của Đảng bế mạc thì Đại hội quốc dân do Tổng bộ Việt Minh triệu
tập họp ngay ở Tân Trào (Tuyên Quang) trong hai ngày 16 và 17-8-1945. Đại hội tán thành hoàn toàn chủ
trương tổng khởi nghĩa của Đảng.
Khi phát xít Nhật nổ súng lật đổ thực dân Pháp ở Đông Dương (ngày 9/3/1945), với chỉ thị “Nhật - Pháp
bắn nhau và hành động của chúng ta” (ngày 12/3/1945), Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương mở rộng đã
nhận định tình hình và dự đoán hai tình huống có thể diễn ra: thứ nhất là, quân đồng minh vào Đông Dương
đánh Nhật; thứ hai là, phát xít Nhật đầu hàng đồng minh. Và tình hình đã diễn ra đúng như dự đoán thứ hai
của Đảng ta, ngày 14/8/1945, phát xít Nhật tuyên bố đầu hàng đồng minh vô điều kiện đã khiến cho quân
Nhật ở Đông Dương hoang mang cực độ, đồng thời chính phủ thân Nhật ở Việt Nam cũng tỏ ra hoàn toàn tê
liệt. Đến đây, kẻ thù của cách mạng Việt Nam đã suy yếu, không còn có khả năng thống trị như cũ được nữa,
thời cơ “ngàn năm có một” cho chúng ta giành chính quyền đã xuất hiện, đòi hỏi chúng ta phải hành động
mau lẹ và kiên quyết. Nếu không kịp thời phát động tổng khởi nghĩa giành chính quyền thì “vạn năm” cũng
không thể được bởi lúc này quân Tưởng và Anh đang sẵn sàng nhảy vào Việt Nam để giải giáp quân đội Nhật
nhưng thực chất là để thực hiện âm mưu mới của chủ nghĩa đế quốc trên danh nghĩa đồng minh.
Trước tình thế vô cùng khẩn cấp và thuận lợi đó, Đảng đã quyết định phát động toàn dân đứng lên tổng khởi
nghĩa giành chính quyền và chỉ từ ngày 14 đến ngày 28-8-1945, với sự kết hợp linh hoạt các hình thức,
phương pháp đấu tranh cả đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang, tuyên truyền kết hợp với bạo lực cách
mạng, nhằm phân hóa, cô lập kẻ thù, cuộc Tổng khởi nghĩa đã giành thắng lợi một cách nhanh, gọn, không
đổ nhiều máu và thành công triệt để.
Thành công của Cách mạng Tháng Tám 1945 đã chứng tỏ Đảng ta, mà đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh
có tầm nhìn vượt trước thời gian xác định đúng thời cơ khởi nghĩa, cho nên Đảng và nhân dân ta đã có sự
chuẩn bị lâu dài, chu đáo. Công cuộc chuẩn bị đó không chỉ diễn ra trong thời kỳ (1939 – 1945) mà là sự
chuẩn bị suốt 15 năm kể từ khi Đảng ra đời. Khi thời cơ đến, Đảng ta chủ động, chớp thời cơ lãnh đạo nhân
dân đứng lên tổng khởi nghĩa giành thắng lợi. Thắng lợi đó đã chấm dứt gần 100 năm nước ta dưới sự áp bức
bóc lột của thực dân Pháp và xoá bỏ chế độ phong kiến tồn tại hàng nghìn năm ở nước ta, đưa nước ta bước
vào một kỷ nguyên mới từ một nước thuộc địa nửa phong kiến trở thành một nước tự do, độc lập; là sự vận lOMoAR cPSD| 58540065
dụng sáng tạo quy luật vận động và phát triển của khởi nghĩa và cách mạng khôn khéo trong nghệ thuật chỉ
đạo chớp thời cơ, giành thắng lợi.
* Xây dựng CNXH ở miền Bắc, phát triển thế tiến công của cách mạng miền
Nam 1961 – 1965 Xây dựng CNXH ở miền Bắc
ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC LẦN THỨ III CỦA ĐẢNG (9/1960)
? Phân tích cơ sở, thuận lợi của
CMVN sau 7/1954 - Thuận lợi:
+ Sau 1954, hệ thống các nước XHCN phát triển mạnh mẽ, đặc biệt với sự vươn lên phát triển mạnh mẽ của
Liên Xô (năm 1950, vươn lên trở thành cường quốc công nghiệp lớn thứ 2 trên thế giới), đạt được nhiều
thành tựu liên quan đến kte và quân sự, đặc biệt năm 1949, Liên Xô chế tạo thành công bom nguyên tử, phá
vỡ thế độc quyền của Mỹ, tạo ra sự cân bằng trên cả góc độ kinh tế và quân sự.
Hơn nữa, đây là thời điểm CTTG II kết thúc đuợc 5 năm, Liên Xô đã khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương
chiến tranh đồng thời đã giúp các nước XHCN Đông Âu đi lên xây dựng XHCN
=> Trở thành chỗ dựa của cách mạng thế giới. Đặc biệt, đối với VN trong hơn 20 năm, Liên Xô đã có sự hỗ
trợ rất lớn về mọi mặt (vd: viện trợ kinh tế chiếm 50% GDP)
+ Phong trào đấu tranh giải phóng dt trên thế giới phát triển mạnh mẽ, đặc biêtj sau thắng lợi của nhân dân
VN trước TDP đã góp phần cổ vũ mạnh mẽ pt đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa Pháp trên toàn thế giới
Bên cạnh đó, tất cả pt đấu tranh của VN trong giai đoạn này nhận được sự đồng tình giúp đỡ của các lực
lượng dân chủ ưa chuộng hoà bình trên thế giới trong đó có cả nhân dân Mỹ
+ Phong trào công nhân ở các nước phát triển cũng đang phát triển
- Khó khăn: sau 1945, Tình hình quốc tế thay đổi rất lớn, kẻ thù lớn nhất, mạnh nhất thế giới
Mỹ với âm mưu trở thành bá chủ thế giới với thế mạnh lớn về cả kinh tế và quân sự, liên tục đề ra các chiến
lược toàn cầu phản cách mạng (Chiến tranh cục bộ, chiến tranh toàn đặc biệt, Việt Nam hóa chiến tranh)
+ Sự bất đồng, chia rẽ dẫn đến mâu thuẫn sâu sắc giữa 2 nước lớn trong XHCN –
Liên Xô Trung Quốc * Trong nước - Thuận lợi:
+ Sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân, người dân vẫn tin tưởng vào Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh, hướng
tới khát vọng chung là giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
+ Miền Bắc: tuyên bố được giải phóng, độc lập, quá độ lên CNXH, trở thành hậu phương vững
chắc cho miền Nam VN - Khó khăn: Đế quốc Mỹ hùng mạnh đã trở thành kẻ thù trực tiếp của
nhân dân VN Tại sao Đảng chuyển từ đấu tranh chính trị sang đấu tranh vũ trang?
1954 – 1957: đấu trang chính trị
- Vì đây là khoảng thời gian ta đòi Mỹ thi hành Hiệp định Giơ – ne – vơ (2 bên thực hiện ngừng bắn, VN
tạm thời chia cắt thành 2 miền, sau 2 năm sẽ thực hiện Tổng tuyển cử thống nhất) nên không thực hiện đấu
tranh vũ trang được - So sánh về tương quan lực lượng
+ Kinh tế: Mỹ là nền kinh tế số 1 thế giới, VN có xuất phát điểm là nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, kém phát triển
+ Chính trị: chỉ có chính quyền ở miền Bắc, miền Nam
không có chính quyền + Quân sự:
Theo tinh thần của Hiệp định Giơ- ne – vơ, tất cả quân bộ đội phải tập kết ra Bắc để thực hiện việc chuyển giao quân, ở miền
Nam không đóng bất kỳ liên minh quân sự nào, chỉ có 1 bộ phận rất nhỏ ở lại dưới danh nghĩa công nhân, nông dân,…
Trong khi đó, Mỹ đã kịp xây dựng 1 chế độ nguỵ quân nguỵ quyền từ 8/1950
=> Ta chưa kịp chuẩn bị cho khởi nghĩa vũ trang và buộc thi hành HĐ Giơ – ne - vơ
1958 – 1960: đấu tranh vũ trang lOMoAR cPSD| 58540065
- Tháng 8/1956 ( 1 năm sau HĐ được ký kết), Mỹ tuyên bố không hiệp thương Tổng tuyển cử thống nhất đất
nước- Do chính sách của Mỹ Diệm
Đầu 1968, Mỹ Diệm thực hiện chính sách Tố cộng diệt cộng, lê máy chém khắp miền Nam VN, thực hiện
đạo luật 10/59 (với phương châm “giết nhầm còn hơn bỏ sót” đã làm cho lực lượng CMVN tổn thất nặng nề.
Theo thống kê, trong vòng 2 năm, chúng đã bắt và giết hại hơn 108 nghìn người dân vô tội)
=> Đảng đi đến nhận định: chính sách của Mỹ Diệm sẽ gây cho ta rất nhiều khó khăn nhưng nhân dân ta sẽ
đứng lên đấu tranh theo quy luật tức nước vỡ bờ
=> Tháng 1/1959, Nghị quyết số 15 về tình hình mới, đây là Nghị quyết về tình hình phát triển ở miền Nam,
như 1 ngọn đuốc ném vào đống cỏ khô để mở đường cho CM miền Nam tiến lên. Vì nội dung của Nghị quyết
vạch rõ con đường CM khởi nghĩa ở VN phải là con đường khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân
trong đó sử dụng lực lượng chính trị kết hợp với lực lượng vũ trang
- Dưới ánh sáng của Nghị quyết 15, ngày 17/6/1960, phong trào đồng khởi Bến Tre nổ ra do đồng chí Nguyễn
Thị ĐỊnh lãnhđạo ở Mỏ Cày. Đây được xem như dấu mốc đánh dấu cuộc chiến của nhân dân ta từ thế gìn
giữ lực lượng chuyển sang thế tiến công
Mối quan hệ của cách mạng 2 miền? Vị trí, vai trò, nhiệm vụ cụ thể của từng chiến lực cách mạng ở mỗi miền? - Vị trí, vai trò:
+ CM miền Bắc giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ CM Việt Nam (cung cấp sức người, sức của)
+ CM miền Nam giữ vai trò quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam thống nhất nước nhà
+ Miền Bắc là hậu phương lớn, miền Nam là tiền tuyến lớn
+ Miền Bắc là căn cứ địa cách mạng của cả nước
- Mối quan hệ: đều có mục tiêu chung là hoà bình và thống nhất nước nhà
Trình bày cơ sở của việc Đảng đề ra chiến lược chống Mỹ trong phạm vi cả nước
Bối cảnh lịch sử -
Thuận lợi: Cách mạng thế giới đang ở thế tiến công; kế hoạch 5 năm lần thứ nhất ở miền Bắc đã đạt
được thành tựu quantrọng; cách mạng miền Nam có bước phát triển mới -
Khó khăn: Mâu thuẫn Xô - Trung ngày càng trở nên gay gắt gây bất lợi cho CM nước ta; Mỹ đưa quân
ồ ạt vào miền Namthực hiện chiến lược chiến tranh cục bộ và bắn phá miền Bắc bằng không quân và hải quân
b. Đường lối kháng chiến chống Mỹ cứu nước của Đảng
Hôi nghị TW12(12-1965) đề ra đường lối chống Mỹ trên cả nước với nội dung:
Mục tiêu chiến lược: Kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh của Mỹ để bảo vệ MB, giải phóng MN
Phương châm chỉ đạo chiến lược: Đánh lâu dài, dựa vào sức mình là chính
Phương châm đấu tranh:quân sự kết hợp với chính trị; triệt để vận dụng ba mũi giáp công lOMoAR cPSD| 58540065
Nhiệm vụ và mối quan hệ của cuộc chiến đấu ở 2 miền: MN là tiền tuyến lớn, MB là hậu
phương lớn Nhiệm vụ của miền Bắc
Một là, chuyển hướng xây dựng kinh tế cho phù hợp với tình hình có chiến tranh phá hoại, bảo đảm sẵn sàng
chiến đấu, chi viện cho miền Nam
Hai là, tăng cường lực lượng quốc phòng cho kịp với sự phát triển tình hình mới
Ba là, ra sức chi viện cho miền Nam với mức cao nhất
Bốn là, chuyển hướng tư tưởng và tổ chức phù hợp với yêu cầu mới.