














Preview text:
lOMoAR cPSD| 61554836
ĐỀ CƯƠNG KINH TẾ CHÍNH TRỊ Phần I: MỞ BÀI:
Chúng ta đang sống trong một thời đại cách mạng công nghiệp. Quanh ta khắp
nơi trên thế giới đã và đang diễn ra quá trình chuyển đổi trong đời sống kinh
tế. Quá trình cải cách kinh tế là thử thách lớn nhất đối với tất cả các dân tộc và
các chế độ muốn thay đổi mô hình hoạt động kinh tế của mình. Có nhiều xu
hướng khác nhau, song có một chủ đề chung là chuyển nền kinh tế sang định
hướng thị trường. Các nhà lãnh đạo chính trị ở nhiều nơi trên thế giới đó đi đến
kết luận rằng : nhìn chung, thị trường đảm bảo cho nền kinh tế tăng trưởng một
cách vững chắc. Tuy nhiên, có nhiều cách thức để đạt được mục tiêu đó. Và
mỗi nước sẽ chọn cho 1 con đường đi lớn, dựa trên yếu tố nền tảng lịch sử,
văn hóa dân tộc. Với xu hướng phát triển tất yếu của thời đại, Đảng, Nhà nước
và nhân dân Việt Nam chọn cho đất nước của mình con đường phát triển nền
kinh tế thị trường có sự quản lí của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đó là con đường phát triển tất yếu phù hợp với những điều kiện khách quan
vốn có. Cũng xác định, việc phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa sẽ đựa nước ta thoát khỏi trình trạng lạc hậu, vươn lên một nên kinh tế
hiện đại, ngang tầm với các nước trên thế giới, phấn đấu vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Câu 1: Phân tích đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN,
khác biệt với các nền kinh tế thị trường Tư bản chủ nghĩa. Trình bày cơ
sở tất yếu của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN tại Việt Nam?
Trước hết, ta sẽ làm rõ khái niệm của Kinh tế thị trường và kinh tế thị
trường định hướng XHCN. Kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hóa vận
hành theo cơ chế của thị trường, phát triển tới trình độ cao, trong đó, quan hệ
sản xuất và trao đổi đều thông qua thị trường và chịu sự điều tiết bởi các quy
luật khách quan của thị trường. Kinh tế thị trường định hướng XHCN là nền
kinh tế vận hành theo các quy luật của thị trường, mang đặc trưng định hướng
XHCN, đồng thời góp phần hướng tới từng bước xác lập một xã hội mà ở đó
“dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, có sự điều tiết của Nhà lOMoAR cPSD| 61554836
nước do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo . Tiếp theo, ta sẽ đi vào đặc trưng
của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và sự khác biệt với các nền kinh
tế thị trường tư bản chủ nghĩa.
1. Đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN:
Thứ nhất, khác với tư bản chủ nghĩa tạo ra sự phát triển và tăng trưởng
kinh tế bằng cách tạo ra lợi nhuận cho các chủ sở hữu tư nhân và doanh
nghiệp; nền kinh tế định hướng XHCN với mục đích “dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” - hướng đến phát triển lực
lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH, đặt lợi ích
của nhân dân lên trên hết. Tuy nhiên, bởi mới là “định hướng XHCN”
nên về thực trạng, ta vẫn giữ vài nét của chế độ cũ: tăng trưởng kinh tế -
đánh đổi bằng tài nguyên môi trường. Cái khác là ta sẽ tìm các giải pháp
để làm giảm thiểu,khắc phục những hạn chế đó. Ví dụ, giá vàng tăng
lên, trong khi ở các nước TBCN Nhà nước không can thiệp vì là KT thị
trường tự do dẫn đến việc giá xăng dầu tăng theo; thì ở các nước KTTT
định hướng XHCN lại được Nhà nước điều tiết, đảm bảo tính công bằng.
Thứ hai, giống như tư bản chủ nghĩa, quan hệ sở hữu của nền KTTT
XHCN cũng có nhiều thành phần kinh tế tham gia. Sự khác biệt là nền
KTTT định hướng XHCN được phân tán hơn, với sự tham gia của nhiều
chủ sơ hữu; lấy kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân làm
chủ lực. Chủ đạo ở đây có nghĩa là con đường chính, có thể hiểu rằng ta
vẫn sẽ gắn với kinh tế tư nhân, còn Nhà nước sẽ nắm giữ vai trò chủ đạo
với các ngành sở hữu chung như nhóm ngành năng lượng, tài nguyên
thiên nhiên – khoáng sản. Còn nền kinh tế TBCN Tập trung chủ yếu vào
tay một số nhà tư sản giàu có, các công ty tư nhân và các tập đoàn đa quốc gia.
Thứ ba, về quan hệ quản lý, mặc dù cả hai nền kinh tế đều có cơ chế thị
trường tự điều tiết. Nhưng trong khi nền KTTT định hướng XHCN
Chính phủ có vai trò quyết định về các chính sách và biện pháp kinh tế
nhằm đảm bảo sự phát triển kinh tế bền vững, công bằng và bảo vệ môi
trường thì TBCN Được điều tiết bởi các doanh nghiệp tư nhân và sự chi
phối của giới tài phiệt. lOMoAR cPSD| 61554836
Đặc trưng thứ tư là quan hệ phân phối. Chính phủ trong nền kinh tế
định hướng XHCN có vai trò quan trọng trong việc quản lý và điều tiết
phân phối kinh tế để đảm bảo tính công bằng trong việc phân phối tài
nguyên và sản phẩm. Phân phối theo lao động, hiệu quả kinh tế, phân
phối theo phúc lợi, trong đó phân phối theo lao động là chủ đạo. Còn
nền KT TBCN Các doanh nghiệp tư nhân và cá nhân có quyền quyết
định về việc sản xuất và phân phối sản phẩm của mình, và giá cả được
xác định bởi sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp. Do đó, phân phối
vốn góp là chủ đạo. Từ đó, việc phân phối kinh tế thường không đảm
bảo tính công bằng và bình đẳng trong xã hội.
Đặc trưng cuối cùng chính là kiến trúc thượng tầng. Nền KT định
hướng XHCN Bao gồm các cơ quan chính phủ và các tổ chức xã hội có
trách nhiệm đảm bảo tính công bằng và bình đẳng trong phân phối kinh
tế. Nhà nước do ĐCS cẩm quyền. Ở nền KT TBCN bao gồm các cơ quan
chính phủ và các tổ chức kinh tế có trách nhiệm thực hiện việc phân phối
tài nguyên và sản phẩm. Nhà nước do các đảng phái tranh cử cầm quyền.
Qua 5 đặc trưng trên, đặc trưng về xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật trình
độ cao của CNXH và đặt lợi ích của nhân dân lên trên là quan trọng nhất.
Vì đó là nền móng để phát triển QHSX và Kiến trúc thượng tầng đi theo định hướng XHCN.
Bên cạnh đó, ta sẽ tìm hiểu thêm về cơ sở tất yếu của nền KTTT định hướng XHCN ở VN
2. Cơ sở tất yếu của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam: •
Về Cơ sở lý luận: Quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát
triển của Lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất của Việt Nam đi từ nền
sản xuất nhỏ. Vì thế quan hệ sản xuất cần dựa trên kinh tế thị trường, sản
xuất hàng hóa với nhiều hình thức sở hữu,nhiều thành phần kinh tế. Do
đó, Việt Nam lựa chọn kinh tế thị trường chứ không phải nền kinh tế bao
cấp chỉ huy như trước đổi mới. Lịch sử kinh tế thị trường của tư bản chủ
nghĩa còn nhiều mâu thuẫn, hạn chế. Vì thế cần có hướng đi khác để đảm
bảo sự phát triển bền vững. Do đó, Việt Nam lựa chọn nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN chứ không phải lOMoAR cPSD| 61554836 TBCN. •
Về Cơ sở thực tiễn: Việt Nam cần hội nhập, phát triển kinh tế,
thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”. Thực tiễn trên thế giới và Việt Nam cho thấy kinh tế thị trường
là phương thức phân bổ nguồn lực hiệu quả mà loài người đã đạt được
so với các mô hình kinh tế phi thị trường. Kinh tế thị trường luôn là động
lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển nhanh và có hiệu quả. Dưới
tác động của các quy luật thị trường nền kinh tế luôn phát triển theo
hướng năng động, kích thích tiến bộ kỹ thuật - công nghệ, nâng cao năng
suất lao động, chất lượng sản phẩm và giá thành hạ. Do vậy, trong phát
triển của Việt Nam cần phải phát triển kinh tế thị trường. Phát triển kinh
tế thị trường định hướng XHCN sẽ phá vỡ tính chất tự cấp, tự túc, lạc
hậu của nền kinh tế, đẩy mạnh phân công lao động xã hội, phát triển
ngành nghề, tạo việc làm cho người lao động, thúc đẩy lực lượng sản
xuất phát triển mạnh mẽ, tạo cơ chế phân bổ và sử dụng nguồn lực xã
hội một cách hợp lý, tiết kiệm.
Về Cơ sở lịch sử Cách mạng Việt Nam:
– Đảng cộng sản lãnh đạo thành công Cách mạng dân tộc dân chủ.
Vì vậy Đảng phải có lý luận dẫn đường, có đường lối phát triển kinh
tế - xã hội hiệu quả, có uy tín và khả năng thuyết phục dân chúng tin
tưởng thực hiện đường lối đó, có được sự ủng hộ của người lao động hậu thuẫn cho Đảng
– Chính phủ vẫn giữ vai trò lãnh đạo và quản lý kinh tế, trong khi tư
nhân và các doanh nghiệp nước ngoài được phép tham gia vào hoạt
động kinh doanh. Tuy nhiên, tư nhân và các doanh nghiệp nước ngoài
chỉ được phép hoạt động trong những lĩnh vực được phép và có sự
kiểm soát của chính phủ. Ngoài ra, chính phủ cũng có một số chính
sách xã hội nhằm tăng cường bảo vệ quyền lợi của người lao động,
giảm bớt bất bình đẳng và tăng cường phát triển các lĩnh vực xã hội. lOMoAR cPSD| 61554836
Câu 2: Trình bày khái niệm, các bộ phận cấu thành và sự cần thiết phải
hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN. Phân tích nhiệm
vụ then chốt trong hoàn thiện thể chế là nâng cao vai trò lãnh đạo của
Đảng đối với nền kinh tế.
Trước hết, ta sẽ tìm hiểu thêm về 1 số khái niệm trong cụm từ “ thể chế kinh
tế thị trường định hướng XHCN”. Thể chế Là hệ thống luật pháp, quy tắc, bộ
máy quản lý và cơ chế vận hành để điều chỉnh các mối quan hệ và hoạt động
của con người trong một chế độ xã hội. Thể chế kinh tế: Là hệ thống luật
pháp, quy tắc, bộ máy quản lý và cơ chế vận hành để điều chỉnh các mối quan
hệ kinh tế và hoạt động của các chủ thể kinh tế. Như vậy, ta có thể hiểu “thể
chế kinh tế thị trường định hướng XHCN” là hệ thống đường lối chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội của Đảng Cộng sản; luật pháp, chính sách và bộ máy
quản lý của Nhà nước; cùng với cơ chế vận hành.Có tác dụng điều chỉnh quan
hệ lợi ích và phương thức hoạt động của các chủ thể kinh tế. Nhằm mục đích
xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật trình độ cao của CNXH, một xã hội “Dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Tiếp theo là các bộ phận cấu thành thể chế kinh tế thị trường định hướng
XHCN. Về đường lối, pháp luật như là: Đường lối kinh tế - xã hội của Đảng
Cộng sản; Luật pháp, chính sách, quy tắc, chế định...của pháp luật. Về các chủ
thể tham gia vào thị trường gồm Bộ máy quản lý Nhà nước; doanh nghiệp và
các tổ chức xã hội đại diện cho doanh nghiệp; dân cư, các tổ chức chính trị -
xã hội. Về cơ chế vận hành có Cơ chế thị trường, thông qua quy luật của thị
trường như: QL giá trị, QL cung- cầu, QL cạnh tranh ... Hay cơ chế vận hành
của các chủ thể trên thị trường là: Cơ chế phân cấp ( cấp trên – cấp dưới), Cơ
chế phối hợp (các cơ quan cùng cấp cùng làm việc với nhau), Cơ chế giám sát
đánh giá, Cơ chế tham gia
Vậy tại sao cần có sự cần thiết phải hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
định hướng XHCN? Có ba nguyên nhân chính: Do yêu cầu của thực tiễn, sự
dịch chuyển cơ sở hạ tầng kinh tế và xu thế phát huy vai trò của xã hội trong
xây dựng thể chế. Đầu tiên là do yêu cầu của thực tiễn. Nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN hướng tới trình độ phát triển cao, hiện đại, phát huy ưu thế
của cơ chế thị trường, đồng thời khắc phục những hạn chế của CNTB. Thực
tiễn đã chứng minh sự cần thiết phải hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định lOMoAR cPSD| 61554836
hướng XHCN để tăng cường năng lực cạnh tranh, đảm bảo sự công bằng, tăng
cường quản lý thị trường, tạo điều kiện cho sự phát triển bền vững và đáp ứng
yêu cầu của thị trường quốc tế.Trong khi điều kiện thực tiễn của Việt Nam còn
nhiều hạn chế. Vì thế, cần hoàn thiện Thể chế kinh tế thị trường định hướng
XHCN. Thứ hai, do sự dịch chuyển cơ sở hạ tầng kinh tế. Sự dịch chuyển
cơ sở hạ tầng của nền kinh tế đang diễnra rất mạnh mẽ trên toàn cầu, và đòi
hỏi các quốc gia phải cập nhật và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng XHCN để đáp ứng yêu cầu của thời đại. Việt Nam dịch chuyển từ nền
kinhtế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN,
hội nhập kinh tế quốc tế. Từ đó đòi hỏi sự hoàn thiện về kiến trúc thượng tầng,
tức là phải nâng cao năng lực quản lý của Nhà nước thông qua thể chế. Việc
hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN sẽ giúp các quốc gia
phát triển kinh tế một cách bền vững và hiệu quả, tạo điều kiện thuận lợi cho
sự phát triển của đất nước và các doanh nghiệp. Thứ ba, do xu thế phát huy
vai trò của xã hội trong xây dựng thể chế. Xu hướng phát huy vai trò của xã
hội trong xây dựng thể chế kinh tế đang ngày càng trở nên quan trọng trên toàn
cầu, và đòi hỏi các quốc gia phải hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng XHCN để đáp ứng yêu cầu của thời đại, đòi hỏi các quốc gia phải hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN để tăng cường sự minh bạch
và trách nhiệm xã hội, tạo điều kiện cho sự phát triển bền vững, tăng
cườngquản lý và giám sát, và tạo điều kiện cho sự đổi mới và sáng tạo. Các tổ
chức chính trị - xã hội và Tổ chức xã hội – nghề nghiệp đang phát triển mạnh
mẽ. Đó là sự đại diện cho các thành phần xã hội, có vai trò phản biện xã hội,
theo tinh thần dân chủ và xây dựng. Vì thế, cần tiếp tục hoàn thiện Thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Cuối cùng chính là nhiệm vụ then chốt phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng
trong quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN. Có ba
vai trò cần phát huy. Phát triển lý luận, hoạch định đường lối là vai trò đầu
tiên. Đảng cần phát triển lý luận về thể chế kinh tế thị trường định hướng
XHCN, đảm bảo tính khoa học và phù hợp với tình hình thực tế của đất nước.
Đảng có trách nhiệm hoạch định và đưa ra đường lối phát triển kinh tế, đảm
bảo tính bền vững và đúng đắn của nền kinh tế. Vai trò thứ 2 là chỉnh đốn,
giám sát, phòng chống tham nhũng. Đảng cần chỉnh đốn các hoạt động kinh lOMoAR cPSD| 61554836
tế để đảm bảo tính công bằng, đúng đắn và phù hợp với quy định pháp luật.
Đảng cần tăng cường giám sát các hoạt động kinh tế, đảm bảo tính công bằng
và tránh các hành vi phi pháp và gian lận trong hoạt động kinh tế. Vai trò thứ
ba cùng là vai trò cuối cùng – Vai trò lãnh đạo, phát huy dân chủ trong Đảng
và trong toàn xã hội. Đảng cần đảm bảo tính lãnh đạo trong quá trình hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN. Đảng cần phát huy vai trò
dân chủ trong các quyết định quan trọng liên quan đến hoạt động kinh tế, đảm
bảo tính công bằng và tính đúng đắn của các quyết định đó. Đảng cần tạo điều
kiện cho sự tham gia của các tầng lớp nhân dân vào hoạt động kinh tế, đảm bảo
tính công bằng và tính đúng đắn của hoạt động kinh tế lOMoAR cPSD| 61554836
Câu 3: Trình bày khái niệm CM công nghệ và đặc trưng của cách mạng
khoa học công nghệ hiện đại. Phân tích nội dung công nghiệp hóa tại Việt
Nam, thích ứng với cách mạng khoa học công nghệ hiện đại.
Trước hết là khái niệm cách mạng công nghiệp. CM công nghiệp là những
bước nhảy vọt về chất trình độ của tư liệu lao động trên cơ sở những phát minh
đột phá về kỹ thuật và công nghệ trong quá trình phát triển của nhân loại kéo
theo sự thay đổi căn bản về phân công lao động xã hội cũng như tạo bước phát
triển năng suất lao động cao hơn hẳn nhờ áp dụng một cách phổ biến những
tính năng mới trong kỹ thuật - công nghệ đó vào đời sống xã hội.
Tiếp theo, CM KH công nghệ hiện đại có hai đặc trưng. Đặc trưng thứ nhất,
ngày nay khoa học trở thành LLSX trực tiếp, bởi vì do hai yếu tố. Yếu tố đầu
tiên là sử dụng tri thức khoa học có vai trò chủ yếu và trực tiếp để tạo nên sản
phẩm. Khoa học đã dẫn đến sự phát triển của các công nghệ mới như trí tuệ
nhân tạo, robot, và máy tính, giúp cho việc sản xuất trở nên hiệu quả hơn và
nhanh chóng hơn, cải tiến quy trình sản xuất, áp dụng nhiều lĩnh vực khác
nhau. Yếu tố còn lại là các ngành sản xuất dựa trên thành tựu của Cách mạng
công nghiệp hiện đại ngày càng chiếm tỷ trọng chủ yếu trong nền kinh tế quốc
dân. Đặc trưng thứ hai, thời gian nâng cấp các phát minh ngày càng được rút
ngắn đi: Các công nghệ mới như trí tuệ nhân tạo, học sâu, và blockchain đã
giúp cho quá trình nghiên cứu và phát triển trở nên nhanh chóng hơn và hiệu
quả hơn. Sự cạnh tranh giữa các công ty trong các ngành công nghiệp khác
nhau đã giúp tăng tốc độ phát triển và nâng cấp sản phẩm. Ví dụ: Trong ngành
công nghiệp máy tính: Máy tính kỹ thuật số đầu tiên
ENIAC ra đời năm 1946; 30 năm sau, năm 1981, IBM mới cho ra đời chiếc PC
nhỏ gọn đầu tiên; 9 năm sau, HTML và WWW ra đời; nhưng chỉ 2 năm sau,
các chip vi xử lý ra đời, và tiếp đó 1 năm hoặc thậm chí sau đó vài tháng, lần
lượt các phát minh như công cụ tìm kiếm Google, kết nối internet không dây, hệ điều hành Window,...
Bên cạnh đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đưa ra khái niệm về Công nghiệp hóa.
Về tính chất, Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản,
toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã
hội. Về phạm vi, Công nghiệp hóa tập trung vào phát triển các ngành công
nghiệp chủ chốt nhằm nângcao năng suất lao động và giá trị sản xuất của đất lOMoAR cPSD| 61554836
nước, phát triển các doanh nghiệp tư nhân, thu hút đầu tư, giảm quy mô các
doanh nghiệp Nhà nước không cần thiết, tăng cường xuất khẩu,... cải cách các
cơ quan quản lý Nhà nước, đưa ra các chính sách mới về thuế và tài chính,
nâng cao trình độ dân trí, đào tạo nhân lực. Về nội dung, Từ sử dụng lao động
thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công
nghệ, phương tiện, phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển của
công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ. Về mục đích, công nghiệp hóa
có mục đích là tạo ra một cơ sở sản xuất công nghiệp bền vững, tạo ra năng
suất lao động xã hội cao, tăng cường sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam
trên thị trường quốc tế, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội,
từ đó nâng cao đời sống của người dân và phát triển đất nước.
Có 3 đặc điểm thực hiện công nghiệp hóa tại Việt Nam. Thứ nhất, về thể chế
và mục tiêu,quá trình công nghiệp hóa diễn ra trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa có những đặc điểm riêng biệt, bao gồm sự phát triển
của các doanh nghiệp tư nhân và hợp tác xã, sự tham gia tích cực của người
lao động, sự cải thiện điều kiện sống và đời sống văn hóa của người dân và sự
điều hành của chính phủ thông qua các chính sách và quy định phù hợp. Thứ
hai, về kỹ thuật công nghệ: Quá trình công nghiệp hóa ở Việt Nam diễn ra
trong sự bùng nổcủa cả hai cuộc Cách mạng Công nghiệp hiện đại lần thứ ba
và lần thứ tư, đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế của Việt Nam.
Thứ ba, về thị trường: CNH tại Việt Nam diễn ra trong xu thế toàn cầu hóa và
hội nhập kinh tế quốc tế. Nó đã tạo ra điều kiện mở rộng thị trường, tiếp thu
KHCN, vốn, chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nước, tạo cơ hội để nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực, tạo điều kiện để thúc đẩy hội nhập của các lĩnh vực
văn hóa, chính trị, củng cố an ninh quốc phòng.
Cuối cùng, ta sẽ tìm hiểu sâu hơn về nội dung của công nghiệp hóa. Một
là, phát triển LLSX trên cơ sở thành tựu cách mạng KHCN hiện đại. Ứng dụng
các thành tựu CMCN 4.0, đặc biệt là công nghệ số vào đồng bộ các lĩnh vực
kinh tế như: nông nghiệp, dịch vụ, sản xuất hàng tiêu dùng,... từ đó tiến tới xây
dựng nền kinh tế tri thức. Tập trung phát triển tiềm lực KHCN, đổi mới căn
bản giáo dục đào tạo nhân lực trình độ cao. Thúc đẩy đổi mới sáng tạo, khởi
nghiệp trong toàn xã hội. Đầu tư hạ tầng đồng bộ, tiếp cận trình độ tiên tiến
nhất trong các lĩnh vực trọng điểm như viễn thông, CNTT, truyền thông, tài lOMoAR cPSD| 61554836
chính ngân hàng. Hai là, chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, hợp
lý, hiệu quả. Cơ cấu kinh tế là tập hợp các bộ phận hợp thành tổng thể nền kinh
tế và mối tương quan tỷ lệ giữa các bộ phận hợp thành so với tổng thể. Dịch
chuyển cơ cấu kinh tế để thích ứng với CMCN 4.0 thì cần phải: Nâng cao tỷ
trọng công nghiệp và dịch vụ ( đặc biệt là công nghiệp công nghệ cao), giảm
tỷ trọng của nông nghiệp. Nhưng cả 3 lĩnh vực đều phải tăng về giá trị; Công
nghiệp hóa, hiện đại hóa “Nông nghiệp, nông thôn và nông dân”; Quy hoạch
vùng kinh tế, chuẩn bị các chiến lược phát triển mới phù hợp với sự biến đổi
khí hậu và xu thế của thị trường nhân lực trong bối cảnh hội nhập. Ba là điều
chỉnh QHSX và Kiến trúc thượng tầng phù hợp với sự phát triển LLSX. Kinh
tế Nhà nước dựa trên công hữu vẫn là chủ đạo, nắm giữ lĩnh vực then chốt. Tạo
điều kiện cho các thành phần kinh tế phát triển, kinh tế tư nhân là một nguồn
lực then chốt cho CNH, HĐH. Hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN,
hoàn thiện hệ thống luật pháp, cải cách hành chính, xây dựng chính phủ điện
tử, phòng chống tham nhũng. Tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế,
trên nguyên tắc đảm bảo nền kinh tế độc lập tự chủ, đảm bảo an ninh quốc phòng. lOMoAR cPSD| 61554836 PHẦN II:
Câu 1: Phân tích NN ra đời, thực chất, hình thức và biểu hiện mới của
các tổ chức độc quyền?
Nguyên nhân dẫn tới sự hình thành các tổ chức độc quyền:
Vạn vật trên thế giới này đều có nguồn gốc và nguyên nhân ra đời của nó. Cũng
vậy, các tổ chức độc quyền ra đời do nhiều yếu tố. Vậy nên trước hết, chúng
ta sẽ làm rõ những yếu tố đó. Đầu tiên, do sự cạnh tranh tự do. Tư bản lớn
ngày càng phát triển mạnh, trong khi đó tư bản nhỏ ngày càng làm ăn thua lỗ,
phá sản. Vì vậy chỉ còn lại các nhà tư bản lớn cạnh tranh với nhau. Từ đó đòi
hỏi các nhà tư bản phải đầu tư chi phí lớn nhưng rủi ro cao, khó phân thắng
bại. Do sự cạnh tranh không có lợi, nên các tư bản lớn sẽ thỏa hiệp, liên minh
với nhau thao túng thị trường, từ đó tạo nên các tổ chức độc quyền.Thứ hai,
do sự phát triển của lực lượng sản xuất, đặc biệt là về khoa học kĩ thuật: Vì nhu
cầu ứng dụngkhoa học kĩ thuật vào sản xuất cần vốn lớn, nhưng thời gian hoàn
vốn chậm và rủi ro cao, nên từng nhà tư bản cá biệt khó đáp ứng được. Do đó
các nhà tư bản phải đẩy nhanh quá trình tích tụ và tậptrung sản xuất bằng việc
liên minh, liên kết thành những hãng có sức mạnh lớn hơn. Và đó là tiền đề tạo
nên các tổ chức độc quyền.Thứ ba, do khủng hoảng kinh tế: khi khủng hoảng
kinh tế xảy ra, mọi mặt của đời sống kinh tế đều bị ảnh hưởng. Tư bản nhỏ với
khả năng kinh tế kém, dễ bị phá sản. Còn các nhà tư bản lớn cũng bị ảnh hưởng,
thiệt hại nặng nề. Và để phục hồi sản xuất, các nhà tư bản lớn cần liên minh lại
với nhau. Thêm nữa sự phát triển của hệ thống tín dụng trở thành đòn bẩy mạnh
mẽ thúc đẩy tập trung sản xuất, ra đời các tổ chức độc quyền. Bên cạnh đó,
Thực chất TCĐQ chính là liên minh các nhà tư bản với nhau dưới nhiều hình
thức khác nhau. Họ nắm giữ phần lớn việc sản xuất và tiêu thụ một hoặc một
số loại hàng hóa. Họ có khả năng khống chế thị trường, định giá cả nhằm thu
lợi nhuận độc quyền cao.
Tiếp theo, tổ chức độc quyền có 4 hình thức. Một là Cartel - tổ chức độc
quyền thấp nhất, sơ khai nhất. Các thành viên thỏa thuận với nhau về giá cả,
sản lượng hàng hóa, thị trường tiêu thụ, kỳ hạn thanh toán,... Các nhà tư bản
vẫn độc lập về sản xuất và lưu thông hàng hóa. Do chỉ dựa trên sự thống nhất
về đầu ra tiêu thụ nên liên minh khó bền vững. Hai là Syndicate - hình thức lOMoAR cPSD| 61554836
độc quyền cao hơn, ổn định hơn Cartel. TCĐQ dựa trên sự thống nhất về lưu
thông (cả đầu vào lẫn đầu ra).Từng thành viên vẫn giữ độc lập về sản xuất, việc
đầu tư, mua bán sẽ do một ban quản trị chung điều phối. Ba là Trust - TCĐQ
dựa trên sự thống nhất cả lưu thông và sản xuất. Việc đầu tư các yếu tố đầu
vào, tiêu thụ đầu ra và tổ chức sản xuất sẽ do một bộ máy ban quản trị thống
nhất. Từng thành viên trở thành cổ đông, thu lợi nhuận theo cổ phần. Bốn là
Consortium - TCĐQ có trình độ và quy mô lớn hơn các hình thức độc quyền
trên. Đây là TCĐQ sản xuất đa ngành, có sức mạnh thao túng, chi phối nhiều
lĩnh vực kinh tế. Về mặt kinh tế, Consortium có sự kết hợp giữa giới tư bản
công nghiệp và giới tư bản ngân hàng. Về hình thức: bao hàm cả hình thức
Trust và hình thức Syndicate.
Phần cuối cùng ta tìm hiểu sẽ là biểu hiện mới của tổ chức độc quyền. Từ
giữa thế kỉ XX, bên cạnh các mối liên kết theo chiều dọc và ngang, còn phát
triển liên kết mới- liên kết đa ngành, đa lĩnh vực thành các Conglomerate và
Concern khổng lồ. Về kinh tế, TCĐQ thống trị các ngành hàng, nhưng có sự
phát triển hệ thống các doanh nghiệp nhỏ đóng vai trò vệ tinh, gia công, thầu
vụ...cho các TCĐQ. Về cơ chế thao túng, Xuất hiện trở lại hệ thống doanh
nghiệp nhỏ, là nhà cung cấp, gia công, đại lý cho các tổ chức độc quyền. Quá
trình tích tụ và tập trung sản xuất trên quy mô lớn diễn ra đồng thời với quá
trình phi tập trung sản xuất, và từ đó ngày càng xuất hiện nhiều các tổ chức
độc quyền vừa và nhỏ. Về hình thức: Xuất hiện 2 hình thức mới là Concern và
Conglomerate. Cả 2 hình thức này đều là TCĐQ đa ngành, thao túng thị trường
quốc tế, là hãng đa quốc gia, xuyên quốc gia.Tuy nhiên, Concern là TCĐQ đa
ngành, mà các ngành có liên hệ về kỹ thuật. Còn mục đích chủ yếu của các
Conglomerate là thu lợi nhuận từ kinh doanh chứng khoán.
Câu 2: Phân tích NN ra đời, thực chất, hình thức và biểu hiện mới của tư bản tài chính?
Vạn vật trên đời này đều có nguồn gốc và nguyên nhân ra đời của nó. Trước
hết, chúng ta sẽ làm rõ về sự ra đời của tư bản tài chính. Đầu tiên, do sự liên
minh, tập trung TB trong 02 lĩnh vực: Ngân hàng & Công nghiệp. Thứ hai, từ
2 loại cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường: trong nội bộ ngành và giữa các lOMoAR cPSD| 61554836
ngành, hình thành nên 02 giới độc quyền: Tư bản độc quyền ngân hàng thao
túng tiền tệ, tín dụng của xã hội và Tư bản độc quyền công nghiệp thao túng
nền sản xuất của xã hội. Để củng cố sự thao túng, tất yếu là 02 giới độc quyền
này thâm nhập vào nhau. TB độc quyền công nghiệp cần tín dụng tiền tệ nền
cần phải chi phối TBĐQ ngân hàng để dễ vay nợ, nên phải mua cổ phần chi
phối ngân hàng lớn. Cũng giống như vậy, TBĐQ ngân hàng cần kiểm soát rủi
ro cho vay nên cần kiểm soát TBĐQ Công nghiệp để có dự án tốt, bởi thế nên
phải mua cổ phần chi phối các DN lớn. Từ đó tạo nên tư bản
tài chính (còn gọi là giới tài phiệt). Thực chất của tư bản tài chính chính là sự
thâm nhập, dung hợp lẫn nhau giữa TBĐC công nghiệp và TBĐQ ngân hàng;
có ảnh hưởng chi phối cả nền kinh tế chứ không chỉ là từng ngành hàng.
Sự phát triển của tư bản tài chính dần dẫn đến sự hình thành một nhóm nhỏ
những nhà tư bản kếch xù chi phối toàn bộ đời sống kinh tế chính trị của toàn
xã hội, gọi là tài phiệt (hay trùm tài chính). Các tài phiệt thực hiện sự thống trị
của mình thông qua cơ chế tham dự - TBTC đầu tư nắm giữ cổ phần khống chế
nhiều TCĐQ lớn ở nhiều ngành hành. Mỗi TCĐQ lớn lại có nhiều công ty con,
DN thành viên, chính nhánh…Nhờ có cơ chế và phương pháp tố chức tập đoàn
theo kiểu móc xích như vậy, bằng một lượng tư bản đầu tư nhỏ, mà tài phiệt có
thể khống chế và điều tiết được một lượng tư bản lớn gấp nhiều lần. Ngoài ra
còn có cơ chế ủy thác, nhà TBTC không cần bỏ ra 100% vốn cho Qũy đầu tư
tài chính, chỉ cần góp cổ phần đủ lớn để chí phối ( Ví dụ: 50%), phần còn lại,
TBTC huy động vốn của các nhà đầu tư khác.
Cuối cùng, ta sẽ tìm hiểu những biểu hiện mới của tư bản tài chính. Về
phạm vi ảnh hưởng, TBTC chi phối, làm lũng đoạn thị trường tài chính quốc
tế tạo nên khủng hoảng tài chính khu vực và thế giới. Về cách thức, TBTC ứng
dụng công nghệ thông tin để giao dịnh toàn cầu với các mô hình sàn giao dịch
dầu thô, vàng, gạo,… được luật pháp nhiều nước công nhận. lOMoAR cPSD| 61554836
Câu 3: Phân tích NN ra đời, thực chất, hình thức và biểu hiện mới của
xuất khẩu tư bản?
Vạn vật trên thế giới đều có nguồn gốc và nguyên nhân ra đời của nó. Trước
hết, chúng ta sẽ làm rõ về sự ra đời của xuất khẩu tư bản. Tại các nước phát
triển, tình trạng "tư bản thừa" làm nền kinh tế trong nước bão hòa, thị trường
bị các TCĐQ thao túng. Vì vậy nếu tiếp tục đầu tư trong nước sẽ không có hiệu
quả, khó đạt được lợi nhuận. Do đó, các nhà tư bản tìm kiếm các thị trường
mới bằng việc đầu tư ra nước ngoài để mang lại tỷ suất lợi nhuận cao. Trong
lịch sử, nhiều nước tư bản lớn có thuộc địa, vì thế cần đầu tư sang các thuộc
địa để khai thác tài nguyên. Ví dụ, Pháp xây dựng nhiều tuyến đường sắt, mở
rộng đường bộ tại VN nhằm mục đích phục vụ cho việc khai thác, vận chuyển
tài nguyên lâu dài tại các đồn điền, hầm mỏ, cảng biển,...Bên cạnh đó, thực
chất của xuất khẩu tư bản Là việc đầu tư tư bản ra nước ngoài để sản xuất giá
trị thặng dư (GTTD) và thực hiện giá trị thặng dư ở nước ngoài, nhằm làm
phương tiện để bóc lột giá trị thặng dư ở nước nhập khẩu. Khác biệt với xuất
khẩu hàng hóa là sản xuất GTTD ở trong nước, chỉ thực hiện GTTD ở nước
ngoài(tức là bán hàng để thu về Tư bản tiền tệ).
Tiếp theo, xuất khẩu tư bản có 3 hình thức. Một là theo chủ thể xuất khẩu.
Xuất khẩu tư bản của nhà nước nhằm mục tiêu kinh tế, chính trị, quân sự.
Xuất khẩu tư nhân nhằm mục đích lợi nhuận. Hai là theo cách thức đầu tư.
XKTB trực tiếp (FDI) - Nhà tư bản trực tiếp đầu tư vốn và thực hiện sản xuất
kinh doanh. XKTB gián tiếp là hình thức đầu tư thông qua việc cho vay để thu
lợi tức, lãi suất, mua cổ phần, trái phiếu, đầu tư chứng khoán ở nước ngoài, tài
trợ vốn ODA,... Ba là theo hình thức hoạt động, bao gồm chi nhánh của các
công ty xuyên quốc gia, các hoạt độngtài chính, tín dụng của ngân hàng, chuyển giao công nghệ,...
Phần cuối cùng ta tìm hiểu sẽ là biểu hiện mới của xuất khẩu tư bản. Về
dòng vốn đầu tư, trước kia luồng tư bản xuất khẩu chủ yếu từ các nước tư bản
phát triển sang các nước kém phát triển. Gần đây, đại bộ phận dòng đầu tư
chảy qua lại giữa các nước tư bản phát triển, do các ngành ở đây có hàm lượng
khoa học-kỹ thuật cao và vốn lớn, nên đầu tư sẽ thu được lợi nhuận cao. Trong
khi đó các nước nhỏ chưa đủ điều kiện về kinh tế, chính trị, xã hội, nên đầu tư, lOMoAR cPSD| 61554836
tiếp nhận sản xuất có phần rủi ro và tỷ suất lợi nhuận không cao. Để tránh rào
cản chính sách, giữa các nước lớn có thể đầu tư qua nước thứ 3. Về chính trị,
nước lớn tăng cường sử dụng XKTB của nhà nước và tư nhân để chi phối nền
kinh tế của các nước nhỏ. Từ đó nhờ ưu thế về vốn, công nghệ và thị trường,
các nước lớn có khả năng chi phối chính trị, văn hóa, xã hội. Chủ thể XKTB
có sự thay đổi lớn: Vai trò của các công ty xuyên quốc gia ngày càng to lớn,
xuất hiện thêm nhiều chủ thể XKTB từ các nước đang phát triển. Hình thức
xuất khẩu TB rất đa dạng, sự đan xen với xuất khẩu hàng hóa ngày càng tăng.
Sự kết hợp giữa xuất khẩu tư bản với các hợp đồng buôn bán hàng hóa, dịch
vụ, chất xám,... không ngừng tăng. Sự áp đặt mang tính thực dân trong xuất
khẩu tư bản dần được loại bỏ, thay vào đó nguyên tắc hợp tác cùng có lợi được tôn trọng và đề cao.