-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Phân tích ngôn ngữ chương trình thời sự trên truyền hình (VTV1 lúc 19h và VTC1 lúc 20h) | Tiểu luận ngôn ngữ truyền thông
Hệ thống những vấn đề cơ sở lý luận về sử dụng ngôn ngữ chương trình thời sự trên truyền hình. Phân tích thực trạng sử dụng ngôn ngữ của chương trình thời sự trên kênh VTV1 lúc 19h và VTC1 lúc 20h. Các giải pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng ngôn ngữ trên chương trình thời sự. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Ngôn ngữ truyền thông 1 tài liệu
Học viện Báo chí và Tuyên truyền 1.3 K tài liệu
Phân tích ngôn ngữ chương trình thời sự trên truyền hình (VTV1 lúc 19h và VTC1 lúc 20h) | Tiểu luận ngôn ngữ truyền thông
Hệ thống những vấn đề cơ sở lý luận về sử dụng ngôn ngữ chương trình thời sự trên truyền hình. Phân tích thực trạng sử dụng ngôn ngữ của chương trình thời sự trên kênh VTV1 lúc 19h và VTC1 lúc 20h. Các giải pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng ngôn ngữ trên chương trình thời sự. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Môn: Ngôn ngữ truyền thông 1 tài liệu
Trường: Học viện Báo chí và Tuyên truyền 1.3 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:
Tài liệu khác của Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Preview text:
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA QUAN HỆ CÔNG CHÚNG VÀ QUẢNG CÁO
-----------------------------------------------
TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN NGÔN NGỮ TRUYỀN THÔNG
ĐỀ TÀI: PHÂN TÍCH NGÔN NGỮ CHƯƠNG TRÌNH THỜI SỰ TRÊN
TRUYỀN HÌNH (VTC1 20H VÀ VTV1 19H)
Danh sách thành viên – Nhóm 6 – Lớp Truyền thông Marketing A1 K42
Đào Thu Uyên (Trưởng nhóm) : 2256160043 Phạm Quốc Anh : 2256160005 Nguyễn Ánh Dương : 2256160012 Trần Khánh Ngân : 2256160033
Giảng viên hướng dẫn: TS. Vũ Tuấn Hà 1 MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...................................................................................................................3
1. Tính cấp thiết của đề tài...................................................................................3
2. Tình hình nghiên cứu........................................................................................4
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu...................................................................5
3.1. Mục đích nghiên cứu..................................................................................5
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu..................................................................................6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu....................................................................6
4.1. Đối tượng nghiên cứu.................................................................................6
4.2. Phạm vi nghiên cứu....................................................................................6
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.....................................................6
5.1. Cơ sở lý luận................................................................................................6
5.2. Phương pháp nghiên cứu...........................................................................7
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài............................................................7
6.1. Ý nghĩa lý luận của đề tài...........................................................................7
6.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài.......................................................................7
7. Kết cấu...............................................................................................................7
NỘI DUNG...............................................................................................................8
Chương I: Hệ thống những vấn đề cơ sở lý luận về sử dụng ngôn ngữ
chương trình thời sự trên truyền hình................................................................8
1. Ngôn ngữ.........................................................................................................8
2. Báo chí...........................................................................................................13
3. Truyền hình..................................................................................................17
4. Phóng sự........................................................................................................23
5. Giới thiệu về VTV1 và VTC1......................................................................26
6. Các nguyên tắc sử dụng ngôn ngữ trong chương trình thời sự trên
truyền hình.......................................................................................................28
Chương II: Phân tích thực trạng sử dụng ngôn ngữ của chương trình thời
sự trên kênh VTV1 lúc 19h và VTC1 lúc 20h...................................................29
1. Ngôn ngữ hình ảnh....................................................................................29
2. Ngôn ngữ âm thanh...................................................................................32 2
3. Dẫn chương trình.......................................................................................33
Chương III: Các giải pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng ngôn ngữ trên
chương trình thời sự...........................................................................................37
1. Tầm quan trọng của việc sử dụng ngôn ngữ phù hợp...........................37
2. Giải pháp ngắn hạn...................................................................................38
3. Biện pháp dài hạn......................................................................................39
TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................40 DANH MỤC HÌNH ẢNH
Hình 1: Hình ảnh chữ ba chiều “Chúc Mừng Năm Mới”..................................30
Hình 2: Chất lượng hình ảnh của bản tin kém....................................................32
Hình 3: Sự cố vô tình bật cười không nghiêm túc trong buổi phát sóng..........35
Hình 4: Biên tập viên nam mắc lỗi trang phục không phù hợp với tiêu chuẩn
của trường quay......................................................................................................35
Hình 5: Biên tập viên nữ mắc lỗi trang phục không phù hợp với tiêu chuẩn
của trường quay......................................................................................................36
Hình 6: Một bản tin thường ngày của thời sự 20h VTC1..................................37 3 MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xưa nay, công chúng thường tiếp nhận những thông tin thường nhật qua
những tờ báo giấy, những tờ rơi hay thậm chí thông qua hình thức truyền miệng.
Tuy nhiên, những thông tin công chúng nhận được thường có những thiếu sót,
không rõ ràng và không mang tính cập nhật nhanh. Thế kỷ XXI, thời đại của truyền
hình kỹ thuật số, chương trình truyền hình đã cung cấp thông tin đến với người dân,
người dân được đón nhận thông tin một cách nhanh chóng. Cùng lúc đó, chương
trình thời sự được ra đời và đưa đến những thông tin, lợi ích rất lớn đến với công
chúng nhờ những cách truyền tải thông tin, phóng sự mang tính cập nhật. Vì vậy,
chương trình thời sự được công chúng lựa chọn trở thành một kênh để mọi người
nhận những thông tin chính thống.
Nhờ sự phủ rộng toàn quốc của chương trình thời sự trên truyền hình, người
dân sống và làm việc trên lãnh thổ Việt Nam luôn tin tưởng, đón xem những bản tin
quan trọng và chính thống được phát trên sóng truyền hình, đặc biệt là chương trình
thời sự lúc 19h của VTV1 và chương trình thời sự lúc 20h của VTC1 bởi độ uy tín,
chính xác, được kiểm duyệt kỹ càng về nội dung. Chính vì vậy, việc sử dụng ngôn
ngữ, ngôn từ, lời nói trong suốt chương trình cũng phải chính xác và phổ thông để
phù hợp với nhu cầu tiếp nhận của công chúng. Do đó, nghiên cứu “Phân tích ngôn
ngữ chương trình thời sự trên truyền hình (VTC1 20h và VTV1 19h)” là quan trọng.
Tuy nhiên, cho đến thời điểm hiện tại, dù đã có kha khá tài liệu, nghiên cứu
khoa học, giáo trình, luận văn về ngôn ngữ, phân loại ngôn ngữ và phương thức
vận dụng ngôn ngữ, nhưng các kiến thức khoa học về ngôn ngữ vẫn chưa được áp
dụng một cách thật sự hiệu quả và toàn diện. Bên cạnh đó, các vấn đề trong việc
vận dụng ngôn ngữ trong các chương trình thời sự trên truyền hình vẫn chưa được 4
đề cập đến và tập trung nghiên cứu, do đó còn tồn tại nhiều hạn chế chưa được
khắc phục, những điểm mạnh, ưu thế trong việc sử dụng ngôn ngữ chưa được tập
trung phát triển. Hệ thống các kênh thông tin, chương trình thời sự, tiêu biểu như:
Chương trình thời sự VTV1 lúc 19h và VTC1 lúc 20h, chưa được đem ra đối chiếu,
so sánh, xuất hiện hiện tượng thiếu nhất quán, tồn tại một số lỗi diễn đạt ngôn ngữ
dẫn đến việc hiểu sai nội dung, ý nghĩa của thông tin.
Đây là một đặc điểm mới lạ, sáng tạo và chưa gặp phải sự trùng lặp với
những luận văn của thế hệ đi trước mà đề tài này mang đến. Từ đó, càng phải
khẳng định rằng, “Phân tích ngôn ngữ thời sự trên truyền hình (VTC1 20H và
VTV1 19H)” là một đề tài vô cùng cấp thiết, đóng vai trò quan trọng là một luận
văn thiết yếu trong việc phục vụ đóng góp nghiên cứu cho sinh viên đang học tập tại các cơ sở báo chí.
Thấu hiểu về những vấn đề còn đang tồn đọng của các bài luận về ngôn ngữ
trên truyền hình, bài “Phân tích ngôn ngữ chương trình thời sự trên truyền hình
(VTV1 lúc 19h và VTC1 lúc 20h)” được thôi thúc ra đời nhằm cung cấp một lượng
lớn thông tin, kiến thức chuyên môn thuộc lĩnh vực báo chí truyền hình, ngôn ngữ
báo chí, ngôn ngữ thời sự và ngôn ngữ truyền hình cho kho tàng báo chí Việt Nam;
đồng thời, bài luận văn với những phân tích chuyên sâu về lĩnh vực được đề cập sẽ
góp phần cải thiện và nâng cao chất lượng cho bản tin, phóng sự truyền hình và
ngôn ngữ thời sự trên truyền hình của nước nhà một cách đầy đủ nhất.
2. Tình hình nghiên cứu
Đề tài dự kiến tìm hiểu các nghiên cứu trong nước về ngôn ngữ được sử
dụng trong chương trình thời sự trên truyền hình hiện nay, nghiên cứu về thực trạng
và giải pháp cho việc sử dụng ngôn ngữ trên chương trình thời sự hiện nay.
Những bài nghiên cứu tiêu biểu về ngôn ngữ được sử dụng trong chương
trình thời sự trên truyền hình: “Ngôn ngữ truyền hình trong bản tin thời sự đài
truyền hình Việt Nam” (2004) của Mai Thị Minh Thảo, “Ngôn ngữ phóng sự truyền 5
hình trong chương trình thời sự của Đài Phát thanh và Truyền hình Hải Phòng
(Khảo sát bản tin thời sự của Đài Phát thanh và Truyền hình Hải Phòng từ tháng
6/2017 đến tháng 12/2017)” (2020) do Phạm Thị Thu Hoài, “Ngôn ngữ phóng sự
trên VTV1 đài truyền hình Việt Nam (Khảo sát từ 1/4/2012 đến 30/6/2012)” (2012)
của Bùi Minh Hằng,... Tuy nhiên, tất cả các cuốn giáo trình và tài liệu tham khảo
được nêu trên đều không tìm hiểu cụ thể ngôn ngữ trong chương trình thời sự trên kênh VTC1 lúc 20h.
Những bài nghiên cứu tiêu biểu về thực trạng và giải pháp cho việc sử dụng
ngôn ngữ trên truyền hình hiện nay như: “Những biện pháp làm nâng cao chất
lượng ngôn ngữ trong chương trình thời sự - Đài Truyền hình Việt Nam” (2000)
của Nguyễn Thị Thanh Phượng, “Sử dụng ngôn ngữ trên truyền hình: thực trạng và
những giải pháp” (2014) của Vũ Thị Kim Hoa, “Những yêu cầu đối với ngôn ngữ
lời nói trong chương trình thời sự truyền hình” của Tạp chí Lý luận chính trị và
Truyền thông (2015) của TS. Trương Thị Kiên, ...
Các tài liệu tham khảo ở Việt Nam chủ yếu nói về ngôn ngữ trên truyền hình
và báo chí nhưng chưa có nhiều tài liệu khai thác sâu vào ngôn ngữ trên chương
trình thời sự. Chính vì vậy, đây vẫn là một đề tài nghiên cứu tương đối mới và cần được khai thác sâu hơn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Dựa vào hệ thống các khái niệm lý luận, các luận văn, luận án về ngôn ngữ
truyền hình, ngôn ngữ thời sự và ngôn ngữ báo chí, đề tài nghiên cứu về ngôn ngữ
thời sự của bản tin thời sự 19H trên VTV1 Đài truyền hình Việt Nam và bản tin
thời sự 20H trên Đài truyền hình kỹ thuật số VTC1. Trên cơ sở khảo sát thực trạng
sử dụng ngôn ngữ trên truyền hình, đề tài trình bày và đề xuất những giải pháp
nhằm cải thiện và nâng cao hiệu quả của việc sử dụng ngôn ngữ trên các bản tin truyền hình. 6
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện các mục tiêu đã đề ra, luận văn đã tiến hành thực hiện các
nhiệm vụ nghiên cứu như sau:
- Hệ thống những vấn đề cơ sở lý luận về sử dụng ngôn ngữ chương trình thời sự trên truyền hình
- Phân tích thực trạng sử dụng ngôn ngữ của chương trình thời sự VTV1 19h và VTC1 20h
- Các giải pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng ngôn ngữ trên chương trình thời sự
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là “Phân tích ngôn ngữ chương trình
thời sự trên truyền hình (VTC1 20h và VTV1 19h)”.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ tiểu luận của một nhóm sinh viên, chúng tôi không mở
rộng đối tượng và phạm vi nghiên cứu là tất cả các bản tin thời sự của hai kênh
VTV1 lúc 19h và VTC1 lúc 20h, mà chỉ tập trung nghiên cứu phân tích ngôn ngữ
trong các bản tin cụ thể. Nghiên cứu được thực hiện trong phạm vi lãnh thổ đất
nước Việt Nam, trong khoảng thời gian từ 2016 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của đề tài là khái niệm và lý thuyết về ngôn ngữ; chương trình
thời sự; truyền hình; ngôn ngữ báo chí; ngôn ngữ truyền hình; ngôn ngữ phóng sự;
VTV1 lúc 19h; VTC1 lúc 20h. Qua đó chỉ ra lợi ích, tác động và ảnh hưởng của
ngôn ngữ thời sự truyền hình trên VTC1 lúc 20h và VTV1 lúc 19h. 7
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, nhóm 6 sử dụng phương pháp phân tích tài liệu
để tìm ra các đặc điểm về ngôn ngữ chương trình thời sự truyền hình.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
6.1. Ý nghĩa lý luận của đề tài
Tiểu luận góp phần hệ thống hóa một số lý luận liên quan đến các lý thuyết
về ngôn ngữ và vận dụng ngôn ngữ trên các chương trình truyền hình, thời sự. Bài
tiểu luận này có thể trở thành một đóng góp mới, có giá trị quan trong giúp người
đọc có một cái nhìn toàn diện về ngôn ngữ và vận dụng ngôn ngữ trên truyền hình,
mở rộng hiểu biết và kiến thức về đặc điểm, cấu trúc và cách thức vận dụng, truyền
tải ngôn ngữ trên nhiều mặt của đời sống.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Qua nghiên cứu, đánh giá thực trạng sử dụng ngôn ngữ trên chương trình
thời sự VTV1 lúc 19h và VTC1 lúc 20h, chúng tôi đã chỉ ra những khuyết điểm,
hạn chế cũng như nhấn mạnh những ưu điểm, đề xuất những giải pháp nhằm loại
bỏ những thiếu sót trong việc vận dụng ngôn ngữ và tăng cường hiệu quả truyền
đạt thông tin qua ngôn ngữ trên các chương trình thời sự. 7. Kết cấu
Ngoài phần mở đầu, mục lục, phụ lục và tài liệu tham khảo, đề tài được chia thành ba chương:
Chương I: Hệ thống những vấn đề cơ sở lý luận về sử dụng ngôn ngữ
chương trình thời sự trên truyền hình.
Chương II: Phân tích thực trạng sử dụng ngôn ngữ của chương trình thời sự VTV1 19h và VTC1 20h.
Chương III: Các giải pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng ngôn ngữ trên chương trình thời sự. 8 NỘI DUNG
Chương I: Hệ thống những vấn đề cơ sở lý luận về sử dụng ngôn ngữ chương
trình thời sự trên truyền hình 1. Ngôn ngữ 1.1. Khái niệm
Khái niệm “ngôn ngữ” theo định nghĩa trong “Từ điển Tiếng Việt” của Viện
ngôn ngữ học có nghĩa là: “Một hệ thống phức tạp, được con người hay động vật
sử dụng để liên lạc hay giao tiếp với nhau, cũng như chỉ chính năng lực của con
người có khả năng sử dụng như một hệ thống như vậy”.
Theo F.de Saussure - người được công nhận là người đầu tiên trên thế giới
đưa ra quan niệm mang tính khoa học về ngôn ngữ: “Ngôn ngữ là một hệ thống dấu
hiệu biểu hiện những ý niệm. Nó vừa là một sản phẩm xã hội của năng lực ngôn
ngữ, vừa là một hợp thể gồm những quy ước tất yếu được tập thể xã hội chấp nhận,
để cho phép các cá nhân vận dụng năng lực này”.
Trong cuốn “Cơ sở ngôn ngữ học và Tiếng Việt” (2014), tác giả Mai Ngọc
Chừ đã định nghĩa ngôn ngữ là “một hệ thống các đơn vị và quy tắc kết hợp để tạo
thành lời nói trong hoạt động giao tiếp như: âm vị, hình vị, từ, cụm từ cố định,
câu”. Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp của con người ở dạng tiềm tàng, được
phản ánh trong ý thức của cộng đồng và trừu tượng khỏi tư tưởng, tình cảm cụ thể
của con người. Tính chất nổi bật nhất thường thấy ở ngôn ngữ là tính xã hội và
cộng đồng. Lời nói có tính chất cá nhân. Ngôn ngữ và lời nói thống nhất nhưng
không đồng nhất. Nghiên cứu ngôn ngữ xuất phát từ lời nói, ngôn ngữ được hiện thực hóa trong lời nói.
Trong cuốn “Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học” (1997), tác giả
Nguyễn Như Ý cho rằng: “Ngôn ngữ là một trong những hệ thống ký hiệu độc đáo, 9
là phương tiện phát triển của tư duy, truyền đạt các truyền thống văn hóa - lịch sử
từ thế hệ này sang thế hệ khác”.
Vậy nên, tổng kết lại, khái niệm “ngôn ngữ” có thể được hiểu là: Ngôn ngữ
là một hệ thống kí hiệu đặc biệt được kết hợp lại theo các quy tắc nhất định để tạo
thành lời nói, câu từ nhằm phục vụ cho việc giao tiếp của con người, được cộng
đồng xã hội thừa nhận. Ngôn ngữ đồng thời là phương tiện để phát triển tư duy và
là phương tiện truyền đạt truyền thống văn hóa - lịch sử qua các thế hệ. 1.2. Đặc điểm
Trước khi đi sâu vào những đặc điểm của ngôn ngữ, cần phải hiểu về bản
chất cơ bản và quan trọng nhất của ngôn ngữ: Ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội đặc biệt.
Trong cuốn “Cơ sở ngôn ngữ học và Tiếng Việt”, tác giả Mai Ngọc Chừ đã
khẳng định rằng: “Ngôn ngữ không mang tính giai cấp”. Điều này được giải thích
do ngôn ngữ ra đời cùng với xã hội loài người, xã hội phân chia giai cấp nhưng
không phân biệt về ngôn ngữ, nghĩa là các giai cấp đều sử dụng cùng một ngôn ngữ
để giao tiếp. Một số trường hợp đặc biệt như tiếng lóng, biệt ngữ - một phần nhỏ
trong ngôn ngữ giao tiếp - chỉ xuất hiện ở một bộ phận giai tầng nhất định.
Tác giả Nguyễn Thiện Giáp đã viết trong “Giáo trình Ngôn ngữ học” (2008):
“Ngôn ngữ có khả năng hình thành văn hóa và là một bộ phận cấu thành quan trọng
của văn hóa”. Mỗi quốc gia, dân tộc đều có những nền văn hóa đặc trưng khác
nhau, và ngôn ngữ chính là một phương tiện hữu hiệu để ghi lại, phản ánh và
truyền đạt lại văn hóa ấy cho các thế hệ sau này. Chẳng hạn như từ văn hóa lúa
nước của các vùng đồng bằng trên đất nước, chúng ta có một hệ thống các từ như
“gặt”, “cày”, “bừa”, “sàng”, “nong”, “nia”,... gắn liền với nhà nông. Chính từ chức 10
năng phản ánh văn hóa đó, tác giả cũng khẳng định thêm rằng: “Sự phát triển và
tồn tại của ngôn ngữ gắn liền với sự tồn tại và phát triển của xã hội”.
Như đã đề cập ở định nghĩa, ngôn ngữ là một hệ thống kí hiệu đặc biệt, tách
rời khỏi những hệ thống kí hiệu khác như hệ thống biển báo giao thông, hệ thống
phòng cháy chữa cháy,... Từ “Giáo trình Ngôn ngữ học”(2008) của tác giả Nguyễn
Thiện Giáp, có thể thấy các đặc điểm khiến ngôn ngữ trở thành một hệ thống kí
hiệu đặc biệt được thể hiện qua những khía cạnh như sau: - Tính võ đoán:
Tác giả Nguyễn Thiện Giáp đã khẳng định: “Bản chất võ đoán của ngôn ngữ
là một dấu hiệu tinh vi, khiến cho ngôn ngữ có nguồn biểu đạt vô tận”.
Tra theo nghĩa của Từ điển Tiếng Việt, “võ đoán” là ý nghĩ dựa vào chủ
quan, không dựa vào bất kỳ căn cứ hay cơ sở nào. Trong “Giáo trình ngôn ngữ
học”, tác giả Nguyễn Thiện Giáp đã chỉ ra: “Ngôn ngữ có tính võ đoán vì giữa từ
và đối tượng nó biểu hiện không có mối liên quan bên trong nào”. Không có một
minh chứng lịch sử cụ thể nào có thể chỉ ra được rằng tại sao người Việt chúng ta
lại dùng từ “hoa” để biểu hiện cho bông hoa, hay từ “bàn” để chỉ cái bàn. Trong
ngôn ngữ khác, chẳng hạn như Tiếng Anh, bông hoa được gọi là “flower”, cái bàn là “table”.
Tuy nhiên, ngôn ngữ không võ đoán hoàn toàn. Như trường hợp các từ ngữ
tượng thanh, mô tả âm thanh trong đời sống: “bốp”, “chát”, “leng keng”,... các từ
ngữ tượng hình biểu hiện cho tính chất, hình dáng, tính chất của đối tượng: “lom
khom”, “chi chít”, “toe toét”,... Một trường hợp nữa thể hiện tính không võ đoán
hoàn toàn của ngôn ngữ: “xe đạp” - xe phải dùng chân đạp để di chuyển, “chim bạc
má” - loài chim có lông trắng ở má,... 11 - Tính song tính:
Hệ thống ngôn ngữ được cấu thành từ các bộ phận nhỏ nhất là chữ cái. Từ
các chữ cái hình thành nên các âm. Các âm được tập hợp lại thành một đơn vị tổ
chức lớn hơn là các từ, và các từ có thể được sắp xếp lại thành một tổ chức vô hạn
các câu. Một tập hợp các câu nối tiếp tạo thành đoạn, biểu đạt mong muốn, nguyện
vọng, suy nghĩ của con người trong giao tiếp qua nhiều hình thức như nói, viết,...
Tác giả Nguyễn Thiện Giáp đã chỉ ra một sự thật hết sức thú vị, đó là: “Chúng ta có
thể làm từ điển cho một ngôn ngữ, nhưng không thể làm cú điển (sách giải thích
các câu của ngôn ngữ)”, điều này do số lượng từ được tạo nên từ các âm có tính
hữu hạn, còn cách sắp xếp từ để tạo thành một câu là vô hạn. Đặc điểm này của
ngôn ngữ khiến nó trở thành “một hệ thống phức tạp”, gồm nhiều hệ thống con như
hệ thống âm vị học, hệ thống cú pháp học, hệ thống ngữ nghĩa học,... Thuật ngữ
song tính (duality) được tạo ra lần đầu năm 1960 bởi nhà ngôn ngữ học người Mỹ
Charles Hockett để chỉ đặc điểm quan trọng này của ngôn ngữ. - Tính sinh sản:
Đây là đặc điểm chỉ xuất hiện ở hệ thống ngôn ngữ của loài người. Nói ngôn
ngữ có tính sinh sản, tức là nói rằng những người sử dụng ngôn ngữ có thể tạo ra và
hiểu những câu mà họ chưa nghe thấy bao giờ. Trong đời sống hằng ngày, chúng ta
tiếp nhận nhiều thông tin, thông điệp mới và truyền đi những thông điệp khác ngay
cả khi trước đó chúng ta chưa truyền đi. Lấy một ví dụ trong “Giáo trình Ngôn ngữ
học” (2008) do Nguyễn Thiện Giáp chủ biên, có thể thấy rằng “Rất nhiều người
Việt Nam sống trên sao Hỏa” là một câu hoàn toàn mới đối với mọi người, không
hề miêu tả một sự việc bình thường, hiển nhiên nào trên Trái Đất, tuy nhiên bất cứ
ai sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt cũng đều có khả năng hiểu được câu đó. 12 - Tính di vị:
Chúng ta có thể sử dụng ngôn ngữ để biểu thị những điều không có mặt,
chẳng hạn như quá khứ, tương lai, hiện tại, những thứ ở khoảng cách địa lý xa
xôi,... Điều này cho thấy ngôn ngữ có thể hướng đến những phạm vi khác biệt với
hoàn cảnh nói, đó chính là tính di vị. Đặc điểm này giúp người nói có thể đề cập
đến phạm vi rộng hơn của các sự vật, hiện tượng, sự kiện,... không kể đến không
gian hay thời gian. Đặc điểm này khiến ngôn ngữ của loài người trở nên vượt trội
hơn so với ngôn ngữ các loài vật, khi mà tiếng kêu của chúng được phát ra chủ yếu
để phản ứng với sự thay đổi trực tiếp của hoàn cảnh hiện tại.
- Tính chuyển giao văn hóa:
Trong cuốn “Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt” (2014), tác giả Mai Ngọc
Chừ đã khẳng định: “Ngôn ngữ không có tính di truyền”. Nếu như các loài vật bẩm
sinh đã có một hệ thống tiếng kêu của riêng mình, thì ở loài người, ngôn ngữ được
học từ khi sinh ra, khi em bé được tiếp xúc với lời nói của cha mẹ, của người thân
trong gia đình. Nghĩa là ngôn ngữ được chuyển giao từ thế hệ này sang thế hệ khác
nhờ vào quá trình học tập và tiếp thu hơn là nhờ bản năng. Một nghiên cứu thực
nghiệm của nhà sử học Hê-đô-rốt đã chứng minh điều này: Ông cho bắt cóc trẻ sơ
sinh thuộc nhiều dân tộc, tôn giáo khác nhau rồi để nuôi chúng trong một môi
trường cách biệt với xã hội, không có sự xuất hiện của ngôn ngữ dưới bất kỳ hình
thức nào. Sau 12 năm, những đứa trẻ vẫn phát triển bình thường nhưng không có
bất kỳ biểu hiện gì về ngôn ngữ hay tôn giáo, tín ngưỡng. Lấy ví dụ từ lịch sử đất
nước, khi những câu chuyện như “Truyền thuyết Lạc Long Quân - Âu Cơ” được
người dân thời thời xưa truyền tai nhau nhằm giải thích sự xuất hiện, khai lập đất
nước, được lưu giữ đến bây giờ và còn cho nhiều thế hệ sau nữa, đã khẳng định
rằng ngôn ngữ có tính chuyển giao văn hóa. 13
- Khả năng thay thế nhau:
Điều này có nghĩa là bất cứ ai cũng có thể có hai vai trò là người phát và
người tiếp nhận thông điệp. Đặc điểm này cho thấy rõ nhất chức năng giao tiếp và
truyền đạt thông tin của ngôn ngữ. 2. Báo chí 2.1. Khái niệm - Báo chí
Theo Chương I Điều 3 của “Luật Báo chí” (2016), “Báo chí là sản phẩm
thông tin về các sự kiện, vấn đề trong đời sống xã hội thể hiện bằng chữ viết, hình
ảnh, âm thanh, được sáng tạo, xuất bản định kỳ và phát hành, truyền dẫn tới đông
đảo công chúng thông qua các loại hình báo in, báo nói, báo hình, báo điện tử”.
Theo “Cơ sở lý luận báo chí” (2012) của PGS.TS Nguyễn Văn Dững, tác giả
đã hệ thống lại một số quan niệm và trình bày khái niệm của báo chí từ các quan
niệm tới quan điểm hệ thống. Trước hết, báo chí trong quan niệm dân gian được gọi
là “thằng mõ” - là người có nhiệm vụ gõ mõ và thông báo, truyền tin khắp làng
xóm tới tụ tập ở một nơi để nghe tin tức. Tiếp cận từ góc độ lý thuyết, báo chí là
“Tư liệu sinh hoạt tinh thần nhằm thông tin và nói rõ về những sự kiện thời sự đã
và đang diễn ra cho một nhóm đối tượng nhất định nhằm mục đích nhất định xuất
bản định kỳ, đều đặn”. Theo nghĩa hẹp trong quan niệm chung, báo chí được hiểu
bao gồm báo và tạp chí. Còn theo nghĩa rộng, báo chí bao gồm các loại hình báo
chí như báo in, phát thanh, truyền hình, báo mạng điện tử. Tiếp theo, khái niệm báo
chí được tiếp cận từ quan điểm thể thống, Nguyễn Văn Dững đã đưa ra ví dụ về
cách báo chí thể hiện trong các hệ thống quyền lực chính trị ở các nước khác nhau
và rút ra điểm chung từ bản chất của báo chí. Tác giả khẳng định điểm chung này
xuất phát từ tính chất của báo truyền thông, đó “là hoạt động thông tin - giao tiếp 14
xã hội trên quy mô rộng lớn nhất, là công cụ và phương thức can thiệp xã hội hiệu
quả nhất trong mối quan hệ với công chúng và dư luận xã hội, với nhân dân và các
nhóm lợi ích, với các nước trong khu vực và quốc tế…”.
Tóm lại, báo chí có thể được định nghĩa như sau: Báo chí là một dạng sản
phẩm truyền đạt, chuyển hóa thông tin về các sự kiện, vấn đề trong đời sống sinh
hoạt hằng ngày thông qua các loại hình như báo in, phát thanh, truyền hình, báo
mạng điện tử,... trên quy mô rộng lớn nhất để tiếp cận với đông đảo công chúng. - Ngôn ngữ báo chí
Trong cuốn “Ngôn ngữ báo chí” (2016) của GS.TS Vũ Quang Hào, ông nêu
ra khái niệm của ngôn ngữ báo chí: “Ngôn ngữ báo chí là ngôn ngữ sự kiện, thứ
ngôn ngữ khách quan về những hoạt động, những sự kiện đang xảy ra đúng như
hiện thực khách quan, không thêm thắt những nhận xét, bình luận chủ quan của nhà báo.”.
Theo sách “Ngữ văn nâng cao lớp 11- Tập 1” (2007) có đề cập: “Ngôn ngữ
báo chí là ngôn ngữ dùng để thông báo tin tức thời sự trong nước và quốc tế, phản
ánh chính kiến của tờ báo và dư luận quần chúng, nhằm thúc đẩy sự tiến bộ xã hội.”.
Cuốn “Từ điển tiếng Việt” (
1995) giải nghĩa về ngôn ngữ báo chí: “Ngôn
ngữ là hệ thống những âm, những từ và những quy tắc kết hợp chúng mà những
người trong cũng một cộng đồng dùng làm phương tiện giao tiếp với nhau”.
Qua những định nghĩa trên, có thể hiểu định nghĩa của ngôn ngữ báo chí như
sau: “Ngôn ngữ báo chí nhằm chuyển tải thông tin báo chí đến công chúng, để
thông báo tin tức thời sự trong nước và quốc tế, phản ánh chính kiến của cơ quan
báo chí đó và dư luận quần chúng, nhằm mục tiêu thúc đẩy sự phát triển văn minh
của xã hội, là hệ thống các thành tố (những âm, tiếng, từ, kí hiệu, hình ảnh,...) và 15
cách kết hợp chúng,. Ngôn ngữ báo chí được sử dụng ở nhiều thể loại báo chí như
bản tin, phóng sự, bài phản ánh,...”. 2.2. Đặc điểm - Báo chí:
Đặc trưng của báo chí bao gồm 8 đặc điểm cơ bản, đó là thông tin thời sự;
tính công khai; tính mục đích; tính định kỳ, đều đặn; tính phong phú, đa dạng và
nhiều chiều; tính dễ hiểu, dễ nhớ và dễ làm theo và tính tương tác.
Theo Từ điển Tiếng Việt, tính thông tin thời sự là “toàn bộ sự việc ít nhiều
quan trọng vừa mới xảy ra, được nhiều người quan tâm”. Nhiệm vụ quan trọng nhất
của nhà báo là nhận thức và phản ánh thực tiễn cuộc sống đã và đang diễn ra hàng
ngày với nhiều phương thức, thông tin, giải đáp và bình luận.
Tính công khai của báo chí tiềm ẩn sức mạnh báo chí, bởi tính công khai là
căn nguyên tạo nên dư luận xã hội. Báo chí có khuynh hướng tác động vào quảng
đại quần chúng nhân dân. Vậy nên báo chí chỉ phát huy được thế mạnh của mình
chỉ khi có quan hệ, gắn bó mật thiết với công chúng và dư luận xã hội.
Báo chí có tính mục đích, để đạt được mục đích, báo chí tìm mọi cách, mọi
phương tiện và cách thức để thực hiện tối ưu hóa trong mối quan hệ giữa sự kiện và
vấn đề thông tin với đại chúng. Thông tin báo chí có tác động đến đông đảo người,
liên quan tới việc tập hợp và thuyết phục công chúng nhằm phục vụ mục đích chính trị.
Báo chí có tính thông tin định kỳ bởi sở dĩ báo chí cần phải cập nhật thông
tin liên tục, những thông tin, sự kiện nóng hổi vừa mới xảy ra trong từng khoảng
thời gian nhất định tới công chúng. Báo chí giúp công chúng và công dân ứng xử
với thông tin báo chí mỗi khi có nhu cầu tham gia hoặc khi có xung đột. 16
Tính phong phú, đa dạng và nhiều chiều của báo chí là đặc điểm thứ năm của
đặc trưng báo chí. Thông tin báo chí thể hiện tính phong phú và đa dạng thông qua
cập nhật mọi sự kiện và vấn đề đang diễn ra trong cuộc sống mà đối tượng là quần
chúng rộng lớn. Hơn nữa, sự khác biệt về tâm lý và sở thích của công chúng cũng
tạo ra cách thức, phong cách làm việc khác nhau của chương trình, tòa soạn.
Đối tượng tác động của báo chí luôn là quần chúng nhân dân, do vậy mỗi
phương tiện truyền thông đều có đòi hỏi khác nhau về tính dễ hiểu, dễ nhớ và dễ
làm theo nhằm giải quyết các vấn đề và nhiệm vụ của xã hội đang đặt ra hiện nay.
Cuối cùng, đặc trưng của bảo chí là tính tương tác của thông tin. Tính tương
tác thể hiện quan hệ tác động hai chiều giữa sự vật và hiện tượng, tương tác xã hội
lại có những đặc thù riêng của nó. Thông tin được cung cấp càng bình đẳng thì
càng nâng cao tính tương tác của báo chí.
- Ngôn ngữ báo chí:
Đặc trưng của ngôn ngữ báo chí gồm ba đặc điểm cơ bản: ngôn ngữ báo chí
là ngôn ngữ sự kiện, ngôn ngữ siêu ngôn ngữ và ngôn ngữ định lượng.
Ngôn ngữ sự kiện là ngôn ngữ phản ánh nguyên dạng, trung thực những vấn
đề thực tế đang diễn ra. Ngôn ngữ sự kiện là phương tiện duy nhất để phản ánh báo
chí, đồng thời là tiêu chí khu biệt các ngôn ngữ khác, được nhìn nhận trong quy
trình vận động của sự kiện. Do vậy có thể nói rằng, ngôn ngữ sự kiện luôn phản
chiếu trực tiếp những gì đã và đang diễn ra. Nhà báo cần phản ánh trung thực,
khách quan các hiện tượng và sự kiện, phản ánh vấn đề, hiện tượng, sự kiện trong
từng mặt và từng khía cạnh của nó.
Theo nhà Ngôn ngữ học Nguyễn Tri Niên: “Siêu ngôn ngữ là cách diễn đạt
phù hợp với từng hoàn cảnh, từng đối tượng. Nó là phương thức diễn đạt thường
trực của nhà báo. Hay nói cách khác, ngôn ngữ trong tác phẩm báo chí là siêu ngôn 17
ngữ. Siêu ngôn ngữ giúp nhà báo phản ánh trung thực, chính xác và đảm bảo yêu
cầu thông tin.”. Do đó, yêu cầu được đưa ra đối với những người làm báo là không
được đưa tin, đưa các sự kiện, hiện tượng, vấn đề với cái nhìn quy chụp hay chỉ xét
dưới góc độ phiến diện và phải có sự linh hoạt tròn sử dụng từ ngữ.
Ngôn ngữ định lượng thực chất là sự phát sinh, sự cụ thể hóa của ngôn ngữ
sự kiện. Chính vì đòi hỏi phản ánh cụ thể, chính xác về sự kiện có thật và nguyên
dạng đã dẫn đến việc đòi hỏi phải coi trọng số lượng. Yêu cầu đặt ra cho các nhà
báo phải sử dụng ngôn từ chính xác hay sử dụng các số liệu khoa học, thực tế và
đặt tiêu đề bài báo sao cho thu hút được lòng tin của công chúng. 3. Truyền hình 3.1. Khái niệm - Truyền hình
Theo tác giả Dương Xuân Sơn trong cuốn “Giáo trình Báo chí Truyền hình”
(2015), thuật ngữ truyền hình (Television) bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp và tiếng La-
tinh. Ở tiếng Hy Lạp, truyền hình được gọi là “Televidere”, với “Tele” là ở xa, còn
“Videre” là thấy được, tiếng La-tinh cũng mang nghĩa là ở xa thấy được. Do đó, ta
có thể hiểu được định nghĩa cơ bản của truyền hình chính là những gì được phát
sóng, truyền tải bằng hình ảnh và âm thanh về các thông tin, sự kiện đang diễn ra ở
khắp nơi trên thế giới qua hệ thống giác quan của con người như thính giác và thị
giác, với ý nghĩa đem đến những gì từ ở nơi xa đến với người xem thông qua sóng
vô tuyến điện. Truyền hình từ lâu đã được biết đến như là một phương tiện thiết
yếu cho mỗi gia đình, mỗi quốc gia và dân tộc khi ngày càng tân tiến hoá công
nghệ thông tin, dần dần trở thành công cụ dẫn dắt dư luận, truyền bá và cung cấp
thông tin về thời sự, văn hoá, kinh tế, an ninh, xã hội hữu ích đến với đời sống của
hàng triệu hộ gia đình trên khắp cả nước, thể hiện tính đa dạng và tầm quan trọng
của truyền hình đối với người dân. 18
Còn dưới góc độ ký hiệu thông tin, tác giả Trần Bảo Khánh qua cuốn “Sản
xuất chương trình truyền hình” (2002) đã có cái nhìn về truyền hình như một
phương tiện biểu thị thông tin một cách tân tiến và hiện đại, “Ngay từ buổi bình
minh, con người đã tìm mọi cách để thông tin cho nhau, từ tiếng hú tiếng mõ, đốt
lửa hoặc dùng cách ra hiệu, tiến tới chữ nói, lời viết để truyền đi những thông tin
cần thiết.”. Từ xa xưa, các cách thức truyền tải đã ngày càng phổ rộng hơn với từng
loại ký hiệu thông tin khác nhau như báo in gắn liền với các con chữ, phát thanh tạo
nên bởi âm thanh và các phương thức truyền tải khác. Điều tương tự cũng có được
ở truyền hình, khi sự phát triển của kĩ thuật công nghệ, đặc biệt là vô tuyến truyền
hình ngày càng vươn xa hơn và xen lẫn vào từng ngóc ngách trên thế giới, thông tin
đã được chuyển đến với con người bằng sự kết hợp giữa hình ảnh xen lẫn những lời
bình luận, âm thanh đa dạng và phong phú một cách nhanh chóng và tiến bộ hơn,
tạo ra ký hiệu thông tin riêng biệt cho truyền hình. Từ đó thu hút lượng lớn các
khán giả - những người đón nhận và tiếp thu thông tin hữu dụng thông qua sự vận
dụng của thính giác và thị giác để cảm nhận được hình ảnh, âm thanh hoà hợp với
nhau trong một phương tiện truyền tải.
Có thể nhìn nhận rằng, cũng theo tác giả Trần Bảo Khánh, truyền hình cũng
chính là “kết quả cuối cùng của giao tiếp với công chúng”. Đối với tác giả,
“Chương trình truyền hình là kết quả hoạt động, là sản phẩm của tập thể bao gồm
các bộ phận kỹ thuật - tài chính - nội dung”. Khi đối với những bài báo của người
phóng viên, nhà báo làm ra bài viết đó dưới cảm nhận, góc nhìn của họ, thì truyền
hình là sự kết hợp hài hòa của công sức của các cá nhân khác nhau tham gia vào
quá trình làm nên chương trình truyền hình. Từ đó, nội dung của truyền hình cũng
sẽ phức tạp, cần nhiều công đoạn hơn, đóng góp nhiều công sức và thời gian hơn
nữa để tập trung sắp xếp bố cục hoàn chỉnh cho chương trình truyền hình phù hợp
với công chúng số đông về mục tiêu và nhu cầu.
Mọi khái niệm hay mọi góc độ được xem xét và phân tích cụ thể của truyền
hình đều đem đến những sự khác lạ trong quan điểm cũng như sự tương đồng về 19
mặt nhận thức. Nhưng nhìn chung, ta có thể hiểu truyền hình là một phương tiện
truyền thông đại chúng được dùng để truyền tải thông tin, sự kiện và sự việc diễn ra
trên thế giới, giáo dục, cung cấp kiến thức về mọi lĩnh vực và mọi mặt trong cuộc
sống một cách cập nhật, đầy đủ qua từng ngày, tháng, năm. Với đặc trưng ở việc
kết hợp sử dụng các chức năng về hình ảnh, âm thanh, truyền hình có nhiệm vụ
truyền đi hình ảnh từ phương xa đến với công chúng người xem và dẫn giải, thực tế
hoá với âm thanh từ lời dẫn hay tiếng động của hiện trường.
Từ sự phát triển ngày càng tinh vi và hiện đại của truyền hình, không thể phủ
nhận một điều rằng cuộc sống của con người đang dần dần trở nên phụ thuộc hơn
vào những gì truyền hình đem đến, hay nói cách khác, truyền hình chính là công cụ
chi phối, điều dẫn và tham gia vào quá trình quản lí dư luận mạnh mẽ. Bởi lẽ những
thông tin, sự kiện và sự việc được phản ánh bởi truyền hình gần như là liên tục, đi
đôi với sự nâng cao về chất lượng đời sống, công chúng cần đón nhận được những
loại thông tin hợp lí, quan trọng để tiếp nhận và hưởng ứng. Từ đó, truyền hình đã
và đang thu hút được một lượng lớn đông đảo người dân theo dõi và cập nhật các
thông tin, các vấn đề đang diễn ra trên thế giới một cách đầy đủ nhưng ngắn gọn
nhất, khiến cho truyền hình trở thành một trong những công cụ sắc bén trên mọi
mặt trận thông tin và có sức tác động khổng lồ đến với cuộc sống của người dân
trên khắp cả nước. Không chỉ vậy, truyền hình còn là một không gian để gắn kết,
tạo dựng các quan điểm, các luồng ý kiến, làm giàu tư tưởng và xây dựng đường lối
nhận thức của con người trong thế giới quan hiện đại.
- Ngôn ngữ truyền hình
Cũng như những loại phương tiện truyền tải thông tin khác, thì truyền hình
cũng có ngôn ngữ riêng biệt, phục vụ cho đối tượng công chúng xác định.
Theo Thạc sĩ Trương Thị Kiên của Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền
thông, “Khác với ngôn ngữ phát thanh, ngôn ngữ truyền hình là sự kết hợp đa
phương tiện: hình ảnh, âm thanh, ký tự, biểu bảng, biểu đồ.”. Nếu như báo in có
ngôn ngữ viết, phát thanh có ngôn ngữ nói, thì ngôn ngữ truyền hình chính là một