



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 61265515
Nhóm 8: Phân tích môi trường đầu tư của việt nam giai đoạn 2011-2020. Các giải pháp
VN cần thực hiện để cải thiện môi trường đầu tư. Thành viên nhóm: 1. Vũ Hoàng Duy - 11211705
2. Nguyễn Trọng Hiếu - 11218188
3. Hoàng Thùy Dương - 11216729
4. Nguyễn Duy Thái - 11218216
5. Lô Quỳnh Như - 11218206
PHẦN I: LÝ THUYẾT VỀ MÔI TRƯỜNG ĐẦU TƯ (Như) 1. Sơ lược
- Khái niệm: Môi trường đầu tư ( Investment climate hay Investment environment) + là
tổng hòa các yếu tố, điều kiện bên trong cũng như bên ngoài, ảnh hưởng đến kết quả và quyết định đầu tư.
+ Là tập hợp các yếu tố tác động tới các cơ hội, các ưu đãi, các lợi ích của các doanh nghiệp
khi đầu tư mới, mở rộng sản xuất kinh doanh, có tác động chi phối hoạt động đầu tư
thông qua chi phí, rủi ro và cạnh tranh.
+ Môi trường đầu tư bao gồm các yếu tố kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, tự nhiên, và các
yếu tố cơ sở hạ tầng, năng lực thị trường, lợi thế có liên quan ảnh hưởng trực tiếp hoặc
gián tiếp đến hoạt động đầu tư của nhà đầu tư trong và ngoài nước khi đầu tư vào quốc
gia, khu vực, địa phương.
- Những yếu tố cấu thành:
+ Yếu tố tự nhiên:
- Yếu tố tự nhiên bao gồm: Khí hậu, địa lý, tài nguyên thiên nhiên, địa hình,… - Các yếu tố
này có tác động trực tiếp tới khả năng sinh lời của dự án và việc lựa chọn lĩnh vực đầu tư.
+ Yếu tố chính trị - luật pháp – hành chính:
- Sự bình ổn: Xem xét sự bình ổn các yếu tố chính trị, ngoại giao của thể chế luật pháp.
Sựbình ổn cao sẽ tạo điều kiện cho các hoạt động kinh doanh. Khi chính trị ít bị biến động
sẽ tạo sự vững chắc cho nền kinh tế, giảm tối đa rủi ro cho nhà đầu tư.
- Các đạo luật liên quan: Luật đầu tư, luật doanh nghiệp, luật lao động, luật chống độc
quyền, chống bán phá giá,…
- Chính sách: Chính sách thuế (thuế xuất khẩu, nhập khẩu, thuế tiêu thụ, thuế thu nhập,..).
Các chính sách thương mại, chính sách phát triển ngành, phát triển kinh tế, thuế, các chính
sách điều tiết cạnh tranh, bảo vệ người tiêu dùng, bảo vệ nhà đầu tư. Mỗi địa phương cũng
có những chính sách ưu đãi riêng như hỗ trợ vay vốn, hạ tầng kỹ thuật,..
phù hợp với những định hướng thu hút đầu tư.
- Thủ tục hành chính: Đơn giản hóa thủ tục thuế quan: giảm thời gian thông quan, hải quan
điện tử, cơ chế một cửa.
+ Yếu tố kinh tế:
- Tình trạng của nền kinh tế: Bất cứ nền kinh tế nào cũng có chu kỳ kinh tế, mỗi giai
đoạnnhất định của chu kỳ nền kinh tế, doanh nghiệp sẽ có những quyết định phù hợp cho riêng mình.
- Các yếu tố tác động đến nền kinh tế: Lãi suất, lạm phát, các cân thanh toán, thu chi ngân
sách quốc gia, địa phương. lOMoAR cPSD| 61265515
- Các chính sách kinh tế của khu vực, địa phương, quốc gia: Luật tiền lương cơ bản; cácchiến
lược phát triển kinh tế của khu vực, địa phương, quốc gia đó; các chính sách ưu đãi cho
các ngành, giảm thuế, trợ cấp.
- Triển vọng kinh tế trong tương lai: Tốc độ tăng trưởng, mức gia tăng GDP, tỉ suất GDP trên vốn đầu tư.
- Yếu tố kinh tế được trong môi trường đầu tư thể hiện qua các chỉ số như: Quy mô thị
trường, cơ sở hạ tầng, tăng trưởng kinh tế và nguồn lao động.
+ Yếu tố văn hóa – xã hội
- Những giá trị văn hóa là những giá trị làm nên một xã hội, có thể vun đắp cho xã hội đótồn
tại và phát triển. Mỗi quốc gia, khu vực, địa phương đều có những giá trị văn hóa và các
yếu tố xã hội đặc trưng, và những yếu tố này là đặc điểm của người tiêu dùng tại các khu vực đó.
- Các yếu tố xã hội mang tính quyết định khi các doanh nghiệp nghiên cứu thị trường, bởiđây
là yếu tố sẽ chia cộng đồng thành những nhóm khách hàng có đặc điểm, tâm lý, thu nhập khác nhau.
- Yếu tố văn hóa – xã hội ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệpvà
lựa chọn lĩnh vực đầu tư. Điển hình như việc khác biệt về văn hóa, ngôn ngữ,… dẫn tới
việc thiết kế sản phẩm, tìm hiểu thói quen tiêu dùng ở các thị trường cũng khác nhau.
+ Yếu tố khoa học - công nghệ:
- Đầu tư của chính phủ, địa phương, doanh nghiệp vào công tác R&D: kết hợp giữa
cácdoanh nghiệp, địa phương và chính phủ nhằm nghiên cứu đưa ra công nghệ mới, vật liệu mới.
- Tốc độ, chu kỳ của công nghệ: tỷ lệ công nghệ lạc hậu.
- Khả năng nghiên cứu và ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất kinh doanh.
+ Yếu tố hội nhập:
- Chính sách kinh tế đối ngoại của chính phủ, địa phương, khu vực.:
- Các rào cản thương mại mà các nhà đầu tư phải vượt qua khi muốn gia nhập thị trường.
Mức độ tham gia vào các tổ chức quốc tế cũng như ký kết các hiệp ước quốc tế. - Độ mở
cửa của nền kinh tế, mức độ thu hút đầu tư và đầu tư ra nước ngoài, cán cân thanh toán quốc tế. 2. Vai trò.
2.1. Đối với các lãnh đạo cấp vĩ mô.
- Đối với chính phủ và thủ tướng:
+ Việc nghiên cứu rõ môi trường đầu tư giúp cho Chính phủ thống nhất và quản lý
Nhà nước, thực hiện được các chiến lược đầu tư phát triển theo ngành và vùng
kinh tế một cách thích hợp nhất đến từng địa phương với từng ngành khác nhau.
+ Giúp chính phủ có căn cứ để phê duyệt các dự án đầu tư thuộc thẩm quyền, chỉ đạo
giải quyết những vấn đề vướng mắc trong điều hành và quản lý các hoạt động đầu
tư vượt quá thẩm quyền của địa phương trong khuôn khổ pháp luật.
+ Ngoài ra nghiên cứu môi trường đầu tư còn giúp cho thủ tướng chính phủ, ban quản
lý nói chung thực hiện được những chương trình đối thoại với cộng đồng doanh
nghiệp và các nhà đầu tư có hiệu quả. lOMoAR cPSD| 61265515
- Đối với bộ kế hoạch và đầu tư:
+ Nghiên cứu về môi trường đầu tư để xây dựng, rà soát và kiểm tra những thiếu sót
của văn bản pháp luật, chính sách đầu tư để kịp thời thay đổi.
+ Hướng dẫn, phổ biến, và kiểm tra việc thực hiện các văn bản pháp luật về thực hiện đầu tư.
+ Định hướng những khu vực có thể đầu tư phát triển, quy hoạch tổng thể quốc gia
về phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế.
+ Lập danh mục các dự án quốc gia thu hút vốn đầu tư, cũng như xúc tiến đầu tư. +
Xây dựng hệ thống thông tin quốc gia phục vụ cho hoạt động đầu tư. + Đánh giá
hiệu quả kinh tế - xã hội của hoạt động đầu tư, tổng hợp tình hình hoạt động đầu tư
và báo cáo lên chính phủ.
- Đối với ủy ban nhân dân cấp tỉnh:
+ Nghiên cứu môi trường đầu tư để phát hiện ra những khu vực cần giải phóng mặt
bằng, giám sát kiểm tra việc thực hiện quyền và lợi ích hợp pháp của người lao
động, thực hiện thanh tra các dự án đầu tư trên địa bàn.
+ Ngoài ra còn giải quyết các khó khăn, vướng mắc của nhà đầu tư về môi trường hoạt động.
+ Đánh giá hiệu quả hoạt động đầu tư trên địa bàn.
+ Chỉ đạo lập quy hoạch chi tiết xây dựng khu công nghiệp, khu chế xuất và phê duyệt
quy hoạch chi tiết xây dựng khu công nghiệp, khu chế xuất theo quy định về xây dựng.
- Đối với ban quản lý khu vực công nghiệp tỉnh:
+ Việc nắm rõ môi trường kinh doanh giúp ban quản lý tham gia ý kiến với Bộ, ngành,
địa phương trong việc xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật, chính sách, quy
hoạch liên quan đến hoạt động đầu tư, phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất,
khu công nghệ cao, khu kinh tế.
+ Giải quyết những khó khăn, vướng mắc của nhà đầu tư trong khu công nghiệp,
khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế và kiến nghị Thủ tướng Chính phủ,
các Bộ, ngành liên quan và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh giải quyết những vấn đề vượt thẩm quyền.
+ Đánh giá hiệu quả đầu tư.
2.2. Đối với các nhà đầu tư
- Ở mỗi thị trường khác nhau có mỗi đặc điểm về vị trí địa lý, kinh tế xã hội, pháp luật vàvăn
hóa khác nhau vì vậy nghiên cứu môi trường đầu tư giúp nhà đầu tư có một chiến lược đầu
tư phù hợp hơn và tránh được rủi ro. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư.
- Việc nghiên cứu môi trường đầu tư giúp các nhà đầu tư nắm rõ được các yếu tố môitrường
tự nhiên về vị trí địa lý, khí hậu, địa hình đối với một lĩnh vực kinh doanh cụ thể, giúp
nhà đầu tư nắm được tình hình về nguồn tài nguyên thiên nhiên và nguồn nhân lực, chủ
động hơn trong việc tìm kiếm nguyên liệu cũng như phân bổ nguồn lực
lao động. Xây dựng được thị trường cung cấp nguyên vật liệu ổn định.
- Nghiên cứu môi trường đầu tư quốc tế giúp các doanh nghiệp lựa chọn được những khuvực
kinh doanh phù hợp thông qua các chính sách ưu đãi nhà đầu tư nước ngoài, chính sách
bảo hiểm vốn đầu tư nước ngoài… lOMoAR cPSD| 61265515
- Xác định được mức độ cạnh tranh trong thị trường để đi đến quyết định tăng vốn đầu tư
hay rút bớt vốn đầu tư.
- Lựa chọn được những khu vực kinh doanh có môi trường chính trị ổn định. Nếu môitrường
chính trị bất ổn định có thể gây ra những xáo trộn về kinh tế và gây ra rủi ro cho các khoản
đầu tư, giúp bành trướng sức mạnh kinh tế, nâng cao uy tín trên thị trường.
- Các nhà đầu tư hoạt động ở các quốc gia sẽ chịu sự chi phối về luật pháp ở nước đó
đồngthời những khác biệt về văn hóa xã hội giữa các nước chủ nhà và nước đầu tư là rất
lớn vì vậy nghiên cứu môi trường đầu tư giúp các nhà đầu tư có những điều chỉnh thích hợp và kịp thời.
- Nắm bắt kịp xu thế của toàn cầu và thời đại, học hỏi kinh nghiệm quản lí ở nước ngoài.
PHẦN II: PHÂN TÍCH MÔI TRƯỜNG ĐẦU TƯ CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN
20112020 ( Như, Dương) 1. Chỉ số năng lực cạnh tranh (GCI: Gross Competitiveness Index)
Qua hơn 30 năm đổi mới, Đảng và Chính phủ đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, pháp
luật thu hút, quản lý đầu tư nước ngoài, tạo dựng môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, từng
bước tiếp cận với thông lệ quốc tế. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã phát triển
nhanh và có hiệu quả, trở thành bộ phận quan trọng của nền kinh tế, đóng góp tích cực vào sự
nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên, tăng trưởng đầu tư có phần chững
lại trong một số năm gần đây, phân bổ nguồn nhân lực chưa cân đối và không hiệu quả, mà
nguyên nhân sâu xa từ khả năng thiếu cạnh tranh của nền kinh tế.
1.1. Nguồn gốc và tiêu chí đánh giá
Báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu (GCR) là một báo cáo thường niên do Diễn đàn Kinh tế
Thế giới (WEF: World Economic Forum) thực hiện, xuất bản lần đầu vào năm 1979. Báo cáo
này nghiên cứu và xem xét các nhân tố ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của các quốc gia.
Thời gian đầu, báo cáo nhằm mục tiêu đưa ra các vấn đề và thúc đẩy thảo luận giữa các bên có
liên quan về chiến lược và chính sách để giúp các quốc gia khắc phục các trở ngại và cải thiện
năng lực cạnh tranh. Từ năm 2005, Chỉ số GCI 4.0 (Global Competitiveness Index – Chỉ số
năng lực cạnh tranh toàn cầu) được WEF sử dụng như một công cụ để đo lường các yếu tố kinh
tế vĩ mô và vi mô ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh quốc gia; và đưa ra những điểm mạnh,
điểm yếu của các nền kinh tế. Đến năm 2018, WEF chính thức áp dụng phương pháp mới và
công bố Báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu 2018 với việc đánh giá và xếp hạng chỉ số năng
lực cạnh tranh toàn cầu 4.0 (GCI 4.0). Theo các tiếp cận mới, chỉ số GCI 4.0 được xác định
dựa trên một tập hợp mới các nhân tố ảnh hưởng tới năng suất trong bối cảnh cách mạng công
nghiệp 4.0. Chỉ số này đánh giá các yếu tố quyết định mức độ năng suất của một quốc gia –
động lực quan trọng nhất để cải thiện mức sống trong dài hạn, theo 12 trụ cột quan trọng tác
động đến năng suất với tổng cộng 98 chỉ tiêu cụ thể, trong đó có 64 chỉ tiêu mới được nghiên
cứu và thêm vào từ năm 2018. Do cách tiếp cận và đánh giá khác nhau nên không thể so sánh
xếp hạng GCI 4.0 với xếp hạng GCI trước đây. Vì vậy, để có một cái nhìn xuyên suốt và tổng
quan về năng lực cạnh tranh của Việt Nam trong giai đoạn vừa qua, GCI 4.0 sẽ được phân tích
theo hai giai đoạn: giai đoạn 2011-2016 và giai đoạn 20172019.
Đến năm 2020, các đánh giá và báo cáo xếp hạng GCI không được công bố chi tiết như các
năm trước do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19. lOMoAR cPSD| 61265515
Nhóm chỉ số về các yêu
Nhóm chỉ số phát huy
Nhóm chỉ số phản ánh cầu cơ bản hiệu quả
mức độ tinh vi và đổi mới sáng tạo - Thể chế - Giáo dục và đào
- Mức độ tinh vi của hoạt - Cơ sở hạ tầng tạo bậc cao động kinh doanh - Mức - Môi trường kinh tế vĩ - Hiệu quả của thị
độ đổi mới sáng tạo mô - Y tế trường hàng hóa - Giáo dục tiểu học - Hiệu quả của thị trường lao động - Sự phát triển của thị trường tài chính -
Mức độ sẵn sàng về công nghệ - Quy mô thị trường
1.2. Phân tích và đánh giá
1.2.1. Giai đoạn 2011-2016 Năm 2011 2012 2013 2014 2015 2016 GCI 4.24 4.11 4.18 4.23 4.3 4.31 Xếp hạng 65 75 70 68 56 60
Mặc dù, năng lực cạnh tranh toàn cầu trong tương quan của 140 nền kinh tế, năng lực cạnh
tranh của Việt Nam có thay đổi và đã được cải thiện nhưng vẫn ở mức hạn chế. Theo báo cáo
Năng lực cạnh tranh toàn cầu, năm 2015, Việt Nam có thứ hạng 56/140 nền kinh tế, đạt 4,3/7
điểm, tăng 12 bậc so với năm 2014 và là thứ hạng cao nhất của Việt Nam giai đoạn 2006 2015.
Các lĩnh vực Việt Nam có thứ hạng thấp ở nửa cuối, trung bình và dưới trung bình gồm: Thể
chế (85/140); Phát triển thị trường tài chính (84/140); Đào tạo và giáo dục sau tiểu học (95/140); lOMoAR cPSD| 61265515
Cơ sở hạ tầng (76/140); Trình độ kinh doanh (100/140); Sẵn sàng công nghệ (92/140); Đổi mới sáng tạo (73/140).
Báo cáo Năng lực cạnh tranh toàn cầu 2015-2016 đã chỉ ra 5 nhóm vấn đề được coi là trở ngại
lớn nhất đối với Việt Nam: (i) “Tiếp cận tài chính”; (ii) “Chính sách không ổn định”; (iii) “Lao
động qua đào tạo không đủ”; (iv) “Kỷ luật lao động kém”; (v) “Tham nhũng”. Bên cạnh đó, sự
cải thiện năng lực cạnh tranh cấp tỉnh trong giai đoạn 2006 - 2014 cho thấy, có sự tiến bộ đáng
kể nhưng còn thiếu bền vững. Các lĩnh vực có cải thiện rõ nét là: “chi phí gia nhập thị trường”,
“tính minh bạch”, “dịch vụ hỗ trợ DN”, “đào tạo lao động” và “chi phí thời gian”. Các lĩnh vực
không được cải thiện hoặc có chiều hướng đi xuống, đó là: ”chi phí không chính thức”, “tính
năng động của chính quyền”, “tiếp cận đất đai” và “cạnh tranh bình đẳng”.
1.2.2. Giai đoạn 2017-2019
Xếp hạng GCI của Việt Nam theo WEF 2017-2019 Năm 2017 2018 2019 GCI 57,94 58,05 61,5 Xếp hạng 55/137 77/140 67/141
Năm 2017, chỉ số GCI của Việt Nam đạt 57,94/100, xếp vị trí 55 trên tổng số 137 quốc gia và
nền kinh tế. Đến năm 2018, GCI tăng nhẹ 0,11 điểm nhưng xếp hạng tụt 20 bậc so với năm
2017. Và đến năm 2019 thì GCI của Việt Nam là 61,5, tăng 3,45 điểm so với năm 2019 và xếp
hạng 67, tăng 10 bậc và ghi nhận mức tăng cao nhất thế giới năm 2019. Sự thăng hạng này cho
thấy năng lực cạnh tranh toàn cầu 4.0 của Việt Nam đã được đánh giá là cải thiện vượt trội so
với những lần đánh giá trước đó.
Nhìn từ các trụ cột cấu thành nên chỉ số GCI 4.0, Việt Nam có 5/12 chỉ số nằm trong top
ASEAN 4, bao gồm trụ cột 2: Hạ tầng, trụ cột 3: Ứng dụng Công nghệ thông tin, trụ cột 5: Y
tế, trụ cột 7: Y tế, và trụ cột 10: Quy mô thị trường. 7/12 số trụ cột còn lại thấp hơn nhóm
ASEAN 4 là: trụ cột 1: Thể chế; trụ cột 4: Ổn định kinh tế vĩ mô; trụ cột 6: Kỹ năng; trụ cột 8: lOMoAR cPSD| 61265515
Thị trường lao động; trụ cột 9: Hệ thống tài chính; trụ cột 11: Mức độ năng động trong kinh
doanh; trụ cột 12: Năng lực đổi mới sáng tạo.
Theo thứ hạng và điểm số tại GCI 4.0, kết quả của 12 trụ cột có thể được nhóm theo 05 nhóm
từ rất tốt (từ thứ hạng 1-27) cho đến thấp (xếp hạng dưới 112).
Việt Nam không có trụ cột nào thuộc nhóm thấp, 12 trụ cột của Việt Nam được phân theo 04
nhóm từ rất tốt cho đến trung bình.
Ở nhóm Rất Tốt · (xếp hạng từ 1-27): Việt Nam có 01 trụ cột là Quy mô thị trường ở vị trí
26/141 và ở vị trí thứ 3 trong ASEAN 4 (sau Indonesia, Thái Lan và Malaysia). So với GCI
2018, chỉ số này đã tăng 0,9 điểm và 3 bậc; Ở nhóm Tốt ·
(xếp hạng từ 28-55): Việt Nam có 01 trụ cột là Ứng dụng Công nghệ thông tin
ở vị trí 41/141 và ở vị trí thứ 3 trong ASEAN 4 (sau Singapore, Malaysia, và Brunei) Ở nhóm Khá ·
(xếp hạng từ 56-83): đây là nhóm cần phải được ưu tiên để cải thiện trong thời
gian tới Việt Nam với 07 trụ cột, trong đó: o
03 trụ cột tăng điểm và thứ hạng: Thị trường sản phẩm ở vị trí 79/141 và vị
tríthứ 7 trong ASEAN 9. Thị trường lao động ở vị trí 83/141 và vị trí thứ 7 trong
ASEAN 9. Năng lực đổi mới sáng tạo ở vị trí 76/141 và vị trí thứ 7 trong ASEAN 9 o
01 trụ cột không thay đổi điểm số và thứ hạng: Ổn định kinh tế vĩ mô giữ ở
mức 75 điểm và thứ hạng 64 và vị trí thứ 6 trong ASEAN 9; o 03 trụ cột giảm thứ
hạng: Hệ thống tài chính ở vị trí 60/141 và vị trí thứ 6 trong ASEAN 9. So với GCI
2018, chỉ số này đã giảm 1 bậc mặc dù tăng 6 điểm. Cơ sở hạ tầng ở vị trí 77/141
và vị trí thứ 6 trong ASEAN 9. So với GCI 2018, chỉ số này đã giảm 5 bậc mặc
dù tăng 0,5 điểm. Y tế ở vị trí 71/141 và vị trí thứ 5 trong ASEAN 9
Ở nhóm Trung bình ·
(xếp hạng từ 84-111): mặc dù 03 trụ cột ở nhóm này đều tăng điểm và
tăng thứ hạng, song mức tăng vẫn chưa đủ để đưa 03 trụ cột lên vị trí cao hơn. Do vậy, các trụ
cột thuộc nhóm Trung bình này cần phải được ưu tiên để cải thiện trong thời gian tới. Thể chế
ở vị trí 89/141 và vị trí thứ 7 trong ASEAN 97. Mức độ năng động trong kinh doanh ở vị trí
89/141 và vị trí thứ 7 trong ASEAN 98. Kỹ năng ở vị trí 93/141 và vị trí thứ 7 trong ASEAN 9. lOMoAR cPSD| 61265515
Mặc dù Việt Nam có đến 5/12 trụ cột nằm trong top ASEAN 4, song cùng với Lào và
Campuchia, Việt Nam vẫn đứng cuối bảng ASEAN và cùng có 8/12 trụ cột có điểm số và thứ
hạng giảm. Trong khi đó, Philippines là quốc gia có nhiều trụ cột tăng hạng nhất (7 trụ cột), tiếp
theo đó là Thái Lan, Indonesia và Malaysia (6 trụ cột). Đáng chú ý là Singapore là quốc gia
ASEAN duy nhất có hai trụ cột là Hạ tầng và Thị trường sản phẩm đứng đầu trên thế giới. Như
vậy, trong bối cảnh các quốc gia ASEAN đều vận động theo chiều tích cực thì sự tăng hạng ở
3/12 trụ cột của Việt Nam chưa thực sự đủ để có sự đột phá trong năng lực cạnh tranh.
Thực tiễn cho thấy, những quốc gia có cách tiếp cận toàn diện đối với thách thức kinh tế xã hội
có tiềm năng vượt lên trong cuộc đua năng lực cạnh tranh. Việc theo đuổi năng lực cạnh tranh
quốc gia không làm suy yếu sự hợp tác toàn cầu, mà ngược lại, nỗ lực của các quốc gia còn góp
phần thúc đẩy năng lực cạnh tranh giữa các quốc gia, đưa mặt bằng về năng lực cạnh tranh toàn
cầu lên mức cao hơn, đòi hỏi từng quốc gia phải nỗ lực hơn qua mỗi năm. Chỉ số GCI 4.0 thể
hiện mối quan hệ chặt chẽ giữa năng lực cạnh tranh và hai khía cạnh khác của phát triển bền
vững là sự gắn kết xã hội và tính bền vững về môi trường. Các phân tích chỉ ra rằng không có
sự đánh đổi cố hữu giữa năng lực cạnh tranh và tính bền vững, và giữa năng lực cạnh tranh và sự gắn kết xã hội.
=> Trong nỗ lực nâng cao năng lực cạnh tranh để thu hút đầu tư và phát triển kinh tế, Việt Nam
chịu sự cạnh tranh mạnh mẽ từ các nền kinh tế tương đồng về mức độ phát triển và quy mô dân
số trong khu vực như Phi-li-pin và In-đô-nê-xi-a, đòi hỏi Việt Nam cần tiếp tục nỗ lực nhiều
hơn để bắt kịp các nước trong khu vực. lOMoAR cPSD| 61265515
2. Chỉ số môi trường kinh doanh (EDB: Evironment of Doing Business)
2.1. Nguồn gốc và tiêu chí đánh giá
Báo cáo mức độ thuận lợi đối với hoạt động kinh doanh (gọi tắt là Báo cáo Môi trường Kinh
doanh – Doing Business (DB)) của Ngân hàng Thế giới (WB: World Bank) là Báo cáo kết quả
điều tra, khảo sát và nghiên cứu về các quy định dẫn tới thúc đẩy hoặc hạn chế hoạt động kinh
doanh. Đây là báo cáo thường niên được thiện hiện hàng năm kể từ năm 2003. Báo cáo đưa ra
bảng xếp hạng tổng hợp về môi trường kinh doanh dựa trên bộ chỉ số đánh giá về các quy định
liên quan tới hoạt động của doanh nghiệp và về bảo vệ quyền sở hữu, đặc biệt đối với các doanh
nghiệp vừa và nhỏ trong nước. Để thực hiện bảng xếp hạng này, WB tập hợp thông tin về những
thay đổi trong khuôn khổ pháp lý, thủ tục hành chính và những trở ngại về kỹ thuật trong việc
bắt đầu thành lập hoặc mở rộng Báo cáo Môi trường kinh doanh lần đầu tiên được giới thiệu
vào năm 2003 (với tên gọi Doing Business 2004) xem xét 5 chỉ số và 133 nền kinh tế. Đến năm
2020, Doing Business 2020 xếp hạng 190 nền kinh tế trên thế giới, bao gồm cả những nền kinh
tế nhỏ nhất và các nước nghèo nhất. Báo cáo Môi trường kinh doanh mang tên của năm tiếp
theo năm công bố; số liệu thông thường thu thập từ tháng 6 năm trước đến hết tháng 5 của năm
công bố (trừ chỉ số Nộp thuế và BHXH). Qua các năm, số lượng các chỉ số và các nước khảo sát được mở rộng. lOMoAR cPSD| 61265515
DB DB DB DB DB DB DB DB DB
2011 2012 2013 2014 2015 2017 2018 2019 2020 Tiếp cận điện năng Cấp phép xây dựng Giao dịch thương mại qua biên giới Nộp thuế và BHXH Bảo vệ nhà đầu tư Đăng ký tài sản Tiếp cận tín dụng Giải quyết phá sản doanh nghiệp Giải quyết tranh chấp hợp đồng Quy định về thị trường lao động Khởi sự kinh doanh
Tổng số nền kinh 183 183 185 189 189 190 190 190 190 tế
Mục tiêu của báo cáo nhằm cung cấp cơ sở khách quan cho việc tìm hiểu và cải thiện môi
trường pháp lý và thực thi đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Các chỉ số trong
Doing Business thể hiện các nội dung sau:
Thứ nhất, đo lường chất lượng các quy định; đánh giá được tính phức tạp thể hiện qua các - quy định.
- Thứ hai, đo lường thời gian và chi phí tuân thủ các quy định (chẳng hạn như thời gian và chi lOMoAR cPSD| 61265515
phí thực hiện hợp đồng, thủ tục phá sản hay thương mại qua biên giới,…). - Thứ ba, đo lường
mức độ bảo vệ quyền sở hữu (ví dụ, - Thứ tư, đo lường gánh nặng thuế vàb ảo vệ nhà đầu
tư). các khoản phải nộp của doanh
- Thứ năm, đánh giá các khía cạnh khác nhau trong quy
nghiệp. định về việc làm.
Các chỉ số về môi trường kinh doanh được thiết kế và xây dựng theo chu kỳ vòng đời hoạt
động của doanh nghiệp, bao gồm các thủ tục từ khi thành lập đến khi thực hiện giải thể, phá sản.
Báo cáo Doing Business chỉ đánh giá mức độ cải cách trong từng lĩnh vực chứ không phải hiện
trạng của lĩnh vực đó. Báo cáo cũng không đánh giá toàn bộ các lĩnh vực của môi trường kinh
doanh có ảnh hưởng đến sự phát triển của doanh nghiệp, hay mức độ cạnh tranh và triển vọng
đầu tư nước ngoài của nền kinh tế.
Dù vậy, các chỉ số trong báo cáo Doing Business vẫn cung cấp những thông tin rất chi tiết để
các nhà hoạch định chính sách xác định được những lĩnh vực nên cải cách và hoàn thiện. Các
kết quả trong báo cáo đã thúc đẩy quá trình thảo luận về chính sách trên toàn thế giới và tạo
điều kiện tăng cường nghiên cứu về ảnh hưởng của các quy định ở cấp độ doanh nghiệp tới kết
quả hoạt động chung của các nền kinh tế. Cũng từ những thực tiễn tốt được triển khai, năng lực
cạnh tranh, năng suất và hiệu quả của nền kinh tế tăng lên rõ rệt. Như vậy, báo cáo Doing
Business là một nguồn đánh giá độc lập, khách quan về mức độ thuận lợi của các quy định pháp
luật điều chỉnh hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp; từ đó phản ánh môi trường kinh doanh tại mỗi nền kinh tế.
2.2. Phân tích và đánh giá
Trong báo cáo xếp hạng môi trường kinh doanh 2012 của Ngân hàng Thế giới, vị trí xếp
hạng của Việt Nam đã bị tụt 8 bậc, từ vị trí 90 xuống vị trí 98 trên tổng số 183 quốc gia (nền
kinh tế). Hầu hết các chỉ số (6/10) xếp hạng đều bị tụt so với năm 2011, chỉ có 3 chỉ số tăng
hạng và một chỉ số không thay đổi thứ hạng. ST Chỉ tiêu
Xếp hạng 2011 Xếp hạng 2012 Thay đổi T lOMoAR cPSD| 61265515 Xếp hạng chung 90 98 -8 1 Thành lập doanh nghiệp 100 103 -3 2
Tiếp cận với nguồn điện 135 135 0 3 Xin giấy phép xây dựng 70 67 3 4 Đăng ký tài sản 43 47 -4 5 Tiếp cận tín dụng 21 24 -3 6 Bảo vệ nhà đầu tư 172 166 6 7 Nộp thuế và BHXH 129 151 -22 8
Giao thương qua biên giới 65 68 -3 9 Thực hiện hợp đồng 31 30 1 10 Giải thể doanh nghiệp 130 142 -12
Theo báo cáo Kinh doanh năm 2016 của Ngân hàng Thế giới (WB), mức độ thuận lợi đối
với kinh doanh của Việt Nam đứng thứ 90/189 nền kinh tế, chỉ đạt mức điểm trên trung bình
(62,1/100). Các lĩnh vực đánh giá kém thuận lợi và có điểm trung bình và dưới trung bình: Nộp
thuế (168/189); Bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư (122/189); Giải thể DN (123/189); Tiếp cận điện
năng (108/189) và Khởi sự kinh doanh (119/189). So với mức trung bình của các nước trong
khu vực ASEAN-6 cũng như 10 nền kinh tế thuận lợi nhất cho kinh doanh trên thế giới, hầu hết
các chỉ số của Việt Nam đều thấp hơn đáng kể. lOMoAR cPSD| 61265515
Đến năm 2017, có 5 chỉ số được ghi nhận cải cách, gồm tiếp cận điện năng; tiếp cận tín dụng;
nộp thuế và bảo hiểm xã hội; giao dịch thương mại qua biên giới; giải quyết tranh chấp hợp
đồng. Đây cũng là năm thứ hạng của Việt Nam trên Bảng xếp hạng Môi trường kinh doanh
tăng đột phá, từ 82 năm 2016 lên 68/190.
Năm 2018, Việt Nam tiếp tục được tăng hạng về môi trường kinh doanh khi xếp hạng thứ 68
trên 190 nền kinh tế, tăng 14 bậc so với đánh giá trong năm 2017, là mức tăng bậc nhiều nhất
trong 10 năm qua của Việt Nam, trong đó có 8/10 chỉ số tăng điểm và 6/10 chỉ số tăng bậc.
Điều này khẳng định môi trường kinh doanh, thuận lợi hóa kinh doanh của Việt Nam năm 2018
được cải thiện rất nhiều.
Những lĩnh vực mà Việt Nam được đánh giá có nhiều cải cách, giúp việc kinh doanh dễ dàng
hơn là tiếp cận điện năng, tiếp cận tín dụng, nộp thuế, giao thương quốc tế và thực hiện hợp
đồng. 10 lĩnh vực của Việt Nam có thứ hạng xếp trong khoảng từ 20 đến 129, được đánh giá
cao nhất vẫn là giải quyết thủ tục cấp giấy phép/cấp phép xây dựng (xếp thứ 20) và thấp nhất
là xử lý khi mất khả năng thanh toán (129).
Đáng chú ý là trong năm 2018, cùng với Việt Nam, 3 nước gồm Thái Lan, In-đô-nê-xi-a và
Brunei cũng có sự tăng hạng vượt bậc so với năm 2017, thậm chí tăng nhanh hơn Việt Nam:
Thái Lan tăng 20 bậc; In-đô-nê-xi-a tăng 19 bậc; Brunei tăng 16 bậc. Chính vì vậy, với đà cải
cách mạnh mẽ của các nước trong khu vực thì mục tiêu Việt Nam đạt mức độ trung bình của
các nước ASEAN 4 trên các chỉ tiêu về môi trường kinh doanh sẽ trở nên thách thức và đòi hỏi
chúng ta phải quyết tâm và nỗ lực nhiều hơn.
Có thể thấy, thứ hạng môi trường kinh doanh của Việt Nam đã thay đổi vượt bậc, xếp thứ 78
(năm 2014), 90 (năm 2015), 82 (năm 2016), 68 (năm 2017) và 69 (năm 2018) theo xếp hạng
của WB. Năm 2018 môi trường kinh doanh Việt Nam tuy giảm một bậc, nhưng có tới 8/10 chỉ
số đánh giá có cải thiện về điểm số. Cụ thể, trong Báo cáo môi trường kinh doanh (Doing
Business) 2019 do WB vừa công bố, chỉ số khởi sự kinh doanh của Việt Nam năm 2018 xếp
thứ 104/190 quốc gia và vùng lãnh thổ, tăng 19 bậc nhờ cơ quan đăng ký kinh doanh cho phép
công bố thông tin đăng ký doanh nghiệp qua mạng điện tử và giảm lệ phí đăng ký doanh nghiệp.
Chỉ số tiếp cận điện năng cũng tăng mạnh khi đứng ở vị trí 27/190, tăng 37 bậc so năm 2017
và là năm thứ 5 liên tiếp được cải thiện về vị trí. Ðến nay, 9/10 chỉ số đánh giá được cải thiện
liên tục qua các năm (trừ chỉ số giải quyết phá sản doanh nghiệp), giúp Việt Nam thu hẹp dần
khoảng cách so với nhóm ASEAN 4 (Singapore, Thái Lan, Malaysia, Philippines). lOMoAR cPSD| 61265515
Với Việt Nam, những lĩnh vực được WB đánh giá có cải cách, giúp việc kinh doanh dễ dàng
hơn là Vay vốn và Nộp thuế. Hầu hết lĩnh vực tăng điểm so với năm ngoái. Có thứ hạng cao
nhất là Xin giấy phép Xây dựng (xếp thứ 25), và thấp nhất là Xử lý khi mất khả năng thanh toán (122).
Ngoài ra, tinh thần khởi nghiệp cũng lên cao chưa từng có, qua đó góp phần khai thác tốt hơn
nguồn vốn nhàn rỗi trong dân. Số lượng doanh nghiệp thành lập mới liên tục gia tăng, từ năm
2016 đến nay, cả nước luôn có trên 100 nghìn doanh nghiệp thành lập mới. Năm 2016, cả nước
có hơn 110 nghìn doanh nghiệp được “khai sinh” với tổng số vốn bổ sung vào nền kinh tế (kể
cả vốn tăng thêm) là 2,5 triệu tỷ đồng, vốn bình quân đạt 8,1 tỷ đồng/ doanh nghiệp. Ðây là lần
đầu vượt mốc 100 nghìn doanh nghiệp thành lập mới/năm và xu hướng này tiếp tục tăng nhanh.
Ðến năm 2017 tiếp tục có hơn 126 nghìn doanh nghiệp thành lập mới, bổ sung hơn 3,1 triệu tỷ
đồng vào nền kinh tế, vốn bình quân đạt 10,2 tỷ đồng/ doanh nghiệp. Năm 2018 đánh dấu năm
thứ 3 liên tiếp đạt kỷ lục về số lượng doanh nghiệp thành lập mới với 131,3 nghìn doanh nghiệp
đăng ký thành lập mới, tổng vốn đăng ký là 1.478,1 nghìn tỷ đồng, tăng 3,5% về số doanh
nghiệp và tăng 14,1% về số vốn đăng ký so với năm 2017. Nếu tính cả 2.408,8 nghìn tỷ đồng
vốn đăng ký tăng thêm của các doanh nghiệp thay đổi tăng vốn thì tổng số vốn đăng ký bổ
sung thêm vào nền kinh tế là 3.886,9 nghìn tỷ đồng.
Trong 5 năm qua, Chính phủ nỗ lực thực hiện nhiều giải pháp, trong đó tập trung triển khai
Nghị quyết số 19/NQ-CP về cải thiện cải cách môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh
tranh, quốc gia được ban hành thường niên từ năm 2014 đến nay và Nghị quyết số 35/NQ-CP
năm 2016 về hỗ trợ phát triển doanh nghiệp đến năm 2020. Kết quả là, cải cách môi trường
kinh doanh của Việt Nam đã có những cải thiện rõ rệt, thủ tục gia nhập thị trường đã được đơn
giản hóa và thuận lợi hơn, các doanh nghiệp đã tiết kiệm nhiều thời gian và chi phí hoạt động
so với trước. Bên cạnh đó, hàng nghìn điều kiện kinh doanh bất hợp lý đã được bãi bỏ; công
tác kiểm tra chuyên ngành hàng hóa xuất nhập khẩu đã được đổi mới cơ bản theo nguyên tắc
đánh giá rủi ro, chuyển từ tiền kiểm sang hậu kiểm đối với nhiều loại hàng hóa; số lượng dịch
vụ công trực tuyến cấp độ 3, 4 tăng nhanh...
Bên cạnh những kết quả đạt được, trên thực tế vẫn còn một số hạn chế của môi trường kinh
doanh chưa được khắc phục, đang là rào cản đối với hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh
nghiệp. Một số chỉ tiêu như: môi trường kinh doanh đạt tiêu chuẩn ASEAN 4 đến nay chưa đạt
được; chỉ tiêu có ít nhất một triệu doanh nghiệp hoạt động vào năm 2020 cũng đang gặp trở
ngại. Theo Cục Quản lý đăng ký quản lý kinh doanh (Bộ Kế hoạch và Ðầu tư), số doanh nghiệp
tạm ngừng hoạt động và doanh nghiệp phá sản trong năm 2018 tăng gần 50% so với năm trước,
ở mức 90.651 doanh nghiệp. Số doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể trong năm 2018 cũng
lên đến 16.314 doanh nghiệp, tăng 34,7% so với năm trước. Như vậy, trung bình mỗi ngày có
45 doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể. Trong đó, có 14.880 doanh nghiệp có quy mô vốn
dưới 10 tỷ đồng, chiếm 91,2% số doanh nghiệp phá sản. Vì vậy, vẫn còn nhiều quy định, điều
kiện kinh doanh đang là rào cản, gây khó khăn cho doanh nghiệp; công tác quản lý, kiểm tra
chuyên ngành đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu chuyển biến chậm, chưa đáp ứng mục
tiêu và yêu cầu đề ra. lOMoAR cPSD| 61265515
=> Tuy có sự cải thiện về thứ hạng, nhưng chất lượng môi trường kinh doanh (thể hiện thông
qua điểm số) tăng còn ít và chậm so với các quốc gia trong khu vực. Việc đạt mục tiêu đưa môi
trường kinh doanh nước ta vào nhóm 4 nước ASEAN vẫn là một thách thức và đòi hỏi cần tiếp
tục nỗ lực, quyết tâm thực hiện các giải pháp cải cách quyết liệt, mạnh mẽ hơn nữa.
3. Chỉ số tham nhũng (CPI: Corruption Perceptions Index)
- Khái niệm: là chỉ số toàn cầu hàng đầu về tham nhũng trong khu vực công, cung cấp
mộtcái nhìn tổng thể hàng năm về mức độ tham nhũng tương đối ở 180 quốc gia và vùng
lãnh thổ. Đây là một trong những chỉ số quan trọng hàng đầu khi đánh giá môi trường đầu
tư một quốc gia bởi nó thể hiện nhiều khía cạnh về mặt chính trị, luật pháp, kinh tế - xã hội của quốc gia đó.
- Từ năm 1995, Tổ chức Minh bạch Quốc tế (Transparency International - TI) đã công bốchỉ
số nhận thức tham nhũng (Corruption Perceptions Index - CPI) hàng năm xếp thứ tự các
quốc gia trên thế giới theo "mức độ tham nhũng mà được nhận thức tồn tại trong các giới
công chức và chính trị gia". Tổ chức định nghĩa tham nhũng là "lạm dụng chức vụ công để hưởng tư lợi".
- Nghiên cứu của TI chỉ ra, trong gần một thập kỷ qua, hầu hết quốc gia đạt được rất íthoặc
không đạt được tiến bộ nào trong việc giải quyết tham nhũng, với hơn 2/3 trong số 180
quốc gia được đánh giá chỉ đạt điểm dưới 50 trên thang điểm 100, trong đó có Việt Nam.
Bảng chỉ số tham nhũng của Việt Nam từ 2011-2020 Năm
2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019 2020 Chỉ số 29 31 31 31 31 33 35 33 37 36 Thứ hạng 112 123 116 119 112 113 107 117 96 104
- Nhận xét: Điểm số của Việt Nam trong 10 năm qua vẫn dưới 50, thấp hơn điểm trungbình
của khu vực ASEAN, cho thấy tham nhũng trong khu vực công là vấn đề nghiêm trọng ở
Việt Nam và các nỗ lực về phòng, chống tham nhũng (PCTN) ở Việt Nam chưa chứng tỏ
được sự thành công hoàn toàn.
- Tuy nhiên, Việt Nam cũng cho thấy sự cải thiện ở điểm số qua các năm, ngoại trừ năm2011
được đánh giá theo thang điểm riêng, từ 2012 đến 2020, điểm số nhìn chung có xu hướng
tăng dần, thể hiện sự chuyển biến tích cực trong công cuộc phòng chống tham nhũng ở
VN, tuy vẫn còn nhiều hạn chế; đồng thời tốc độ cải thiện so với các quốc gia khác trên
thế giới còn chậm nên dù điểm tăng, thứ hạng của Việt Nam vẫn bị đẩy xuống.
+ Từ 2012 đến 2015, Việt Nam giữ mức điểm không thay đổi, song thứ hạng lại có
sự biến động lên xuống liên tục nhưng nhìn chung vẫn có sự cải thiện. Năm 2016
và 2017, VN lần đầu có sự tiến bộ về điểm số và thứ hạng
+ Riêng trong năm 2018, dù có chiến dịch “đốt lò”, Việt Nam vẫn tụt 10 hạng so
với năm trước đó, có dấu hiệu đi xuống sau 2 năm thăng hạng, cho thấy tốc độ
xử lý còn chậm so với các quốc gia khác, vì thế để thay đổi thực trạng và cảm
nhận về sự thay đổi này cần có thêm thời gian.
+ Năm 2019, Việt Nam đạt 37/100 điểm, tăng 4 điểm và 21 bậc so với năm 2018, là
mức điểm và thứ hạng cao nhất của Việt Nam từ trước đến nay. Tuy nhiên, theo lOMoAR cPSD| 61265515
kết quả kết quả khảo sát Phong vũ biểu Tham nhũng ở Việt Nam 2019 (VCB-
2019), mặc dù những nỗ lực phòng, chống tham nhũng của nhà nước được cho
là hiệu quả hơn, nhưng người dân lại ngày càng quan ngại hơn về tham nhũng.
Nhưng với kết quả tăng điểm vượt bậc nêu trên thì có thêm cơ sở để khẳng định
tham nhũng ở Việt Nam đã có bước thuyên giảm, công tác phòng, chống tham
nhũng đang mang lại hiệu quả tích cực và sẽ tiếp tục đạt hiệu quả cao hơn nữa trong thời gian tới.
+ Sang đến 2020, điểm CPI của Việt Nam lại có sự giảm nhẹ và tụt 8 hạng so với
2019. Điều này có lẽ có sự liên quan đến COVID-19. Báo cáo của TI cho thấy,
tham nhũng xảy ra phổ biến trong phản ứng với COVID-19, từ hối lộ cho các
hoạt động liên quan đến COVID-19, xét nghiệm, điều trị và các dịch vụ y tế khác,
cho đến mua sắm công đối với vật tư y tế và sự chuẩn bị sẵn sàng mọi thứ cho tình huống khẩn cấp.
+ Tuy nhiên, theo Cục trưởng Cục Chống tham nhũng Phạm Trọng Đạt cho rằng,
đánh giá của TI về chỉ số CPI năm 2015 chỉ mang tính chất tham khảo vì kết quả
đó chưa phản ánh toàn diện tình hình tham nhũng và phòng chống tham nhũng
của Việt Nam. Mặt khác, bản thân TI cũng thừa nhận rằng những thống kê như
thế này bị hạn chế về độ chính xác, vì cuộc khảo sát phụ thuộc vào chủ quan của
người trả lời và nhận thức của họ về việc một hành vi có phải là tham nhũng hay
không, chưa kể các hành vi tham nhũng thường được che đậy dưới nhiều vỏ bọc
khác nhau, khó phát hiện và xử lý ngay, triệt để… Vì vậy, CPI là một chỉ tiêu
thống kê có những hạn chế nhất định về mặt hiệu lực. Độ chính xác và khả năng
so sánh giữa các năm cũng bị hạn chế.
+ Nhưng chỉ số tham nhũng cũng vô cùng cần thiết trong nền kinh tế: nếu hoàn toàn
không có tham nhũng, nền kinh tế sẽ vận hành một cách vô cùng cứng nhắc, vì
khi doanh nghiệp không có chi phí ngầm, hay còn gọi là chi phí “bôi trơn” thì
hoạt động sản xuất của doanh nghiệp sẽ không được trơn tru, thủ tục không được
xử lý một cách nhanh chóng, tiết kiệm thời gian, từ đó tận dụng được nhiều cơ
hội, nhanh chóng tiếp cận nhiều dự án mới. Nhưng các doanh nghiệp cũng phải
giải quyết được câu hỏi đặt ra ở đây, đó là giới hạn đối với chi phí ngầm này, mức
độ bao nhiêu thì “vừa đủ” để không gây ra ảnh hưởng nghiêm trọng đến cả doanh nghiệp và Chính phủ. lOMoAR cPSD| 61265515
4. Chỉ số tín nhiệm quốc gia (CR: Credit Rating)
- Khái niệm: Xếp hạng tín dụng (Credit Rating - CR) là một đánh giá định lượng về độtin
cậy của người vay về các điều khoản chung hoặc liên quan đến một khoản nợ hoặc nghĩa
vụ tài chính cụ thể. Nhiều nhà đầu tư chỉ ra rằng quá trình đầu tư của họ sẽ phụ thuộc vào
việc các tổ chức xếp hạng tín dụng toàn cầu hỗ trợ doanh nghiệp trong nước.
- Hiện nay, trên thế giới có ba công ty xếp hạng tín nhiệm nổi tiếng nhất (Big 3)
gồmStandard & Poor's, Moody’s Investor Service và Fitch Ratings. Mỗi Tổ chức tài chính
có quan điểm xếp hạng tín nhiệm khác nhau, nhưng về nội dung cốt lõi đều bao hàm ý
kiến đánh giá chất lượng tín dụng hay khả năng trả nợ của Chủ thể phát hành hoặc Công cụ nợ.
- Ý nghĩa của việc nâng xếp xếp hạng tín nhiệm: Có ý nghĩa hết sức quan trọng đối vớitất
cả các quốc gia, đặc biệt đối với các nước đang phát triển như Việt Nam bởi đây là vấn
đề về uy tín quốc gia trên trường quốc tế. Tuy nhiên đây lại là chỉ số mà Việt Nam chưa
thực sự có sự cải thiện nhiều, tiềm ẩn rủi ro, bởi nó liên quan tới chỉ số về khả năng xử lý
khi không thể trả nợ nước ngoài, trong bối cảnh Việt Nam với tỷ lệ nợ công lên đến 50-
60% GDP nhưng chưa có phương án rõ rệt để trả nợ. Chính vì thế, chỉ số CR của Việt
Nam vẫn đang ở mức trung bình kém trong nhiều năm qua.
Bảng 3: Thang điểm xếp hạng Tín nhiệm quốc gia của S&P, Moody’s và Fitch g
Bảng 4: Sự cải thiện về xếp hạng rủi ro, tín nhiệm quốc gia của Việt Nam qua các năm Tổ chức Xếp hạng Triển vọng Thời gian S&P BB positive 21/05/2021 lOMoAR cPSD| 61265515 Fitch BB positive 01/04/2021 Moody’s B3 positive 18/03/2021 Fitch BB stable 08/04/2020 Moody’s Ba3 negative 18/12/2019 Moody’s Ba3 under review 09/10/2019 Fitch BB positive 09/05/2019 S&P BB stable 05/04/2019 Moody’s Ba3 stable 10/08/2018 Fitch BB stable 15/05/2018 Fitch BB- positive 18/05/2017 Moody’s B1 positive 28/04/2017 Fitch BB- stable 03/11/2014 Moody’s B1 stable 29/07/2014 Fitch B+ positive 23/01/2014 Moody’s B2 stable 28/09/2012 S&P BB- stable 06/06/2012 S&P BB- negative 19/08/2011
- Nhìn chung, tuy CR của Việt Nam vẫn đang chỉ ở mức trung bình kém và chưa thực sựcải
thiện, nhưng có thể thấy sự tiến bộ dần trong thập niên này theo đánh giá của cả 3 tổ chức.
Trước hết là trong giai đoạn 2011-2019:
+ Moody’s: từ 2012 đến 2014, Moody’s nâng xếp hạng tín nhiệm đối với trái phiếu
của Chính phủ Việt Nam lên 1 bậc, từ mức B2 lên mức B1, mức triển vọng được
đánh giá là Ổn định. Sau đó, Moody’s đã nâng mức triển vọng lên Tích cực ở
2017, và đến 2018 đã nâng đánh giá lên Ba3 Ổn định. Tuy nhiên cuối 2019,
Moody’s đánh giá Việt Nam ở mức Ba3- triển vọng không khả quan, bởi vẫn tiềm
ẩn rủi ro trong việc chậm nghĩa vụ trả nợ gián tiếp của Chính phủ (vốn vay ODA),
trong khi tỷ lệ nợ công cao
+ S&P: từ 2011-2012, S&P nâng đánh giá Việt Nam từ triển vọng Tiêu cực (do ảnh
hưởng của khủng hoảng tài chính - kinh tế toàn cầu) lên Tích cực (đều ở mức BB-
). Tuy nhiên phải đến tận 2019, S&P mới lần nữa nâng đánh giá cho Việt Nam lên
một bậc nữa là BB (Ổn định) nhờ duy trì được sự tăng trưởng của nền kinh tế. lOMoAR cPSD| 61265515
+ Fitch: đánh giá của Fitch qua các năm cũng có xu hướng cải thiện dần về cả xếp
hạng lẫn mức triển vọng, thậm chí chỉ trong 1 năm 2014, Fitch đã nâng đánh giá
Việt Nam lên hẳn 1 bậc, từ B+ lên BB-, sau đó duy trì ở mức BB qua nhiều năm.
Năm 2019, Fitch đánh giá Việt Nam ở triển vọng Tích cực bởi có kỳ vọng về khả
năng giảm tỷ lệ nợ công trong năm tới xuống còn khoảng 46% GDP.
- Kết luận: trong giai đoạn 2011-2019, xếp hạng tín nhiệm quốc gia của Việt Nam có sựbiến
động và vẫn nằm ở mức thấp, nhưng nhìn chung có sự tiến bộ theo đánh giá của cả 3 tổ
chức, thể hiện chuyển biến tích cực trong việc phát triển môi trường đầu tư trong nước.
- Riêng đối với năm 2020, Việt Nam trở thành quốc gia duy nhất trên thế giới cho đếnnay
được cả ba tổ chức xếp hạng tín nhiệm, gồm Moody’s, S&P và Fitch đồng loạt nâng triển
vọng lên Tích cực nhờ những thành tựu ấn tượng trong tăng trưởng kinh tế và khâu hoạch
định chính sách trong bối cảnh đại dịch, trong bối cảnh tính từ đầu năm đến ngày
10/6/2020, trên thế giới, có hơn 90 quốc gia bị các tổ chức xếp hạng tín nhiệm hạ bậc/xem
xét hạ bậc hoặc điều chỉnh triển vọng do những tác động của đại dịch Covid 19.
+ Ngày 8/4/2020, tổ chức Fitch đã thông báo quyết định giữ nguyên hệ số tín nhiệm
quốc gia của Việt Nam ở mức BB, điều chỉnh triển vọng từ Tích cực sang ổn định.
+ Ngày 21/5/2020, Standard & Poor’s đã ra Thông cáo báo chí khẳng định xếp hạng
tín nhiệm của Việt Nam tiếp tục duy trì ở mức BB, triển vọng Ổn định; Moody’s
trong tháng 5/2020 cũng cho biết giữ nguyên định mức tín nhiệm của Việt Nam
sau đợt làm việc với các cơ quan của Việt Nam trong tháng 4/2020…
=> Trong năm 2020: Fitch và Standard & Poor’s, Moody’s quyết định giữ nguyên
hệ số tín nhiệm quốc gia của Việt nam ở mức BB là mức ổn định.
+ Tổng kết: Việc Việt Nam duy trì mức xếp hạng tín nhiệm được đánh giá là một dấu
hiệu lạc quan trong bối cảnh bất ổn hiện nay, thể hiện quan điểm tích cực của các
tổ chức xếp hạng tín nhiệm về hồ sơ tín dụng của Việt Nam không chỉ trong 2020
mà còn về nền tảng để tiếp tục phát huy lợi thế môi trường đầu tư trong dài hạn.
PHẦN III: CÁC GIẢI PHÁP ( Thái, Duy) 1. Giải pháp trong ngắn hạn
- Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường đồng bộ và hiện đại: đấy là tiền đề quan trọng để
thúc đẩy quá trình tái cấu trúc nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, ổn định kinh
tế vĩ mô. Một tiêu chí quan trọng đo lường sự phát triển của thể chế kinh tế thị trường là
mức độ cạnh tranh trong các lĩnh vực sản xuất và dịch vụ. Cạnh tranh làm bộc lộ khả năng
của các chủ thể kinh tế. Trong môi trường cạnh tranh, các doanh nghiệp tham gia thị trường
buộc phải phát huy lợi thế so sánh, chuyển lợi thế so sánh thành lợi thế cạnh tranh, đồng
thời luôn tìm cách tạo lập lợi thế cạnh tranh mới nhằm không ngừng nâng cao hiệu quả sử
dụng các nguồn lực, mở rộng thị trường, phát triển sản xuất kinh doanh. Đây chính là triết
lý tăng trưởng mới - Tăng trưởng dựa trên sức cạnh tranh.
- Phải nâng cao tính minh bạch và khả năng dự đoán của chính sách (khắc phục chỉ số
tham nhũng CPI) : Để vừa giảm thiểu sự bất định, độ rủi ro đối với nhà đầu tư, vừa tránh
đầu cơ, ngăn chặn tham nhũng và giảm các chi phí giao dịch cho doanh nghiệp. Tăng
cường sự tham gia của người dân và doanh nghiệp vào quá trình xây dựng chính sách và lOMoAR cPSD| 61265515
thể chế; đề cao vai trò phản biện xã hội và trách nhiệm giải trình của các cơ quan quản lý
trong việc hoạch định chính sách và đánh giá hiệu quả thực thi
- Gắn kết chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và
bảo vệ môi trường: Phát triển kinh tế với tốc độ tăng trưởng cao là tiền đề, điều kiện vật
chất để giải quyết các vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường. Ngược lại, giải quyết tốt các
vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường là động lực, nhân tố đảm bảo tăng trưởng kinh tế cao, bền vững.
- Chú trọng công tác đào tạo: Nâng cao chất lượng nguồn lao động, tập trung đào tạo lao
động có tay nghề, kỹ thuật cao nhằm đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp.
2. Giải pháp dài hạn
- Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính:Hiện nay ở Việt Nam thủ tục hành chính vẫn có
khá rườm rà,tốn thời gian.Đây là 1 trong những lý do chính khiến cho các doanh nghiệp
nước ngoài ngại đầu tư vào Việt Nam.Chúng ta cần phải công khai minh bạch quy trình
xử lý công việc ở tất cả các cơ quan đơn vị,triển khai dịch vụ công trực tuyến,sử dụng đơn
điện tử và tích hợp hoá thủ tục hành chính lên Cổng dịch vụ công quốc gia.
- Đẩy mạnh thu hút đầu tư: hỗ trợ tiếp cận thông tin, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho
doanh nghiệp. Thực hiện công khai, minh bạch và công bố rộng rãi, đầy đủ, kịp thời thông
tin trên trang thông tin điện tử của đơn vị, địa phương về quy hoạch, kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội; quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; quy hoạch xây dựng; quy hoạch, kế
hoạch phát triển các khu, cụm công nghiệp; quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành, lĩnh
vực, các chính sách ưu đãi, kêu gọi đầu tư của tỉnh…
- Chuyển đổi số và khoa học công nghệ : tích hợp dịch vụ công trực tuyến lên Cổng dịch
vụ quốc gia,đẩy mạnh việc đăng ký doanh nghiệp,đăng ký đầu tư,nộp thuế thu nhập cá
nhân trực tuyến; hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới công nghệ, sản phẩm; xây dựng hệ thống dữ
liệu dùng chung về quản lý doanh nghiệp giữa các cơ quan quản lý nhà nước
- Nâng cao hạ tầng kỹ thuật nhất là hạ tầng giao thông,thông tin,hạ tầng khu và cụm công
nghiệp chưa được đầu tư một cách đồng bộ,chất lượng chưa cao….Đây là một yếu
tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng cải thiện môi trường đầu tư.
- Hoàn thiện thiết chế pháp lý, nâng cao ý thức thực thi pháp luật, đảm bảo an ninh
trật tự, giữ vững ổn định chính trị - xã hội…Nâng cao chất lượng và công khai, minh
bạch các chương trình, kế hoạch thanh tra, kiểm tra hằng năm, để khắc phục trùng lắp,
chồng chéo, tiết kiệm thời gian cho doanh nghiệp, không để các hoạt động thanh tra, kiểm
tra ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, đảm bảo mỗi doanh
nghiệp chỉ được thanh tra, kiểm tra 01 lần/năm theo quy định.Xây dựng đội ngũ công chức
chuyên nghiệp, năng động, lấy doanh nghiệp/nhà đầu tư là đối tượng để phục vụ; tăng
cường trật tự kỷ cương trong quản lý hành chính; có cơ chế để khuyến khích sự năng động