Phân tích những đặc trưng của kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam. Nêu giải pháp Việt Nam cần thực hiện để hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN | Kinh tế chính trị
Phân tích những đặc trưng của kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam. Nêu giải pháp Việt Nam cần thực hiện để hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Kinh tế chính trị (PLT02H)
Trường: Học viện Ngân hàng
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
Học phần: Kinh Tế Chính Trị Mác-Lênin
ĐỀ TÀI: Phân tích những đặc trưng của kinh tế thị trường
định hướng XHCN ở Việt Nam. Nêu giải pháp Việt Nam cần
thực hiện để hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN.
Giảng viên hướng dẫn : Phạm Thị Nguyệt
Sinh viên thực hiện : Đặng Anh Phước
Lớp : K23NHG Mã sinh viên : 23A4010823
Hà nội, ngày 12 tháng 6 năm 2021 Mục lục
Mở đầu ........................................................................................................................ 2
Nội dung ...................................................................................................................... 3
Chương I:Khái quát lý luận ..................................................................................... 3
1.Khái niệm về Kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ...................... 3
2.Vai trò của nền kinh tế thị trường .................................................................... 4
3. Bản chất kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ............................... 4
4.Đặc trưng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta ....... 5
Chương II:Phân tích thực trạng việc hình thành và phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ................................................... 6
2.1 Thực trạng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
hiện nay ............................................................................................................... 6
2.2. Những mặt còn hạn chế ................................................................................ 9
Chương III: Giải pháp Việt Nam cần thực hiện để hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng XHCN ...................................................................................... 9
3.1. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ............................. 9
3.2. Giải pháp hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa hiện nay ................................................................................................... 10
Kết luận ..................................................................................................................... 14 1 Mở đầu
Từ năm 1975, khi cả nước độc lập. Cách mạng dân tộc dân chủ hoàn thành trên
phạm vi cả nước thì cả nước cùng tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa xã hội.
Đảng ta đã chủ trương giữ vững quan điểm cũng như con đường mà chủ tịch Hồ
Chí Minh đã lựa chọn là tiến lên chủ nghĩa xã hội, quyết tâm đưa đất nước trở thành
một nước giàu mạnh về kinh tế, ổn định về kinh tế chính trị, xã hội công bằng văn
minh. Để đ ạt được như vậy, Đảng ta đã chủ trương phải ưu tiên phát triển kinh tế
và coi đó là vấn đề sống còn và một trong số đó là xây dựng kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Nền kinh tế thị trường có ảnh hưởng lớn đến sự tốn tại và phát triển của từng quốc
gia từng dân tộc. Vấn đề nhà nước và thị trường là mối quan tâm hàng đầu của
nhiều nhà nghiên cứu kinh tế trong nhiều thập kỉ qua, do đó việc tìm tòi mô hình
quản lý kinh tế thích hợp và có hiệu quả hơn là vấn đề mà nhà nước ta và nhiều
nước trên thế giới quan tâm. Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa là một yếu tố tất yếu cơ bản của quá trình đổi mới quản lý kinh tếở nước ta.
Trong những năm qua, nhờ có đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng và nhà nước,
nước ta đã thoát khỏi những khủng hoảng, đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh, đời
sống nhân dân được cải thiện đáng kể, chính trị xã hội ổn định, an ninh quốc phòng
được giữ vững, từ một nền kinh tế quan liêu bao cấp đã từng bước chuyển sang nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dựa trên quy luật giá trị và tín hiệu
cung cầu của thị trường.
Kinh tế thị trường định hướng XHCN là vấn đề còn mới trong lịch sử. Lý luận về
kinh tế thị trường, nhất là đảm bảo giữ vững định hướng XHCN là vấn đề phải
thường xuyên được nghiên cứu, bổ sung. Vì vậy, em chọn đề tài: “Một số vấn đề cơ
bản về kinh tế thị trường định hướng XHCNở Việt Nam” làm tiểu luận môn Kinh tế chính trị Mác-Lênin. 2 Nội dung
Chương I:Khái quát lý luận
1.Khái niệm về Kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa
Kinh tế hàng hoá là một kiểu tổ chức kinh tế xã hội mà trong đó sản phẩm sản xuất
ra để trao đổi, để bán trên thị trường.
Kinh tế thị trường là trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hoá. Hay còn nói, kinh
tế thị trường là kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị trường, trong đó toàn bộ
các yếu tố “đầu vào” và “đầu ra” của sản xuất đều thông qua thị trường.
Sau nhiều năm nghiên cứu, tìm tòi, tổng kết lý luận - thực tiễn, Đại hội IX của Đảng
(4/2001) đã chính thức đưa ra khái niệm “kinh tế thị trường định hướng XHCN”,
khẳng định chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN là mô hình kinh tế tổng quát của Việt Nam trong thời kỳ quá độ đi lên
CNXH, là đường lối chiến lược nhất quán. Từ “nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng
XHCN”, đã khái quát thành “nền kinh tế thị trường định hướng XHCN” là bước
phát triển mới rất quan trọng về tưduy lý luận và thực tiễn của Đảng.
Kinh tế thị trường định hướng XHCN thực chất là kiểu tổ chức nền kinh tế vừa dựa
trên những nguyên tắc và quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên những
nguyên tắc và bản chất của CNXH.Kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường vận động
theo cơ chế thị trường và chịu sự chi phối của những quy luật vốn có gồm: quy luật
giá trị, cung cầu, cạnh tranh, lưu thông tiền tệ... trong đó, quy luật giá trị giữ vai trò chi phối.
Trong nền kinh tế thị trường, tính tự chủ của các chủ thể kinh tế là rất cao; giá cả là
phạm trù kinh tế trung tâm, là công cụ quan trọng, thông qua cung cầu để kích thích
điều tiết hoạt động kinh tế của các chủ thể kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN, Nhà nước thực hiện quản lý nền kinh tế thông qua pháp luật và điều
tiết nền kinh tế thông qua các chính sách và các công cụ kinh tế vĩ mô, đảm bảo định hướng XHCN. 3
2.Vai trò của nền kinh tế thị trường
Kinh tế thị trường phá vỡ dần kinh tế tự nhiên và chuyển thành kinh tế hàng hoá,
tạo ra động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, nâng cao năng suất lao động xã hội.
Kinh tế thị trường có tính năng động cao, kích thích sự sáng tạo của các chủ thể
kinh tế, nâng cao chất lượng, cải tiến mẫu mã, tăng khối lượng hàng hoá và dịch vụ.
Thúc đẩy phân công lao động xã hội và chuyên môn hoá sản xuất, phát huy được
tiềm năng lợi thế của từng vùng, mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài.Kinh tế
thị trường thúc đẩy quá trình tích tụ, tập trung sản xuất, tạo điều kiện ra đời của sản
xuất lớn với khối lượng hàng hoá ngày càng nhiều để phục vụ xã hội
Cho phép khai thác và tận dụng tối đa các nguồn tài nguyên.
3. Bản chất kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta có một số điểm như sau:
Thứ nhất, quá trình chuyển nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế thị trường đồng
thời cũng là quá trình thực hiện nền kinh tế mở, nhằm hoà nhập với thị trường thế giới.
Thứ hai, bản chất của quá trình chuyển nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là quá trình chuyển nền kinh tế còn mang
nặng tính chất tự cung tự cấp sang nền kinh tế hàng hoá tiến tới nền kinh tế thị
trường và qua trình chuyển cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị
trường có sự quản lý của nhà nước.
Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản đã khẳng định nền kinh tế hàng hoá đã làm cho
thị trường dân tộc gắn bó và hoà nhập với th ị trường th ế giới. Chính giao lưu hàng
hoá đã làm cho quan hệ quốc tế được mở rộng khỏi phạm vi quốc gia, thúc đẩy nền
kinh tế phát triển một cách nhanh chóng.
Trong quan hệ quốc tế chúng ta có nhiều đổi mới quan trọng. Chúng ta đã chuyển
quan hệ quốc tế từ đơn phương sang đa phương, quan hệ với tất cả các nước không 4
phân biệt chế độ chính trị, theo nguyên tắc đôi bên cùng có lợi và không can hệ vào
chuyện nội bộ của nhau.
4.Đặc trưng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
Về mục tiêu: kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phương thức để phát
triển lực lượng sản xuất xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội nâng
cao đời sống nhân dân thực hiện dân giàu nước mạnh dân chủ công bằng văn minh
đây là sự khác biệt cơ bản của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với
kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa.
Về quan hệ sở hữu và thành phần kinh tế: là nền kinh tế có nhiều hình thức sở hữu
nhiều thành phần kinh tế trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư
nhân là một động lực quan trọng. Kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể cùng với kinh tế
tư nhân là nòng cốt để phát triển một nền kinh tế độc lập, tự chủ các chủ thể thuộc
các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác, cạnh tranh cùng phát triển theo pháp luật.
Về quan hệ quản lý kinh tế: sự can thiệp của nhà nước vào quá trình kinh tế nhằm
khắc phục hạn chế của thị trường và định hướng thị trường theo mục tiêu đã định
sự. Khác biệt ở đây là nhà nước Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản.
Về quan hệ phân phối: thực hiện nhiều hình thức phân phối khác nhau đối với yếu
tố đầu vào, đầu ra của sản xuất trên cơ sở công bằng bình đẳng và hiệu quả kinh tế
Về quan hệ giữa vấn tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội: tiến bộ và công bằng
xã hội là điều kiện đảm bảo sự phát triển bền vững, là mục tiêu của chế độ xã hội
chủ nghĩa mà nhân dân ta phải thực hiện hóa từng bước trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường nước ta còn thể hiện ở
chỗ tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với phát triển văn hoá, giáo dục xây dựng nền 5
văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, làm cho chủ nghĩa Mác Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của nhân dân,
nâng cao dân trí, giáo dục và đào tạo con nguời, xây dựng và phát triển nguồn nhân
lực của đất nước. Chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường, định
hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước thể hiện trình độ tư duy và vận
dụng của Đảng ta về qui luật sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất. Đây là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Chương II:Phân tích thực trạng việc hình thành và phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
2.1 Thực trạng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
Khi chuyển sang kinh tế thị trường chúng ta đứng trước thực trạng là đất nước đã và
đang từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, từ một xã hội vốn là thuộc địa nửa
phong kiến, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất xã hội thấp. Không những
thế, đất nước ta lại trải qua hàng chục năm chiến tranh, hậu quả để lại vô cùng nặng
nề, những tàn dư thực dân phong kiến còn nhiều, lại chịu ảnh hưởng nặng nề của cơ
chế tập trung quan liêu bao cấp.
Từ những đặc điểm trên ta có thể nhận xét rằng: nền kinh tế nước ta không còn
hoàn toàn là nền kinh tế tự cung tự cấp nhưng cũng chưa ph ải là nền kinh tế hàng
hoá theo ý nghĩa đầy đủ. Mặt khác do có sự đổi mới về mặt kinh tế nền kinh tế nước
ta khi chuyển sang kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hoá kém phát triển, còn
mang nặng tính chất tự cấp là ảnh hưởng nặng nề của cơ chế tập trung quan liêu bao
cấp. Thực trạng đó được thể hiện ở các mặt sau:
Thứ nhất, kinh tế hàng hóa kém phát triển, nền kinh tế còn mang nặng tính tự cung
tự cấp, cơ cấu kinh tế còn mất cân đối và kém hiệu quả, chưa có thị trường theo
đúng nghĩa của nó và năng suất lao động xã hội và thu nhập quốc dân tính theo đầu người còn thấp. 6
Nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta đã được hình thành và phát triển, vì vậy thị
trường nước ta cũng được hình thành và phát triển. Xem xét khái quát về thị trường
nước ta trong những năm qua vẫn thấy còn là thị trường ở trình độ thấp, tính chất
của nó vẫn còn hoang sơ, dung lượng còn yếu và có phần rối loạn. Chúng ta mới có
thị trường hàng hoá nói chung, trước hết là thị trường hàng tiêu dùng thông thường
với hệ số giá cả và quan hệ mua bán bình thường. Về cơ bản chúng ta chưa có thị
trường sức lao động, thị trường tiền vốn trong khu vực kinh tế nhà nước. Thực trạng
này của thị trường nước ta là do kết quả của nhiều nguyên nhân khác nhau. Về mặt
khách quan là do trình độ phát triển của phân công lao động xã hội còn thấp, nền
kinh tế còn mang nặng tính tự cấp tự túc. Về mặt chủ quan là do những nhận thức
chưa đúng đắn của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, là do sự phân biệt duy ý chí giữa
thị trường có tổ chức và thị trường tự do.
Điều cần thiết phải rút ra từ thực trạng của thị trường trên đây là: với tất cả tính
phức tạp và các mặt tiêu cực xảy ra trên thị trường, việc chuyển nền kinh tế nước ta
sang kinh tế thị trường vẫn đưa tới mức tiến bộ về mật kinh tế hơn hẳn trước đây và
tạo khả năng dẫn tới bước ngoặt quyết định. Nhiệm vụ đặt ra hiện nay là phải tiếp
tục thúc đẩy quá trình hình thành và phát triển của thị trường ngày càng đầy đủ và
thông suốt, thống nhất trên phạm vi cả nước, phải gắn thị trường trong nước với thị trường quốc tế.
Thứ hai về thực trạng của nền kinh tế nước ta khi chuyển sang nền kinh tế thị
trường là ảnh hưởng của mô hình kinh tế chỉ huy với cơ chế tập trung quan liêu bao
cấp. Hai cơ chế kinh tế cũ và mới ( cơ chế tập trung quan liêu bao cấp và thị trường)
có nhi ều đặc điểm khác nhau, điểm khác nhau cơ bản nhất là: cơ chế cũ hình thành
trên cơ sở thu hẹp hoặc gần như xoá bỏ quan hệ hàng và tiền tệ, làm cho nền kinh tế
bị “ hiện vật hoá” còn cơ chế mới hình thành trên cơ sở mở rộng quan hệ hàng hoá tiền tệ.
Quy luật tồn tại trong cơ chế giao nộp và cấp phát chỉ là hình thức, việc mở rộng
sản xuất và lưu thông hàng hoá là một tất yếu lịch sử cho nên hạn chế quan hệ hàng
hoá tiền tệ và quy luật giá trị trở thành sự cản trở tiến bộ kinh tế, kìm hãm nhân tố
mới. Do đó làm cho nhà nước không thể làm chủ những quá trình kinh tế khách 7
quan mặc dù trong tay nhà nước có thực lực kinh tế to lớn. Vì vậy, đại hội lần thứ
VII Đảng ta đã khẳng định: Xoá bỏ triệt để cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao
cấp hình thành cơ chế thị trờng có sự quản lý của nhà nước bằng pháp luật, kế
hoạch chính sách và các công cụ khác. Xây dựng và phát triển đồng bộ hàng tiêu
dùng, vật tư, dịch vụ sức lao động… thực hiện kinh tế thông suốt trong cả nước và
với thị trường thế giới.
Xuất phát từ nhiệm vụ bao trùm về chính sách đối ngoại và quan điểm: “Việt Nam
muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc
lập và phát triển”, chính sách kinh tế đối ngoại của nền kinh tế hàng hoá nước ta
hiện nay được thực hiện theo những định hướng sau: Đa dạng hoá, đa phương hoá
kinh tế với mọi quốc gia, mọi tổ chức kinh tế không phân biệt chế độ chính trị trên
nguyên tắc tôn trong độc lập chủ quyền bình đẳng và cùng có lợi. Củng cố và tăng
cường vị trí của Việt Nam ở các thị trường quen thuộc và với bạn hàng truyền
thống, tích cực thâm nhập và tạo chỗ đứng ở thị trường mới, phát triển các mối quan
hệ dưới mọi hình thức.
Kinh tế đối ngoại là một trong các công cụ kinh tế bảo đảm cho việc thực hiện các
mục tiêu kinh tế – xã hội đề ra cho từng giai đoạn lịch sử cụ thể và phục vụ đắc lực
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, thực hiện công nghiệp hoá hiện đại
hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tăng cường hội nhập vào nền kinh tế thế
giới, phát huy ý chí tự lực tự cường; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại, dựa vào nguồn lực trong nước là chính, đi đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực ở bên ngoài.
Theo những định hướng trên, mấy năm qua, hoạt động kinh tế đối ngoại ở nước ta
đã lập lại quan hệ bình thường với các quan hệ tài chính, tiền tệ quốc tế, bước đầu
đã thu đựoc những thành tựu quan trọng về kinh tế đối ngoại. Ngoài ra nền kinh tế
thị trường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa cần có sự quản lý vĩ mô của
nhà nước. Đây là đặc điểm cơ bản nhất của kinh tế thị trường ở nước ta khác với
nền sản xuất hàng hoá giản đơn trứoc đây, cũng như khác với nền kinh tế thị trường
ở các nước tư bản chủ nghĩa. Đặc điểm này cũng chính là mô hình kinh tế khái quát 8
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Mô hình kinh tế đó có những
đặc trưng riêng, làm cho nó khác với kinh tế thị trường ở các nước tư bản chủ nghĩa.
2.2. Những mặt còn hạn chế
Tuy đã đạt được những thành tựu quan trọng, nhưng nhìn chung chúng ta vẫn chưa
thoát khỏi khủng hoảng kinh tế- xã hội, vẫn là một nước nghèo, kém phát triển. Sức
cạnh tranh của hàng hoá còn yếu, năng suất lao động và tích luỹ còn thấp, kỹ thuật công nghệ lạc hậu.
Việc chuyển dịch cơ cấu còn chậm, lao động nông nghiệp vẫn chiếm 75%, dân số
và việc làm luôn luôn là những vấn đề gay gắt. Phân công lao động xã hội chưa phát
triển, cơ sở vật chất kỹ thuật còn lạc hậu, cơ sở hạ tầng còn yếu kém. Sự phát triển
sản xuất hàng hoá vẫn còn khá chênh lệch giữa các vùng và các ngành. Bộ máy tổ
chức cán bộ còn công kềnh và nhiều bất cập gây chồng chéo và lãng phí. Thực lực
kinh tế còn yếu kém nên chưa tạo ra sức hút mạnh mẽ tới các nhà đầu tư nước ngoài.
Vẫn còn có nơi có lúc tư duy còn chịu ảnh hưởng của cơ chế cũ, gây khó khăn cản
trở sự phát triển của các chủ thể kinh tế, chưa thực sự bình đẳng và yên tâm đầu tư kinh doanh.
Những yếu kém kể trên một phần là do nhiều nguyên nhân, trước hết là do điều kiện
khách quan: nước ta chịu hậu quả nặng nề của nhiều năm có chiến tranh trước đó
làm cho nền kinh tế bị tàn phá nặng nề mà không chỉ trong một thời gian ngắn có
thể khôi phục được. Tuy nhiên nguyên nhân chính là do những hậu quả của cơ chế
cũ để lại, mà khuyết điểm lớn thuộc về công tác lãnh đạo, chỉ đạo điều hành.
Chương III: Giải pháp Việt Nam cần thực hiện để hoàn thiện
thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN
3.1. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa 9
Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là hệ thống đường lối, chủ
trương chiến lược, hệ thống luật pháp, chính sách quy định xác lập cơ chế vận hành,
điều chỉnh chức năng, hoạt động, mục tiêu, phương thức hoạt động, các quan hệ lợi
ích của các tổ chức, các chủ thể kinh tế nhằm hướng tới xác lập đồng bộ các yếu tố
thị trường, các loại thị trường hiện đại theo hướng góp phần thúc đẩy dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Lý do phải thực hiện hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa:
Thứ nhất, do thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn chưa đồng
bộ. Do mới được hình thành và phát triển, cho nên, việc tiếp tục hoàn thiện thể chế
là yêu cầu mang tính khách quan. Nhà nước quản lý, điều tiết nền kinh tế thị trường
bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và các công cụ khác để giảm thiểu
các thất bại của thị trường, thực hiện công bằng xã hội. Do đó, cần phải xây dựng và
hoàn thiện thể chế kinh tế trường để phát huy mặt tích cực, khắc phục mặt tiêu cực và khuyết tật của nó.
Thứ hai: hệ thống thể chế còn chưa đầy đủ. Xuất phát từ yêu cầu nâng cao năng lực
quản lý của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Bởi
vì, thể chế kinh tế thị trường là sản phẩm của nhà nước, nhà nước với tư cách là tác
giả của thể chế chính thức đương nhiên là nhân tố quyết định số, chất lượng của thể
chế cũng như toàn bộ tiến trình xây dựng và hoàn thiện thể chế. Với bản chất nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của nhân dân, do nhân dân
và vì nhân dân và do vậy thể chế kinh tế thị trường ở Việt Nam phải là thể chế phục
vụ lợi ích, vì lợi ích của nhân dân. Trình độ và năng lực tổ chức và quản lý nền kinh
tế thị trường của nhà nước thể hiện chủ yếu ở năng lực xây dựng và thực thi thể chế.
Do vậy, nhà nước phải xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường để thực
hiện mục tiêu của nền kinh tế.
3.2. Giải pháp hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay 10
Hoàn thiện thể chế, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
(XHCN) luôn được Ðảng ta quan tâm đặc biệt. Kể từ Ðại hội IX của Ðảng tháng 4-
2001, Ðảng ta đã khẳng định: Kinh tế thị trường định hướng XHCN là mô hình kinh
tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta và kể từ đó
đến nay vấn đề hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN được đặt ra
cấp bách trong các Ðại hội X, XI, XII, XIII của Ðảng.
Ðại hội XIII của Ðảng nâng lên tầm cao mới về chủ trương, quan điểm hoàn thiện
thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN. Báo cáo chính trị được Ðại hội XIII
của Ðảng thông qua có 15 mục lớn, thì mục lớn thứ 4 là: "IV - Hoàn thiện toàn
diện, đồng bộ thể chế, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa"
với ba nội dung quan trọng:
Thứ nhất, thống nhất và nâng cao nhận thức về phát triển kinh tế thị trường định
hướng XHCN, Ðại hội XIII khẳng định: Kinh tế thị trường định hướng XHCN là
mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Ðó
là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo
các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa, do Ðảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ
nghĩa vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh" phù hợp
với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa Việt Nam có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó:
kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng
được củng cố, phát triển; kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng; kinh tế có vốn
đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển phù hợp với chiến lược, quy hoạch
và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ hai, tiếp tục hoàn thiện đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, tập trung tháo gỡ các điểm nghẽn, có ba điểm nổi bật:
Một là, xây dựng và thực thi pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch nâng cao
chất lượng, hiệu quả quản trị quốc gia. Xây dựng khung khổ pháp luật, môi trường 11
thuận lợi thúc đẩy phát triển, khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, phát
triển kinh tế số; hỗ trợ, khuyến khích sự ra đời, hoạt động của những lĩnh vực mới,
mô hình kinh doanh mới. Tập trung sửa đổi những quy định mâu thuẫn, chồng chéo,
cản trở phát triển kinh tế. Ðẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, phân cấp, phân
quyền, ủy quyền gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương, trách nhiệm cá nhân và
nâng cao trách nhiệm phối hợp giữa các cấp, các ngành.
Hai là, tiếp tục hoàn thiện thể chế, phát triển đầy đủ, đồng bộ các yếu tố thị
trường, các loại thị trường. Thực hiện nhất quán cơ chế giá thị trường đối với hàng
hóa, dịch vụ, kể cả các dịch vụ công cơ bản. Phát triển thị trường các yếu tố sản
xuất để thị trường đóng vai trò quyết định trong huy động, phân bổ, sử dụng các
nguồn lực. Phát triển thị trường hàng hóa, dịch vụ theo các phương thức tổ chức,
giao dịch văn minh, hiện đại, thương mại điện tử. Phát triển đồng bộ, nâng cao hiệu
quả hoạt động của các thị trường tài chính, tiền tệ, thị trường chứng khoán, thị
trường bảo hiểm... trên nền tảng công nghệ số với kết cấu hạ tầng, công nghệ và
phương thức giao dịch hiện đại.
Ba là, tiếp tục hoàn thiện thể chế, thúc đẩy phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động
của doanh nghiệp. Ðẩy nhanh việc xử lý nợ, thoái vốn, cổ phần hóa, cơ cấu lại
doanh nghiệp nhà nước; thúc đẩy đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ, áp dụng
chế độ quản trị doanh nghiệp hiện đại để nâng cao hiệu quả, đồng thời kiểm tra,
giám sát chặt chẽ hoạt động của doanh nghiệp, không để thất thoát, lãng phí vốn, tài
sản nhà nước. Nhà nước có chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển các mô hình
kinh tế hợp tác, các hợp tác xã, doanh nghiệp nhỏ và vừa, kinh tế hộ, trang trại trong
nông nghiệp. Hoàn thiện thể chế thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân, khuyến khích
doanh nghiệp tư nhân đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ, phát triển nguồn nhân
lực, mở rộng thị trường…
Thứ ba, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ; nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế
quốc tế, Ðại hội XIII chỉ rõ: "Giữ vững độc lập, tự chủ trong việc xác định chủ
trương, đường lối, chiến lược phát triển kinh tế đất nước. Phát triển doanh nghiệp
Việt Nam lớn mạnh trở thành nòng cốt của kinh tế đất nước; giữ vững các cân đối
lớn, chú trọng bảo đảm an ninh kinh tế; không ngừng tăng cường tiềm lực kinh tế 12
quốc gia. Ða phương hóa, đa dạng hóa quan hệ kinh tế quốc tế, tránh lệ thuộc vào
một thị trường, một đối tác. Nâng cao khả năng chống chịu của nền kinh tế trước tác
động tiêu cực từ những biến động của bên ngoài; chủ động hoàn thiện hệ thống
phòng vệ để bảo vệ nền kinh tế, doanh nghiệp, thị trường trong nước phù hợp với
các cam kết quốc tế. Thực hiện nhiều hình thức hội nhập kinh tế quốc tế với các lộ
trình linh hoạt, phù hợp với điều kiện, mục tiêu của đất nước trong từng giai đoạn.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với những điều ước quốc tế và cam kết quốc
tế mà Việt Nam đã ký kết. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ am hiểu sâu về
luật pháp quốc tế, thương mại, đầu tư quốc tế, có khả năng làm việc trong môi
trường quốc tế, trước hết là cán bộ trực tiếp làm công tác hội nhập kinh tế quốc tế,
giải quyết tranh chấp quốc tế".
Tiếp tục hoàn thiện và nâng cao chất lượng thể chế, pháp luật đầy đủ, đồng bộ, hiện
đại, hội nhập, ổn định, cụ thể, minh bạch. Tăng cường hiệu lực, hiệu quả các thiết
chế thi hành pháp luật, bảo đảm chấp hành pháp luật nghiêm minh. Phát triển đầy
đủ và đồng bộ thị trường các yếu tố sản xuất, nhất là các thị trường quyền sử dụng
đất, khoa học, công nghệ... Nhà nước thực hiện tốt chức năng xây dựng và quản lý
thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, cơ chế, chính sách, phân bổ nguồn lực
phát triển theo cơ chế thị trường. Bảo vệ quyền sở hữu tài sản hợp pháp và quyền tự
do kinh doanh, thực thi hợp đồng của người dân, doanh nghiệp theo quy định của
pháp luật. Phát huy vai trò của người dân, doanh nghiệp, các tổ chức chính trị - xã
hội, nghề nghiệp và cộng đồng trong tham gia xây dựng, phản biện và giám sát thực
hiện pháp luật, cơ chế, chính sách của Nhà nước. Cải cách thủ tục hành chính một
cách quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả, bãi bỏ các rào cản hạn chế quyền tự do kinh
doanh, cải thiện và nâng cao chất lượng môi trường kinh doanh, bảo đảm cạnh tranh
lành mạnh, bình đẳng, minh bạch. Xây dựng nhanh nền hành chính hiện đại, dựa
trên đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có tính chuyên nghiệp cao, có năng lực
sáng tạo, phẩm chất đạo đức tốt, bản lĩnh chính trị, phục vụ người dân, doanh
nghiệp; thực hiện phương thức, công cụ quản lý nhà nước chủ yếu bằng điều tiết
gián tiếp, tăng cường hậu kiểm; giảm đến mức thấp nhất rủi ro pháp lý và chi phí
tuân thủ đối với người dân và doanh nghiệp. 13
Ðể những chủ trương, quan điểm, nhiệm vụ, giải pháp này đi vào cuộc sống, trên cơ
sở quán triệt sâu sắc, nắm chắc nội dung, thống nhất nhận thức và hành động trong
toàn Ðảng, toàn dân, toàn quân, cả hệ thống chính trị vào cuộc với quyết tâm chính
trị cao, quyết liệt, Ðảng đoàn Quốc hội chỉ đạo xây dựng, hoàn chỉnh hệ thống pháp
luật và giám sát việc thực hiện; Ban cán sự Ðảng Chính phủ chỉ đạo xây dựng và tổ
chức thực hiện thắng lợi chương trình hành động, các chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch, bảo đảm phát huy lợi thế và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực để đất nước
phát triển nhanh và bền vững. Kết luận
Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta là sự lựa chọn hoàn toàn
phù hợp với quy luật phát triển khách quan và xu thế tất yếu của thời đại. Việc xây
dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta là hoàn toàn mới, chưa có
tiền lệ trong lịch sử; đòi hỏi chúng ta phải thường xuyên tổng kết thực tiễn, bổ sung
lý luận để nhận thức ngày càng đầy đủ, tôn trọng và vận dụng đúng đắn các quy luật
khách quan của kinh tế thị trường, phù hợp với điều kiện phát triển của Việt Nam,
bảo đảm định hướng XHCN của nền kinh tế.
Để đưa đất nước có thể đuổi kịp các nước phát triển trên thế giới trong một tương
lai không xa đồng thời cũng không để chệch hướng theo con đường xã hội chủ
nghĩa mà Đảng và nhân dân ta đã chọn thì nhất thiết chúng ta phải xây dựng được
một nền kinh tế thị trường vững mạnh theo định hướng xã hội chủ nghĩa và mang
bản sắc của người Việt Nam. Những vấn đề đựơc đề cập trên đây là những biện
pháp mà chúng ta cần làm trong thời gian trước mắt để tiếp tục ổn định và khắc
phục những hạn chế của nền kinh tế thị trường và sau này trong quá trình phát triển
lâu dài của đất nước. Nhất là trong quá trình hội nhập nền kinh tế thế giới theo xu h
ướng toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới thì khi đó sẽ mở ra rất nhi ều cơ hội cũng
như những thách thức đòi hỏi chúng ta phải thật sáng suốt nếu không muốn bị lâm
vào tình thế bị động trước những diễn biến của nền kinh tế thị trường. Nó có thể gây
ra những hậu quả nghiêm trọng như: sự phân hoá giàu nghèo ngày càng lớn, tệ nạn 14
xã hội ngày càng tăng và phức tạp, các truyền thống bị thương mại hoá, nạn lạm
phát gia tăng… Chính vì vậy, chúng ta cần phải trau dồi kiến thức cho thật tốt, bên
cạnh đó là nhân phẩm của một người sinh viên, là tầng lớp trí thức trong xã hội sẽ
đi đầu trong mọi việc mà Đảng và nhà nước tiến hành để góp phần vào việc hoàn
thiện nền kinh tế thị trường tiến tới việc xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Tài liệu tham khảo
1. Ðảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Ðại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, 2016.
2. Ðảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Ðại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, 2021
3. Nghị quyết số 11 - NQ/TW ngày 3-6-2017 Hội nghị Trung ương 5 khóa XII.
4. PGS.TS Ngô Tuấn Nghĩa - Giáo trình Kinh tế chính trị Mác Lê nin (dành
cho bậc đại học không chuyên lý luận chính trị) 2019 15