/17
lOMoARcPSD| 61265515
1. Nguồn vốn đầu tư trong nước:
Nguồn vốn trong nước phần tích lũy của nội bộ nền kinh tế, bao gồm: tiết kiệm của
khu vực dân cư, tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp & tiết kiệm của Chính phủ được huy
động trong quá trình tái sản xuất xã hội.
Nguồn vốn trong nước được phân ra làm 3 nguồn chính:
a. Nguồn vốn Nhà nước
+ Vốn ngân sách Nhà nước:
Đây là nguồn vốn được quyết định và giải ngân vốn đầu tư công đến các bộ ngành, địa
phương. Nguồn vốn giải ngân đầu công đến từ ngân sách nhà ớc, được dùng để
xây dựng hạ tầng kinh tế – hội. Đây là nguồn vốn không hoàn lại, không khả năng
thu hồi vốn hay thu hồi vốn chậm. Vốn đầu tư công từ ngân sách nnước vai trò
thúc đẩy sự tăng trưởng ổn định cho nền kinh tế nhà nước.
Trong đó thu ngân sách bao gồm:
Thuế
Lệ phí
Phí từ hoạt động dịch vụ của cơ quan nhà nước
Các khoản phải nộp từ hoạt động kinh tế của nhà nước ● Huy động đóng
góp từ các cơ quan, tổ chức,...
Thu từ bán tài sản nhà nước ● Tiền sử dụng đất, cho thuê đất,...
Thu từ tài sản của nhà nước, thu cấp quyền khai thác khoáng sản, tài nguyên
Thu từ xử phạt hành chính
Đóng góp tự nguyện của các cá nhân tổ chức
Viện trợ không hoàn lại
Thu từ quỹ dự trữ tài chính
Các khoản thu khác
Trong đó chi ngân sách bao gồm:
Chi đầu tư phát triển
Chi dự trữ quốc gia
Chi thường xuyên
Chi trả lãi vay cho chính phủ, chính quyền địa phương vay
Chi viện trợ của NS Trung ương cho nước ngoài
Chi cho vay
Chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính
Chi chuyển nguồn từ NS năm trước sang NS năm sau
lOMoARcPSD| 61265515
Chi bổ sung cân đối ngân sách, bổ sung mục tiêu của ngân sách cấp trên cho
cấp dưới
+ Vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước
Đây là vốn đầu cho những dự án đầu tư mà chủ đầu tư có thể vay vốn hưởng lãi suất
ưu đãi để đầu tư trong những ngành, lĩnh vực quan trọng, chương trình kinh tế lớn của
Nhà nước, các vùng kkhăn Nhà nước khuyến khích đầu tư bảo đảm có hiệu quả kinh
tế – xã hội, có khả năng hoàn trả vốn vay.
Ưu tiên sử dụng cho các dự án:
Kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội
Nông nghiệp nông thôn
Công nghiệp
Dự án đầu thực hiện tại các địa bàn điều kiện kinh tế hội khó
khăn, đặc biệt khó khăn
Dự án đầu tư ra nước ngoài, các dự án cho vay theo hiệp định của CP
Cho vay tối đa 70% tổng vốn đầu tư của dự án (không bao gồm vốn lưu động)
Thời gian không quá 12 năm (nhóm A 15 năm)
Thực hiện qua kênh Ngân hàng chính sách
+ Vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhà nước
Bao gồm 16 lĩnh vực đặc biệt
Vốn tín dụng đầu phát triển của Nhà nước là vốn DN đầu tư, hoạt động kinh doanh
nhằm mục đích sinh lời
b. Nguồn vốn dân cư và tư nhân
- Nguồn vốn tiết kiệm của các DN (Vốn tích lũy của DN)
+ Huy động vốn từ lợi nhuận không chia
+ Huy động vốn bằng tín dụng thương mại
+ Huy động vốn bằng cách thỏa thuận vay tiền từ tổ chức, cá nhân khác trong nền kinh
tế
- Tiết kiệm của dân (Tích lũy của khu vực gia đình)
***VAI TRÒ của nguồn vốn trong nước đối với các nước đang phát triển:
Thứ nhất, nguồn vốn trong nước nguồn vốn đóng góp lớn vào GDP toàn
hội, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
lOMoARcPSD| 61265515
Theo Vietnam Economic Times: Economics 2015-2016: Vietnam and the world, p96:
Quy mô vốn nhà nước phụ thuộc phần lớn vào ngân sách nhà nước và thu nhập của nó.
Bất chấp môi trường toàn cầu đầy thách thức, nền kinh tế Việt Nam đã chứng tỏ kh
năng phục hồi của mình, được hỗ trợ bởi tiêu dùng tư nhân và xuất khẩu sản xuất mạnh
mẽ.
Sau khi điều chỉnh trong quý thứ hai, tăng trưởng đã phục hồi ước tính khoảng 7,3%
trong quý thứ ba, đưa mức tăng trưởng so với cùng kỳ năm ngoái lên gần 7% trong ba
quý đầu năm 2019. Tốc độ tăng trưởng GDP ước tính cho năm 2019 sẽ vào khoảng
6,8%, thấp hơn một chút so với năm 2018 ngang bằng với kết quhoạt động được
báo cáo trong năm 2017
Thứ hai, nguồn vốn đầu trong nước đóng vai trò định hướng cho việc thay
đổi cơ cấu kinh tế, cân bằng thị trường hàng hóa, giúp nền kinh tế quốc gia tăng trưởng
& phát triển đồng đều, toàn diện.
Qua biểu đồ trên, thể thấy cấu ngành sự dịch chuyển từ nông nghiệp, lâm
nghiệp và thủy sản sang dịch vụ.
Thứ ba, nguồn vốn đầu tư trong nước vai trò đảm bảo cho sphát triển toàn
diện, không lệch lạc giữa các vùng miền của nền kinh tế, góp phần giúp nền kinh tế tăng
trưởng & phát triển một cách bền vững.
Thứ tư, nguồn vốn đầu trong nước góp phần kiềm chế lạm phát, đẩy nhanh
tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, tạo đà cho tăng trưởng & phát triển kinh
tế.
lOMoARcPSD| 61265515
Thứ năm, nguồn vốn đầu trong nước xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng đạt một
trình độ nhất định, tạo điều kiện thuận lợi để thu hút vốn đầu nước ngoài cũng như
tăng tính hiệu quả, nhanh chóng của việc sử dụng vốn đầu nước ngoài, tạo nền tảng
vững chắc cho sự tăng trưởng của nền kinh tế.
Thứ sáu, sự lớn mạnh & ổn định của nguồn vốn đầu tư trong nước giúp hạn chế
những mặt tiêu cực của nguồn vốn đầu tư nước ngoài, đồng thời tạo dựng khung xương
vững chãi cho nền kinh tế, giúp chống lại sóng gió từ thị trường quốc tế.
3. PHÂN TÍCH SỰ DỊCH CHUYỂN TRONG CẤU NGUỒN VỐN TRONG
NƯỚC TẠI VN QUA BẢNG SỐ LIỆU VỀ CẤU NGUỒN VỐN TRONG
NƯỚC TẠI VN
đây Nguồn vốn trong nước bao gồm vốn khu vực Nhà nước vốn khu vực ngoài
Nhà nước.
https://www.gso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2022/04/von-dau-tu-toan-xa-
hoiquy-i-2022-tang-truong-tich-cuc-dong-luc-thuc-day-tang-truong-kinh-te-nam-
2022/ Cơ cấu nguồn vốn giữa các loại hình doanh nghiệp thay đổi theo hướng ng dần
tỷ trọng nguồn vốn doanh nghiệp ngoài nhà nước doanh nghiệp FDI, giảm dần tỷ
trọng nguồn vốn doanh nghiệp nhà nước. Bên cạnh đó, doanh nghiệp ngoài nhà nước
thu hút nhiều ngun vốn nhất trong số các loại hình doanh nghiệp.
Vốn đầu thực hiện toàn hội toàn bộ tiền vốn bỏ ra (chi tiêu) để làm tăng hoặc
duy trì năng lực sản xuất và nguồn lực để nâng cao mức sống vật chất và tinh thần của
toàn xã hội trong một thời kỳ nhất định (tháng, quý, năm).
Tổng vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội phân theo loại hình kinh tế
theo giá hiện hành quý I các năm 2018-2022 (nghìn tỷ đồng)
(Nguồn: Tổng cục thống kê)
lOMoARcPSD| 61265515
Vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội quý I/2022 theo giá hiện hành ước đạt 562,2 nghìn tỷ
đồng, tăng 8,9 % so với cùng kỳ năm trước. Trong đó Vốn khu vực Nhà nước có tỷ lệ
tăng cao nhất là 9,3%, chiếm 24,3% và ước đạt 136,5 nghìn tỷ đồng. Tiếp đến là Vốn
khu vực ngoài Nhà nước tăng 9,1%, chiếm 57,5% và ước đạt 323,1 nghìn tỷ đồng.Vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng ít nhất với 7,9%, chiếm 18,2% và ước đạt 102,6 nghìn
tỷ đồng.
Tiếp nối đà phục hồi kinh tế từ quý 4 năm 2021 do kiểm soát tốt dịch Covid-19 cũng
như thực hiện hiệu quả Nghị quyết 128/NQ-CP của Chính phủ về thích ứng an toàn và
linh hoạt trong điều kiện bình thường mới, trong quý I/2022, tình hình sản xuất kinh
doanh và đầu tư có nhiều chuyển biến tích cực, hầu hết các ngành, lĩnh vực, địa phương
trong xu ớng phục hồi tăng trưởng trở lại. Đồng thời Chính phủ đang triển khai
các gói hỗ trợ phục hồi kinh tế-xã hội nhằm tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, tạo
điều kiện cho doanh nghiệp giảm thiểu thiệt hại, duy trì và mở rộng hoạt động sản xuất
kinh doanh, tạo đà cho tăng trưởng huy động thực hiện vốn đầu . Theo đó, vốn
đầu tư thực hiện quý I/2022 của khu vực ngoài Nhà nước so với cùng kỳ đạt 9,1%.
Tốc độ phát triển vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội
theo giá hiện hành quý I các năm 2018-2022 (%)
lOMoARcPSD| 61265515
Trong 5 năm qua sự dịch chuyển mạnh mẽ của các nguồn vốn đầu tư, đặc biệt từ năm
2019-2020 khi đại dịch Covid-19 diễn ra. Cụ thể, vốn khu vực ngoài Nhà nước từ dẫn
đầu về tốc độ phát triển 14,7% (2018) giảm n 3,9% (2020). Tốc độ phát triển vốn đầu
tại khu vực FDI cũng giảm từ 8,1% (2018) xuống -5,4 % (2020). giải cho xu
hướng này, Tổng cục Thống đánh giá: "Sự bùng phát và lan rộng của đợt dịch Covid-
19 thứ cùng các biện pháp giãn cách hội nghiêm ngặt những do khiến vốn
đầu thực hiện toàn xã hội nhất cấu phần vốn Nhà nước vốn đầu trực tiếp nước
ngoài giảm mạnh". Do đó, trong giai đoạn y, Vốn khu vực Nhà nước giữ một vị trí
quan trọng trong cơ cấu nguồn vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội. Từ vốn có tốc độ tăng
thấp nhất: 0,6% (2018) đến vốn tốc độ tăng cao nhất trong thời kỳ đại dịch: 6,8%
(2020). Sau đại dịch, nền kinh tế dần được phục hồi, tốc độ phát triển của các vốn đầu
đã tăng trlại. Dẫn đầu là vốn khu vực Nhà nước, tiếp đến là vốn khu vực ngoài Nhà
nước và cuối cùng là vốn khu vực FDI.
Blab bla ,.....
Nhìn lại các năm trước cho đến năm 2021 thì tất cả các mục tiêu mà Nghị quyết 07 đề
ra cho giai đoạn 2016 - 2020 đều đã đạt và vượt mức quy định như: Tổng thu Ngân
sách trong cả giai đoạn đạt trên 6,9 triệu tỷ đồng, gấp 1,6 lần giai đoạn trước; Cơ cấu
thu ngân sách bền vững nhờ cơ cấu thu ngân sách đã có sự chuyển dịch theo hướng
tăng tỷ trọng thu nội địa. Nếu như giai đoạn 2011-2015, tỷ lệ thu nội địa bình quân là
68,7% thì đến năm 2020 tỷ trọng thu nội địa đạt 85,5%; Bội chi ngân sách 3,6% GDP,
lOMoARcPSD| 61265515
thấp hơn mục tiêu đề ra; Nợ công trên GDP từ gần chạm trần 65% xuống 55,8% vào
cuối nhiệm kỳ. Trong giai đoạn 2016-2020, chính sách động viên NSNN tiếp tục được
hoàn thiện theo quy định tại Nghị quyết số 25/2016/QH14 của Quốc hội, Nghị quyết
số 07-NQ/TW của Bộ Chính trị và định hướng, mục tiêu, lộ trình đề ra trong Chiến
lược tài chính đến năm 2020 tăng thu, sử dụng hợp lí, tiết kiệm và hiệu quả các nguồn
thu. Cũng trong giai đoạn này, nhằm hỗ trợ nền kinh tế đối phó với đại dịch COVID19
năm 2020, Chính phủ đã triển khai thực hiện có hiệu quả một số chính sách thu mới;
ban hành theo thẩm quyền việc gia hạn, miễn, giảm một số khoản thuế, phí, lệ phí và
thu ngân sách.
Vốn đầu tư thực hiện của khu vực kinh tế Nhà nước
phân theo nguồn vốn (nghìn tỷ đồng)
Dẫn đầu trong tốc đphát triển vốn đầu toàn xã hội trong đó ta thể thấy vốn đầu
thực hiện của khu vực kinh tế Nhà nước phân theo nguồn vốn chiếm vị trí cao nhất
là vốn thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước, quý I/2022 ước đạt 76,3 nghìn tỷ đồng,
tăng 10,6% so với cùng kỳ năm trước bằng 14,4% kế hoạch năm, mức cao nhất trong
5 năm trở lại đây, thể hiện sự chuyển biến tích cực trong việc đẩy mạnh thực hiện
giải ngân vốn đầu tư công ngay từ các tháng đầu năm 2022.
Năm 2023 Nhà nước đã dự toán chi NSNN cho đầu tư phát triển: 726,7 nghìn tỷ đồng,
chiếm 35% tổng chi NSNN, tăng 38,1% so dự toán năm 2022, đảm bảo đủ nguồn thực
lOMoARcPSD| 61265515
hiện các nhiệm vụ trong Chương trình phục hồi phát triển kinh tế - hội. (DỰ
TOÁN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC NĂM 2023 CHÍNH PHỦ TRÌNH QUỐC HỘI)
Nói chung trong 5 m qua nguồn vốn giữa các khu vực sự chuyển biến rệt
dịch chuyển mạnh nhất vào năm 2019-2021 khi đại dịch Covid-19.Trong đó vốn khu
vực Nhà nước từ nguồn vốn có tốc độ tăng thấp nhất lên đến dẫn đầu trong tốc độ tăng
vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội (từ 0,6% m 2018 đến 9,3% năm 2022). Chiếm phần
lớn trong vốn khu vực kinh tế Nhà nước nguồn từ ngân sách Nhà nước (đạt tới mức
cao nhất trong 5 năm trở lại đây). Cùng với nguồn vốn trong ớc thì vốn khu vực ngoài
Nhà nước tốc độ ng dẫn đầu năm 2018 (14,7%) giảm mạnh đến năm 2020
(3,9%) nhưng dần ổn định tăng nhanh trở lại, chiếm vị trí thứ 2 vào năm 2022 (9,1%).
https://khoadautu.neu.edu.vn/vi/thong-tin-dau-tu/von-dau-tu-thuc-hien-toan-xa-
hoinam-2021-dat-gan-2-900-nghin-ty-dong-tang-muc-thap-nhat-nhieu-nam
3. So sánh
Một quốc gia khác trong khu vực đó Indonesia - nền kinh tế lớn nhất Đông
Nam Á, có nền kinh tế lớn thứ 10 tính theo sức mua tương đương.
(https://www.worldbank.org/en/country/indonesia/overview )
Trong những năm gần đây, vốn đầu trong nước của Indonesia xu ớng tăng
mạnh mẽ. Năm 2022, vốn đầu trong nước đạt 102,4 tỷ USD tăng 23,2% so với năm
2021. Trong đó khu vực nhân đạt 98,4 tỷ USD chiếm 96,2%, khu vực nhà nước đạt
4 tỷ USD chiếm 3,8%.
Vốn đầu tư trong nước của Indonesia phân bổ chủ yếu vào các lĩnh vực:
+ Công nghiệp chế biến, chế tạo: 36,8%
+ Bất động sản: 20,5% +
Bán buôn, bán lẻ: 13,5%
….
Có thể thấy cả Việt Nam và Indonesia đều là các quốc gia có vốn đầu tư trong nước có
xu hướng tăng mạnh mtrong các năm gần đây. Cả 2 quốc gia này đều vốn đầu
trong nước tập trung chủ yếu khu vực nhân, chiếm tỷ trọng lớn trong nguồn vốn
đầu trong nước khá tập trung vào c lĩnh vực: công nghệ chế biến, chế tạo; bất
động sản,...
Tuy nhiên cũng có thể thấy vốn đầu tư trong nước của Indonesia năm 2022 lớn gấp hơn
4,5 lần so với Việt Nam (22,6 tỷ USD). Lý giải cho sự khác biệt như này có thể kể đến
Indonesia là quốc gia có dân số lớn nhất Đông Nam Á, kích thước nền kinh tế lớn, tăng
lOMoARcPSD| 61265515
trưởng kinh tế ổn định tạo được nhiều hội đầu tư, thu nhập người dân tăng n tích
lũy dân cư cũng tăng theo.
Vào năm 2020, dưới sự ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 Indonesia đã ghi nhận
mức tăng trưởng GDP âm vào năm 2020 lần đầu tiên kể từ năm 1998, từ + 5% vào m
2019 giảm xuống -2,1%. Còn đối với Việt Nam GDP tăng 2,91% so với cùng m
trước. Nền kinh tế Indonesia phụ thuộc khá nhiều vào tiêu dùng nội địa của nhân -
được kích thích bởi thị trường khổng lồ với tầng lớp trung lưu ngày càng tăng lên tới
gần 70 triệu người (chiếm 55% GDP). Tuy nhiên nó cũng đem lại nhiều rủi ro cho nền
kinh tế Indonesia khi tiêu dùng nhân giảm xuống, nền kinh tế sẽ bị ảnh hưởng
tiêu cực.
( https://countryeconomy.com/gdp/indonesia?year=2020 )
Trong nguồn vốn trong ớc của Việt Nam và Indonesia thì trái phiếu đóng một
vai trò quan trọng. Tại Việt Nam, trái phiếu chính phủ là nguồn vốn quan trọng nhất của
chính phủ để huy động vốn cho các hoạt động đầu tư phát triển. Trong 2021 khối lượng
huy động trái phiếu chính phủ trên thị trường 318.213 tđồng (khoảng 13,08 tỷ
USD). Còn ở Indonesia trái phiếu đóng vai trò quan trọng đặc biệt là đối với các doanh
nghiệp. Theo PT Penoughkat Efek Indonesia (Pefindo), các đợt phát hành trái phiếu
doanh nghiệp đạt 157.000 tỷ rupiah (10,96 tỷ USD) trong năm 2021. Việc Chính phủ
Việt Nam cần huy động vốn từ trái phiếu nhiều hơn so với Indonesia Việt Nam
các chính sách tài khóa nới lỏng hơn: tăng chi tiêu Chính phủ hoặc giảm nguồn thu từ
thuế nên sẽ phải huy động vốn nhiều hơn để đắp được khoản thâm hụt ngân sách;
ngoài ra còn do thị trường trái phiếu của Indonesia phát triển hơn Việt Nam nên Chính
phủ Indonesia thể huy động vốn từ thị trường trái phiếu với chi phí thấp hơn Việt
Nam.
(mof.gov.vn › webcenter › portal )
bnews.vn › indonesia-gia-tri-phat-hanh-trai-phieu-doanh
Về các chính sách thuế, tại Việt Nam và Indonesia một số khác biệt và dẫn
đến sự khác biệt trong nguồn vốn trong nước của 2 quốc gia. Đầu tiên là thuế thu nhập
doanh nghiệp (CIT) là một trong những loại thuế quan trọng nhất ảnh hưởng đến nguồn
vốn trong nước. Việt Nam, CIT áp dụng theo nguyên tắc khấu trừ, theo đó doanh
nghiệp được trừ các chi phí hợp lý khi tính thuế. Mức thuế CIT hiện hành của Việt Nam
20%. Indonesia, CIT cũng áp dụng theo nguyên tắc khấu trừ. Mức thuế CIT hiện
hành của Indonesia là 25%. Mức thuế CIT cao hơn ở Indonesia sẽ khiến chi phí của các
doanh nghiệp Indonesia cao hơn, dẫn đến giảm lợi nhuận và khả năng tái đầu tư của các
doanh nghiệp. Tiếp theo thuế thu nhập cá nhân (PIT) - đây là loại thuế quan trọng thứ
lOMoARcPSD| 61265515
hai ảnh ởng tới nguồn vốn trong nước của Chính phủ. Việt Nam, PIT áp dụng theo
7 mức thuế suất, từ 5% đến 35%, tùy thuộc vào mức thu nhập của người nộp thuế.
Indonesia, PIT cũng áp dụng theo 7 mức thuế suất, từ 5% đến 30%, tùy thuộc vào mức
thu nhập của người nộp thuế. Sự khác biệt vmức thuế PIT giữa hai nước không
đáng kể. Cuối cùng là Thuế giá trị gia tăng (VAT) là loại thuế tiêu thquan trọng, ảnh
hưởng đến chi phí sản xuất tiêu dùng của các doanh nghiệp hộ gia đình. Việt
Nam, VAT áp dụng mức thuế suất 10%. Ở Indonesia, VAT áp dụng mức thuế suất 11%.
Mức thuế VAT cao hơn Indonesia sẽ làm tăng chi phí sản xuất và tiêu dùng, dẫn đến
giảm lợi nhuận và khả năng tiết kiệm của các doanh nghiệp và hộ gia đình. Điều này sẽ
làm giảm nguồn vốn trong nước của Indonesia. thể thấy các chính sách về thuế
Indonesia có xu hướng cao hơn so với Việt Nam bởi Việt Nam đang áp dụng các chính
sách tài khóa nới lỏng nhằm kích thích tăng trưởng kinh tế.
thuvienphapluat.vn › van-ban › Doanh-nghiep
gonnapass.com › thue-o-indonesia-tax-indonesia-pajak-di
Tóm lại, trong thời gian tới cả Việt và Indonesia cần có các chính sách cải thiện các
yếu tố ảnh hưởng tiêu cực đến nguồn vốn trong nước qua đò nhằm thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế, cải thiện đời sống của nhân dân.
IV. Giải pháp huy động và sử dụng nguồn vốn trong nước
Nước ta là một nước đang phát triển, nguồn lực cho phát triển kinh tế hội còn thiếu
hụt nhiều, đặc biệt nguồn vốn đầu tư. Do đó, tập trung vào huy động sử dụng
nguồn vốn trong nước một cách hiệu quả sẽ đem lại
1. Tăng vốn ngân sách nhà nước
Phó Thủ ớng Chính phủ Minh Khái vừa Quyết định số 368/QĐ-TTg ngày
21/3/2022 phê duyệt Chiến lược tài chính đến năm 2030 tỷ lệ huy động vào ngân sách
nhà nước giai đoạn 2021 - 2025 bình quân không thấp hơn 16% GDPgiai đoạn 2026
- 2030 khoảng 16 đến 17% GDP. Trong đó, tỷ lệ huy động từ thuế, phí giai đoạn
2021 - 2025 khoảng 13 đến 14% GDP giai đoạn 2026 - 2030 khoảng 14 đến 15%
GDP. Thực tiễn này đã đặt ra yêu cầu cần thiết phải những giải pháp huy động vốn
ngân sách nhà nước.
a. Chính phủ có thể áp dụng tăng thuế hợp lý, tận thu thuế, phí, lệ phí đúng và đủ.
Ở Việt Nam, mỗi năm tiêu thụ đến 3,9 tỉ bao thuốc lá thế nhưng thuế thu được chỉ có
708 triệu đô/năm. Trong khi đó, Thái Lan mỗi năm chỉ tiêu thụ 2 tỉ bao nhưng ngân sách
thu gần 2,1 tỉ đô/năm (gấp 3 lần Việt Nam). Lý giải điều này, bà Phan Thị Hải đại diện
lOMoARcPSD| 61265515
Quỹ phòng chống tác hại thuốc lá nói : "Sở dĩ Thái Lan thu được nguồn ngân sách cao
hơn trong khi tỷ lệ sử dụng thuốc lá lại thấp n Việt Nam do quốc gia này đánh thuế
thuốc lá đến 78% giá bán lẻ (cao hơn khuyến cáo của Tổ chức Y tế thế giới (WHO)
70%), trong khi Việt Nam chỉ xấp xỉ 38,8%". Hiện nay, Việt Nam đang áp dụng hệ
thống thuế theo giá trị hàng hóa thống nhất là 75% đối với các sản phẩm thuốc lá. Vào
cuối năm 2017 đầu năm 2018, Bộ Tài chính đã đề xuất cải cách thuế tiêu thụ đặc biệt
(TTĐB) đối với thuốc lá bằng cách áp dụng một hệ thống kết hợp để thay thế hệ thống
thuế theo giá trị hiện hành. Bộ Tài chính đưa ra 2 phương pháp kết hợp giữa thuế theo
giá trị thuế đặc thù đã được nhiều nước áp dụng: một áp dụng thuế TTĐB theo
phương pháp kết hợp bằng cách cộng thuế suất cụ thể 1.000 đồng/bao 20 điếu và 1.500
đồng/điếu xì gà, hai là tăng thuế suất theo lộ trình, từ năm 2020, thuế suất tăng từ 75%
lên 80%, từ năm 2021, thuế suất sẽ tăng lên 85%. Bộ Tài chính cũng cho biết, phương
pháp kết hợp giữa thuế theo giá trị thuế đặc thù đã được nhiều nước phát triển
(khoảng 48 nước) áp dụng. Cụ thể, với đề xuất tăng thuế 2000 VNĐ/bao thuốc bên
cạnh thuế tỷ lệ 75% từ 1/1/2020, thu ngân sách từ thuế thuốc sẽ tăng khoảng 38,8%
vào năm 2020 - so với năm 2019; với đề xuất tăng thuế lên 5000 VNĐ/bao thuốc lá bên
cạnh thuế tỷ lệ 75% từ 1/1/2021, thu ngân sách sẽ tăng 7,4 nghìn tỷ đồng vào năm 2021.
Tuy nhiên, việc sửa đổi Luật Thuế đã bị lùi lại với do cần nghiên cứu thêm với sự
tham gia của các bên liên quan. Bộ Tài chính dự kiến sẽ sớm tiến hành nghiên cứu
cải cách thuế tiêu thụ đặc biệt. Với việc không áp dụng cải cách thuế này vào năm 2020
2021, Chính phủ Việt Nam đã thất thu khoảng 19 nghìn tỷ đồng (825 triệu USD)
thuế tiêu thụ đặc biệt (nguồn: Hana Ross (2021). Lost Funds: A Study on the Tobacco
Tax Revenue Gap in Vietnam. Southeast Asia Tobacco Control Alliance. Bangkok.
Thailand.). Như vậy, việc tiêu thụ thuốc cần phải được kiểm soát chặt chẽ hơn nữa
và lộ trình tăng thuế TTĐB vẫn chưa đạt được mục tiêu đã đề ra.
Điều chỉnh tăng mức thuế suất, thuế nhập đối với hàng hóa tiêu dùng không khuyến
khích nhập khẩu (như ôtô nguyên chiếc, hàng điện tử, điện lạnh…) Điều chỉnh giảm
giá thuế nhập khẩu với một số nhóm hàng thiết thực, phục vụ sản xuất.. để góp phần
bình ổn giá.
Việc tăng các khoản thu đặc biệt thuế thsẽ đắp sự thâm hụt NSNN giảm
bội chi NSNN. Tuy nhiên, nếu tăng thuế không hợp sẽ dẫn đến làm giá cả hàng hóa
tăng gây ảnh hưởng lớn đến sản xuất đời sống nhân dân, nghiêm trọng hơn sẽ triệt
lOMoARcPSD| 61265515
tiêu động lực của các doanh nghiệp trong các ngành sản xuất kinh doanh và làm mất đi
khả năng cạnh tranh của nền kinh tế đối với các nước trong khu vực và trên thế giới.
b. Tận dụng nguồn vốn từ trái phiếu.
Thị trường trái phiếu đã trở thành kênh huy động vốn trung dài hạn quan trọng cho
ngân sách nhà nước khi đóng vai trò là công cụ tái cơ cấu nợ công, giúp nợ công giảm
tỷ trọng vay ớc ngoài từ 73,6% năm 2010 xuống mức 63,4% năm 2015 34,8%
năm 2021. Cùng với smở rộng quy ngân sách, mức chi cho đầu phát triển từ
ngân sách nhà nước cũng tăng đáng kể. Cũng theo Quyết định số 368/QĐ-TTg ngày
21/3/2022 phê duyệt Chiến lược tài chính đến năm 2030, đến năm 2025, nợ thị
trường trái phiếu đạt tối thiểu 47% GDP, trong đó nợ thị trường trái phiếu doanh
nghiệp đạt tối thiểu 20% GDP. Đến năm 2030, quy mô vốn hóa thị trường cổ phiếu đạt
120% GDP, nợ thị trường trái phiếu đạt tối thiểu 58% GDP, trong đó, nợ thị
trường trái phiếu doanh nghiệp đạt tối thiểu 25% GDP.
https://haiquanonline.com.vn/huy-dong-von-trai-phieu-chinh-phu-da-dam-bao-
hieuqua-vay-va-su-dung-von-vay-179636.html)
Giải pháp phát triển thị trường trái phiếu chính phủ đến năm 2025, tầm nhìn đến
năm 2030
Môt là, kiểm soát chặt chẽ bội chi NSNN, ncông, các nghĩa vụ nợ dự phòng củạ
NSNN, nợ ng, nợ của chính quyền địa phương, đảm bảo an toàn tài chính quốc gia,
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay. Bên cạnh đó, bám sát các Nghị quyết, chủ trương
của Đảng, Quốc hội, Chính phủ về Kế hoạch tài chính quốc gia và vay từ đó kiểm soát
bội chi NSNN trong phạm vi Quốc hội quyết định và phấn đấu thấp hơn, giảm nợ công.
Các khoản vay mới vốn ODA vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài chỉ sử
dụng cho chi đầu tư phát triển, không sử dụng cho chi thường xuyên. Bố trí thanh toán
trả nợ gốc lãi đầy đủ, đúng hạn. Kiểm soát chặt chẽ nợ công, đảm bảo các chỉ tiêu
trong giới hạn an toàn nợ theo quy định; Các bô, ngành, địa phương tăng
cường phối
hợp thực hiên kiểm tra, giám sát chặ t chẽ việ c vay, sử dụng vốn vay, trả
nợ, nhất là đối
với các hiêp định vay mới, vay nước ngoài, vay bảo lãnh của Chín phủ. Tiếp tục
thực hiện các giải pháp cơ cấu lại danh mục nợ công theo hướng an toàn, bền vững.
Hai là, xây dựng môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, minh bạch hóa các khoản đầu tư từ
ngân sách: Giữ vững n định kinh tế một yêu cầu quan trọng xuyên suốt
trong phát triển kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa. Phát huy kết quả đạt
được trong thời gian qua, chúng ta phải tiếp tục nỗ lực phấn đấu tạo nền tảng vĩ mô ổn
lOMoARcPSD| 61265515
định vững chắc hơn hiện nay giai đoạn sắp tới. Ổn định môi trường kinh tế mô,
đóng vai trò là nền tảng, là yêu cầu cấp thiết khách quan để phát triển thị trường TPCP,
cải thiện mức xếp hạng tín nhiệm của Chính phủ, đủ điều kiện để đạt được tiêu chuẩn
đầu của các nguồn quỹ lớn trên thế giới. Để làm được điều đó, cần chính sách
kinh tế, chính sách tài chính tiền tệ phù hợp trong từng giai đoạn phát triển của đất ớc
xây dựng một khung pháp đầy đủ, đồng bộ đảm bảo thống nhất phát triển thị
trường TPCP. Điều hành chính sách tài khóa chđộng, hạn chế mức thâm hụt ngân sách
dưới 3,5% GDP giai đoạn 2021-2025, dưới 3% GDP giai đoạn 2026-2030. Xây dựng
chế điều hành lãi suất tỷ giá hối đoái theo thị trường. Ổn định thị trường ngoại
hối, thị trường tiền tệ, thị trường tài chính. Tăng mức dự trữ ngoại tệ quốc gia lên mức
an toàn. Đẩy mạnh cải cách hành chính theo hướng minh bạch, công khai, tạo môi
trường pháp lý bình đẳng cho các nhà đầu tư.
Ba là, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý phát triển thị trường TPCP: Hoàn thiện khuôn khổ
pháp lý về đầu tư của các nhà đầu tư chính trên thị trường, trong đó tập trung về khuôn
khổ pháp lýchế đầucủa các tổ chức tín dụng. Thường xuyên sửa đổi, hoàn thin
hệ thống định mức, chế độ sử dụng ngân sách cho phù hợp với tình hình thực tế một
cách khoa học, khách quan. Các địa phương tự cân đối ngân sách nhà nước, chính quyền
trung ương kiểm soát chặt chẽ định mức, tiêu chuẩn phân bố.
Bốn là, hoàn thiện cấu trúc thị trường trái phiếu Chính phủ: Hoàn thiện và phát triển th
trường TPCP cấp, gắn kết giữa công tác huy động vốn TPCP với điều hành NSNN
quản lý ngân quỹ; xác định cụ thể khối lượng huy động vốn hàng năm, công bố công
khai lịch biểu, khối lượng, kỳ hạn phát hành trái phiếu chi tiết theo hàng quý để nhà đầu
chủ động bố trí nguồn vốn tham gia; phát hành đều đặn, liên tục các kỳ hạn để đáp
ứng nhu cầu nhà đầu tư; tiếp tục tái cấu sản phẩm để tăng tính bền vững của danh
mục nợ TPCP; phát triển các sản phẩm mới trên thị trường trái phiếu để đáp ứng nhu
cầu của nhà đầu tư. Phát hành TPCP với tái cơ cấu nợ thông qua các nghiệp vụ mua lại,
hoán đổi để vừa phát triển thị trường TPCP vừa cơ cấu lại nợ công theo hướng an toàn,
bền vững. Phát triển đa dạng các sản phẩm, hàng hóa trên thị trường để đáp ứng nhu
cầu của các nhà đầu tư; phát triển sản phẩm TPCP xanh để huy động vốn cho các dự án
bảo vệ môi trường phục vụ phát triển kinh tế bền vững, phù hợp với xu hướng phát triển
trên thế giới; Hoàn thiện và phát triển thị trường TPCP thứ cấp, cải tiến hình tổ chức
thị trường hệ thống giao dịch, rút ngắn hơn nữa quy trình từ khâu phát hành đến đăng
ký, lưu ký, niêm yết, giao dịch thanh toán trái phiếu phù hợp với định hướng phát
lOMoARcPSD| 61265515
triển công nghệ 4.0 để tăng thanh khoản trên thị trường thứ cấp. Vận hành hệ thống nhà
tạo lập thị trường trên cả thị trường sơ cấp thứ cấp theo thông lquốc tế để tăng
thanh khoản của thị trường.
Năm là, phát hành quản danh mục TPCP chủ động, hiệu quả; điều hành lãi suất
phát hành TPCP phù hợp với nguyên tắc thị trường, định hướng điều hành chính sách
tài khóa, chính sách tiền tệ…
2. Phân phối hợp lý giữa tích lũy và tiêu dùng, tiết kiệm chi ngân sách
Bộ Tài chính cho biết, để siết chặt kỷ luật, kỷ cương tài chính, ngân sách; thực hiện
quyết liệt các giải pháp chống thất thu, chuyển giá, trốn thuế, thu hồi nthuế; kiểm soát
chặt chẽ bội chi ngân sách nhà nước (NSNN)…, Bộ Tài chính đã đặt ra một số chỉ tiêu
cần thực hiện trong năm 2023.
Cụ thể, các đơn vị thuộc bộ thực hiện siết chặt kỷ luật tài khóa NSNN; bảo đảm chi
NSNN tiết kiệm, hiệu quả và theo đúng dự toán được Bộ Tài chính giao, trong đó chú
trọng cắt giảm các khoản chi chưa thực sự cần thiết, triệt để tiết kiệm các khoản chi
thường xuyên và kiểm soát chặt chẽ công tác phân bổ, quản lý, sử dụng các khoản chi
NSNN.
Nghiêm cấm việc quyết toán chi NSNN không khối lượng, không đúng thủ tục Để
thực hiện tốt các chỉ tiêu đã đặt ra, các đơn vị trực thuộc thực hiện nghiêm các quy định
của Luật NSNN trong tất cả các khâu: lập, thẩm định, phê duyệt, phân bổ, giao dự toán,
quản lý, sử dụng, kiểm soát chi quyết toán kinh phí NSNN. Thực hiện đồng bộ, quyết
liệt, hiệu quả các nghị quyết của Chính phủ, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về phát
triển kinh tế - xã hội và điều hành dự toán NSNN.
Rà soát các chương trình, dự án đã được cấp có thẩm quyền quyết định để ưu tiên bố trí
nguồn lực; cắt giảm các chương trình, dự án có nội dung trùng lặp, kém hiệu quả. Tiếp
tục thực hiện đổi mới cơ chế tự chủ đối với ĐVSNCL theo hướng tăng cường phân cấp
và tăng cường tực chủ về tổ chức thực hiện nhiệm vụ…
Đồng thời, các đơn vị thuộc Bộ Tài chính phải điều hành, quản chi NSNN trong phạm
vi dự toán được giao, đúng tiêu chuẩn, định mức, chế độ quy định; thực hiện triệt để tiết
kiệm toàn diện các nội dung chi, nâng cao hiệu quả sử dụng NSNN. Tăng cường kiểm
tra, giám sát việc thực hiện các quy định của pháp luật trong quản lý, sử dụng kinh phí
lOMoARcPSD| 61265515
chi thường xuyên NSNN. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, xử vi
phạm trong quản lý thu, chi NSNN; tăng cường kỷ luật, kỷ cương tài chính; theo dõi
thi hành pháp luật về NSNN. Giảm dần bội chi ngân sách nhà nước; quản nợ công
chặt chẽ, đảm bảo an toàn nợ công và an ninh tài chính quốc gia. Cụ thể, phấn đấu tăng
thu, tiết kiệm chi, giảm bội chi ngân sách nhà nước để đạt được chỉ tiêu bội chi ngân
sách trong Kế hoạch tài chính quốc gia vay, trả nợ công 5 năm 2021 - 2025 bình
quân khoảng 3,7% GDP; đến năm 2030 xuống khoảng 3% GDP. Trường hợp biến
động, rủi ro lớn, Bộ Tài chính kịp thời báo cáo Chính phủ trình Quốc hội xem t, quyết
định.
Đẩy mạnh các biện pháp chống thất thu ngân sách; soát, xác định những nguồn thu
còn thất thu để kịp thời đề xuất các giải pháp quản hiệu quả, tăng cường công tác
kiểm tra đối với các đơn vị khoản thu từ phí chuyển sang giá dịch vụ mà Nhà nước
không định giá; khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh hộ nhân kinh doanh.
Thực hiện nghiêm các biện pháp đôn đốc, xửthu nợ và cưỡng chế nợ thuế theo quy
định của Luật Quản lý thuế.
3. Tăng nguồn vốn tiết kiệm của các doanh nghiệp
Để thúc đẩy nguồn vốn tiết kiệm của các doanh nghiệp cần xây dựng được định hướng
đầu tư, tạo môi trường đầu thuận lợi cho các doanh nghiệp, bắt nguồn từ việc đánh
giá môi trường đầu tư. Cụ thể, các giải pháp như sau Huy động vốn từ lợi nhuận
không chia
Nguồn vốn tích lũy từ lợi nhuận không chia một phần lợi nhuận dùng để tái đầu tư.
Đối với doanh nghiệp Nhà nước thì việc tái đầu phthuộc không chỉ vào khả năng
sinh lời của bản thân doanh nghiệp mà còn phụ thuộc vào chính sách tái đầu của Nhà
nước. Hình thức tự tài trợ bằng lợi nhuận không chia có ưu điểm là nó tác động rất lớn
đến nguồn vốn kinh doanh, tạo cơ hội cho công ty thu được lợi nhuận cao hơn trong các
năm tiếp theo. Đồng thời giúp doanh nghiệp tự chủ trong vấn đề tài chính, dễ dàng hơn
trong quan hệ tín dụng với Ngân hàng, tổ chức tín dụng và các cổ đông. Khi công ty để
lại một phần lợi nhuận vào tái đầu tư, tức không dùng số lợi nhuận đó để chia lãi cổ
phần, các cổ đông không được nhận tiền lãi cổ phần nhưng lại, họ có quyền sở hữu
số vốn cổ phần tăng lên của công ty. Huy động vốn bằng tín dụng thương mại
Có ba loại tín dụng thương mại: Tín dụng thương mại cấp cho nhà nhập khẩu, tín dụng
thương mại cấp cho người xuất khẩu, tín dụng nhà môi giới cấp cho người xuất khẩu
và nhập khẩu. Sự tồn tại của hình thức tín dụng này sẽ giúp cho các nhà doanh nghiệp
chủ động khai thác được nguồn vốn nhằm đáp ứng kịp thời cho hoạt động sản xuất kinh
lOMoARcPSD| 61265515
doanh. Ngoài ra, khi sử dụng hình thức này còn tạo điều kiện mở rộng hoạt động của
tín dụng ngân hàng thông qua nghiệp vụ chiết khấu thương phiếu. Nguồn vốn tín dụng
thương mại có ảnh hưởng hết sức to lớn không chỉ với các doanh nghiệp mà cả đối với
toàn bộ nền kinh tế. Trong một số doanh nghiệp, nguồn vốn tín dụng thương mại dưới
dạng các khoản phải trthể chiếm tới 20% nguồn vốn, thậm chí thể chiếm tới
40% tổng nguồn vốn.
Huy động vốn bằng cách thỏa thuận vay tiền từ tổ chức, nhân khác trong nền
kinh tế
Pháp luật cho phép doanh nghiệp được vay hoặc cho vay với doanh nghiệp khác. Hoạt
động cho vay này có thể giúp các doanh nghiệp điều hòa, phân phối vốn để tăng cường
khả năng thanh toán, đảm bảo an toàn, hiệu quả cho hoạt động của từng công ty cổ
phần. Quan hệ vay vốn này thực hiện trên sở hợp đồng vay tài sản được điều chỉnh
bởi pháp luật dân sự. Hoạt động vay vốn này cũng dựa trên mối quan hệ thân tình, quen
biết tin ởng lẫn nhau giữa các công ty. Hoạt động vay vốn doanh nghiệp khác
thể thường thấy trong các công ty mối quan hệ sở hữu như công ty mẹ công ty con
hay các công ty trong cùng tập đoàn. Hoạt động cho vay này được xem như hoạt động
vay tài sản trong dân sự không nhằm mục đích kinh doanh, không phải hoạt động
thường xuyên của các doanh nghiệp. Do đó hình thức cho vay này khác với hoạt động
cấp tín dụng hoạt động cho vay chuyên nghiệp của ngân hàng thương mại các t
chức tín dụng phi ngân hàng khác.
3. Tiết kiệm của người dân
Người dân đang shữu 5,3 triệu tỉ đồng tiết kiệm. Ý tưởng huy động tiền trong n
được cho sở khi các dữ liệu của ngành Ngân hàng cho thấy người dân đang
nắm giữ hàng triệu tỉ đồng tiết kiệm con số này tiếp tục ng mạnh theo từng năm.
Số liệu khảo sát về mức sống dân do Tổng cục Thống thực hiện cho thấy, năm
2014 tiền tiết kiệm trong dân khoảng 843.000 tỉ đồng, năm 2016 1.126 nghìn tỉ
đồng và m 2018 tăng vọt lên khoảng 1.818 nghìn tỉ đồng. Nếu loại trừ yếu tố tăng
giá, quy nguồn vốn này tăng với tốc độ bình quân trong giai đoạn 2015-2018 đạt
18,1%/năm. Số liệu được Ngân hàng Nhà nước công bố cho thấy, đến cuối tháng 9.2021,
tổng số dư tiền gửi của dân cư tại các tổ chức tín dụng là hơn 5,29 triệu tỉ đồng, tiếp tục
duy trì mức tăng 2,92% so với cuối năm 2020 bất chấp mặt bằng lãi suất huy động liên
tục đi xuống trong 2 năm gần đây. Ngoài nguồn tiền gửi ngân hàng, dữ liệu do Hiệp hội
Kinh doanh vàng thế giới tính toán dựa trên số liệu nhập vàng của Việt Nam thời gian
qua cho thấy, người dân Việt Nam còn đang sở hữu khoảng trên dưới 500 tấn vàng. Do
đó nếu một phần lượng vàng này tách khỏi cất trữ đưa vào lưu thông sẽ mang đến
một lượng vốn rất lớn và có ý nghĩa phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh.
lOMoARcPSD| 61265515
Để huy động được nguồn tiền nhàn rỗi trong dân chúng ta hãy nghiên cứu một số
phương pháp thực hiện như sau:
Phát hành công trái ngoại tệ và trái phiếu chính phủ : Việc phát hành công trái ngoại tệ
để huy động nguồn ngoại tệ trong dân chủ yếu USD, hiện nay các ngân hàng thương
mại quy định lãi suất huy động ngoại t0% trong khi lãi suất tiết kiệm VND
47%/năm. Do vậy, việc phát hành công trái ngoại tệ nhiều lợi thế hấp dẫn hơn để
huy động ngoại tệ.
Thu hút tiền, vàng gửi ngân hàng: Việc tăng lãi suất tiền gửi ngân hàng thể thu hút
được ợng tiền nhàn rỗi lớn trong dân phục vụ cho nhu cầu vay vốn làm ăn của các
doanh nghiệp. Tuy nhiên, cũng phải cân nhắc ảnh hưởng của việc tăng lãi suất đến tình
hình vĩ mô của nền kinh tế.
Kênh đầu chứng khoán các giấy tờ giá: Kênh đầu chứng khoán một loại
hình hút được dòng tiền khá lớn trong dân những năm gần đây. Tuy nhiên, việc minh
bạch thị trường tạo được sự an tâm cho người dân đầu tưbiện pháp lâu dài giúp các
doanh nghiệp có được nguồn tiền đầu tư. Ngoài ra, các loại giấy tờ có giá khác như trái
phiếu, tín phiếu… cũng một loại hình thu hút được dòng tiền trong dân. Nhà nước
cần có các chế quản minh bạch phù hợp tạo được lòng tin của người dân thì mới
có thể thu hút được dòng vốn nội sinh này.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 61265515
1. Nguồn vốn đầu tư trong nước:
Nguồn vốn trong nước là phần tích lũy của nội bộ nền kinh tế, bao gồm: tiết kiệm của
khu vực dân cư, tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp & tiết kiệm của Chính phủ được huy
động trong quá trình tái sản xuất xã hội.
Nguồn vốn trong nước được phân ra làm 3 nguồn chính:
a. Nguồn vốn Nhà nước
+ Vốn ngân sách Nhà nước:
Đây là nguồn vốn được quyết định và giải ngân vốn đầu tư công đến các bộ ngành, địa
phương. Nguồn vốn giải ngân đầu tư công đến từ ngân sách nhà nước, được dùng để
xây dựng hạ tầng kinh tế – xã hội. Đây là nguồn vốn không hoàn lại, không có khả năng
thu hồi vốn hay thu hồi vốn chậm. Vốn đầu tư công từ ngân sách nhà nước có vai trò
thúc đẩy sự tăng trưởng ổn định cho nền kinh tế nhà nước.
Trong đó thu ngân sách bao gồm: ● Thuế ● Lệ phí
● Phí từ hoạt động dịch vụ của cơ quan nhà nước
● Các khoản phải nộp từ hoạt động kinh tế của nhà nước ● Huy động đóng
góp từ các cơ quan, tổ chức,...
● Thu từ bán tài sản nhà nước ●
Tiền sử dụng đất, cho thuê đất,...
● Thu từ tài sản của nhà nước, thu cấp quyền khai thác khoáng sản, tài nguyên
● Thu từ xử phạt hành chính
● Đóng góp tự nguyện của các cá nhân tổ chức
● Viện trợ không hoàn lại
● Thu từ quỹ dự trữ tài chính ● Các khoản thu khác
Trong đó chi ngân sách bao gồm:
● Chi đầu tư phát triển ● Chi dự trữ quốc gia ● Chi thường xuyên
● Chi trả lãi vay cho chính phủ, chính quyền địa phương vay
● Chi viện trợ của NS Trung ương cho nước ngoài ● Chi cho vay
● Chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính
● Chi chuyển nguồn từ NS năm trước sang NS năm sau lOMoAR cPSD| 61265515
● Chi bổ sung cân đối ngân sách, bổ sung có mục tiêu của ngân sách cấp trên cho cấp dưới
+ Vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước
Đây là vốn đầu tư cho những dự án đầu tư mà chủ đầu tư có thể vay vốn hưởng lãi suất
ưu đãi để đầu tư trong những ngành, lĩnh vực quan trọng, chương trình kinh tế lớn của
Nhà nước, các vùng khó khăn Nhà nước khuyến khích đầu tư bảo đảm có hiệu quả kinh
tế – xã hội, có khả năng hoàn trả vốn vay.
Ưu tiên sử dụng cho các dự án:
➢ Kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội
➢ Nông nghiệp nông thôn ➢ Công nghiệp
➢ Dự án đầu tư thực hiện tại các địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội khó
khăn, đặc biệt khó khăn
➢ Dự án đầu tư ra nước ngoài, các dự án cho vay theo hiệp định của CP
Cho vay tối đa 70% tổng vốn đầu tư của dự án (không bao gồm vốn lưu động)
Thời gian không quá 12 năm (nhóm A 15 năm)
Thực hiện qua kênh Ngân hàng chính sách
+ Vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhà nước
Bao gồm 16 lĩnh vực đặc biệt
Vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước là vốn DN đầu tư, hoạt động kinh doanh
nhằm mục đích sinh lời
b. Nguồn vốn dân cư và tư nhân
- Nguồn vốn tiết kiệm của các DN (Vốn tích lũy của DN)
+ Huy động vốn từ lợi nhuận không chia
+ Huy động vốn bằng tín dụng thương mại
+ Huy động vốn bằng cách thỏa thuận vay tiền từ tổ chức, cá nhân khác trong nền kinh tế
- Tiết kiệm của dân (Tích lũy của khu vực gia đình)
***VAI TRÒ của nguồn vốn trong nước đối với các nước đang phát triển:
Thứ nhất, nguồn vốn trong nước là nguồn vốn đóng góp lớn vào GDP toàn xã
hội, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. lOMoAR cPSD| 61265515
Theo Vietnam Economic Times: Economics 2015-2016: Vietnam and the world, p96:
Quy mô vốn nhà nước phụ thuộc phần lớn vào ngân sách nhà nước và thu nhập của nó.
Bất chấp môi trường toàn cầu đầy thách thức, nền kinh tế Việt Nam đã chứng tỏ khả
năng phục hồi của mình, được hỗ trợ bởi tiêu dùng tư nhân và xuất khẩu sản xuất mạnh mẽ.
Sau khi điều chỉnh trong quý thứ hai, tăng trưởng đã phục hồi ước tính khoảng 7,3%
trong quý thứ ba, đưa mức tăng trưởng so với cùng kỳ năm ngoái lên gần 7% trong ba
quý đầu năm 2019. Tốc độ tăng trưởng GDP ước tính cho năm 2019 sẽ vào khoảng
6,8%, thấp hơn một chút so với năm 2018 và ngang bằng với kết quả hoạt động được báo cáo trong năm 2017
Thứ hai, nguồn vốn đầu tư trong nước đóng vai trò định hướng cho việc thay
đổi cơ cấu kinh tế, cân bằng thị trường hàng hóa, giúp nền kinh tế quốc gia tăng trưởng
& phát triển đồng đều, toàn diện.
Qua biểu đồ trên, có thể thấy cơ cấu ngành có sự dịch chuyển từ nông nghiệp, lâm
nghiệp và thủy sản sang dịch vụ.
Thứ ba, nguồn vốn đầu tư trong nước có vai trò đảm bảo cho sự phát triển toàn
diện, không lệch lạc giữa các vùng miền của nền kinh tế, góp phần giúp nền kinh tế tăng
trưởng & phát triển một cách bền vững.
Thứ tư, nguồn vốn đầu tư trong nước góp phần kiềm chế lạm phát, đẩy nhanh
tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, tạo đà cho tăng trưởng & phát triển kinh tế. lOMoAR cPSD| 61265515
Thứ năm, nguồn vốn đầu tư trong nước xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng đạt một
trình độ nhất định, tạo điều kiện thuận lợi để thu hút vốn đầu tư nước ngoài cũng như
tăng tính hiệu quả, nhanh chóng của việc sử dụng vốn đầu tư nước ngoài, tạo nền tảng
vững chắc cho sự tăng trưởng của nền kinh tế.
Thứ sáu, sự lớn mạnh & ổn định của nguồn vốn đầu tư trong nước giúp hạn chế
những mặt tiêu cực của nguồn vốn đầu tư nước ngoài, đồng thời tạo dựng khung xương
vững chãi cho nền kinh tế, giúp chống lại sóng gió từ thị trường quốc tế.
3. PHÂN TÍCH SỰ DỊCH CHUYỂN TRONG CƠ CẤU NGUỒN VỐN TRONG
NƯỚC TẠI VN QUA BẢNG SỐ LIỆU VỀ CƠ CẤU NGUỒN VỐN TRONG NƯỚC TẠI VN
Ở đây Nguồn vốn trong nước bao gồm vốn khu vực Nhà nước và vốn khu vực ngoài Nhà nước.
https://www.gso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2022/04/von-dau-tu-toan-xa-
hoiquy-i-2022-tang-truong-tich-cuc-dong-luc-thuc-day-tang-truong-kinh-te-nam-
2022/ Cơ cấu nguồn vốn giữa các loại hình doanh nghiệp thay đổi theo hướng tăng dần
tỷ trọng nguồn vốn doanh nghiệp ngoài nhà nước và doanh nghiệp FDI, giảm dần tỷ
trọng nguồn vốn doanh nghiệp nhà nước. Bên cạnh đó, doanh nghiệp ngoài nhà nước
thu hút nhiều nguồn vốn nhất trong số các loại hình doanh nghiệp.

Vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội là toàn bộ tiền vốn bỏ ra (chi tiêu) để làm tăng hoặc
duy trì năng lực sản xuất và nguồn lực để nâng cao mức sống vật chất và tinh thần của
toàn xã hội trong một thời kỳ nhất định (tháng, quý, năm).
Tổng vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội phân theo loại hình kinh tế
theo giá hiện hành quý I các năm 2018-2022 (nghìn tỷ đồng)
(Nguồn: Tổng cục thống kê) lOMoAR cPSD| 61265515
Vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội quý I/2022 theo giá hiện hành ước đạt 562,2 nghìn tỷ
đồng, tăng 8,9 % so với cùng kỳ năm trước. Trong đó Vốn khu vực Nhà nước có tỷ lệ
tăng cao nhất là 9,3%, chiếm 24,3% và ước đạt 136,5 nghìn tỷ đồng. Tiếp đến là Vốn
khu vực ngoài Nhà nước tăng 9,1%, chiếm 57,5% và ước đạt 323,1 nghìn tỷ đồng.Vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng ít nhất với 7,9%, chiếm 18,2% và ước đạt 102,6 nghìn tỷ đồng.
Tiếp nối đà phục hồi kinh tế từ quý 4 năm 2021 do kiểm soát tốt dịch Covid-19 cũng
như thực hiện hiệu quả Nghị quyết 128/NQ-CP của Chính phủ về thích ứng an toàn và
linh hoạt trong điều kiện bình thường mới, trong quý I/2022, tình hình sản xuất kinh
doanh và đầu tư có nhiều chuyển biến tích cực, hầu hết các ngành, lĩnh vực, địa phương
trong xu hướng phục hồi và tăng trưởng trở lại. Đồng thời Chính phủ đang triển khai
các gói hỗ trợ phục hồi kinh tế-xã hội nhằm tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, tạo
điều kiện cho doanh nghiệp giảm thiểu thiệt hại, duy trì và mở rộng hoạt động sản xuất
– kinh doanh, tạo đà cho tăng trưởng huy động và thực hiện vốn đầu tư. Theo đó, vốn
đầu tư thực hiện quý I/2022 của khu vực ngoài Nhà nước so với cùng kỳ đạt 9,1%.
Tốc độ phát triển vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội
theo giá hiện hành quý I các năm 2018-2022 (%) lOMoAR cPSD| 61265515
Trong 5 năm qua sự dịch chuyển mạnh mẽ của các nguồn vốn đầu tư, đặc biệt là từ năm
2019-2020 khi đại dịch Covid-19 diễn ra. Cụ thể, vốn khu vực ngoài Nhà nước từ dẫn
đầu về tốc độ phát triển 14,7% (2018) giảm còn 3,9% (2020). Tốc độ phát triển vốn đầu
tư tại khu vực FDI cũng giảm từ 8,1% (2018) xuống -5,4 % (2020). Lý giải cho xu
hướng này, Tổng cục Thống kê đánh giá: "Sự bùng phát và lan rộng của đợt dịch Covid-
19 thứ tư cùng các biện pháp giãn cách xã hội nghiêm ngặt là những lý do khiến vốn
đầu tư thực hiện toàn xã hội nhất là cấu phần vốn Nhà nước và vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài giảm mạnh". Do đó, trong giai đoạn này, Vốn khu vực Nhà nước giữ một vị trí
quan trọng trong cơ cấu nguồn vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội. Từ vốn có tốc độ tăng
thấp nhất: 0,6% (2018) đến vốn có tốc độ tăng cao nhất trong thời kỳ đại dịch: 6,8%
(2020). Sau đại dịch, nền kinh tế dần được phục hồi, tốc độ phát triển của các vốn đầu
tư đã tăng trở lại. Dẫn đầu là vốn khu vực Nhà nước, tiếp đến là vốn khu vực ngoài Nhà
nước và cuối cùng là vốn khu vực FDI. Blab bla ,.....
Nhìn lại các năm trước cho đến năm 2021 thì tất cả các mục tiêu mà Nghị quyết 07 đề
ra cho giai đoạn 2016 - 2020 đều đã đạt và vượt mức quy định như: Tổng thu Ngân
sách trong cả giai đoạn đạt trên 6,9 triệu tỷ đồng, gấp 1,6 lần giai đoạn trước; Cơ cấu
thu ngân sách bền vững nhờ cơ cấu thu ngân sách đã có sự chuyển dịch theo hướng
tăng tỷ trọng thu nội địa. Nếu như giai đoạn 2011-2015, tỷ lệ thu nội địa bình quân là
68,7% thì đến năm 2020 tỷ trọng thu nội địa đạt 85,5%; Bội chi ngân sách 3,6% GDP, lOMoAR cPSD| 61265515
thấp hơn mục tiêu đề ra; Nợ công trên GDP từ gần chạm trần 65% xuống 55,8% vào
cuối nhiệm kỳ. Trong giai đoạn 2016-2020, chính sách động viên NSNN tiếp tục được
hoàn thiện theo quy định tại Nghị quyết số 25/2016/QH14 của Quốc hội, Nghị quyết
số 07-NQ/TW của Bộ Chính trị và định hướng, mục tiêu, lộ trình đề ra trong Chiến
lược tài chính đến năm 2020 tăng thu, sử dụng hợp lí, tiết kiệm và hiệu quả các nguồn
thu. Cũng trong giai đoạn này, nhằm hỗ trợ nền kinh tế đối phó với đại dịch COVID19
năm 2020, Chính phủ đã triển khai thực hiện có hiệu quả một số chính sách thu mới;
ban hành theo thẩm quyền việc gia hạn, miễn, giảm một số khoản thuế, phí, lệ phí và thu ngân sách.
Vốn đầu tư thực hiện của khu vực kinh tế Nhà nước
phân theo nguồn vốn (nghìn tỷ đồng)
Dẫn đầu trong tốc độ phát triển vốn đầu tư toàn xã hội trong đó ta có thể thấy vốn đầu
tư thực hiện của khu vực kinh tế Nhà nước phân theo nguồn vốn chiếm vị trí cao nhất
là vốn thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước, quý I/2022 ước đạt 76,3 nghìn tỷ đồng,
tăng 10,6% so với cùng kỳ năm trước và bằng 14,4% kế hoạch năm, mức cao nhất trong
5 năm trở lại đây, thể hiện sự chuyển biến tích cực trong việc đẩy mạnh thực hiện và
giải ngân vốn đầu tư công ngay từ các tháng đầu năm 2022.
Năm 2023 Nhà nước đã dự toán chi NSNN cho đầu tư phát triển: 726,7 nghìn tỷ đồng,
chiếm 35% tổng chi NSNN, tăng 38,1% so dự toán năm 2022, đảm bảo đủ nguồn thực lOMoAR cPSD| 61265515
hiện các nhiệm vụ trong Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội. (DỰ
TOÁN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC NĂM 2023 CHÍNH PHỦ TRÌNH QUỐC HỘI)

Nói chung trong 5 năm qua nguồn vốn giữa các khu vực có sự chuyển biến rõ rệt và
dịch chuyển mạnh nhất vào năm 2019-2021 khi có đại dịch Covid-19.Trong đó vốn khu
vực Nhà nước từ nguồn vốn có tốc độ tăng thấp nhất lên đến dẫn đầu trong tốc độ tăng
vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội (từ 0,6% năm 2018 đến 9,3% năm 2022). Chiếm phần
lớn trong vốn khu vực kinh tế Nhà nước là nguồn từ ngân sách Nhà nước (đạt tới mức
cao nhất trong 5 năm trở lại đây). Cùng với nguồn vốn trong nước thì vốn khu vực ngoài
Nhà nước có tốc độ tăng dẫn đầu năm 2018 (14,7%) và giảm mạnh đến năm 2020
(3,9%) nhưng dần ổn định và tăng nhanh trở lại, chiếm vị trí thứ 2 vào năm 2022 (9,1%).
https://khoadautu.neu.edu.vn/vi/thong-tin-dau-tu/von-dau-tu-thuc-hien-toan-xa-
hoinam-2021-dat-gan-2-900-nghin-ty-dong-tang-muc-thap-nhat-nhieu-nam 3. So sánh
Một quốc gia khác trong khu vực đó là Indonesia - là nền kinh tế lớn nhất Đông
Nam Á, có nền kinh tế lớn thứ 10 tính theo sức mua tương đương.
(https://www.worldbank.org/en/country/indonesia/overview )
Trong những năm gần đây, vốn đầu tư trong nước của Indonesia có xu hướng tăng
mạnh mẽ. Năm 2022, vốn đầu tư trong nước đạt 102,4 tỷ USD tăng 23,2% so với năm
2021. Trong đó khu vực tư nhân đạt 98,4 tỷ USD chiếm 96,2%, khu vực nhà nước đạt 4 tỷ USD chiếm 3,8%.
Vốn đầu tư trong nước của Indonesia phân bổ chủ yếu vào các lĩnh vực:
+ Công nghiệp chế biến, chế tạo: 36,8% + Bất động sản: 20,5% + Bán buôn, bán lẻ: 13,5% ….
Có thể thấy cả Việt Nam và Indonesia đều là các quốc gia có vốn đầu tư trong nước có
xu hướng tăng mạnh mẽ trong các năm gần đây. Cả 2 quốc gia này đều có vốn đầu tư
trong nước tập trung chủ yếu ở khu vực tư nhân, chiếm tỷ trọng lớn trong nguồn vốn
đầu tư trong nước và khá tập trung vào các lĩnh vực: công nghệ chế biến, chế tạo; bất động sản,...
Tuy nhiên cũng có thể thấy vốn đầu tư trong nước của Indonesia năm 2022 lớn gấp hơn
4,5 lần so với Việt Nam (22,6 tỷ USD). Lý giải cho sự khác biệt như này có thể kể đến
Indonesia là quốc gia có dân số lớn nhất Đông Nam Á, kích thước nền kinh tế lớn, tăng lOMoAR cPSD| 61265515
trưởng kinh tế ổn định tạo được nhiều cơ hội đầu tư, thu nhập người dân tăng nên tích
lũy dân cư cũng tăng theo.
Vào năm 2020, dưới sự ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 Indonesia đã ghi nhận
mức tăng trưởng GDP âm vào năm 2020 lần đầu tiên kể từ năm 1998, từ + 5% vào năm
2019 giảm xuống -2,1%. Còn đối với Việt Nam GDP tăng 2,91% so với cùng kì năm
trước. Nền kinh tế Indonesia phụ thuộc khá nhiều vào tiêu dùng nội địa của tư nhân -
được kích thích bởi thị trường khổng lồ với tầng lớp trung lưu ngày càng tăng lên tới
gần 70 triệu người (chiếm 55% GDP). Tuy nhiên nó cũng đem lại nhiều rủi ro cho nền
kinh tế Indonesia khi mà tiêu dùng tư nhân giảm xuống, nền kinh tế sẽ bị ảnh hưởng tiêu cực.
( https://countryeconomy.com/gdp/indonesia?year=2020 )
Trong nguồn vốn trong nước của Việt Nam và Indonesia thì trái phiếu đóng một
vai trò quan trọng. Tại Việt Nam, trái phiếu chính phủ là nguồn vốn quan trọng nhất của
chính phủ để huy động vốn cho các hoạt động đầu tư phát triển. Trong 2021 khối lượng
huy động trái phiếu chính phủ trên thị trường là 318.213 tỷ đồng (khoảng 13,08 tỷ
USD). Còn ở Indonesia trái phiếu đóng vai trò quan trọng đặc biệt là đối với các doanh
nghiệp. Theo PT Penoughkat Efek Indonesia (Pefindo), các đợt phát hành trái phiếu
doanh nghiệp đạt 157.000 tỷ rupiah (10,96 tỷ USD) trong năm 2021. Việc Chính phủ
Việt Nam cần huy động vốn từ trái phiếu nhiều hơn so với Indonesia vì Việt Nam có
các chính sách tài khóa nới lỏng hơn: tăng chi tiêu Chính phủ hoặc giảm nguồn thu từ
thuế nên sẽ phải huy động vốn nhiều hơn để bù đắp được khoản thâm hụt ngân sách;
ngoài ra còn do thị trường trái phiếu của Indonesia phát triển hơn Việt Nam nên Chính
phủ Indonesia có thể huy động vốn từ thị trường trái phiếu với chi phí thấp hơn Việt Nam.
(mof.gov.vn › webcenter › portal )
bnews.vn › indonesia-gia-tri-phat-hanh-trai-phieu-doanh
Về các chính sách thuế, tại Việt Nam và Indonesia có một số khác biệt và dẫn
đến sự khác biệt trong nguồn vốn trong nước của 2 quốc gia. Đầu tiên là thuế thu nhập
doanh nghiệp (CIT) là một trong những loại thuế quan trọng nhất ảnh hưởng đến nguồn
vốn trong nước. Ở Việt Nam, CIT áp dụng theo nguyên tắc khấu trừ, theo đó doanh
nghiệp được trừ các chi phí hợp lý khi tính thuế. Mức thuế CIT hiện hành của Việt Nam
là 20%. Ở Indonesia, CIT cũng áp dụng theo nguyên tắc khấu trừ. Mức thuế CIT hiện
hành của Indonesia là 25%. Mức thuế CIT cao hơn ở Indonesia sẽ khiến chi phí của các
doanh nghiệp Indonesia cao hơn, dẫn đến giảm lợi nhuận và khả năng tái đầu tư của các
doanh nghiệp. Tiếp theo là thuế thu nhập cá nhân (PIT) - đây là loại thuế quan trọng thứ lOMoAR cPSD| 61265515
hai ảnh hưởng tới nguồn vốn trong nước của Chính phủ. Ở Việt Nam, PIT áp dụng theo
7 mức thuế suất, từ 5% đến 35%, tùy thuộc vào mức thu nhập của người nộp thuế. Ở
Indonesia, PIT cũng áp dụng theo 7 mức thuế suất, từ 5% đến 30%, tùy thuộc vào mức
thu nhập của người nộp thuế. Sự khác biệt về mức thuế PIT giữa hai nước là không
đáng kể. Cuối cùng là Thuế giá trị gia tăng (VAT) là loại thuế tiêu thụ quan trọng, ảnh
hưởng đến chi phí sản xuất và tiêu dùng của các doanh nghiệp và hộ gia đình. Ở Việt
Nam, VAT áp dụng mức thuế suất 10%. Ở Indonesia, VAT áp dụng mức thuế suất 11%.
Mức thuế VAT cao hơn ở Indonesia sẽ làm tăng chi phí sản xuất và tiêu dùng, dẫn đến
giảm lợi nhuận và khả năng tiết kiệm của các doanh nghiệp và hộ gia đình. Điều này sẽ
làm giảm nguồn vốn trong nước của Indonesia. Có thể thấy các chính sách về thuế
Indonesia có xu hướng cao hơn so với Việt Nam bởi Việt Nam đang áp dụng các chính
sách tài khóa nới lỏng nhằm kích thích tăng trưởng kinh tế.
thuvienphapluat.vn › van-ban › Doanh-nghiep
gonnapass.com › thue-o-indonesia-tax-indonesia-pajak-di
Tóm lại, trong thời gian tới cả Việt và Indonesia cần có các chính sách cải thiện các
yếu tố ảnh hưởng tiêu cực đến nguồn vốn trong nước qua đò nhằm thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế, cải thiện đời sống của nhân dân.
IV. Giải pháp huy động và sử dụng nguồn vốn trong nước
Nước ta là một nước đang phát triển, nguồn lực cho phát triển kinh tế xã hội còn thiếu
hụt nhiều, đặc biệt là nguồn vốn đầu tư. Do đó, tập trung vào huy động và sử dụng
nguồn vốn trong nước một cách hiệu quả sẽ đem lại
1. Tăng vốn ngân sách nhà nước
Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Minh Khái vừa ký Quyết định số 368/QĐ-TTg ngày
21/3/2022 phê duyệt Chiến lược tài chính đến năm 2030 tỷ lệ huy động vào ngân sách
nhà nước giai đoạn 2021 - 2025 bình quân không thấp hơn 16% GDP và giai đoạn 2026
- 2030 khoảng 16 đến 17% GDP. Trong đó, tỷ lệ huy động từ thuế, phí giai đoạn
2021 - 2025 khoảng 13 đến 14% GDP và giai đoạn 2026 - 2030 khoảng 14 đến 15%
GDP. Thực tiễn này đã đặt ra yêu cầu cần thiết phải có những giải pháp huy động vốn ngân sách nhà nước.
a. Chính phủ có thể áp dụng tăng thuế hợp lý, tận thu thuế, phí, lệ phí đúng và đủ.
Ở Việt Nam, mỗi năm tiêu thụ đến 3,9 tỉ bao thuốc lá thế nhưng thuế thu được chỉ có
708 triệu đô/năm. Trong khi đó, Thái Lan mỗi năm chỉ tiêu thụ 2 tỉ bao nhưng ngân sách
thu gần 2,1 tỉ đô/năm (gấp 3 lần Việt Nam). Lý giải điều này, bà Phan Thị Hải đại diện lOMoAR cPSD| 61265515
Quỹ phòng chống tác hại thuốc lá nói : "Sở dĩ Thái Lan thu được nguồn ngân sách cao
hơn trong khi tỷ lệ sử dụng thuốc lá lại thấp hơn Việt Nam là do quốc gia này đánh thuế
thuốc lá đến 78% giá bán lẻ (cao hơn khuyến cáo của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) là
70%), trong khi Việt Nam chỉ xấp xỉ 38,8%". Hiện nay, Việt Nam đang áp dụng hệ
thống thuế theo giá trị hàng hóa thống nhất là 75% đối với các sản phẩm thuốc lá. Vào
cuối năm 2017 và đầu năm 2018, Bộ Tài chính đã đề xuất cải cách thuế tiêu thụ đặc biệt
(TTĐB) đối với thuốc lá bằng cách áp dụng một hệ thống kết hợp để thay thế hệ thống
thuế theo giá trị hiện hành. Bộ Tài chính đưa ra 2 phương pháp kết hợp giữa thuế theo
giá trị và thuế đặc thù đã được nhiều nước áp dụng: một là áp dụng thuế TTĐB theo
phương pháp kết hợp bằng cách cộng thuế suất cụ thể 1.000 đồng/bao 20 điếu và 1.500
đồng/điếu xì gà, hai là tăng thuế suất theo lộ trình, từ năm 2020, thuế suất tăng từ 75%
lên 80%, từ năm 2021, thuế suất sẽ tăng lên 85%. Bộ Tài chính cũng cho biết, phương
pháp kết hợp giữa thuế theo giá trị và thuế đặc thù đã được nhiều nước phát triển
(khoảng 48 nước) áp dụng. Cụ thể, với đề xuất tăng thuế 2000 VNĐ/bao thuốc lá bên
cạnh thuế tỷ lệ 75% từ 1/1/2020, thu ngân sách từ thuế thuốc lá sẽ tăng khoảng 38,8%
vào năm 2020 - so với năm 2019; với đề xuất tăng thuế lên 5000 VNĐ/bao thuốc lá bên
cạnh thuế tỷ lệ 75% từ 1/1/2021, thu ngân sách sẽ tăng 7,4 nghìn tỷ đồng vào năm 2021.
Tuy nhiên, việc sửa đổi Luật Thuế đã bị lùi lại với lý do cần nghiên cứu thêm với sự
tham gia của các bên liên quan. Bộ Tài chính dự kiến sẽ sớm tiến hành nghiên cứu và
cải cách thuế tiêu thụ đặc biệt. Với việc không áp dụng cải cách thuế này vào năm 2020
và 2021, Chính phủ Việt Nam đã thất thu khoảng 19 nghìn tỷ đồng (825 triệu USD)
thuế tiêu thụ đặc biệt (nguồn: Hana Ross (2021). Lost Funds: A Study on the Tobacco
Tax Revenue Gap in Vietnam. Southeast Asia Tobacco Control Alliance. Bangkok.
Thailand.). Như vậy, việc tiêu thụ thuốc lá cần phải được kiểm soát chặt chẽ hơn nữa
và lộ trình tăng thuế TTĐB vẫn chưa đạt được mục tiêu đã đề ra.
Điều chỉnh tăng mức thuế suất, thuế nhập đối với hàng hóa tiêu dùng không khuyến
khích nhập khẩu (như ôtô nguyên chiếc, hàng điện tử, điện lạnh…) Điều chỉnh giảm
giá thuế nhập khẩu với một số nhóm hàng thiết thực, phục vụ sản xuất.. để góp phần bình ổn giá.
Việc tăng các khoản thu đặc biệt là thuế có thể sẽ bù đắp sự thâm hụt NSNN và giảm
bội chi NSNN. Tuy nhiên, nếu tăng thuế không hợp lý sẽ dẫn đến làm giá cả hàng hóa
tăng gây ảnh hưởng lớn đến sản xuất và đời sống nhân dân, nghiêm trọng hơn sẽ triệt lOMoAR cPSD| 61265515
tiêu động lực của các doanh nghiệp trong các ngành sản xuất kinh doanh và làm mất đi
khả năng cạnh tranh của nền kinh tế đối với các nước trong khu vực và trên thế giới.
b. Tận dụng nguồn vốn từ trái phiếu.
Thị trường trái phiếu đã trở thành kênh huy động vốn trung và dài hạn quan trọng cho
ngân sách nhà nước khi đóng vai trò là công cụ tái cơ cấu nợ công, giúp nợ công giảm
tỷ trọng vay nước ngoài từ 73,6% năm 2010 xuống mức 63,4% năm 2015 và 34,8%
năm 2021. Cùng với sự mở rộng quy mô ngân sách, mức chi cho đầu tư phát triển từ
ngân sách nhà nước cũng tăng đáng kể. Cũng theo Quyết định số 368/QĐ-TTg ngày
21/3/2022 phê duyệt Chiến lược tài chính đến năm 2030, đến năm 2025, dư nợ thị
trường trái phiếu đạt tối thiểu 47% GDP, trong đó dư nợ thị trường trái phiếu doanh
nghiệp đạt tối thiểu 20% GDP. Đến năm 2030, quy mô vốn hóa thị trường cổ phiếu đạt
120% GDP, dư nợ thị trường trái phiếu đạt tối thiểu 58% GDP, trong đó, dư nợ thị
trường trái phiếu doanh nghiệp đạt tối thiểu 25% GDP.
https://haiquanonline.com.vn/huy-dong-von-trai-phieu-chinh-phu-da-dam-bao-
hieuqua-vay-va-su-dung-von-vay-179636.html)
Giải pháp phát triển thị trường trái phiếu chính phủ đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030
Môt là, kiểm soát chặt chẽ bội chi NSNN, nợ công, các nghĩa vụ nợ dự phòng củạ
NSNN, nợ công, nợ của chính quyền địa phương, đảm bảo an toàn tài chính quốc gia,
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay. Bên cạnh đó, bám sát các Nghị quyết, chủ trương
của Đảng, Quốc hội, Chính phủ về Kế hoạch tài chính quốc gia và vay từ đó kiểm soát
bội chi NSNN trong phạm vi Quốc hội quyết định và phấn đấu thấp hơn, giảm nợ công.
Các khoản vay mới vốn ODA và vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài chỉ sử
dụng cho chi đầu tư phát triển, không sử dụng cho chi thường xuyên. Bố trí thanh toán
trả nợ gốc và lãi đầy đủ, đúng hạn. Kiểm soát chặt chẽ nợ công, đảm bảo các chỉ tiêu
trong giới hạn an toàn nợ theo quy định; Các bô, ngành, địa phương tăng ̣ cường phối
hợp thực hiên kiểm tra, giám sát chặ t chẽ việ c vay, sử dụng vốn vay, trả ̣ nợ, nhất là đối
với các hiêp định vay mới, vay nước ngoài, vay có bảo lãnh của Chínḥ phủ. Tiếp tục
thực hiện các giải pháp cơ cấu lại danh mục nợ công theo hướng an toàn, bền vững.
Hai là, xây dựng môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, minh bạch hóa các khoản đầu tư từ
ngân sách: Giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô là một yêu cầu quan trọng và xuyên suốt
trong phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Phát huy kết quả đạt
được trong thời gian qua, chúng ta phải tiếp tục nỗ lực phấn đấu tạo nền tảng vĩ mô ổn lOMoAR cPSD| 61265515
định vững chắc hơn hiện nay và giai đoạn sắp tới. Ổn định môi trường kinh tế vĩ mô,
đóng vai trò là nền tảng, là yêu cầu cấp thiết khách quan để phát triển thị trường TPCP,
cải thiện mức xếp hạng tín nhiệm của Chính phủ, đủ điều kiện để đạt được tiêu chuẩn
đầu tư của các nguồn quỹ lớn trên thế giới. Để làm được điều đó, cần có chính sách
kinh tế, chính sách tài chính tiền tệ phù hợp trong từng giai đoạn phát triển của đất nước
và xây dựng một khung pháp lý đầy đủ, đồng bộ đảm bảo thống nhất phát triển thị
trường TPCP. Điều hành chính sách tài khóa chủ động, hạn chế mức thâm hụt ngân sách
dưới 3,5% GDP giai đoạn 2021-2025, dưới 3% GDP giai đoạn 2026-2030. Xây dựng
cơ chế điều hành lãi suất và tỷ giá hối đoái theo thị trường. Ổn định thị trường ngoại
hối, thị trường tiền tệ, thị trường tài chính. Tăng mức dự trữ ngoại tệ quốc gia lên mức
an toàn. Đẩy mạnh cải cách hành chính theo hướng minh bạch, công khai, tạo môi
trường pháp lý bình đẳng cho các nhà đầu tư.
Ba là, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý phát triển thị trường TPCP: Hoàn thiện khuôn khổ
pháp lý về đầu tư của các nhà đầu tư chính trên thị trường, trong đó tập trung về khuôn
khổ pháp lý cơ chế đầu tư của các tổ chức tín dụng. Thường xuyên sửa đổi, hoàn thiện
hệ thống định mức, chế độ sử dụng ngân sách cho phù hợp với tình hình thực tế một
cách khoa học, khách quan. Các địa phương tự cân đối ngân sách nhà nước, chính quyền
trung ương kiểm soát chặt chẽ định mức, tiêu chuẩn phân bố.
Bốn là, hoàn thiện cấu trúc thị trường trái phiếu Chính phủ: Hoàn thiện và phát triển thị
trường TPCP sơ cấp, gắn kết giữa công tác huy động vốn TPCP với điều hành NSNN
và quản lý ngân quỹ; xác định cụ thể khối lượng huy động vốn hàng năm, công bố công
khai lịch biểu, khối lượng, kỳ hạn phát hành trái phiếu chi tiết theo hàng quý để nhà đầu
tư chủ động bố trí nguồn vốn tham gia; phát hành đều đặn, liên tục các kỳ hạn để đáp
ứng nhu cầu nhà đầu tư; tiếp tục tái cơ cấu sản phẩm để tăng tính bền vững của danh
mục nợ TPCP; phát triển các sản phẩm mới trên thị trường trái phiếu để đáp ứng nhu
cầu của nhà đầu tư. Phát hành TPCP với tái cơ cấu nợ thông qua các nghiệp vụ mua lại,
hoán đổi để vừa phát triển thị trường TPCP vừa cơ cấu lại nợ công theo hướng an toàn,
bền vững. Phát triển đa dạng các sản phẩm, hàng hóa trên thị trường để đáp ứng nhu
cầu của các nhà đầu tư; phát triển sản phẩm TPCP xanh để huy động vốn cho các dự án
bảo vệ môi trường phục vụ phát triển kinh tế bền vững, phù hợp với xu hướng phát triển
trên thế giới; Hoàn thiện và phát triển thị trường TPCP thứ cấp, cải tiến mô hình tổ chức
thị trường và hệ thống giao dịch, rút ngắn hơn nữa quy trình từ khâu phát hành đến đăng
ký, lưu ký, niêm yết, giao dịch và thanh toán trái phiếu phù hợp với định hướng phát lOMoAR cPSD| 61265515
triển công nghệ 4.0 để tăng thanh khoản trên thị trường thứ cấp. Vận hành hệ thống nhà
tạo lập thị trường trên cả thị trường sơ cấp và thứ cấp theo thông lệ quốc tế để tăng
thanh khoản của thị trường.
Năm là, phát hành và quản lý danh mục TPCP chủ động, hiệu quả; điều hành lãi suất
phát hành TPCP phù hợp với nguyên tắc thị trường, định hướng điều hành chính sách
tài khóa, chính sách tiền tệ…
2. Phân phối hợp lý giữa tích lũy và tiêu dùng, tiết kiệm chi ngân sách
Bộ Tài chính cho biết, để siết chặt kỷ luật, kỷ cương tài chính, ngân sách; thực hiện
quyết liệt các giải pháp chống thất thu, chuyển giá, trốn thuế, thu hồi nợ thuế; kiểm soát
chặt chẽ bội chi ngân sách nhà nước (NSNN)…, Bộ Tài chính đã đặt ra một số chỉ tiêu
cần thực hiện trong năm 2023.
Cụ thể, các đơn vị thuộc bộ thực hiện siết chặt kỷ luật tài khóa – NSNN; bảo đảm chi
NSNN tiết kiệm, hiệu quả và theo đúng dự toán được Bộ Tài chính giao, trong đó chú
trọng cắt giảm các khoản chi chưa thực sự cần thiết, triệt để tiết kiệm các khoản chi
thường xuyên và kiểm soát chặt chẽ công tác phân bổ, quản lý, sử dụng các khoản chi NSNN.
Nghiêm cấm việc quyết toán chi NSNN không có khối lượng, không đúng thủ tục Để
thực hiện tốt các chỉ tiêu đã đặt ra, các đơn vị trực thuộc thực hiện nghiêm các quy định
của Luật NSNN trong tất cả các khâu: lập, thẩm định, phê duyệt, phân bổ, giao dự toán,
quản lý, sử dụng, kiểm soát chi và quyết toán kinh phí NSNN. Thực hiện đồng bộ, quyết
liệt, có hiệu quả các nghị quyết của Chính phủ, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về phát
triển kinh tế - xã hội và điều hành dự toán NSNN.
Rà soát các chương trình, dự án đã được cấp có thẩm quyền quyết định để ưu tiên bố trí
nguồn lực; cắt giảm các chương trình, dự án có nội dung trùng lặp, kém hiệu quả. Tiếp
tục thực hiện đổi mới cơ chế tự chủ đối với ĐVSNCL theo hướng tăng cường phân cấp
và tăng cường tực chủ về tổ chức thực hiện nhiệm vụ…
Đồng thời, các đơn vị thuộc Bộ Tài chính phải điều hành, quản lý chi NSNN trong phạm
vi dự toán được giao, đúng tiêu chuẩn, định mức, chế độ quy định; thực hiện triệt để tiết
kiệm toàn diện các nội dung chi, nâng cao hiệu quả sử dụng NSNN. Tăng cường kiểm
tra, giám sát việc thực hiện các quy định của pháp luật trong quản lý, sử dụng kinh phí lOMoAR cPSD| 61265515
chi thường xuyên NSNN. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, xử lý vi
phạm trong quản lý thu, chi NSNN; tăng cường kỷ luật, kỷ cương tài chính; theo dõi và
thi hành pháp luật về NSNN. Giảm dần bội chi ngân sách nhà nước; quản lý nợ công
chặt chẽ, đảm bảo an toàn nợ công và an ninh tài chính quốc gia. Cụ thể, phấn đấu tăng
thu, tiết kiệm chi, giảm bội chi ngân sách nhà nước để đạt được chỉ tiêu bội chi ngân
sách trong Kế hoạch tài chính quốc gia và vay, trả nợ công 5 năm 2021 - 2025 bình
quân khoảng 3,7% GDP; đến năm 2030 xuống khoảng 3% GDP. Trường hợp có biến
động, rủi ro lớn, Bộ Tài chính kịp thời báo cáo Chính phủ trình Quốc hội xem xét, quyết định.
Đẩy mạnh các biện pháp chống thất thu ngân sách; rà soát, xác định những nguồn thu
còn thất thu để kịp thời đề xuất các giải pháp quản lý hiệu quả, tăng cường công tác
kiểm tra đối với các đơn vị có khoản thu từ phí chuyển sang giá dịch vụ mà Nhà nước
không định giá; khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh và hộ cá nhân kinh doanh.
Thực hiện nghiêm các biện pháp đôn đốc, xử lý thu nợ và cưỡng chế nợ thuế theo quy
định của Luật Quản lý thuế.
3. Tăng nguồn vốn tiết kiệm của các doanh nghiệp
Để thúc đẩy nguồn vốn tiết kiệm của các doanh nghiệp cần xây dựng được định hướng
đầu tư, tạo môi trường đầu tư thuận lợi cho các doanh nghiệp, bắt nguồn từ việc đánh
giá môi trường đầu tư. Cụ thể, có các giải pháp như sau Huy động vốn từ lợi nhuận không chia
Nguồn vốn tích lũy từ lợi nhuận không chia là một phần lợi nhuận dùng để tái đầu tư.
Đối với doanh nghiệp Nhà nước thì việc tái đầu tư phụ thuộc không chỉ vào khả năng
sinh lời của bản thân doanh nghiệp mà còn phụ thuộc vào chính sách tái đầu tư của Nhà
nước. Hình thức tự tài trợ bằng lợi nhuận không chia có ưu điểm là nó tác động rất lớn
đến nguồn vốn kinh doanh, tạo cơ hội cho công ty thu được lợi nhuận cao hơn trong các
năm tiếp theo. Đồng thời giúp doanh nghiệp tự chủ trong vấn đề tài chính, dễ dàng hơn
trong quan hệ tín dụng với Ngân hàng, tổ chức tín dụng và các cổ đông. Khi công ty để
lại một phần lợi nhuận vào tái đầu tư, tức là không dùng số lợi nhuận đó để chia lãi cổ
phần, các cổ đông không được nhận tiền lãi cổ phần nhưng bù lại, họ có quyền sở hữu
số vốn cổ phần tăng lên của công ty. Huy động vốn bằng tín dụng thương mại
Có ba loại tín dụng thương mại: Tín dụng thương mại cấp cho nhà nhập khẩu, tín dụng
thương mại cấp cho người xuất khẩu, tín dụng nhà môi giới cấp cho người xuất khẩu
và nhập khẩu. Sự tồn tại của hình thức tín dụng này sẽ giúp cho các nhà doanh nghiệp
chủ động khai thác được nguồn vốn nhằm đáp ứng kịp thời cho hoạt động sản xuất kinh lOMoAR cPSD| 61265515
doanh. Ngoài ra, khi sử dụng hình thức này còn tạo điều kiện mở rộng hoạt động của
tín dụng ngân hàng thông qua nghiệp vụ chiết khấu thương phiếu. Nguồn vốn tín dụng
thương mại có ảnh hưởng hết sức to lớn không chỉ với các doanh nghiệp mà cả đối với
toàn bộ nền kinh tế. Trong một số doanh nghiệp, nguồn vốn tín dụng thương mại dưới
dạng các khoản phải trả có thể chiếm tới 20% nguồn vốn, thậm chí có thể chiếm tới 40% tổng nguồn vốn.
Huy động vốn bằng cách thỏa thuận vay tiền từ tổ chức, cá nhân khác trong nền kinh tế
Pháp luật cho phép doanh nghiệp được vay hoặc cho vay với doanh nghiệp khác. Hoạt
động cho vay này có thể giúp các doanh nghiệp điều hòa, phân phối vốn để tăng cường
khả năng thanh toán, đảm bảo an toàn, hiệu quả cho hoạt động của từng công ty cổ
phần. Quan hệ vay vốn này thực hiện trên cơ sở hợp đồng vay tài sản được điều chỉnh
bởi pháp luật dân sự. Hoạt động vay vốn này cũng dựa trên mối quan hệ thân tình, quen
biết và tin tưởng lẫn nhau giữa các công ty. Hoạt động vay vốn doanh nghiệp khác có
thể thường thấy trong các công ty có mối quan hệ sở hữu như công ty mẹ công ty con
hay các công ty trong cùng tập đoàn. Hoạt động cho vay này được xem như hoạt động
vay tài sản trong dân sự và không nhằm mục đích kinh doanh, không phải hoạt động
thường xuyên của các doanh nghiệp. Do đó hình thức cho vay này khác với hoạt động
cấp tín dụng là hoạt động cho vay chuyên nghiệp của ngân hàng thương mại và các tổ
chức tín dụng phi ngân hàng khác.
3. Tiết kiệm của người dân
Người dân đang sở hữu 5,3 triệu tỉ đồng tiết kiệm. Ý tưởng huy động tiền trong dân
được cho là có cơ sở khi các dữ liệu của ngành Ngân hàng cho thấy người dân đang
nắm giữ hàng triệu tỉ đồng tiết kiệm và con số này tiếp tục tăng mạnh theo từng năm.
Số liệu khảo sát về mức sống dân cư do Tổng cục Thống kê thực hiện cho thấy, năm
2014 tiền tiết kiệm trong dân cư khoảng 843.000 tỉ đồng, năm 2016 là 1.126 nghìn tỉ
đồng và năm 2018 tăng vọt lên khoảng 1.818 nghìn tỉ đồng. Nếu loại trừ yếu tố tăng
giá, quy mô nguồn vốn này tăng với tốc độ bình quân trong giai đoạn 2015-2018 đạt
18,1%/năm. Số liệu được Ngân hàng Nhà nước công bố cho thấy, đến cuối tháng 9.2021,
tổng số dư tiền gửi của dân cư tại các tổ chức tín dụng là hơn 5,29 triệu tỉ đồng, tiếp tục
duy trì mức tăng 2,92% so với cuối năm 2020 bất chấp mặt bằng lãi suất huy động liên
tục đi xuống trong 2 năm gần đây. Ngoài nguồn tiền gửi ngân hàng, dữ liệu do Hiệp hội
Kinh doanh vàng thế giới tính toán dựa trên số liệu nhập vàng của Việt Nam thời gian
qua cho thấy, người dân Việt Nam còn đang sở hữu khoảng trên dưới 500 tấn vàng. Do
đó nếu một phần lượng vàng này tách khỏi cất trữ và đưa vào lưu thông sẽ mang đến
một lượng vốn rất lớn và có ý nghĩa phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh. lOMoAR cPSD| 61265515
Để huy động được nguồn tiền nhàn rỗi trong dân chúng ta hãy nghiên cứu một số
phương pháp thực hiện như sau:
Phát hành công trái ngoại tệ và trái phiếu chính phủ : Việc phát hành công trái ngoại tệ
là để huy động nguồn ngoại tệ trong dân chủ yếu là USD, hiện nay các ngân hàng thương
mại quy định lãi suất huy động ngoại tệ là 0% trong khi lãi suất tiết kiệm VND là
47%/năm. Do vậy, việc phát hành công trái ngoại tệ có nhiều lợi thế hấp dẫn hơn để huy động ngoại tệ.
Thu hút tiền, vàng gửi ngân hàng: Việc tăng lãi suất tiền gửi ngân hàng có thể thu hút
được lượng tiền nhàn rỗi lớn trong dân phục vụ cho nhu cầu vay vốn làm ăn của các
doanh nghiệp. Tuy nhiên, cũng phải cân nhắc ảnh hưởng của việc tăng lãi suất đến tình
hình vĩ mô của nền kinh tế.
Kênh đầu tư chứng khoán và các giấy tờ có giá: Kênh đầu tư chứng khoán là một loại
hình hút được dòng tiền khá lớn trong dân những năm gần đây. Tuy nhiên, việc minh
bạch thị trường tạo được sự an tâm cho người dân đầu tư là biện pháp lâu dài giúp các
doanh nghiệp có được nguồn tiền đầu tư. Ngoài ra, các loại giấy tờ có giá khác như trái
phiếu, tín phiếu… cũng là một loại hình thu hút được dòng tiền trong dân. Nhà nước
cần có các cơ chế quản lý minh bạch phù hợp tạo được lòng tin của người dân thì mới
có thể thu hút được dòng vốn nội sinh này.