



















Preview text:
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN 
KHOA QUAN HỆ CÔNG CHÚNG VÀ QUẢNG CÁO 
-------------------------                         
TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN 
MÔN NGÔN NGỮ TRUYỀN THÔNG   
ĐỀ TÀI: PHÂN TÍCH NGÔN NGỮ GIỮA BÁO MẠNG ĐIỆN TỬ VÀ BÁO IN   
Thành viên nhóm 5 – Lớp Truyền thông Marketing A1 K42 
1. Nguyễn Diệu Linh - 2256160029 
2. Nguyễn Nam Khánh - 2256160024 
3. Trần Lan Anh - 2256160006 
4. Đỗ Ngọc Khánh Linh – 2256160027       
MỤC LỤC 
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................................. 4 
PHẦN NỘI DUNG ........................................................................................................... 11 
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI ..................................... 11 
1.1. Ngôn ngữ báo chí ..................................................................................................... 11 
1.1.1. Báo chí là gì? ..................................................................................................... 11 
1.1.2. Khái niệm ngôn ngữ báo chí .............................................................................. 12 
1.1.3. Đặc điểm của ngôn ngữ báo chí......................................................................... 13 
1.2. Báo mạng điện tử ..................................................................................................... 14 
1.2.1. Lịch sử hình thành và phát triển ........................................................................ 14 
1.2.2. Khái niệm ........................................................................................................... 17 
1.2.3. Đặc điểm của báo mạng điện tử......................................................................... 18 
1.3. Báo in ....................................................................................................................... 19 
1.3.1. Lịch sử hình thành và phát triển ........................................................................ 19 
1.3.2. Khái niệm ........................................................................................................... 21 
1.3.3. Đặc điểm của báo in ........................................................................................... 22 
CHƯƠNG 2. PHÂN TÍCH ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ BÁO MẠNG ĐIỆN TỬ VÀ 
NGÔN NGỮ BÁO IN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ........................................................ 24 
2.1. Giới thiệu về các trang báo mạng điện tử và báo in thuộc diện khảo sát ................ 24 
2.1.1. Báo mạng điện tử ............................................................................................... 24 
2.1.1.1. Báo Tuổi trẻ Online ........................................................................................ 24 
2.1.1.2. Báo điện tử VnExpress ................................................................................... 25 
2.1.2. Báo in ................................................................................................................. 27 
2.1.2.1. Báo Nhân dân .................................................................................................. 27 
2.1.2.2. Báo HàNộiMới ................................................................................................ 28 
2.2. Đặc điểm ngôn ngữ báo mạng điện tử ..................................................................... 30 
2.2.1. Tích hợp ngôn ngữ tin đa phương tiện .............................................................. 30 
2.2.2. Ngôn ngữ tin cụ thể, ngắn gọn ........................................................................... 33 
2.2.3. Ngôn ngữ mang tính thời sự cao, cập nhật liên tục ........................................... 37  2     
2.2.4. Trình bày theo khuôn mẫu ................................................................................. 43 
2.2.5. Liên kết các lớp thông tin đa dạng ..................................................................... 45 
2.2.6. Tính hội nhập cao .............................................................................................. 49 
2.3. Đặc điểm ngôn ngữ báo in ....................................................................................... 53 
2.3.1. Tính đại chúng ................................................................................................... 53 
2.3.2. Tính đa dạng ...................................................................................................... 56 
2.3.3. Tính chuẩn xác, tính thời sự .............................................................................. 57 
2.3.4. Tính cụ thể, ngắn gọn ........................................................................................ 59 
2.3.5. Tính bình giá ...................................................................................................... 61 
2.3.6. Tính khuôn mẫu ................................................................................................. 63 
2.3.7. Tính thẩm mỹ ..................................................................................................... 64 
2.4. Ưu điểm và nhược điểm của báo mạng điện tử và báo in ....................................... 65 
CHƯƠNG 3. XU THẾ PHÁT TRIỂN VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP NÂNG CAO 
HIỆU QUẢ SỬ DỤNG NGÔN NGỮ BÁO MẠNG ĐIỆN TỬ VÀ NGÔN NGỮ 
BÁO IN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ............................................................................... 67 
3.1. Xu thế phát triển ....................................................................................................... 67 
3.1.1. Xu thế phát triển của báo mạng điện tử ............................................................. 67 
3.1.2. Xu thế phát triển của báo in ............................................................................... 69 
3.2. Đề xuất giải pháp nâng cao sử dụng ngôn ngữ báo mạng điện tử và báo in ở Việt 
Nam hiện nay .................................................................................................................. 70 
3.2.1 Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng ngôn ngữ báo mạng điện tử .................... 70 
3.2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng ngôn ngữ báo in ..................................... 71 
PHẦN KẾT LUẬN ........................................................................................................... 72 
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................ 74            3      PHẦN MỞ ĐẦU 
1. Lý do chọn đề tài   
Xã hội ngày càng phát triển, đời sống của người dân ngày càng được nâng cao, 
thêm vào đó là xu thế toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ như hiện nay thì hoạt động 
thông tin truyền thông đã trở thành một công cụ vô cùng quan trọng và luôn góp mặt 
trong mọi lĩnh vực của cuộc sống. Thậm chí, ngành báo còn khẳng định được tầm ảnh 
hưởng lớn lao của mình khi được đặt ngang hàng với những tổ chức quyền lực nhất của 
xã hội: Lập pháp, Tư pháp và Hành pháp. Báo chí với trọng trách và thông tin sự kiện, 
phát hiện vấn đề, phản biện xã hội và tạo dư luận xã hội thông qua nhiều phương tiện 
truyền thông đa dạng, có tác động mạnh mẽ tới hầu hết các khía cạnh của đời sống xã hội 
nên được ví von như Quyền lực thứ tư - Quyền lực tạo dư luận xã hội. Theo thời gian, 
song hành cùng với sự phát triển vượt bậc của khoa học xã hội, ngành công nghiệp xuất 
bản báo chí thực sự có được những bước tiến quan trọng, thực sự đi vào chiều sâu về cả 
lượng và chất. Việc ngày càng xuất hiện những hình thức truyền thông và phương tiện 
truyền tải thông tin mới từ nhật báo, tạp chí tới phát thanh, truyền hình và một “lính mới” 
xuất hiện lâu về sau các ấn bản điện tử được phát hành trực tuyến đang khiến cho cuộc 
đua cạnh tranh hiệu quả truyền thông càng trở nên khốc liệt và như một cuộc chiến không 
có hồi kết. Điều này đòi hỏi phải chú trọng đào tạo cũng như nâng cao hiệu quả, trình độ 
ngành xuất bản báo chí hiện nay. Qua đó, việc nghiên cứu, phân tích và đề xuất đưa ra 
những phương hướng tối ưu để nâng cao chất lượng truyền thông đại chúng nói chung và 
báo chí nói riêng là vô cùng cấp thiết.   
Vai trò và vị thế của báo chí, cùng với các phương phương tiện truyền thông đại 
chúng, đã trải qua những biến đổi sâu sắc trong hai thập kỷ vừa qua với sự ra đời của công 
nghệ kỹ thuật số và phổ biến thông tin trên Internet. Điều này đã tạo ra một sự thay đổi 
trong tiêu thụ những hình thức báo chí truyền thống mà điển hình là Báo in, sự lựa chọn 
của người dân đang trở nên đa dạng, phong phú hơn bao giờ hết nhờ sự xuất hiện của điện 
thoại thông minh và các thiết bị điện tử khác. Một thách thức kéo hàng loạt những hãng  4     
thông tấn, các tờ báo lớn nhỏ và cơ quan truyền thông khác tham gia vào đường đua chuyển 
đổi số. Và người em sinh sau đẻ muộn - Báo mạng điện tử ra đời tác động mạnh tới ngành 
xuất bản báo chí và thị trường truyền thông.   
“Không thể cẩu thả trong việc sử dụng ngôn ngữ ở những ngành truyền thông được. 
Ngôn ngữ ở đây phải truyền tải được tin tức, ý kiến và tư tưởng tới công chúng càng hữu 
hiệu càng tốt. Cũng không thể hạ gia giá văn phạm. Trình độ văn phạm của báo chí ít ra 
cũng phải cao bằng trình độ của độc giả và khán thính giả có học thức, nếu không báo chí 
mất ngay sự kính trọng của công chúng. [...] Sự chuẩn xác của ngôn ngữ làm sắc bén thêm 
ý nghĩa của sự kiện. Vì thế sự kiện và chuẩn xác phải luôn đi đôi với nhau.” (John 
Hohenberg). Nếu như ban đầu báo chí chỉ được đơn giản coi như là một phương tiện truyền 
tải thông tin, ngày nay đã trở thành một công cụ hữu hiệu thường xuyên được sử dụng 
trong phổ biến những đường lối, chính sách, quan điểm của những cơ quan chính trị và 
đóng vai trò quan trọng trong giáo dục, tuyên truyền và nâng cao tri thức và dân trí của 
phần lớn công dân. Để chở tải một lượng thông tin đa dạng như vậy, báo chí sử dụng một 
hệ thống ngôn ngữ như một hệ đa chức năng không còn đơn thuần chỉ là để thông tin mà 
còn nhằm tác động đến nhiều tệp đối tượng trên đa lĩnh vực. Vấn đề sử dụng ngôn ngữ báo 
chí có tác dụng trực tiếp và quyết định nhất tới hiệu quả của thông tin báo chí. Vì vậy, ngôn 
ngữ được sử dụng trong báo chí phải là một thứ ngôn ngữ đa văn hóa chuẩn mực hướng 
tới sự chính xác của thông tin khi được truyền đi từ tác giả tới công chúng đích. Việc mắc 
những sai lầm không đáng có trong sử dụng ngôn ngữ báo chí sẽ khiến cho độc giả hiểu 
sai lệch đi nội dung của bài báo, làm mất uy tín của tờ báo hay thậm chí cả hãng thông tấn. 
Tệ hơn, khi mà báo chí đóng vai trò như một kênh thông tinh có khả năng định hướng tư 
tưởng, vấn đề sai sót còn có thể gây lệch lạc cả một hệ thống tư tưởng và tạo ra luồng dư  luận  xấu,  ảnh  hưởng  xấu  đến  xã  hội.   
Trên trang The Economist ngày 3/5/2023, một bài báo có tiêu đề như sau Artificial 
Intelligence is remixing journalism into a “soup” of language (tạm dịch Trí tuệ nhân tạo 
AI đang biến báo chí thành một “bát súp” ngôn ngữ). Bằng cách trộn lại những thông tin  5     
thu thập được từ mọi ngóc ngách trên Internet, các mô hình AI tạo sinh đang “làm xáo trộn 
các đơn vị cơ bản của báo chí”:bài viết. Theo ông Caswell, thay vì trở thành bản phác thảo 
đầu tiên duy nhất của lịch sử, thì tin tức có thể bị biến thành một “bát súp ngôn ngữ” được 
đem đến trải nghiệm khác nhau cho từng người. Tháng trước, đài phát thanh quốc gia Mỹ 
(NPR) đã đưa ra một đoạn tweet nhạy cảm : “Elon Musk’s “massive space sex rocket” had 
exploded on launch” . Có thể thấy đây là một lỗi sai tự động nghiêm trọng khi mà tên công 
ty của Elon Musk là SpaceX bị biến thành “space sex”. Sai lầm này có thể là điều sẽ xảy 
ra phổ biến khi trí tuệ nhân tạo (AI) đóng vai trò ngày càng lớn trong hoạt động báo chí,  truyền thông. 
Vấn đề sử dụng ngôn ngữ trong truyền thông đã và đang thu hút được nhiều sự chú ý 
của giới học thuật, giới chuyên môn, nhà ngôn ngữ học hay cả những độc giả. Hiện nay, trên 
các loại hình báo chí đăng tải những tác phẩm báo chí thuộc những thể loại khác nhau mang 
những ưu thế và cách dụng ngôn ngữ riêng biệt. Xu hướng vận hành song song hai hình 
thức Báo in và Báo mạng điện tử được nhiều đơn vị truyền thông quan tâm và áp dụng những 
thập kỷ qua. Chính vì vậy, học viên đã lựa chọn “Phân tích ngôn ngữ giữa báo mạng điện 
tử và báo in” làm đề tài nghiên cứu cho bài tập. 
2. Tình hình nghiên cứu đề tài 
Hiện nay, báo chí là một lĩnh vực, đề tài sâu rộng đòi hỏi các công trình nghiên cứu 
hay luận văn cần phân tích rõ ràng cả về lý thuyết hay thực tiễn của một vấn đề thuộc ngành 
báo chí. Về ngôn ngữ báo chí nói chung, rất nhiều tác giả như Vũ Quang Hào, Nguyễn Tri 
Niên, Nguyễn Đức Dân… đã có những nghiên cứu, phân tích về vấn đề cơ bản, ngôn ngữ, 
phong cách của báo chí. Trong cuốn sách “Ngôn ngữ báo chí” của Vũ Quang Hào (2007) 
đưa ra nội dung về ngôn ngữ chuẩn mực của báo chí cũng như ngôn ngữ các phong cách báo 
chí, ngôn ngữ của thuật ngữ khoa học, ngôn ngữ tít báo, ngôn ngữ phát thanh, ngôn ngữ 
quảng cáo và các nội dung khác nhằm hiểu rõ hơn những vấn đề cần thiết, cơ bản nhất của 
ngôn ngữ báo chí. Nguyễn Tri Niên (2003) nghiên cứu về đặc điểm của ngôn ngữ báo chí 
bao gồm đặc điểm về loại hình, những mối quan hệ của ngôn ngữ báo chí, cách tiếp cận hiện  6     
thực hay quy trình thông tin của ngôn ngữ báo chí như các yếu tố, chức năng và các mô hình 
thông tin để đáp ứng những đòi hỏi của nghiệp vụ báo chí. 
Về nghiên cứu ngôn ngữ báo mạng điện tử hay ngôn ngữ báo in có thể kể đến một số 
các bài nghiên cứu như: tác giả Vũ Thị Hải Anh (2007) chỉ ra đặc điểm ngôn ngữ phóng sự 
trên báo in và đưa ra giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng ngôn ngữ trên báo in. Tạ Tuấn 
Anh (2016), tác giả của luận văn thạc sỹ “Đặc điểm ngôn ngữ tin trên báo mạng điện tử ở 
Việt Nam hiện nay” nghiên cứu về nhận diện ngôn ngữ tin, phân tích các đặc điểm ngôn ngữ 
tin qua các trang báo mạng điện tử VietnamPlus, VnExpress, Dantri, dự báo xu thế phát triển 
của báo mạng điện tử và đề xuất các giải pháp tăng cường hiệu quả ngôn ngữ tin trên báo 
mạng điện tử Việt Nam hiện nay. Trong cuốn sách “Những kỹ năng về sử dụng ngôn ngữ 
trong truyền thông đại chúng”, tác giả Hoàng Anh (2008) đã đưa ra các đặc điểm của ngôn 
ngữ báo mạng điện tử, sapô trên báo chí và một số nội dung bàn về cách sử dụng ngôn ngữ 
trên báo chí. Luận văn “Kỹ năng biên tập tác phẩm báo chí từ phiên bản báo in sang báo 
mạng điện tử” của Nguyễn Thúc Hoàng Linh (2016) chỉ ra khái niệm và những khác biệt 
đặc trưng của báo in và báo mạng điện tử. 
Nhìn chung, các nghiên cứu về ngôn ngữ báo mạng điện tử và ngôn ngữ báo in còn 
khá ít và chưa có những phân tích so sánh cụ thể giữa hai loại ngôn ngữ báo chí này. Như 
vậy, có thể khẳng định rằng: “Phân tích ngôn ngữ giữa báo mạng điện tử và báo in” là đề 
tài nghiên cứu khá mới mẻ và có tính thách thức. 
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 
3.1. Mục đích nghiên cứu   
Mục đích của đề tài là nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản của ngôn ngữ 
báo mạng điện tử và ngôn ngữ báo in, phân tích các đặc điểm, vai trò, mục đích của ngôn 
ngữ giữa báo mạng điện tử và báo in, đánh giá xu thế phát triển, từ đó đánh giá, nhận xét 
và đưa ra đề xuất, giải pháp phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng ngôn ngữ trong báo  chí. 
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu  7     
Để đạt những mục đích trên, chúng tôi đã tập trung triển khai thực hiện các nhiệm  vụ sau: 
- Hệ thống những vấn đề cơ sở lý luận về việc sử dụng ngôn ngữ báo mạng điện tử và  ngôn ngữ báo in. 
- Phân tích, khảo sát một số bản tin trên báo mạng điện tử VnExpress, Tuổi trẻ và báo 
in Nhân dân, Hànộimới. 
- Đánh giá tổng hợp về cách sử dụng ngôn ngữ báo mạng điện tử và báo in trên các 
phương tiện thông tin đại chúng nói trên. 
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu   
Trong bài tiểu luận này, đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là ngôn ngữ được sử 
dụng trong các bản tin cụ thể trên một trang báo tiêu biểu gồm báo mạng điện tử và báo in. 
Phạm vi nghiên cứu tập trung vào những bài báo trên các trang báo mạng điện tử như báo 
Tuổi trẻ Online, báo VnExpress và các tờ báo in báo Hànộimới và báo Nhân Dân. 
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 
5.1. Cơ sở lý luận 
Cơ sở lý luận của đề tài dựa trên nền tảng khoa học lý luận của chủ nghĩa Mác - 
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các chính sách, đường lối, quan điểm, chủ trương của 
Đảng và Nhà nước về báo chí; hệ thống lý thuyết, cơ sở lý luận của ngôn ngữ báo chí, báo 
mạng điện tử, báo in, ngôn ngữ truyền thông và truyền thông. 
5.2. Phương pháp nghiên cứu 
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu 
- Phương pháp phân tích, tổng hợp nội dung 
- Phương pháp so sánh và đối chiếu  - Phương pháp thống kê 
6. Đóng góp mới của khóa luận 
Đề tài khái quát, tổng hợp hệ thống các khái niệm và lý thuyết, đồng thời góp phần  8     
làm rõ những vấn đề về lý luận và thực tiễn của ngôn ngữ báo chí nói chung và đối tượng  nghiên cứu nói riêng. 
Là tài liệu tham khảo thiết thực cho các bạn sinh viên, các thầy cô nhằm phục vụ 
mục đích học tập và nghiên cứu trong lĩnh vực báo chí và ngôn ngữ. 
7. Kết cấu của khóa luận  PHẦN MỞ ĐẦU  PHẦN NỘI DUNG 
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI    1.1. Ngôn ngữ báo chí    1.1.1. Báo chí là gì?   
1.1.2. Khái niệm ngôn ngữ báo chí   
1.1.3. Đặc điểm của ngôn ngữ báo chí    1.2. Báo mạng điện tử   
1.2.1. Lịch sử hình thành và phát triển    1.2.2. Khái niệm   
1.2.3. Đặc điểm của báo mạng điện tử    1.3. Báo in   
1.3.1. Lịch sử hình thành và phát triển    1.3.2. Khái niệm   
1.3.3. Đặc điểm của báo in 
CHƯƠNG 2. PHÂN TÍCH ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ BÁO MẠNG ĐIỆN TỬ VÀ NGÔN 
NGỮ BÁO IN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY   
2.1. Giới thiệu về các trang báo mạng điện tử và báo in thuộc diện khảo sát   
2.2. Đặc điểm ngôn ngữ báo mạng điện tử   
2.3. Đặc điểm ngôn ngữ báo in   
2.4. Ưu điểm và nhược điểm của báo mạng điện tử và báo in  9     
CHƯƠNG 3. XU THẾ PHÁT TRIỂN VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU 
QUẢ SỬ DỤNG NGÔN NGỮ BÁO MẠNG ĐIỆN TỬ VÀ NGÔN NGỮ BÁO IN Ở  VIỆT NAM HIỆN NAY    3.1. Xu thế phát triển   
3.1.1. Xu thế phát triển của báo mạng điện tử   
3.1.2. Xu thế phát triển của báo in   
3.2. Đề xuất giải pháp nâng cao sử dụng ngôn ngữ báo mạng điện tử và báo in ở Việt  Nam hiện nay   
3.2.1 Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng ngôn ngữ báo mạng điện tử   
3.2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng ngôn ngữ báo in  KẾT LUẬN 
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO                            10      PHẦN NỘI DUNG 
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI  1.1. Ngôn ngữ báo chí 
1.1.1. Báo chí là gì? 
Theo điều 3 Luật Báo chí 2016: Báo chí là sản phẩm thông tin về các sự kiện, vấn 
đề trong đời sống xã hội thể hiện bằng chữ viết, hình ảnh, âm thanh, được sáng tạo, xuất 
bản định kỳ và phát hành, truyền dẫn tới đông đảo công chúng qua các loại hình báo in, 
báo nói, báo viết hay báo điện tử. Báo chí là loại hình các phương tiện truyền thông đại 
chúng được cơ quan thẩm quyền cấp phép hoạt động, có nhiệm vụ chuyển tải thông tin 
nhanh nhất, mới mẻ nhất đến cho đông đảo công chúng, nhằm tích cực hoá đời sống thực 
tiễn. (theo Đỗ Chí Nghĩa - Vai trò báo chí trong định hướng dư luận…). 
Theo nghĩa hẹp, báo chí còn được hiểu là báo và tạp chí; theo nghĩa rộng bao gồm 
các loại hình báo chí: báo in, phát thanh, truyền hình, báo mạng điện tử. Trong đó báo in 
và báo mạng điện tử là hai loại hình báo chí vô cùng quan trọng, không thể thiếu của bất 
kì nền báo chí của các quốc gia trên thế giới. Chúng vừa tồn tại và phát triển độc lập, vừa 
hỗ trợ và có mối quan hệ với nhau. Ở mỗi loại hình đều nổi lên những ưu điểm và hạn chế  riêng của mình. 
Báo chí đóng vai trò hết s bự ức quan trọng, là nguồn thông tin phản ánh mọi lĩnh 
vực đời sống xã hội. Là phương tiện, công cụ hữu hiệu để tuyên truyền đường lối, chủ 
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước. Mặt khác báo chí là cầu nối giữa 
chính quyền và nhân dân, là nơi để phản ánh tâm tư, nguyện vọng cũng như nhu cầu cấp  thiết của nhân dân. 
Trước sự thay đổi chóng mặt của công nghệ thông tin, báo chí đã và đang trong quá 
trình chuyển đổi số vô cùng mạnh mẽ, khoác lên mình màu áo mới hiện đại, chuyên nghiệp 
nhưng vẫn bảo vệ những sứ mệnh cốt lõi của nền báo chí nước nhà. Ứng dụng Khoa học  11     
kĩ thuật, công nghệ trong xuất bản, xuất bản điện tử để tích cực chủ động cung cấp và thỏa 
mãn nhu cầu thông tin của xã hội. 
1.1.2. Khái niệm ngôn ngữ báo chí 
Ngôn ngữ là hệ thống các tín hiệu đặc biệt biệt và quan trọng bậc nhất của con người, 
là phương pháp tư duy và công cụ giao tiếp xã hội. 
Theo sách Ngữ văn nâng cao lớp 11 tập 1: “Ngôn ngữ báo chí là ngôn ngữ dùng để 
thông báo tin tức thời sự trong nước và quốc tế, phản ánh chính kiến của tờ báo và dư luận 
quần chúng, nhằm thúc đẩy sự tiến bộ xã hội.” 
“Tác phẩm báo chí” – TS.Nguyễn Thị Thoa: “Ngôn ngữ báo chí là toàn bộ những 
tín hiệu và quy tắc kết hợp chúng mà nhà báo dùng để chuyển tải thông tin trong tác phẩm  báo chí.” 
“Ngôn ngữ báo chí là ngôn ngữ được sử dụng trên các văn bản báo chí dưới các hình 
thức như báo viết, báo nói, báo hình… Cả ba hình thức này đều sử dụng ngôn ngữ làm 
phương tiện để chuyển tải thông tin đến với công chúng, tuy mức độ nhiều ít và những đặc 
trưng riêng có khác nhau.” theo “Đề cương bài giảng ngôn ngữ báo chí” – TS.Trương  Thông Tuần 
Vậy có thể hiểu ngôn ngữ báo chí là toàn bộ những hệ thống tín hiệu và quy tắc kết 
hợp chúng thành ngôn ngữ mà nhà báo sử dụng để chuyển tải thông tin đến công chúng 
nhằm thông báo tin tức thời sự và phản ánh chính kiến của tờ báo và dư luận quần chúng, 
nhằm thúc đẩy sự tiến bộ xã hội. Tồn tại dưới ba hình thức là báo viết, báo nói và báo hình.   
Ngôn ngữ báo chí và ngôn ngữ là hai lĩnh vực khác nhau. Tuy nhiên, ngôn ngữ chính 
là chất liệu chủ yếu của ngôn ngữ báo chí và chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau. Vì 
vậy có thể thấy, ngôn ngữ báo chí là một phần của sự phát triển ngôn ngữ.   
Chức năng của ngôn ngữ báo chí là phương tiện truyền tải thông tin, cung cấp tin 
tức thời sự, phản ánh dư luận và ý kiến của quần chúng. Đồng thời, nêu lên quan điểm, 
chính kiến của tờ báo nhằm thúc đẩy sự phát triển của xã hội.  12     
1.1.3. Đặc điểm của ngôn ngữ báo chí  Tính chính xác 
Đây là đặc điểm vô cùng quan trọng của báo chí. Báo chí là việc đưa thông tin đến 
người đọc, định hướng dư luận xã hội nên ngôn ngữ báo chí đầu tiên phải đảm bảo tính 
chính xác, tránh khiến người người đọc hiểu sai, làm lệch hướng vấn đề được đưa ra. Những 
người làm báo cần thật sự cẩn trọng đối với những thông tin được đăng tải, cả về mặt ngôn 
từ và nội dung (chính xác nhất về địa điểm, thời gian, nhân vật, sự kiện…). Sử dụng chính 
xác ngôn ngữ báo chí không chỉ đạt hiệu quả trong giao tiếp mà còn bảo vệ sự trong sáng 
của tiếng Việt, góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc.  Tính cụ thể 
Tính cụ thể được thể hiện ở việc tác giả miêu tả, tường thuật cụ thể từng chi tiết để 
thể hiện sự vật sự việc một cách chân thực nhất. Qua đó, người đọc có thể hình dung, nắm 
bắt, hiểu rõ những vấn đề, sự kiện được nhắc đến. Nhiệm vụ của một nhà báo là phải biết 
khái quát, làm rõ bản chất sự việc, phản ánh được đối tượng trong các tác phẩm báo chí.  Tính đại chúng 
Đối tượng hướng đến của báo chí là tất cả mọi tầng lớp trong xã hội, không phân 
biệt độ tuổi, giới tính, trình độ học vấn hay địa vị xã hội... Do đó, ngôn ngữ báo chí phải 
mang tính quốc dân, sử dụng được cho tất cả mọi người, mọi công dân trên mọi miền đất 
nước. Tránh dùng từ địa phương hay những từ ngữ mang tính hàn lâm, bác học gây khó 
hiểu cho người đọc, làm giảm chức năng thông tin của báo chí  Tính ngắn gọn 
Ngôn ngữ báo chí cần ngắn gọn, đủ ý để đảm bảo yêu cầu truyền tin nhanh chóng, 
kịp thời của người đọc. Vì vậy dung lượng tờ báo phải có giới hạn về số lượng từ ngữ, 
không gian diện tích trên mặt báo. Tránh diễn đạt dài dòng, lan man khiến người đọc, 
người nghe cảm thấy nhàm chán và không đủ kiên nhẫn đọc hết bài báo để nắm bắt thông 
tin. Tính định lượng của ngôn ngữ báo chí giúp người viết chủ động trong việc trình bày 
nội dung và sáng tạo nội dung tác phẩm báo chí một cách đầy đủ, súc tích.  13      Tính biểu cảm 
Tính biểu cảm của báo chí là yếu tố quan trọng để thu hút và lôi cuốn người đọc gắn 
liền với việc sử dụng các từ ngữ và lỗi nói mới lạ, sử dụng từ ngữ giàu tính biểu cảm, giàu 
hình ảnh và mang đậm dấu ấn cá nhân, do đó gây được ấn tượng với độc giả. Sự biểu cảm 
được thể hiện đa dạng ở cách chơi chữ, gieo vần, nói lái, ẩn dụ hay sử dụng những câu ca 
dao, tục ngữ…tất cả tạo nên một sự đặc biệt của phong cách ngôn ngữ báo chí.  Tính khuôn mẫu 
Ngôn ngữ báo chí cũng cần có khuôn mẫu, không thể viết theo sở thích mà cần theo 
một tổ chức và định hướng nhất định. Tính khuôn mẫu là việc lặp lại như ngôn từ có sẵn 
trong bài báo với mục đích tự động hóa quy trình thông tin, làm cho nó nhanh chóng và 
thuận tiện hơn, tiết kiệm thời gian và công sức cho chủ thể sáng tạo. Tuy nhiên, khác với 
tính khuôn mẫu cứng nhắc trong văn bản hành chính, tính khuôn mẫu trong ngôn ngữ báo 
chí mang rất linh hoạt và uyển chuyển. Chúng kết hợp hài hòa với các thành tố biểu cảm 
để tạo cảm giác mềm mại, hấp dẫn cho ngôn ngữ báo chí.  1.2. Báo mạng điện tử   
Ra đời muộn hơn phát thanh, truyền hình hay báo in, báo mạng điện tử là một loại 
hình báo chí vừa mang trong mình sức mạnh của phương tiện truyền thông đại chúng truyền 
thống, nhưng do kết hợp với mạng máy tính mà mang nhiều điểm vượt trội hơn. Với những 
ưu điểm được đánh giá cao và chiếm ưu thế như khả năng tương tác hai chiều giữa tờ báo 
và công chúng, giữa công chúng với nhau, sự ra đời của những diễn đàn báo chí, tính thời 
sự đạt tới tính phi định kỳ…, báo mạng điện tử trở thành một kênh truyền thông hiệu quả 
được ưa chuộng và đầy sức hút, đặt các phương tiện truyền thông kiểu “cũ” vào cuộc đua  tranh quyết liệt.  
1.2.1. Lịch sử hình thành và phát triển 
1.2.1.1. Sự hình thành và phát triển của Internet  14     
Dễ thấy rằng sự ra đời của Internet và sự ra đời của báo mạng điện tử có mối quan 
hệ chặt chẽ với nhau. Việc phát minh ra máy tính đã đưa khoa học kĩ thuật thế giới tiến 
một bước tiến dài. Tuy nhiên, song song với đó là sự phát triển của xã hội về nhu cầu được 
“liên kết” giữa những máy tính đơn lẻ, độc lập thành một mạng máy tính. Dưới sự bảo trợ 
của Cơ quan Dự án nghiên cứu cao cấp ( Advanced Research Project Agency- ARPA) 
thuộc bộ quốc phòng Mỹ, các nhà nhà nghiên cứu tiến hành thử nghiệm nhằm tìm ra sự 
liên kết giữa các máy tính. Vào năm 1969, ARPANET được liên kết thành công - mạng 
liên khu vực ( Wide Area Network-WAN ) đầu tiên được xây dựng. Đây là một cột mốc 
quan trọng đánh dấu sự ra đời của Internet. Năm 1991, World Wide Web - www chính 
thức được ra đời - bước ngoặt lịch sử trong sự hình thành Internet. WWW mở ra một kỉ 
nguyên mới khi mọi người có thể truy cập, trao đổi thông tin hết sức dễ dàng và là tiền đề 
cho sự ra đời và phát triển của báo mạng điện tử. 
Chicago Tribune ra đời vào tháng 5/1992 là tờ báo mạng điện tử đầu tiên trên thế 
giới được biết đến. Sau đó, vào những năm 90, hàng loạt những trang báo chính thống của 
Mỹ hay Châu Á mở website riêng. Bắt đầu từ năm 2000 trở đi, các hãng thông tấn lớn như 
AFP, Reuter,... đài truyền hình CNN, NBC… các tờ báo như New York Times, Washington 
Post,... đều có báo mạng điện tử của riêng mình và coi đó là phương tiện để phát triển thêm  công chúng báo chí. 
Hiện nay, hầu như các tờ báo,đài phát thanh, đài truyền hình lớn đều đã có mặt trên  Internet.  1.2.1.2. Ở Việt Nam 
Năm 1993, VARENET ( Vietnam Academic Research Education Network ) được 
thành lập tạo tiền đề cho sự hình thành mạng lưới Internet ở Việt Nam. Lúc đó, VARENET 
là mạng duy nhất kết nối Internet ở Việt Nam và phục vụ độc quyền từ 1993 đến 1997. 
Mạng diện rộng thứ 2 được hình thành tại Việt Nam - VINANET (Vietnam Network). 
Tháng 11/1996, trên cơ sở đề nghị của Ban cán sự Đảng của Tổng cục Bưu điện lúc đó, 
Hội nghị Trung ương 2 khóa VIII đã nhất trí cho mở Internet. Mở đầu cho cao trào Internet  15     
Việt Nam bằng sự phát triển của các nhà cung cấp dịch vụ Internet và các nhà cung cấp 
thông tin trên Internet, tiêu biểu như Hanoi Telecom, FPT, Viettel, Netnam, VNPT,... Chỉ 
1 tháng sau khi kết nối mạng Internet, 31/12/1997, tạp chí Quê hương có địa chỉ 
http://quehuongonline.vn trở thành báo mạng điện tử đầu tiên của nước ta. Sau đó, hàng 
loạt các cơ quan báo chí đã tiến hành thử nghiệm và lần lượt xuất bản trên Internet như 
Báo Nhân dân, Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam, Báo Tiền phong, Lao 
động, Tuổi trẻ, Thông tấn xã Việt Nam… Những tờ báo mạng điện tử độc lập cũng xuất  hiện  :  Tin  nhanh  Việt  Nam,  VietNamNet,  VnMedia,... 
Theo một số tài liệu tham khảo, có thể chia quá trình hình thành và phát triển của báo mạng 
điện tử ở Việt Nam thành 3 giai đoạn : 
Giai đoạn thứ nhất từ 1997 - 2000 
Đây được gọi là giai đoạn sơ khởi của báo mạng điện tử. Những năm này, báo mạng 
điện tử tại Việt Nam đã gặp không ít khó khăn. Phần nhiều là về hạ tầng công nghệ và nhân  sự. 
Giai đoạn thứ hai từ 2001 - 2005 
Sự tăng nhanh đến chóng mặt số lượng những trang thông tin điện từ của những cơ 
quan lớn. Đặc biệt phải kể đến sự xuất hiện của các tờ báo mạng điện tử độc lập, thổi một 
luồng gió mới thúc đẩy sự phát triển của báo mạng điện tử tại Việt Nam. 
Giai đoạn thứ ba từ 2005 - nay   
Giai đoạn này đánh dấu sự trưởng thành về cả chất lượng lẫn số lượng của báo 
mạng điện tử tại Việt Nam. Những tin tức, bài báo được “tham khảo” cũng dần ít đi, mà 
thay vào đó là những tin bài do chính đội ngũ của các trang báo mạng làm ra. Điều này 
làm dấy lên vấn đề bản quyền của báo điện tử tại Việt Nam.   16      1.2.2. Khái niệm 
Loại hình báo chí thứ tư này có rất nhiều tên gọi khác nhau như: báo điện 
tử(Electronic Journal), báo trực tuyến(Online Newspaper); báo mạng(Cyber Newspaper); 
báo chí Internet(Internet Newspaper) và báo mạng điện tử. 
1.2.2.1. Trên thế giới 
Khái niệm báo mạng điện tử đã xuất hiện lần đầu tiên cùng với sự ra đời của tờ 
Chicago Tribune vào năm 1992. Theo tổ chức Tương tác với nhà phát hành và biên tập, 
BMDT là tất cả những phương tiện truyền thông tin đại chúng có sự hiện diện của web. 
Công chúng sẽ tìm thấy những thông tin mà trước đây họ đã từng tìm kiếm qua các công 
ty, hiệp hội, các tạp chí, các báo, các dịch vụ thông tin và các syndicates, cũng như các 
đài phát thanh truyền hình trên một cơ sở dữ liệu mới. Theo cách hiểu này thì mọi trang 
thông tin được trình bày dưới dạng web với giao diện và cơ sở dữ liệu chuẩn thì đều được 
coi là báo mạng điện tử. 
Năm 2001, Tiến sĩ Mark Deuze - nghiên cứu và giảng dạy báo chí ở các trường đại 
học của Bỉ, Hà Lan, Bồ Đào Nha định nghĩa như sau: “Báo mạng đ ệ
i n tử là hình thức báo 
chí kế tiếp thứ tư sau báo in, báo nói, báo hình nhưng lại có những đặc điểm khác hẳn so 
với các loại hình báo chí truyền thống. Báo mạng điện tử sử dụng yếu tố công nghệ cao 
như là một nhân tố quyết định. Các phóng viên báo mạng điện tử phải lựa chọn phương 
tiện nào là tốt nhất để đăng một câu chuyện(tính đa phương tiện), phải đặt ra một không 
gian, một đường dẫn để tạo ra sự tương tác giữa tác phẩm và công chúng(tính tương tác 
cao), phải cân nhắc để kết nối, đồng thời mở rộng những câu chuyện, đưa người đọc từ  không  gian  này  đến  không  gian  khác(tính  siêu  văn  bản).”   
Theo Colleen M.Keough và Thoa Christiansen ở trường Đại học Nam California: 
BMDT rõ ràng là một “nòi giống tách biệt” (a bread apart). Nó được sinh ra từ sự kết hợp 
của báo in, báo nói,báo hình nhưng là sản phẩm F2 của sự tiến hóa. Và “nòi giống” những 
người làm tin trên báo mạng điện tử được nhìn nhận như một lực lượng làm ra hơn một 
trong số bốn mô hình đặc điểm của nó.   17     
Từ điển bách khoa toàn thư Encarta năm 2005 thì đưa ra một định nghĩa là: Báo  mạng đ ệ
i n tử là việc trình bày thông tin qua sự kết nối bài text, âm thanh, ảnh tĩnh, ảnh 
động và video. Sự kết nối giữa các thành phần này được thực hiện có chủ ý và theo một 
chủ đề. Mỗi một thành phần được gắn với một liên kết trên mạng. Sự kết nối này còn 
được gọi là Siêu liên kết (Hyperlink).  1.2.2.2. Ở Việt Nam   
Nghị định 55 của Chính phủ về việc quản lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ Internet,  coi báo mạng đ ệ
i n tử như một loại hình dịch vụ thông tin Internet nằm trong các loại hình 
dịch vụ ứng dụng Internet: “Báo mạng điện tử là việc phát hành báo chí(báo in, báo hình, 
báo nói, báo mạng điện tử) trên Internet.” 
1.2.3. Đặc điểm của báo mạng điện tử  Tính đa phương tiện   
Đây được coi như là đặc trưng cơ bản nhất của báo mạng đ ệ i n tử. Tính đa phương 
tiện là sự kết hợp chặt chẽ giữa những yếu tố từ chữ viết, câu từ đến âm thanh, hình ảnh 
sống động, màu sắc, hình khối, đồ họa. Hiểu cách khác, báo mạng điện tử là sự kế thừa 
“đầy đủ” của những phương tiện truyền thông đại chúng truyền thống và có những ưu thế 
vượt trội để chạm tới công chúng một cách hiệu quả nhất. Nhưng tính đa phương tiện 
cũng thể là “con dao hai lưỡi” nếu trình độ khoa học kỹ thuật công nghệ không tương 
xứng. Đây có thể là trở ngại, hạn chế đối với mức độ tiếp cận của báo mạng điện tử tới  công chúng. 
Tính tức thời và phi định kỳ   
Một trong những mục tiêu cốt lõi nhất của báo mạng đ ệ
i n tử là phải cung cấp 
những thông tin mới nhất, nhanh nhất, nóng hổi, hấp dẫn và chính xác nhất. Thông tin 
của báo mạng điện tử không những được cập nhật theo giờ, mà còn là theo phút, theo 
giây. Điều này hoàn toàn phá vỡ tính định kỳ, chậm trễ của các loại hình báo chí truyền 
thống. Mà thay vào đó, thông tin trên báo mạng đ ệ
i n tử mang tính tức thời và phi định kỳ  18     
- nóng hổi nhất (latest) và mới nhất (fresh). Đặc trưng này chứng tỏ : loại hình báo chí 
thứ tư này có khả năng đáp ứng cao và hiệu quả nhu cầu tiếp nhận thông tin của công  chúng.  Tính tương tác cao   
Tính tương tác được hiểu là khả năng thông tin qua lại và đa chiều giữa người và 
máy tính, giữa công chúng và tờ báo, giữa các nhóm công chúng cùng bàn luận về một 
chủ đề nào đó trên không gian Internet. 
Tính tương tác của BMĐT được hiểu ở 3 góc độ : 
- Tương tác có định hướng  - Tương tác chức năng  - Tương tác tùy biến  1.3. Báo in 
1.3.1. Lịch sử hình thành và phát triển 
Vào những năm 59 trước Công nguyên, Julius Caesar, một vị tướng dưới thời La Mã 
cổ đại đã treo các tờ Acta Diurna, là những bản tin về sự kiện đang diễn ra trong các thành 
phố lớn, chúng được chạm khắc bằng kim loại hoặc đá, ở những nơi công cộng có nhiều 
người qua lại. Những tờ truyền tin đó được coi là tờ báo đầu tiên trên thế giới. Đến thế kỉ 
thứ 8 ở Trung Quốc, trên các đường phố Bắc Kinh xuất hiện những tờ truyền tin viết bằng 
tay trên lụa có tên gọi là Kaiyuan Za Bao (Bản tin của triều đình) chủ yếu đưa tin về các 
sự kiện quan trọng của triều đình nhà Đường cũng như những vấn đề nổi bật trong xã hội 
và được quan chức chính phủ đọc. 
Trong thời kỳ đầu hiện đại ở châu Âu, sự tương tác xuyên biên giới ngày càng tăng 
đã tạo ra nhu cầu ngày càng tăng về thông tin, được đáp ứng bằng các tờ tin tức viết tay 
ngắn gọn. Vào năm 1556, chính phủ Venice lần đầu tiên công bố Gazette (còn được gọi là 
công báo, tức báo của chính phủ). Có rất nhiều ý kiến xoay quanh nguồn gốc của từ Gazette, 
nhưng đại đa số đồng tình với ý tưởng Gazette có nguồn gốc từ tiếng La-tinh Gaza, có  19     
nghĩa là kho tàng tri thức. Gazetta được viết bằng tay và thường truyền tải những tin tức 
về chính trị, kinh tế và quân sự đến các thành phố của Ý. Công báo dần dần phát triển thịnh 
hành vào những năm cuối thế kỉ XVI, nhưng ấn phẩm này không đáp ứng được những tiêu 
chí cổ điển cho tờ báo thích hợp, vì chúng thường không dành cho công chúng và chỉ giới 
hạn trong một số chủ đề nhất định. Tuy vậy, Gazette đã đã được coi là ý tưởng đầu tiên về 
báo giấy, mở đầu cho ngành báo chí sau này. 
Nếu Ý là nơi đầu tiên khai sinh ra ý tưởng về báo giấy nhưng chỉ được viết tay thì 
người Anh là những người đầu tiên cho ra đời loại báo in. Máy in ra đời năm 1447 với 
công lao to lớn của Johann Gutenberg, một nhà phát minh người Anh. Sự ra đời của công 
nghệ in đã đặt nền tảng cho kỷ nguyên phát triển của báo chí hiện đại. 
Vào thời điểm phát kiến địa lý, quân đội Tây Ban Nha cho những hạm đội vào xâm 
chiếm để giành lấy các thuộc địa của Anh. Lúc này những tờ báo có thêm nhiệm vụ là lên 
án quân đội Tây Ban Nha lúc bấy giờ và kêu gọi người dân cùng giúp sức bảo vệ lãnh thổ. 
Ngày nay, tại thư viện British, vẫn còn lưu trữ khá nhiều những tờ báo vào thời điểm quân 
đội Tây Ban Nha chiếm đóng eo biển Anh vào năm 1588. Từ đây chúng ta có thể kết luận 
những tờ báo đầu tiên mang màu sắc chính trị khá đậm nét và là vũ khí để kêu gọi lòng yêu 
nước và tự hào dân tộc. 
Những tên báo phổ biến vào cuối thế kỷ 16 có thể kể đến là Mercury, Herald, 
Express... Sau đó, lần lượt những cái tên như Observer, Guardian, Standard ra đời, và 
những tờ sau này đã ít nhiều bớt nói về những vấn đề chính trị, mà đề cập nhiều hơn đến 
các vấn đề trong xã hội. 
Theo gót Anh, các nước châu u khác lần lượt xuất hiện những tờ báo đầu tiên của 
mình vào nửa đầu thế kỷ 17. Chúng ta có thể kể đến vài nước xuất hiện báo in sau Anh 
không lâu như Thụy Sỹ (1610), Pháp (1631), Đan Mạch (1634), Ý (1636), Thụy Điển 
(1645), Phần Lan (1661)… Những tờ báo in này chủ yếu đưa tin về châu u, thỉnh thoảng 
cũng đưa các tin tức về châu Á và châu Mỹ, nhưng đặc biệt vào thời điểm bấy giờ, những 
tờ báo này rất hiếm khi đề cập đến những vấn đề trong nước. Chẳng hạn các tờ báo của  20