Phân tích những luận điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc. Trong những luận điểm đó, luận điểm nào là luận điểm độc đáo, sáng tạo nhất của Hồ Chí Minh? Vì sao?

Phân tích những luận điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc. Trong những luận điểm đó, luận điểm nào là luận điểm độc đáo, sáng tạo nhất của Hồ Chí Minh? Vì sao? được trình bày khoa học, chi tiết giúp cho các bạn sinh viên chuẩn bị bài một cách nhanh chóng và đầy đủ. Các bạn xem, tải về ở bên dưới.

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
BÀI THẢO LUẬN
TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Đề tài
Phân tích những luận điểm bản của Hồ Chí Minh về cách mạng giải
phóng dân tộc. Trong những luận điểm đó, luận điểm nào luận điểm độc
đáo, sáng tạo nhất của Hồ Chí Minh? Vì sao?
Nhóm thực hiện: 1
Lớp học phần: 2296HCMI0111
Giảng viên hướng dẫn: Ngô Thị Minh Nguyệt
Nội, 10 - 2022
DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM ĐÁNH GIÁ
STT
Họ tên
Nhiệm vụ
Đánh giá
1
Hoàng Thị Lan Anh
Duyệt nội dung
Tổng hợp word
Hoàn thành xuất sắc
Tích cực đóng góp ý kiến
2
Lê Phạm Ngọc Anh
(nhóm trưởng)
Viết mở đầu, kết luận
Tổng hợp word
Hoàn thành tốt
Tích cực đóng góp ý kiến
3
Lưu Trần Vân Anh
Tìm thông tin phần 4
Hoàn thành tốt
4
Nguyễn Ngọc Anh
Làm slide
Hoàn thành tốt
5
Nguyễn Phương Anh
Tìm thông tin phần 3, 5
Tìm câu hỏi phản biện
Hoàn thành tốt
6
Nguyễn Thị Ngọc Anh
Làm slide
Hoàn thành tốt
7
Phạm Ngọc Anh
Tìm thông tin phần 4
Tìm câu hỏi phản biện
Hoàn thành nhưng cần sửa
nhiều, còn chậm deadline
8
Phạm Trần Châu Anh
Tìm thông tin phần 1, 2
Tìm câu hỏi phản biện
Hoàn thành tốt
9
Thị Anh
Thuyết trình, phản biện
Tìm câu hỏi phản biện
Hoàn thành tốt
Tích cực đóng góp ý kiến
10
Lê Ngọc Ánh
Thuyết trình, phản biện
Tìm câu hỏi phản biện
Hoàn thành tốt
Tích cực đóng góp ý kiến
2
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI CỘNG HÒA HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Nội, ngày 4 tháng 9 năm 2022
BIÊN BẢN HỌP NHÓM 1
Buổi 1
I. Thời gian, địa điểm
Thời gian: 21h ngày 4 tháng 9 năm 2022.
Địa điểm: họp online qua google meet.
II. Thành phần tham gia
Chủ trì: Phạm Ngọc Anh.
Tổng số thành viên: 10.
Số người tham gia: đủ.
III. Nội dung cuộc họp
Thống nhất đề cương.
IV. Đánh giá chung
Các thành viên tham gia họp nghiêm túc, tích cực đóng góp ý kiến để làm đề
cương hoàn chỉnh.
Cuộc họp kết thúc vào lúc 23h cùng ngày.
Nội, ngày 4 tháng 9 năm 2022
Nhóm trưởng
Anh
Phạm Ngọc Anh
3
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI CỘNG HÒA HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Nội, ngày 8 tháng 9 năm 2022
BIÊN BẢN HỌP NHÓM 1
Buổi 2
I. Thời gian, địa điểm
Thời gian: 21h ngày 8 tháng 9 năm 2022.
Địa điểm: họp online qua google meet.
II. Thành phần tham gia
Chủ trì: Phạm Ngọc Anh.
Tổng số thành viên: 10.
Số người tham gia: đủ.
III. Nội dung cuộc họp
Phân chia công việc cụ thể cho từng thành viên.
Giao lại thời hạn nộp bài cho các thành viên.
IV. Đánh giá chung
Các thành viên tham gia họp nghiêm túc, tích cực đóng góp ý kiến để hoàn chỉnh
nội dung bài thảo luận.
Cuộc họp kết thúc vào lúc 23h cùng ngày.
Nội, ngày 8 tháng 9 năm 2022
Nhóm trưởng
Anh
Phạm Ngọc Anh
4
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI CỘNG HÒA HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Nội, ngày 2 tháng 10 năm 2022
BIÊN BẢN HỌP NHÓM 1
Buổi 3
I. Thời gian, địa điểm
Thời gian: 21h ngày 2 tháng 10 năm 2022.
Địa điểm: họp online qua google meet.
II. Thành phần tham gia
Chủ trì: Phạm Ngọc Anh.
Tổng số thành viên: 10.
Số người tham gia: đủ.
III. Nội dung cuộc họp
Nhận xét, góp ý bài của từng thành viên.
Thống nhất lại cách làm việc của các thành viên.
Giao lại thời hạn nộp bài cho các thành viên.
IV. Đánh giá chung
Các thành viên tham gia họp nghiêm túc, tích cực đóng góp ý kiến để hoàn chỉnh
sản phẩm báo cáo thảo luận cuối cùng.
Cuộc họp kết thúc vào lúc 23h cùng ngày.
Nội, ngày 2 tháng 10 năm 2022
Nhóm trưởng
Anh
Phạm Ngọc Anh
5
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 7
NỘI DUNG 9
1. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách
mạng sản 9
2. Cách mạng giải phóng dân tộc, trong điều kiện của Việt Nam, muốn thắng lợi
phải do Đảng cộng sản nh đạo 14
3. Cách mạng giải phóng dân tộc phải dựa trên lực lượng đại đoàn kết toàn dân
tộc, lấy liên minh công nông làm nền tảng 15
4. Cách mạng giải phóng dân tộc cần chủ động, sáng tạo, có khả năng giành
thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc 20
5. Cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng phương pháp bạo
lực cách mạng 27
KẾT LUẬN 30
TÀI LIỆU THAM KHẢO 31
6
LỜI MỞ ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ đại của dân tộc Việt Nam, ngọn đèn soi
đường chỉ lối cho cách mạng nước ta giành được thắng lợi, đưa nhân dân thoát khỏi ách
lệ đầy đau khổ. Suốt cuộc đời, Người mang trong mình sứ mệnh giải phóng cho những
dân tộc thuộc địa bị áp bức. Không ngừng trau dồi, học hỏi cùng tầm nhìn xa trông rộng,
sáng tạo bản lĩnh, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho dân tộc nhân loại một kho
tàng tri thức vô cùng đồ scả hệ thống tưởng ý nghĩa to lớn với cách mạng -
tưởng Hồ Chí Minh.
tưởng Hồ Chí Minh một hệ thống quan điểm toàn diện sâu sắc về những
vấn đề bản của cách mạng Việt Nam; kết quả của sự vận dụng phát triển sáng tạo
chủ nghĩa Mác - Lênin điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa phát triển các giá trị
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hóa văn hóa nhân loại; tài sản tinh thần
cùng to lớn quý giá của Đảng dân tộc ta. người suốt đời đấu tranh cho sự
nghiệp cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam cách mạng thế giới nên trong hệ
thống tưởng của Người, cách mạng giải phóng n tộc nội dung quan trọng nhất
có ý nghĩa vô cùng to lớn, đặc biệt là với cách mạng ở Việt Nam.
Nhận biết được tầm quan trọng của nội dung trên, nhóm 1 chúng em đã tiến hành
nghiên cứu đề tài “Phân tích những luận điểm bản của Hồ Chí Minh về cách mạng
giải phóng dân tộc. Trong những luận điểm đó, luận điểm nào luận điểm độc đáo,
sáng tạo nhất của Hồ Chí Minh? sao?” để làm bản chất khoa học, cách mạng của
tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và cách mạng giải phóng dân tộc nói riêng.
Cuối cùng, nhóm 1 xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Ngô Thị Minh Nguyệt đã
quan tâm, hướng dẫn chúng em trong từng buổi học trao đổi về đề tài trên. Những
buổi học của đã giúp chúng em tích lũy được nhiều kiến thức về Chủ tịch Hồ Chí
Minh và tưởng của Người, cũng nhờ đó chúng em thể hoàn thành bài thảo luận
một cách tốt nhất. Mặc đã cố gắng hết sức trong quá trình thực hiện đề tài, song không
7
thể tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế, do vậy chúng em rất mong nhận được những lời
góp ý, nhận xét từ cô và các bạn để bài thảo luận được hoàn thiện hơn.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!
8
NỘI DUNG
1. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường
cách mạng vô sản
Yêu nước, kiên quyết chống giặc ngoại xâm, bảo vệ chủ quyền độc lập truyền
thống quý báu của dân tộc Việt Nam. Chính thế n khi thực dân Pháp tiến hành xâm
lược và đặt ách thống trị, nhân dân ta đã sớm nhận thức hành động đáp trả lại. Hàng
loạt những phong trào đấu tranh yêu nước theo con đường phong kiến đã nổ ra. Cụ thể,
lịch sử phong trào chống Pháp từ những năm đầu thế kỷ XX trở về trước gắn liền với các
phong trào yêu nước diễn ra khắp Bắc Trung - Nam như phong trào Cần Vương, khởi
nghĩa i Sậy (Mỹ Hào - Hưng Yên), khởi nghĩa Ba Đình, khởi nghĩa Hương Khê (Hà
Tĩnh). Đi theo con đường đấu tranh phong kiến còn cuộc khởi nghĩa Yên Thế - khởi
nghĩa của những người nông dân áo vải do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo kéo dài hơn 30
năm. Nhưng tất cả các cuộc khởi nghĩa này đều bị thực dân Pháp nhấn chìm trong
biển máu. Các phong trào kể trên đều sáng ngời tinh thần yêu nước, bất khuất, song tất cả
đều lâm vào bế tắc cuối cùng thất bại, thể hiện được khủng hoảng về giai cấp lãnh đạo
đường lối cách mạng. Dưới ách cai trị của chế độ phong kiến suy tàn, khi Pháp vào
xâm lược thì vua quan chống trả nhưng không chiến đấu đến cùng, cuối cùng đầu hàng.
Bên cạnh đó, lực lượng tham gia vào các cuộc khởi nghĩa này rất nhỏ bé, các phong
trào kháng chiến lẻ tẻ, diễn ra địa phương nào thì chỉ thu hút được một bộ phận nông
dân địa phương đó hoặc những vùng lân cận; lực lượng lãnh đạo chủ yếu những văn
thân, phu yêu nước, những người được đào tạo trong chế độ nho giáo ra làm quan.
Phương tiện, khí đấu tranh gươm giáo, gậy gộc, chứ không phải súng ống, đạn
dược. Phương pháp lãnh đạo thì bị động, chủ yếu xây hào đắp lũy. Biết được những
điều ấy, thực dân Pháp đã chủ động đem quân sang đánh trong khi chúng ta trong tâm thế
bị động, thế các cuộc khởi nghĩa đều thất bại, để lại bài học sâu sắc cho cách mạng
Việt nam: Phải đường lối cách mạng đúng đắn phải dựa vào lực lượng đông đảo
quần chúng nhân dân.
9
Khi con đường phong kiến thất bại thì chúng ta chuyển sang một con đường đấu
tranh mới theo khuynh hướng dân chsản. Tiêu biểu cho con đường đấu tranh này
phong trào Đông Du của Phan Bội Châu, phong trào Duy Tân của Phan Châu Trinh,
phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục của Nguyễn Khuyến, nhưng cuối cùng đều thất bại.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khâm phục các bậc tiền bối nhưng không tán thành con đường
cứu nước của các cụ, bởi cứu nước như Phan Bội Châu dựa vào Nhật Bản để đánh
Pháp thì khác "đuổi hổ cửa trước rước beo cửa sau", Phan Châu Trinh tin vào lời nói
khai hóa văn minh của Pháp thì chẳng khác "cúi xin giặc Pháp rủ lòng thương"... Lực
lượng tham gia vào khuynh hướng dân chủ sản chủ yếu trí thức, lực lượng nhỏ
trong xã hội. Cuối cùng các phong trào đều thất bại.
Ngày 5/6/1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã ra đi tìm đường
cứu ớc. Người đã lựa chọn con đường mới - con đường của riêng mình - con đường
đến với phương Tây cụ thể nước Pháp, như người đã từng nói: “Tôi muốn đi ra
nước ngoài, xem nước Pháp các nước khác. Sau khi xem xét họ làm như thế nào, tôi sẽ
trở về giúp đồng bào chúng ta”. Đó chính bước ngoặt, một sự lựa chọn lịch sử ý
nghĩa quan trọng nhất trong quá trình tìm đường cứu nước của chàng trai trẻ Nguyễn Tất
Thành. Để giải cho việc lựa chọn Pháp điểm đến đầu tiên của con đường cứu nước
của mình thì o năm 1923, tại Mát-xcơ-va, khi trả lời phỏng vấn của phóng viên Tạp chí
“Ngọn lửa nhỏ”, Người đã nói trả lời rằng: “Vào trạc tuổi mười ba, lần đầu tiên tôi được
nghe những từ ngữ tiếng Pháp: “Tự do Bình đẳng Bác ái”. Đối với chúng tôi lúc ấy,
mọi người da trắng được coi người Pháp thế tôi muốn làm quen với văn minh
Pháp, muốn tìm xem những ẩn giấu đằng sau những từ ấy”. Trong vòng mười năm, từ
năm 1911 đến năm 1920, Hồ Chí Minh đã tận dụng mọi hội để thể đến được nhiều
nơi trên thế giới, từ các nước bản phát triển đến các nước thuộc địa, quan sát kỹ cuộc
sống của người dân các nước ấy rút ra kết luận: đâu chủ nghĩa bản cũng tàn ác,
vô nhân đạo, đâu giai cấp công nhân người lao động cũng bị áp bức, bóc lột man.
Rõ ràng, chủ nghĩa đế quốc đâu cũng thù, giai cấp công nhân nhân dân lao động
đâu cũng bạn. theo Người kết luận thì “dù màu da khác nhau, trên đời này chỉ
10
hai giống người: giống người bóc lột giống người bị bóc lột; cũng chỉ một
tình hữu ái thật thôi: tình hữu ái sản. Nghiên cứu cuộc cách mạng Mỹ năm
1776 cuộc cách mạng Pháp năm 1789, Người khẳng định: Nhân dân Việt Nam không
thể đi theo con đường cách mạng Mỹ cũng như cách mạng Pháp hay nói cách khác cách
mạng Việt Nam không thể đi theo con đường cách mạng sản : “Cách mệnh Pháp
cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa cách mệnh bản, cách mệnh không đến nơi, tiếng
cộng hòa dân chủ, kỳ thực trong thì tước lục công nông, ngoài thì áp bức thuộc
địa. Cách mệnh đã 4 lần rồi, nay công nông Pháp hẵng còn phải mưu cách mệnh lần
nữa mới hòng thoát khỏi vòng áp bức”.
Năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi đã ảnh hưởng sâu sắc tới Hồ
Chí Minh trong việc lựa chọn con đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Cách mạng
Tháng Mười Nga (1917) cuộc cách mạng sản đầu tiên trên thế giới nổ ra giành
thắng lợi rung chuyển thế giới. Thực tiễn thành công của cách mạng Tháng Mười Nga đã
cho thấy tính ưu việt của chế độ mới theo tưởng của Cách mạng Tháng Mười được
hiện thực hóa: xóa bỏ tận gốc ách bóc lột người lao động, thực hiện quyền bình đẳng nam
nữ, thực hiện giáo dục, chữa bệnh không phải trả tiền, người già đơn được chăm c,
nuôi dưỡng. Đồng thời, Cách mạng Tháng Mười Nga còn mở ra thời đại mới - thời đại
quá độ từ chủ nghĩa bản lên chủ nghĩa hội cách mạng sản trên phạm vi toàn
thế giới. Kinh nghiệm hoạt động thực tiễn ý nghĩa to lớn của Cách mạng Tháng Mười
Nga đã ảnh hưởng sâu sắc đến những quyết định quan trọng đối với cuộc đời hoạt
động cách mạng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Người cho rằng: “Trong thế giới bây giờ
chỉ cách mệnh Nga đã thành công thành công đến nơi nghĩa dân chúng được
hưởng cái hạnh phúc, tự do, bình đẳng thật, không phải tự do bình đẳng giả dối như
đế quốc chủ nghĩa Pháp khoe khoang bên An Nam. Cách mệnh Nga đã đuổi được vua,
bản, địa chủ rồi, lại ra sức cho công, nông các nước dân tộc bị áp bức các thuộc địa
làm cách mạng để đập đổ tất cả đế quốc chủ nghĩa bản trong thế giới…Nói m lại
phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Lênin”. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng nhận định:
“Giống như mặt trời chói lọi, Cách mạng Tháng Mười chiếu sáng khắp năm châu, thức
11
tỉnh hàng triệu người bị áp bức, bóc lột trên trái đất. Trong lịch sử loài người từ trước tới
nay chưa một cuộc cách mạng ý nghĩa sâu xa như vậy”. Người nhận thấy trước hết
đây là cuộc dân tộc cách mạng, không chỉ giải phóng giai cấp còn giải phóng dân tộc.
Như vậy, Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi đã đem lại sự giúp đỡ tính quyết định
cho các dân tộc thuộc địa trên thế giới.
Năm 1920, Khi Nguyễn Ái Quốc đọc bản thảo lần thứ nhất những luận cương
về vấn đề dân tộc vấn đề thuộc địa của V.I. Lênin (Luận cương của Lênin) công bố
trên Báo Nhân đạo (L’Humanité) Pháp (7/1920), Người đã lập tức bị cuốn hút tính chất
cách mạng triệt để của nó, đã giải đáp thỏa đáng những điều bấy u nay Người
hằng mong ước, đợi chờ. Đây văn bản chính thức đầu tiên bênh vực cho các nước
thuộc địa, các dân tộc “nhược tiểu”. Những ởng bản trong Luận cương nhiều
điểm phù hợp với tưởng của Nguyễn Ái Quốc, đặc biệt sự đau xót trước nỗi thống
khổ của quần chúng lao động khắp thế giới sự quan tâm đến vấn đề giải phóng các dân
tộc thuộc địa cũng như tinh thần đoàn kết của quần chúng lao động trong đấu tranh. Hơn
thế, Luận cương của Lênin đã giải đáp cho Người những băn khoăn, trăn trở về bạn - thù;
về vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử con đường đấu tranh giành độc lập
cho dân tộc; đã trả lời các câu hỏi bấy lâu Người thắc mắc: Ai người lãnh đạo cách
mạng, ai tham gia lực lượng cách mạng mối quan hệ giữa cách mạng giải phóng dân
tộc ở các nước thuộc địa với cách mạng vô sản ở chính quốc.
Luận cương của Lênin giúp Người tìm thấy phương hướng phương pháp cách
mạng để đấu tranh giải phóng dân tộc, nhận kẻ thù của dân tộc Việt Nam. Qua đó,
Người phát hiện ra động lực to lớn của cách mạng khối đại đoàn kết toàn dân tộc với
khối đoàn kết, nòng cốt liên minh công - nông - trí, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản. Người khẳng định: Cách mạng Việt Nam muốn thành công phải đi theo con
đường của Cách mạng Tháng Mười Nga, phải Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Từ
đó, Hồ Chí Minh đã rút ra kết luận quan trọng: “Muốn cứu nước giải phóng dân tộc,
không con đường nào khác con đường cách mạng sản”. Đó con đường gắn độc
lập dân tộc với chủ nghĩa hội, gắn cách mạng Việt Nam với xu thế thời đại. Luận
12
cương của nin thực sự đem lại cho Người ánh sáng mới đầy hy vọng sự tin tưởng về
một tương lai tươi sáng đối với dân ta. Sau này, khi kể lại cảm xúc lần đầu được đọc bản
luận cương của Lênin về vấn đề dân tộc thuộc địa, Người đã nói: “Luận cương của
Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến
phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng tôi nói to lên như đang nói trước quần
chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây cái cần thiết cho chúng ta,
đây con đường giải phóng chúng ta!”. Từ đó, tôi hoàn toàn tin theo Lênin, tin theo
Quốc tế ba”.
Như vậy, chính Luận cương của Lênin đã tạo ra bước ngoặt căn bản về chất trong
sự phát triển nhận thức, tưởng lập trường chính trị của Nguyễn Ái Quốc: Từ chủ
nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác - Lênin, từ giác ngộ dân tộc đến giác ngộ giai cấp, từ
người yêu nước trở thành người cộng sản nhất quyết đi theo con đường cách mạng
sản để giành độc lập, tự do, hạnh phúc cho dân tộc, cho nhân dân Nam. Cũng chính từ
đây Người đã dần dần thực hiện con đường cứu nước của mình theo hướng cách
mạng vô sản thế giới, gắn liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa hội. Bước đầu chính sự
kiện tại Đại hội lần thứ 18 của Đảng hội Pháp (12/1920), Nguyễn Ái Quốc đã quyết
định bỏ phiếu tán thành Quốc tế III tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Người
chính thức trở thành người cộng sản đầu tiên của giai cấp công nhân nhân dân lao
động Việt Nam.
Trong quá trình vận dụng luận cách mạng sản của chủ nghĩa Mác - Lênin
vào Việt Nam, Hồ Chí Minh đã những vận dụng một cách sáng tạo dựa theo điều kiện
cách mạng Việt Nam. Trước hết, khác với quan niệm của nin về con đường cách mạng
sản phương Tây đi từ giải phóng giai cấp - giải phóng dân tộc - giải phóng hội
- giải phóng con người; thì Hồ Chí Minh đã căn cứ mâu thuẫn bản nhất mâu thuẫn
dân tộc nên con đường cách mạng sản Việt Nam phải đi từ giải phóng dân tộc - giải
phóng hội - giải phóng giai cấp - giải phóng con người. Quan điểm mới, sáng tạo của
Hồ Chí Minh chính là: giải phóng dân tộc gắn với giải phóng giai cấp, trong đó giải
phóng dân tộc là trước hết, là tiền đề để giải phóng giai cấp.
13
Bên cạnh đó, ta còn thấy được sự sáng tạo trong tưởng Hồ Chí Minh thể hiện
việc Người đề cao việc độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa hội. độc lập dân tộc
để giải phóng dân tộc, nhưng nếu giải phóng dân tộc không giải phóng giai cấp thì
nhân dân lao động vẫn khổ, vẫn bị áp bức bóc lột. Chỉ khi nào chúng ta tiến lên xây dựng
chủ nghĩa hội, thực hiện công hữu về liệu sản xuất chủ yếu thì mới xóa bỏ tận gốc
áp bức bóc lột. Xây dựng nhà nước “của dân, do dân, dân” thì mới đảm bảo địa vị
vững chắc cho nhân dân. Nhân dân là chủ, làm chủ đất nước thì họ mới cuộc sống ấm
no, hạnh phúc.
2. Cách mạng giải phóng dân tộc, trong điều kiện của Việt Nam, muốn
thắng lợi phải do Đảng cộng sản lãnh đạo
Về tầm quan trọng của tổ chức đảng đối với cách mạng, chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ
rõ: Đảng Cộng sản nhân tố chủ quan để giai cấp công nhân hoàn thành sứ mệnh lịch sử
của mình. Giai cấp công nhân phải tổ chức ra chính đảng, đảng đó phải thuyết phục, giác
ngộ tập hợp đông đảo quần chúng, huấn luyện quần chúng đưa quần chúng ra đấu
tranh. Hồ Chí Minh đã tiếp thu luận của chủ nghĩa Mác - Lênin rất chú trọng đến
việc thành lập Đảng Cộng sản, Người còn khẳng định vai trò to lớn của Đảng đối với
cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng sản. Đây một sáng tạo của
Hồ Chí Minh về luận cách mạng giải phóng dân tộc. Trong tác phẩm “Đường cách
mệnh” (1927), Người đặt vấn đề: Cách mệnh trước hết phải cái gì? Trước hết phải
đảng cách mệnh, để trong thì vận động tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với các
dân tộc bị áp bức sản giai cấp mọi nơi. Đảng vững cách mệnh mới thành công…
Đảng đó phải được xây dựng theo nguyên tắc đảng kiểu mới của V.I. Lênin, được
trang bằng chủ nghĩa Mác - Lênin. Nhiệm vụ lãnh đạo của Đảng Cộng sản là: Xác định
mục tiêu của cách mạng, xây dựng đường lối cách mạng giải phóng dân tộc; thông qua
cương lĩnh, tổ chức vận động, tập hợp các lực lượng cách mạng, xây dựng Mặt trận Dân
tộc thống nhất. Đối với cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản phải thực hiện đồng thời
14
hai nhiệm vụ: chống đế quốc và chống phong kiến, giành độc lập dân tộc, đem lại tự do
và hạnh phúc cho nhân dân.
Trong hoàn cảnh Việt Nam một nước thuộc địa - phong kiến, Hồ Chí Minh cho
rằng, Đảng Cộng sản vừa đội tiên phong của giai cấp công nhân vừa đội tiên phong
của nhân dân lao động, kiên quyết nhất, hăng hái nhất, trong sạch nhất, tận tâm tận lực
phụng sự Tổ quốc. Đó còn Đảng của cả dân tộc Việt Nam. Trong Báo cáo chính trị tại
Đại hội II của Đảng (1951), Người viết “Chính Đảng Lao động Việt Nam Đảng của
giai cấp công nhân nhân dân lao động, cho nên phải Đảng của dân tộc Việt
Nam”. Năm 1961, khi nhân dân miền Bắc đang thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất,
Hồ Chí Minh một lần nữa khẳng định: “Đảng ta Đảng của giai cấp, đồng thời cũng
của dân tộc, không thiên tư, thiên vị”.
Đây một luận điểm quan trọng của Hồ Chí Minh ý nghĩa bổ sung, phát triển
luận mácxít về đảng cộng sản. Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh rằng, sự
lãnh đạo đúng đắn sáng suốt của Đảng nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của
cách mạng Việt Nam. Đồng thời, chính trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng đã
được tôi luyện, thử thách không ngừng trưởng thành, dày dạn kinh nghiệm để ngày
càng xứng đáng với vai trò sứ mệnh lãnh đạo cách mạng, xứng đáng với sự tin cậy của
nhân dân; qua đó, khẳng định một chân lý: “ở Việt Nam không một lực lượng chính trị
nào khác, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam đủ bản lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín
khả năng lãnh đạo đất ớc vượt qua mọi khó khăn, thử thách cam go để đưa dân tộc
đến bến bờ vinh quang, hạnh phúc”.
3. Cách mạng giải phóng dân tộc phải dựa trên lực lượng đại đoàn kết
toàn dân tộc, lấy liên minh công nông làm nền tảng
Sinh thời, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Cách mạng giải phóng dân tộc sự nghiệp đoàn
kết toàn dân, trên sở liên minh công nông làm nòng cốt”. Vậy đại đoàn kết toàn dân
tộc là gì?
15
Đại đoàn kết toàn dân tộc di sản giá, truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc
Việt Nam được hun đúc qua hàng ngàn năm dựng nước giữ nước. Tinh thần yêu nước,
trọng nhân nghĩa, khoan dung, sự cố kết, đùm bọc yêu thương nhau đã thấm sâu vào
tưởng, tình cảm, tâm hồn mỗi người dân, trở thành lẽ sống, chất kết dính gắn bó c
thành viên trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Lịch sử mấy ngàn năm tồn tại phát
triển của dân tộc ta đã chứng minh truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc trong bất kỳ
hoàn cảnh nào cũng đều kết thành sức mạnh địch, đưa Việt Nam vượt qua mọi khó
khăn, thách thức, giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác, lập nên những kỳ tích vẻ
vang. Nhờ tinh thần đoàn kết, nhân dân ta đã vượt qua mọi gian lao, thử thách, đánh
thắng mọi kẻ thù xâm ợc, giữ vững non sông bờ i, viết nên những trang sử vàng hào
hùng của dân tộc.
Theo tưởng Hồ Chí Minh, đại đoàn kết toàn dân tộc chiến lược lâu dài, nhất
quán xuyên suốt cách mạng Việt Nam; đại đoàn kết dân tộc một mục tiêu, nhiệm vụ
hàng đầu cách mạng Việt Nam. Người cho rằng: Muốn giải phóng các dân tộc bị áp bức
và nhân dân lao động phải tự mình cứu lấy mình bằng cách mạng sản. Trong từng thời
kỳ, từng giai đoạn ch mạng, thể cần thiết phải điều chỉnh chính sách phương
pháp tập hợp lực lượng cho phù hợp với những đối tượng khác nhau, nhưng đại đoàn kết
dân tộc luôn luôn được Người coi là vấn đề sống còn của cách mạng.
Hồ Chí Minh khẳng định “Cách mạng giải phóng dân tộc sự nghiệp đoàn kết
toàn dân”. Dựa vào cả mặt luận cả về mặt thực tiễn, Về mặt thực tiễn Người đã kế
thừa tưởng “trọng dân”, “thân dâncủa ông cha ta; Về mặt luận Người cũng đã kế
thừa tư tưởng các nhà lý luận kinh điển Mác - Lênin.
tưởng “Thân dân" đã được hình thành từ các triều đại phong kiến, tiêu biểu
nhất tưởng của Trần Hưng Đạo Nguyễn Trãi - những bậc danh nhân đại tài của
dân tộc. Trần Hưng Đạo đã thể hiện tưởng này qua câu nói của ông vào tháng 6 năm
1300, khi ông bị ốm. Vua ngự tới nhà thăm, hỏi rằng: "Nếu có điều chẳng may, giặc
16
phương Bắc lại sang xâm lược thì kế sách như thế nào?" Hưng Đạo Vương trả lời: "Ngày
xưa Triệu Đế (tức Triệu Đà) dựng nước, vua nhà Hán cho quân đánh, nhân dân làm
kế thanh dã, đại quân ra Khâm Châu, Liêm Châu đánh vào Trường Sa, Hồ Nam, còn
đoàn binh thì đánh úp phía sau. Đó một thời. Đời nhà Đinh, nhà Tiền dùng người
tài giỏi, đất phương nam mới mạnh phương bắc thì mệt mỏi suy yếu, trên dưới một
dạ, lòng dân không lìa, xây thành Bình Lỗ phá được quân Tống. Đó lại một thời.
Vua nhà mở nền, nhà Tống xâm phạm địa giới, dùng Thường Kiệt đánh Khâm,
Liêm, đến tận Mai Lĩnh thế. Vừa rồi Toa Đô, Ô Nhi bốn mặt bao vây. vua
tôi đồng tâm, anh em hòa mục, cả nước góp sức, giặc phải bị bắt. Đó trời xui nên vậy.
Đại khái, cậy trường trận, ta dựa vào đoàn binh. Dùng đoản binh chế trường trận
sự thường của binh pháp. Nếu chỉ thấy quân kéo đến như lửa, như gió thì thể dễ chế
ngự. Nếu tiến chậm như các tằm ăn, không cầu thắng chóng, thì phải chọn dùng ớng
giỏi, xem xét quyền biến, như đánh cờ vây, tùy thời tạo thế, được đội quân một lòng
như cha con thì mới dùng được. Vả lại, khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó
là thượng sách giữ nước vậy." Ông đã biết coi trọng sức mạnh của nhân dân, dựa vào dân
để đánh giặc giữ nước, đây một tưởng hết sức tiến bộ thời đại đó rất ít người
có thể nhận ra vì các triều đại phong kiến xưa kia chỉ coi dân là cỏ dại, gọi là: “thảo dân”.
tưởng “Thân dân" còn được Nguyễn Trãi thể hiện nét hơn nữa qua tưởng
nhân nghĩa của mình. tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi một triết sâu sắc, cốt
lõi, bao trùm toàn bộ cuộc đời ông. Theo đó, tưởng nhân nghĩa trong quan điểm của
Nguyễn Trãi, trước hết được gắn chặt với tưởng dân an dân: “việc nhân nghĩa cốt
ở yên dân”, “dùng quân nhân nghĩa cứu dân khổ, đánh kẻ tội”, “đại đức hiếu sinh, thần
bất sát, đem quân nhân nghĩa đi đánh dẹp cốt để an dân”. Như vậy, nhân nghĩa chính
yêu nước, thương dân, đánh giặc cứu nước, cứu dân. Nguyễn Trãi đã coi “an dân”
mục đích của nhân nghĩa “trừ bạo” đối tượng, phương tiện của nhân nghĩa. Như
vậy, với Nguyễn Trãi, tưởng nhân nghĩa gắn kết biện chứng với tưởng thân dân, an
dân một yêu cầu cao, một hoài bão lớn, một đối tượng, phương tiện của đích chiến
lược cần phải đạt tới. tưởng an dân, Nguyễn Trãi đưa ra một chân lý, đó là: phải
17
giương cao ngọn cờ “nhân nghĩa, an dân”, phải cố kết lòng dân làm sức mạnh của nước,
làm thế nước. Ông chủ trương cứu nước bằng sức mạnh của dân, muốn lấy lại được nước
phải biết lấy sức dân kháng chiến. Đó một chiến lược bất khả biến, tính trường
tồn, một quy luật dựng nước giữ nước của dân tộc Việt Nam. một khía cạnh rất
đáng quý trong tưởng về dân của Nguyễn Trãi, đó tưởng trọng dân, biết ơn dân.
“Dân chúng” vẫn luôn được ông nhắc tới chú ý đề cao ngay cả sau khi kháng chiến đã
thành công, đất nước đã giành được độc lập bước vào xây dựng cuộc sống mới.
Nguyễn Trãi nhận thức được rằng lực lượng làm ra thóc gạo, cơm ăn, áo mặc nhân
dân; rằng điện ngọc cung vàng của vua chúa cũng đều do mồ hôi nước mắt của nhân dân
có: “thường nghĩ quy lớn lao, lộng lẫy đều sức lao khổ của quân dân”. Chính
xuất phát từ suy nghĩ như vậy, nên khi đã làm quan trong triều đình, được hưởng lộc của
vua ban, Nguyễn Trãi đã nghĩ ngay đến nhân dân, những người dãi nắng dầm mưa,
những người lao động cực nhọc. Ông viết: “Ăn lộc đền ơn kẻ cấy cày”. Trong suốt cuộc
đời của mình, Nguyễn Trãi đã cuộc sống gần gũi, gắn với nhân dân, hoà mình vào
nhân dân. Do đó, ông đã nhận thấy rất những đức tính cao quý của nhân dân, hiểu
được nguyện vọng tha thiết của nhân dân, thấy được sức mạnh đại của nhân dân
trong sáng tạo lịch sử.
Hồ Chí Minh đã sớm hấp th nhận thức được vai trò của truyền thống yêu nước
- nhân nghĩa - đoàn kết của dân tộc. Người khẳng định: "Dân ta một lòng nồng nàn
yêu nước. Đó một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị
xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, kết thành một làn sóng cùng mạnh mẽ, to lớn,
lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nhấn chìm tất cả bán nước cướp
nước". Chủ nghĩa yêu nước, truyền thống đoàn kết, cộng đồng của dân tộc Việt Nam
cơ sở đầu tiên, sâu xa cho sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.
Các nhà luận kinh điển Mác Lênin cũng khẳng định rằng: cách mạng sự
nghiệp của quần chúng nhân dân; quần chúng nhân dân sự sáng tạo ra lịch sử. V.I.
Lênin viết: “Không sự đồng tình ủng hộ của đại đa số nhân dân lao động đối với đội
tiên phong của mình, tức với giai cấp sản, thi cách mạng sản không thể thực hiện
18
được”. Kế thừa tưởng của ông cha ta các nhà luận nói trên Hồ Chí Minh quan
niệm rằng: dân tất cả, trên đời này không quý bằng dân, được lòng dân được
tất cả, mất lòng dân thì mất tất cả. Người khẳng định “cách mệnh việc chung của cả
dân chúng chứ không phải việc một hai người”. Người giải rằng: “dân tộc cách mệnh
thì chưa phân giai cấp, nghĩa sĩ, nông, công, thương đều nhất trí chống lại cường
quyền”. Vậy nên phải tập hợp và đoàn kết toàn dân thì cách mạng mới thành công.
Trong Sách lược vắn tắt của Đảng, Hồ Chí Minh cũng xác định lực lượng cách
mạng bao gồm toàn dân: Đảng phải thu phục đại bộ phân giai cấp công nhân, tập hợp đại
bộ phận dân cày phải dựa vào dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng, liên lạc với tiểu
tư sản, trí thức, trung nông… để lôi kéo họ về phía sản giai cấp; còn đối với phú nông,
trung, tiểu địa chủ sản Việt Nam chưa mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng,
ít ra cũng làm cho họ trung lập. Lực lượng ra mặt phản cách mạng như Đảng lập hiến thì
chúng ta phải đánh đổ.
Khi thực dân Pháp tiến hành xâm lược Việt Nam lần thứ hai, Hồ Chí Minh thiết
tha kêu gọi mọi người không phân biệt giai tầng, dân tộc, tôn giáo, đảng phái… đoàn kết
đấu tranh chống kẻ thù chung của dân tộc. Trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến
(tháng 12/1946), Người viết: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không
chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân
Pháp để cứu Tổ quốc” “Ai súng dùng súng. Ai gươm dùng gươm, không
gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc”.
Trong khi xác định lực lượng cách mạng toàn dân, Hồ Chí Minh lưu ý rằng, không
được quên “công nông người chủ cách mệnh… gốc cách mệnh”. Giai cấp công
nhân xuất thân từ nông dân, vị trí trung tâm trong hội bởi giai cấp đại diện cho
phương thức sản xuất tiến bộ nhất, giai cấp sứ mệnh lịch sử thông qua Đảng của
mình lãnh đạo cách mạng toàn hội. Song để hoàn thành được sứ mệnh đó, giai cấp
công nhân cần lôi cuốn, tập hợp các giai cấp, tầng lớp nhân dân lao động cả dân tộc
đứng lên làm cách mạng. Còn giai cấp nông dân Việt Nam lực lượng đông đảo nhất
19
trong hội, được Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định “đồng minh chắc chắn nhất của
giai cấp công nhân” “quân chủ lực của cách mạng”. Người chỉ rõ: Giai cấp nông
dân, trong đó bần nông trung nông đội quân chủ lực của kháng chiến của cách
mạng dân chủ mới. nông thôn, bần nông lớp người đông nhất nghèo khổ nhất. Họ
bị địa chủ phong kiến bóc lột tàn tệ. Bần nông hăng hái kháng chiến, hăng hái cách mạng
rất mong muốn thực hiện chính sách dân cày ruộng. vậy, họ đồng minh chắc
chắn nhất của giai cấp công nhân. Trung nông lớp người mình cày ruộng của mình,
cũng không phải làm thuê cho ai. Họ cũng bị địa chủ, bọn cho vay nặng lãi bọn đế
quốc áp bức bóc lột. Thực hiện chính sách “dân cày ruộng” thì họ cũng lợi. Cho
nên họ cũng hăng hái kháng chiến, hăng hái cách mạng. vậy, họ đồng minh chắc
chắn của giai cấp công nhân. Trong tác phẩm Đường cách mệnh, Người giải thích: giai
cấp công nhân nông dân hai giai cấp đông đảo cách mạng nhất, bị bóc lột nặng
nề nhất, thế “lòng cách mệnh càng bền, chí cách mệnh càng quyết… công nông tay
không chân rồi, nếu thua thì chỉ mất một cái kiếp khổ, nếu được thì cả thế giới, cho nên
họ gan góc”.
Tóm lại, lực lượng góp thành sức mạnh của đại đoàn kết dân tộc toàn dân, trong
đó lấy liên minh công - nông làm nền tảng được tập hợp trong một Mặt trận thống nhất
đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Thực tiễn đã trả lời chỉ trên sở tuân thủ nguyên tắc
này, đại đoàn kết dân tộc mới có sức sống bền vững và trường tồn.
4. Cách mạng giải phóng n tộc cần chủ động, sáng tạo, khả năng
giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc
Đây cũng chính luận điểm độc đáo, sáng tạo nhất, luận điểm mang giá trị
luận và giá trị thực tiễn to lớn.
Trước hết, cần phải phân biệt giữa cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa
và cuộc cách mạng vô sản ở chính quốc.
20
Cuộc cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa được hiểu cuộc đấu tranh đòi
quyền độc lập dân tộc bảo vệ độc lập dân tộc của các nước thuộc địa khi bị các nước
bản xâm chiếm vào thế kỷ XX, chủ yếu từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai năm 1945.
Hầu hết, sau cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai, đa số các nước kém phát triển trong đó
Việt Nam thuộc địa của các nước giàu có. Sự tàn bạo, độc ác của những nước này
trong giai đoạn đó khiến cho cuộc sống của nhân dân cùng cực, chúng bóc lột sức
lao động, tài nguyên, gây ra mâu thuẫn gay gắt giữa người dân thuộc địa chính phủ
chính quốc. thế, trong giai đoạn này đã xuất hiện các phong trào đòi quyền độc lập dân
tộc (trở thành nước độc lập, tự do, không bị nước khác áp đặt quyền cai trị), nhưng đa số
bị dập tắt do nhiều nguyên nhân khác nhau. Giải phóng dân tộc chính tiền đề để xây
dựng chủ nghĩa hội mục đích cuối cùng của giải phóng dân tộc chính con
người, giải phóng con người. Từ lâu, Bác Hồ đã nêu cao quan điểm sự nghiệp giải phóng
dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người không thể bị một thế lực nào ngăn cản
được. Để giải phóng được con người, giải phóng giai cấp thì lựa chọn giải phóng dân tộc
đầu tiên điều kiện cho các mục tiêu tiếp theo. Ðộc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
hội mới bảo đảm mọi quyền và đem lại hạnh phúc cho con người.
Còn cách mạng sản chính quốc một cuộc cách mạng hội trong đó giai
cấp công nhân cố gắng lật đổ giai cấp sản. Các cuộc cách mạng sản nói chung được
những người theo chủ nghĩa hội, chủ nghĩa cộng sản hầu hết những người chính
phủ ủng hộ. Các nhà luận Mácxít tin rằng các cuộc cách mạng sản thể sẽ xảy ra
ở tất cả các nước tư bản, liên quan đến khái niệm cách mạng thế giới.
Từ việc phân tích cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa cách mạng
sản chính quốc, ta thấy hai cuộc cách mạng những nét tương đồng nhiều
điểm khác biệt.
Về nét tương đồng, hai cuộc cách mạng đều nguồn gốc từ sản Pháp đều
mang tính chất, mục đích chính đập tan ách thống trị của các đế quốc bản, các nước
thuộc địa để thoát khỏi ách đô hộ và bóc lột tàn ác của các nước thống trị.
21
Về điểm khác biệt:
Cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa cuộc cách mạng tất yếu. Hồ Chí
Minh đã chỉ ra rằng nhân dân thuộc địa đang tiềm ẩn một sức mạnh to lớn cách mạng
giải phóng dân tộc sự nghiệp thiết thân của họ, họ phải đứng lên tự giải phóng
không thể dựa vào sự cầu viện của bất cứ ai. Nếu được thức tỉnh thì nhân dân thuộc địa sẽ
là một lực lượng khổng lồ thể làm lên sự nghiệp cách mạng. Lực ợng của cách mạng
giải phóng dân tộc sức mạnh của toàn dân tộc. Cách mạng sự nghiệp của dân chúng
bị áp bức, bao gồm lực lượng của cả dân tộc. Trong lực lượng toàn dân tộc, Hồ Chí Minh
hết sức nhấn mạnh vai trò động lực cách mạng của công nhân nông dân, lực ợng
nòng cốt trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Mục tiêu cấp thiết của cách mạng thuộc
địa chưa phải giành quyền lợi riêng biệt của mỗi giai cấp quyền lợi chung của
toàn dân tộc. Đó những mục tiêu của chiến lược đấu tranh dân tộc, phù hợp với xu thế
của thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc, đáp ứng nguyện vọng
độc lập, tự do của quần chúng nhân dân.
Bên cạnh đó, cách mạng sản chính quốc: phân nhánh Lênin của chủ nghĩa
Mác cho rằng một cuộc cách mạng sản phải được dẫn dắt bởi một đội tiên phong của
"những người làm cách mạng chuyên nghiệp", gồm những nam giới phụ nữ toàn tâm
toàn ý theo chủ nghĩa cộng sản trở thành hạt nhân của phong trào cách mạng cộng sản.
Đội tiên phong này sẽ lãnh đạo tổ chức cho giai cấp công nhân trước trong cuộc
cách mạng, nhằm mục đích ngăn chặn chính phủ cản trở cách mạng thành công. Những
người theo chủ nghĩa Mác khác như Rosa Luxemburg không đồng ý với ý tưởng của
những người theo chủ nghĩa Lênin về một đội tiên phong khăng khăng rằng toàn bộ
giai cấp công nhân, hoặc ít nhất một phần lớn của phải tham gia sâu sắc cam kết
cho sự nghiệp hội chủ nghĩa thì cuộc cách mạng sản mới thể thành công. Để đạt
tới mục đích này, họ tìm cách xây dựng các phong trào của tầng lớp lao động với số
lượng thành viên rất lớn. Quan điểm của họ cuộc ch mạng phải một cuộc cách
mạng hội từ dưới lên, tìm cách biến đổi tất cả các khía cạnh của hội các nhân
tạo nên hội. Một số cuộc cách mạng chỉ thay đổi hình thức chính phủ bằng cách đưa
22
một bộ cai trị mới thay thế cho cái cũ. Đây những cuộc cách mạng chính trị, thế
chúng thường gặp rất ít kháng cự. Nhưng một cuộc cách mạng nhằm xóa bỏ toàn bộ hệ
thống lệ tiền lương cũng phải loại bquyền lực của một giai cấp chuyên đàn áp giai
cấp khác. Nghĩa là, cuộc cách mạng đó không chỉ một sự thay đổi đơn thuần của những
người cai trị, của chính phủ, không phải một cuộc cách mạng chính trị, một cuộc
cách mạng tìm cách thay đổi toàn bộ tính cách của hội. Đó sẽ một cuộc cách mạng
“xã hội”. Cách mạng sản chính quốc với mục đích lật đổ các giai cấp sản các
nước đế quốc tại thuộc địa. Để đạt được mục đích chính giành được độc lập cho các
nước thuộc địa khỏi sự thống trị của các nước đế quốc.
Xét quan điểm của Quốc tế cộng sản về cách mạng thuộc địa cách mạng
sản ở chính quốc:
Thứ nhất, Quốc tế cộng sản chưa quan tâm đến cách mạng thuộc địa. Thứ hai,
Quốc tế cộng sản cho rằng cách mạng thuộc địa phụ thuộc hoàn toàn vào cách mạng
sản chính quốc. thể thấy, Quốc tế cộng sản xem nhẹ vai trò của cách mạng giải
phóng dân tộc thuộc địa. Điều đó được thể hiện ngay trong tuyên ngôn thành lập Quốc tế
cộng sản tháng 3/1919: “Việc giải phóng các thuộc địa chỉ thể tiến hành với việc giải
phóng giai cấp công nhân chính quốc...” “công nhân nông dân không chỉ
Angiêri, Bănggan, cả Ba hay Ácmêni chỉ thể được độc lập khi nào công nhân
Anh Pháp lật đổ chính phủ “Lôigioóc” Clêmăngxô” giành chính quyền về tay
mình”. Quốc tế cộng sản khẳng định mối quan hệ biện chứng, chặt chẽ giữa vấn đề dân
tộc vấn đề giai cấp. Song, trong mối quan hệ đó, nhiệm vụ cấp bách hàng đầu của giai
cấp công nhân phải tiến hành cuộc cách mạng lật đổ giai cấp sản, giành lấy chính
quyền và sau khi lên nắm chính quyền thì sẽ trao trả độc lập cho các nước thuộc địa, hoặc
tạo điều kiện cho phong trào ch mạng các nước thuộc địa giành thắng lợi. Tức
khẳng định cách mạng sản chính quốc vai trò quyết định đến thắng lợi của cách
mạng giải phóng dân tộc thuộc địa. Quan điểm này đã làm giảm đi tính chủ động sáng
tạo trong phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc các nước thuộc địa trong công cuộc
đấu tranh chống thực dân đế quốc, giành độc lập dân tộc.
23
Trong khi Quốc tế Cộng sản đánh giá thấp vị trí, vai trò của cách mạng giải
phóng thuộc địa trong mối quan hệ với cách mạng sản chính quốc thì Hồ Chí
Minh lại đưa ra những quan điểm khác với quan điểm của Quốc tế Cộng sản.
Thứ nhất, đây hai cuộc ch mạng bình đẳng, không hề phụ thuộc. Trong tác
phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Chủ nghĩa bản
một con đỉa một cái vòi bám vào giai cấp sản chính quốc một cái vòi khác
bám vào giai cấp sản thuộc địa. Nếu muốn giết con vật ấy, người ta phải đồng thời
cắt cả hai vòi. Nếu người ta chỉ cắt một vòi thôi, thì cái vòi còn lại kia vẫn tiếp tục hút
máu của giai cấp sản, con vật vẫn tiếp tục hút sống cái i bị cắt đứt sẽ lại mọc
ra”. Người chỉ rõ: Chủ nghĩa đế quốc một con đỉa hai vòi, một vòi bám vào chính
quốc, một vòi bám vào thuộc địa. Muốn đánh bại chủ nghĩa đế quốc, phải đồng thời cắt
cả hai cái vòi của đi, tức phải kết hợp cách mạng sản chính quốc với cách
mạng giải phóng dân tộc thuộc địa; phải xem cách mạng thuộc địa như "một trong
những cái cánh của cách mạng sản". Người khẳng định: “…vận mệnh của giai cấp
sản thế giới và đặc biệt vận mệnh của giai cấp sản các nước đi xâm lược thuộc địa
gắn chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp bức các thuộc địa… nọc độc sức sống của
con rắn độc bản chủ nghĩa đang tập trung các thuộc địa…”, nếu khinh thường
cách mạng ở thuộc địa tức là “…muốn đánh chết rắn đằng đuôi”.
Thứ hai, hai cuộc cách mạng ấy không những bình đẳng Cách mạng giải
phóng dân tộc thuộc địa còn khả năng giành thắng lợi trước cách mạng sản
chính quốc. Nhờ việc phân tích sâu sắc thực tiễn của các dân tộc thuộc địa, nhận thấy vai
trò, vị trí chiến lược của các thuộc địa đối với các ớc chính quốc, Hồ Chí Minh cho
rằng: “An Nam dân tộc cách mạng thành công thì bản Pháp yếu, bản Pháp yếu thì
công nông Pháp làm giai cấp cách mệnh cũng dễ”. Ngay từ năm 1921, trên Tạp chí Cộng
sản số 15, thấy vai trò to lớn của cách mạng giải phóng dân tộc đối với cách mạng
chính quốc, thậm chí thể thành công trước giúp đỡ cho thắng lợi của cách mạng
sản chính quốc, Người viết: “Ngày hàng trăm triệu nhân dân châu Á bị tàn sát
áp bức thức tỉnh để gạt bỏ sự bóc lột đê tiện của một bọn thực dân lòng tham không đáy,
24
họ sẽ hình thành một lực lượng khổng lồ, trong khi thủ tiêu một trong những điều kiện
tồn tại của chủ nghĩa bản chủ nghĩa đế quốc, họ thể giúp đỡ những người anh em
mình phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn”. Như vậy, từ những nghiên
cứu về chủ nghĩa thực dân phong trào đấu tranh thuộc địa, Hồ Chí Minh đã đưa ra
dự đoán mang tính then chốt: cách mạng thuộc địa thể thành công trước cách mạng
chính quốc, cách mạng Việt Nam thể thành công trước cách mạng Pháp. Đồng chí
Phạm Văn Đồng nhận định: “Luận điểm của Hồ Chí Minh mới mẻ đến kỳ lạ... nằm
trong ng sáng tạo cách mạng của những con người cống hiến luận sự nghiệp
đấu tranh vạch đường cho thời đại”.
Hồ Chí Minh đã dựa vào hai sở để đưa ra luận điểm sáng tạo “Cách mạng
giải phóng dân tộc cần chủ động, sáng tạo, khả năng giành chiến thắng trước
cách mạng vô sản ở chính quốc”:
Thứ nhất, thuộc địa vị trí, vai trò quan trọng với sự tồn tại phát triển của chủ
nghĩa đế quốc. Thuộc địa nơi duy trì sự tồn tại phát triển, món mồi “béo bở” cho chủ
nghĩa đế quốc. Thuộc địa thị trường tiêu thụ hàng hóa, thuộc địa cung cấp tài nguyên
khoáng sản nơi nguồn nhân công rẻ mạt. Tại Đại hội V Quốc tế Cộng sản, trong
Phiên họp thứ Tám, ngày 23-6-1924, Hồ Chí Minh đã phát biểu để “thức tỉnh…về vấn đề
thuộc địa”. Người cho rằng: nọc độc sức sống của con rắn độc bản chủ nghĩa
đang tập trung các thuộc địa hơn chính quốc”; nếu thờ ơ về vấn đề cách mạng
thuộc địa thì như “đánh chết rắn đằng đuôi”. Cho nên, cách mạng thuộc địa vai trò
rất lớn trong việc cùng với cách mạng sản chính quốc tiêu diệt chủ nghĩa đế quốc.
Theo Hồ Chí Minh, cách mạng giải phóng dân tộc các nước thuộc địa sức bật thuận
lợi vì: Chính sách khai thác, bóc lột thuộc địa hết sức tàn bạo man của chủ nghĩa đế
quốc nhiều nơi đã đẩy nhân dân thuộc địa vào khó khăn, túng quẫn. Trong cuộc khai
thác này, chúng đã chiếm hàng ngàn, hàng vạn hecta đất để lập các đồn điền trồng lúa,
trồng phê, chè hay cao su; tập trung và khai thác mỏ để vét nguồn khoáng sản giàu
Việt Nam, đặc biệt các mỏ than đá, thiếc, kẽm Hòn Gai, Thái Nguyên, Tuyên
Quang… Tất cả khoáng sản chúng vét được đều được đưa về Pháp. Đồng thời,
25
chúng còn tận dụng nguồn nhân công lao động rẻ mạt tại Việt Nam để tiến vào các hầm
mỏ làm việc cho chúng; tiến hành cho xây dựng nhiều sở phục vụ đời sống của chúng
tại Việt Nam như: điện, nước, bưu điện, hay sở sản xuất xi măng, dệt nhằm tận dụng
nhân công nguồn nguyên liệu tại chỗ phục vụ cho nhu cầu thiết yếu của chúng khi
hàng hóa chính quốc chưa kịp chuyển sang. Do đó, một số ngành nghề thủ công tại Việt
Nam đã bị mai một như dệt, gốm, do không đủ điều kiện để sản xuất. Quá đáng
hơn, để nhằm mục đích bóc lột kinh tế, thu nhiều lợi nhuận, bọn thực dân ra sức vét,
bóc lột nhân dân ta bằng hình thức cổ truyền đó thuế, đặc biệt thuế thân, thuế rượu,
thuế muối, thuốc phiện cùng man rợ. Điều đó đã làm cho lòng căm thù, tức giận chủ
nghĩa đế quốc bản trong nhân dân thuộc địa cùng sâu sắc. vậy rất cần một
cuộc cách mạng để giải phóng nhân dân thuộc địa. Nhân dân thuộc địa sẵn sàng vùng lên
đấu tranh nếu có sự chỉ đạo, dẫn dắt.
Thứ hai, tinh thần đấu tranh cách mạng hết sức quyết liệt của các dân tộc thuộc
địa, mà theo Hồ Chí Minh sẽ bùng lên mạnh mẽ, hình thành một “lực lượng khổng lồ”
khi được tập hợp, hướng dẫn giác ngộ cách mạng. Căn cứ vào luận điểm của C. Mác
về khả năng tự giải phóng của giai cấp công nhân, trong Tuyên ngôn của Hội liên hiệp
thuộc địa, khi kêu gọi các dân tộc thuộc địa đứng lên đấu tranh giành quyền độc lập dân
tộc, Người viết: “Hỡi anh em các thuộc địa…Anh em phải làm thế o để được giải
phóng? Vận dụng công thức của C. Mác, chúng tôi xin nói với anh em rằng, công cuộc
giải phóng anh em chỉ thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em”. Cuộc
đấu tranh của các lực lượng dân chủ yêu nước được đẩy mạnh nhiều quốc gia.
Chẳng hạn: các cuộc đấu tranh của quần chúng Chi đã lật đổ chính phủ độc tài Mỹ
của Emaniét. Phong trào quần chúng tiếp diễn đòi thiết lập chế độ cai trị theo hiến pháp,
chống lại ảnh hưởng của các độc quyền Mtrong nước, đòi giải quyết nạn thất nghiệp
và khắc phục tình trạng sinh hoạt đắt đỏ. Trong những năm 1935 - 1939, nhiều nước
latinh, mặt trận nhân dân đã được thành lập, tập hợp đông đảo lực lượng nhân dân trong
nước: công nhân, nông dân, tiểu sản, trí thức tiến bộ một bộ phận giai cấp sản
dân tộc.
26
Luận điểm “Cách mạng giải phóng dân tộc cần chủ động, sáng tạo, khả
năng giành thắng lợi trước cách mạng sản chính quốc” mang giá trị luận sâu
sắc và giá trị thực tiễn to lớn.
Về giá trị luận, thể thấy đây một cống hiến cùng quan trọng vào kho
tàng luận MácLênin. Nền kinh tế hàng hóa phát triển mạnh, chủ nghĩa bản chuyển
sang giai đoạn độc quyền. Các nước thuộc địa trở thành nơi nuôi dưỡng chủ nghĩa đế
quốc. Từ đó các cuộc chiến tranh xâm lược thuộc địa nổ ra. Trong các cuộc đấu tranh
chống chủ nghĩa đế quốc ấy, cách mạng giải phóng thuộc địa tầm quan trọng đặc biệt.
thế “Cách mạng giải phóng dân tộc cần chủ động, sáng tạo, khả năng giành
chiến thắng trước cách mạng sản chính quốc” đã được chứng minh hoàn toàn
đúng đắn qua thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Về giá trị thực tiễn, luận điểm sáng tạo này ý nghĩa thực tiễn rất lớn. Trước hết
giúp cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam không thụ động, nại chờ sự giúp đỡ
từ bên ngoài luôn phát huy tính độc lập tự chủ, tự lực, tự cường. Bên cạnh đó còn góp
phần định hướng cho phong trào giải phóng dân tộc các nước khác trên thế giới trong
thời kỳ bấy giờ. Trong công cuộc đổi mới hiện nay, vận dụng tưởng Hồ Chí Minh về
vấn đề dân tộc cách mạng giải phóng dân tộc: kiên định con đường độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa hội; tăng cường, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân trên sở
“đem tài dân, sức dân để làm lợi cho dân”; chủ động tích cực hội nhập quốc tế trên
sở bình đẳng, cùng lợi; kết hợp phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để
xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
5. Cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng phương pháp
bạo lực cách mạng
Về mặt logic cũng như lịch sử, các giai cấp phản động thống trị không bao giờ tự
nguyện rời bỏ chính quyền nếu không sự cưỡng bức bằng bạo lực, một chính quyền
mới cũng sẽ không tồn tại nếu không đủ sức mạnh bạo lực để tự bảo vệ mình. thế
27
để giành giữ được chính quyền thì không thể thiếu bạo lực cách mạng. Trong bộ
bản, quyển I, tập thứ nhất, xuất bản lần đầu tiên năm 1867, C. Mác viết: “Bạo lực
đỡ của một chế độ hội đang thai nghén một chế độ mới”. Năm 1878, trong c
phẩm Chống Đuyrinh, Ph. Ăngghen nhắc lại: “Bạo lực còn đóng vai trò khác trong lịch
sử, vai trò cách mạng; nói theo Mác, bạo lực còn đỡ cho mọi hội đang thai
nghén một hội mới; bạo lực công cụ sự vận động hội dùng để tự mở đường
cho mình đập tan những hình thức chính trị đã hóa đá chết cứng”. Trên sở tiếp
thu quan điểm của C. Mác Ph. Ăngghen, với kinh nghiệm Cách mạng Tháng Mười
Nga cách mạng thế giới, V.I. Lênin khẳng định tính tất yếu của bạo lực cách mạng,
làm sáng tỏ hơn vấn đề bạo lực cách mạng trong học thuyết về cách mạng sản: không
bạo lực cách mạng thì không thể thay thế nhà nước tư sản bằng nhà nước vô sản được.
Dựa trên sở quan điểm về bạo lực cách mạng của các nhà kinh điển của chủ
nghĩa Mác lênin, Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo phù hợp với thực tiễn cách mạng
Việt Nam.
Dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng, Hồ Chí Minh đã
thấy rõ sự thiết phải sử dụng bạo lực cách mạng. Người viết: “Trong cuộc đấu tranh gian
khổ chống kẻ thù của giai cấp dân tộc, cần dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực
phản cách mạng, giành lấy chính quyền bảo vệ chính quyền”. Tất yếu vậy, ngay
như hành động mang quân đi xâm lược của thực dân, đế quốc đối với các nước thuộc địa
phụ thuộc, Người vạch rõ: “Chế độ thực dân, tự bản thân nó, đã một hành động
bạo lực của kẻ mạnh đối với kẻ yếu rồi”.
Sau khi xâm chiếm các nước thuộc địa, bọn thực dân đế quốc đã thực hiện chế độ
cai trị cùng tàn bạo: dùng bạo lực để đàn áp man các phong trào yêu nước, thtiêu
mọi quyền tự do dân chủ của nhân dân, bóc lột đẩy người dân thuộc địa vào bước
đường cùng. vậy, muốn đánh đổ thực dân-phong kiến giành độc lập dân tộc thì tất yếu
phải sử dụng phương pháp bạo lực cách mạng, dung bạo lực cách mạng để chống lại bạo
lực phản cách mạng của kẻ thù.
28
Về hình thức bạo lực cách mạng theo Hồ Chí Minh, bạo lực cách mạng đây
bạo lực của quần chúng, được thực hiện với hai lực lượng chính trị quân sự, hai hình
thức đấu tranh: đấu tranh chính trị đấu tranh trang; chính trị và đấu tranh chính trị
của quần chúng sở, nền tảng cho việc dựng lực lượng trang đấu tranh
trang; đấu tranh trang ý nghĩa quyết định đối với việc tiêu diệt lực lượng quân sự
âm mưu thôn tính của thực dân đế quốc, đi đến kết thúc chiến tranh. Việc xác định hình
thức đấu tranh phải căn cứ vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể áp dụng cho thích hợp, như
Người đã chỉ rõ: “Tùy tình hình cụ thể quyết định những hình thức đấu tranh cách
mạng thích hợp, sử dụng đúng khéo kết hợp các hình thức đấu tranh trang đấu
tranh chính trị để giành thắng lợi cho cách mạng”. Trong Cách mạng Tháng Tám năm
1945, với hình thức tổng khởi nghĩa của quần chúng nhân dân trong cả nước, chủ yếu dựa
vào lực lượng chính trị, kết hợp với lực lượng trang, nhân dân ta đã thắng lợi, gnh
chính quyền về tay nhân dân.
tưởng Hồ Chí Minh về bạo lực cách mạng mang tính cách mạng, nhân văn,
hoàn toàn không đối lập với lòng nhân ái, tinh thần yêu chuộng hoà bình, nhưng cũng
không ảo tưởng hoà bình, tay, mất cảnh giác trước những âm mưu, thủ đoạn xảo quyệt
của kẻ thù. tưởng này một bộ phận hợp thành nền tảng tưởng, đường lối quân sự
của Đảng ta, đã soi sáng con đường đi tới thắng lợi hoàn toàn, trọn vẹn của cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước. Ngày nay, tưởng về bạo lực cách mạng của Người vẫn giữ
nguyên giá trị. Thực tiễn không ngừng vận động phát triển, đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục
nghiên cứu, vận dụng sáng tạo tưởng của Người về bạo lực cách mạng cho phù hợp
nhằm bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng công cuộc xây dựng chủ nghĩa hội
hiện nay. Mặt khác, thực tiễn còn đòi hỏi chúng ta phải luôn chủ động, nhạy bén về chính
trị, cảnh giác cao đtrước những âm mưu thủ đoạn mới của kẻ thù, tăng cường xây dựng
sức mạnh của bạo lực cách mạng để thể chiến thắng kẻ thù trong bất kỳ tình huống
nào. Đồng thời, phải tích cực đấu tranh phê phán những nhận thức sai trái, lệch lạc, phủ
nhận hoặc mơ hồ về quan điểm bạo lực cách mạng trong tình hình mới.
29
KẾT LUẬN
Những luận điểm của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc một bộ
phận quan trọng của tưởng Hồ Chí Minh. Đây chính một tia sáng trong bối cảnh
khủng hoảng của con đường cứu nước thời bấy giờ. tưởng của Người đem đến một
góc nhìn mới, một góc nhìn đầy tính sáng tạo ý nghĩa to lớn đối với sự nghiệp cách
mạng Việt Nam ta. Người khẳng định: “Muốn cứu nước giải phóng dân tộc không
con đường nào khác con đường cách mạng sản”. Kết hợp với Chủ nghĩa Mác Lênin,
tưởng HCM đã trở thành “kim chỉ nam” cho sự nghiệp cách mạng của Đảng cộng sản
Việt Nam giành thắng lợi. Với sự tiến bộ của nhân loại, tưởng Hồ Chí Minh góp phần
mở ra con đường giải phóng cho các dân tộc thuộc địa; góp phần tích cực vào cuộc đấu
tranh vì độc lập dân tộc, dân chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển trên thế giới.
“Cách mạng giải phóng dân tộc cần chủ động, sáng tạo, khả năng giành thắng
lợi trước cách mạng sản chính quốc” luận điểm độc đáo nhất, ng tạo nhất của
Hồ Chí Minh. Quan điểm ấy đã giúp cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam trở nên
chủ động hơn định hướng cho phong trào giải phóng dân tộc các nước thuộc địa trên
thế giới.
Đối với Đảng Nhà nước, cần không ngừng kế thừa phát huy tưởng Hồ Chí
Minh để hoàn thành mục tiêu xây dựng tổ chức sở Đảng trong sạch, vững mạnh. Để
thực hiện được thì Đảng cần đẩy mạnh thi đua, tổ chức các chương trình bồi dưỡng,
nhằm nâng cao chất lượng Đảng viên, góp phần củng cố niềm tin của nhân dân đối với
Đảng. Còn với thế hệ trẻ Việt Nam nói chung sinh viên nói riêng, việc học tập
nghiên cứu tưởng Hồ Chí Minh vai trò cùng quan trọng trong việc hình thành
nhận thức nhân cách. Tiếp thu tưởng Hồ Chí Minh góp phần nâng cao năng lực
duy lý luận cho mỗi nhân; giáo dục định hướng thực hành đạo đức cách mạng, củng
cố niềm tin khoa học gắn liền với trau dồi tình cảm cách mạng, bồi dưỡng lòng yêu nước.
Học tập làm theo tưởng Hồ Chí Minh giúp mỗi người rèn luyện được phương pháp,
tác phong làm việc, từ đó nâng cao năng suất, chất lượng công việc và cuộc sống.
30
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Bộ Giáo dục và Đào tạo (2021), Giáo trình tưởng Hồ Chí Minh (Dành cho bậc đại
học hệ không chuyên lý luận chính trị), Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội.
[2] Bộ Giáo dục và Đào tạo (2021), Giáo trình tưởng Hồ Chí Minh (Dành cho bậc đại
học hệ chuyên lý luận chính trị), Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội.
[3] C. Mác Ph. Ăngghen (2004), Toàn tập, Tập 4. Nxb Chính trị Quốc gia, Nội.
[4] V.I. Lênin (2005), Toàn tập, 15 tập. Nxb Chính trị Quốc gia, Nội.
[5] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, 15 tập. Nxb Chính trị Quốc gia, Nội.
[6] Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đảng toàn tập, các tập 12, 37,43, 50, 51.
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[7] Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ IX, “Sự ra đời
sứ mệnh lịch sử của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với giai cấp, dân tộc hội”, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[8] Mạch Quang Thắng (2009), Hồ Chí Minh, nhà cách mạng sáng tạo, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
[9] Nguyễn Thế Phúc (2015), Nghiên cứu học tập tưởng Hồ Chí Minh vận dụng
tưởng Hồ Chí Minh về liên minh giai cấp công - nông trong thời kỳ đổi mới.
[10] Đinh Thắng (2019), Vai trò lãnh đạo của Đảng - Nhân tố quyết định thắng lợi của
cách mạng Việt Nam, báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam.
[11] Ngô Thị Thúy Mai - Khoa xây dựng Đảng (2020), Nghiên cứu trao đổi sử dụng
phong trào bạo lực cách mạng trong thời kỳ 1930 - 1945.
31
[12] Diễn văn của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng tại Lễ kỷ niệm 90 năm
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3/2/1930 - 3/2/2020).
[13] Đại tá, TS. Nguyễn Viết Hiển (2020), “Hồ Chí Minh lựa chọn con đường cách mạng
Việt Nam theo gương Cách mạng Tháng Mười”, Tạp chí Quốc phòng toàn dân.
[14] Đại Lương Cường (2021), “Tầm nhìn ý nghĩa, phương pháp cách mạng Hồ
Chí Minh trong xây dựng đội ngũ cán bộ Quân đội hiện nay”, Báo Quân đội nhân dân.
32
| 1/32

Preview text:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI BÀI THẢO LUẬN
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH Đề tài
Phân tích những luận điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về cách mạng giải
phóng dân tộc. Trong những luận điểm đó, luận điểm nào là luận điểm độc
đáo, sáng tạo nhất của Hồ Chí Minh? Vì sao? Nhóm thực hiện: 1
Lớp học phần: 2296HCMI0111
Giảng viên hướng dẫn: Ngô Thị Minh Nguyệt
Hà Nội, 10 - 2022
DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM VÀ ĐÁNH GIÁ STT Họ và tên Nhiệm vụ Đánh giá Duyệt nội dung Hoàn thành xuất sắc 1 Hoàng Thị Lan Anh Tổng hợp word
Tích cực đóng góp ý kiến Lê Phạm Ngọc Anh
Viết mở đầu, kết luận Hoàn thành tốt 2 (nhóm trưởng) Tổng hợp word
Tích cực đóng góp ý kiến 3 Lưu Trần Vân Anh Tìm thông tin phần 4 Hoàn thành tốt 4 Nguyễn Ngọc Anh Làm slide Hoàn thành tốt Tìm thông tin phần 3, 5 5 Nguyễn Phương Anh Hoàn thành tốt Tìm câu hỏi phản biện 6 Nguyễn Thị Ngọc Anh Làm slide Hoàn thành tốt Tìm thông tin phần 4
Hoàn thành nhưng cần sửa 7 Phạm Ngọc Anh Tìm câu hỏi phản biện nhiều, còn chậm deadline Tìm thông tin phần 1, 2 8 Phạm Trần Châu Anh Hoàn thành tốt Tìm câu hỏi phản biện
Thuyết trình, phản biện Hoàn thành tốt 9 Vũ Thị Anh Tìm câu hỏi phản biện
Tích cực đóng góp ý kiến
Thuyết trình, phản biện Hoàn thành tốt 10 Lê Ngọc Ánh Tìm câu hỏi phản biện
Tích cực đóng góp ý kiến 2
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Hà Nội, ngày 4 tháng 9 năm 2022
BIÊN BẢN HỌP NHÓM 1 Buổi 1 I.
Thời gian, địa điểm
Thời gian: 21h ngày 4 tháng 9 năm 2022.
Địa điểm: họp online qua google meet. II. Thành phần tham gia
Chủ trì: Lê Phạm Ngọc Anh. Tổng số thành viên: 10.
Số người tham gia: đủ. III.
Nội dung cuộc họp Thống nhất đề cương. IV. Đánh giá chung
Các thành viên tham gia họp nghiêm túc, tích cực đóng góp ý kiến để làm đề cương hoàn chỉnh.
Cuộc họp kết thúc vào lúc 23h cùng ngày.
Hà Nội, ngày 4 tháng 9 năm 2022 Nhóm trưởng Anh Lê Phạm Ngọc Anh 3
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Hà Nội, ngày 8 tháng 9 năm 2022
BIÊN BẢN HỌP NHÓM 1 Buổi 2 I.
Thời gian, địa điểm
Thời gian: 21h ngày 8 tháng 9 năm 2022.
Địa điểm: họp online qua google meet. II. Thành phần tham gia
Chủ trì: Lê Phạm Ngọc Anh. Tổng số thành viên: 10.
Số người tham gia: đủ. III.
Nội dung cuộc họp
Phân chia công việc cụ thể cho từng thành viên.
Giao lại thời hạn nộp bài cho các thành viên. IV. Đánh giá chung
Các thành viên tham gia họp nghiêm túc, tích cực đóng góp ý kiến để hoàn chỉnh
nội dung bài thảo luận.
Cuộc họp kết thúc vào lúc 23h cùng ngày.
Hà Nội, ngày 8 tháng 9 năm 2022 Nhóm trưởng Anh Lê Phạm Ngọc Anh 4
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Hà Nội, ngày 2 tháng 10 năm 2022
BIÊN BẢN HỌP NHÓM 1 Buổi 3 I.
Thời gian, địa điểm
Thời gian: 21h ngày 2 tháng 10 năm 2022.
Địa điểm: họp online qua google meet. II. Thành phần tham gia
Chủ trì: Lê Phạm Ngọc Anh. Tổng số thành viên: 10.
Số người tham gia: đủ.
III. Nội dung cuộc họp
Nhận xét, góp ý bài của từng thành viên.
Thống nhất lại cách làm việc của các thành viên.
Giao lại thời hạn nộp bài cho các thành viên. IV. Đánh giá chung
Các thành viên tham gia họp nghiêm túc, tích cực đóng góp ý kiến để hoàn chỉnh
sản phẩm báo cáo thảo luận cuối cùng.
Cuộc họp kết thúc vào lúc 23h cùng ngày.
Hà Nội, ngày 2 tháng 10 năm 2022 Nhóm trưởng Anh Lê Phạm Ngọc Anh 5 MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 7 NỘI DUNG 9
1. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản 9
2. Cách mạng giải phóng dân tộc, trong điều kiện của Việt Nam, muốn thắng lợi
phải do Đảng cộng sản lãnh đạo 14
3. Cách mạng giải phóng dân tộc phải dựa trên lực lượng đại đoàn kết toàn dân
tộc, lấy liên minh công nông làm nền tảng 15
4. Cách mạng giải phóng dân tộc cần chủ động, sáng tạo, có khả năng giành
thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc 20
5. Cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng phương pháp bạo lực cách mạng 27 KẾT LUẬN 30
TÀI LIỆU THAM KHẢO 31 6 LỜI MỞ ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, là ngọn đèn soi
đường chỉ lối cho cách mạng nước ta giành được thắng lợi, đưa nhân dân thoát khỏi ách
nô lệ đầy đau khổ. Suốt cuộc đời, Người mang trong mình sứ mệnh giải phóng cho những
dân tộc thuộc địa bị áp bức. Không ngừng trau dồi, học hỏi cùng tầm nhìn xa trông rộng,
sáng tạo và bản lĩnh, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho dân tộc và nhân loại một kho
tàng tri thức vô cùng đồ sộ và cả hệ thống tư tưởng có ý nghĩa to lớn với cách mạng - Tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những
vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam; kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo
chủ nghĩa Mác - Lênin và điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hóa văn hóa nhân loại; là tài sản tinh thần
vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta. Là người suốt đời đấu tranh cho sự
nghiệp cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam và cách mạng thế giới nên trong hệ
thống tư tưởng của Người, cách mạng giải phóng dân tộc là nội dung quan trọng nhất và
có ý nghĩa vô cùng to lớn, đặc biệt là với cách mạng ở Việt Nam.
Nhận biết được tầm quan trọng của nội dung trên, nhóm 1 chúng em đã tiến hành
nghiên cứu đề tài “Phân tích những luận điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về cách mạng
giải phóng dân tộc. Trong những luận điểm đó, luận điểm nào là luận điểm độc đáo,
sáng tạo nhất của Hồ Chí Minh? Vì sao?” để làm rõ bản chất khoa học, cách mạng của
tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và cách mạng giải phóng dân tộc nói riêng.
Cuối cùng, nhóm 1 xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến cô Ngô Thị Minh Nguyệt đã
quan tâm, hướng dẫn chúng em trong từng buổi học và trao đổi về đề tài trên. Những
buổi học của cô đã giúp chúng em tích lũy được nhiều kiến thức về Chủ tịch Hồ Chí
Minh và Tư tưởng của Người, cũng nhờ đó mà chúng em có thể hoàn thành bài thảo luận
một cách tốt nhất. Mặc dù đã cố gắng hết sức trong quá trình thực hiện đề tài, song không 7
thể tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế, do vậy chúng em rất mong nhận được những lời
góp ý, nhận xét từ cô và các bạn để bài thảo luận được hoàn thiện hơn.
Chúng em xin chân thành cảm ơn! 8 NỘI DUNG
1. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản
Yêu nước, kiên quyết chống giặc ngoại xâm, bảo vệ chủ quyền độc lập là truyền
thống quý báu của dân tộc Việt Nam. Chính vì thế nên khi thực dân Pháp tiến hành xâm
lược và đặt ách thống trị, nhân dân ta đã sớm nhận thức và hành động đáp trả lại. Hàng
loạt những phong trào đấu tranh yêu nước theo con đường phong kiến đã nổ ra. Cụ thể,
lịch sử phong trào chống Pháp từ những năm đầu thế kỷ XX trở về trước gắn liền với các
phong trào yêu nước diễn ra khắp Bắc – Trung - Nam như phong trào Cần Vương, khởi
nghĩa Bãi Sậy (Mỹ Hào - Hưng Yên), khởi nghĩa Ba Đình, khởi nghĩa Hương Khê (Hà
Tĩnh). Đi theo con đường đấu tranh phong kiến còn có cuộc khởi nghĩa Yên Thế - khởi
nghĩa của những người nông dân áo vải do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo kéo dài hơn 30
năm. Nhưng mà tất cả các cuộc khởi nghĩa này đều bị thực dân Pháp nhấn chìm trong
biển máu. Các phong trào kể trên đều sáng ngời tinh thần yêu nước, bất khuất, song tất cả
đều lâm vào bế tắc và cuối cùng thất bại, thể hiện được khủng hoảng về giai cấp lãnh đạo
và đường lối cách mạng. Dưới ách cai trị của chế độ phong kiến suy tàn, khi Pháp vào
xâm lược thì vua quan chống trả nhưng không chiến đấu đến cùng, cuối cùng đầu hàng.
Bên cạnh đó, lực lượng tham gia vào các cuộc khởi nghĩa này rất là nhỏ bé, các phong
trào kháng chiến lẻ tẻ, diễn ra ở địa phương nào thì chỉ thu hút được một bộ phận nông
dân ở địa phương đó hoặc những vùng lân cận; lực lượng lãnh đạo chủ yếu là những văn
thân, sĩ phu yêu nước, những người được đào tạo trong chế độ nho giáo ra làm quan.
Phương tiện, vũ khí đấu tranh là gươm giáo, gậy gộc, chứ không phải súng ống, đạn
dược. Phương pháp lãnh đạo thì bị động, chủ yếu là xây hào đắp lũy. Biết được những
điều ấy, thực dân Pháp đã chủ động đem quân sang đánh trong khi chúng ta trong tâm thế
bị động, vì thế mà các cuộc khởi nghĩa đều thất bại, để lại bài học sâu sắc cho cách mạng
Việt nam: Phải có đường lối cách mạng đúng đắn và phải dựa vào lực lượng đông đảo quần chúng nhân dân. 9
Khi con đường phong kiến thất bại thì chúng ta chuyển sang một con đường đấu
tranh mới là theo khuynh hướng dân chủ tư sản. Tiêu biểu cho con đường đấu tranh này
là phong trào Đông Du của Phan Bội Châu, phong trào Duy Tân của Phan Châu Trinh,
phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục của Nguyễn Khuyến, nhưng cuối cùng đều thất bại.
Chủ tịch Hồ Chí Minh dù khâm phục các bậc tiền bối nhưng không tán thành con đường
cứu nước của các cụ, bởi vì cứu nước như Phan Bội Châu dựa vào Nhật Bản để đánh
Pháp thì khác gì "đuổi hổ cửa trước rước beo cửa sau", Phan Châu Trinh tin vào lời nói
khai hóa văn minh của Pháp thì chẳng khác gì "cúi xin giặc Pháp rủ lòng thương"... Lực
lượng tham gia vào khuynh hướng dân chủ tư sản chủ yếu là trí thức, lực lượng nhỏ bé
trong xã hội. Cuối cùng các phong trào đều thất bại.
Ngày 5/6/1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã ra đi tìm đường
cứu nước. Người đã lựa chọn con đường mới - con đường của riêng mình - con đường
đến với phương Tây mà cụ thể là nước Pháp, như người đã từng nói: “Tôi muốn đi ra
nước ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm như thế nào, tôi sẽ
trở về giúp đồng bào chúng ta”. Đó chính là bước ngoặt, một sự lựa chọn lịch sử có ý
nghĩa quan trọng nhất trong quá trình tìm đường cứu nước của chàng trai trẻ Nguyễn Tất
Thành. Để lý giải cho việc lựa chọn Pháp là điểm đến đầu tiên của con đường cứu nước
của mình thì vào năm 1923, tại Mát-xcơ-va, khi trả lời phỏng vấn của phóng viên Tạp chí
“Ngọn lửa nhỏ”, Người đã nói trả lời rằng: “Vào trạc tuổi mười ba, lần đầu tiên tôi được
nghe những từ ngữ tiếng Pháp: “Tự do – Bình đẳng – Bác ái”. Đối với chúng tôi lúc ấy,
mọi người da trắng được coi là người Pháp – thế là tôi muốn làm quen với văn minh
Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn giấu đằng sau những từ ấy”. Trong vòng mười năm, từ
năm 1911 đến năm 1920, Hồ Chí Minh đã tận dụng mọi cơ hội để có thể đến được nhiều
nơi trên thế giới, từ các nước tư bản phát triển đến các nước thuộc địa, quan sát kỹ cuộc
sống của người dân ở các nước ấy và rút ra kết luận: Ở đâu chủ nghĩa tư bản cũng tàn ác,
vô nhân đạo, ở đâu giai cấp công nhân và người lao động cũng bị áp bức, bóc lột dã man.
Rõ ràng, chủ nghĩa đế quốc ở đâu cũng là thù, giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở
đâu cũng là bạn. Mà theo Người kết luận thì “dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ 10
có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột; mà cũng chỉ có một
tình hữu ái là thật mà thôi: tình hữu ái vô sản”. Nghiên cứu cuộc cách mạng Mỹ năm
1776 và cuộc cách mạng Pháp năm 1789, Người khẳng định: Nhân dân Việt Nam không
thể đi theo con đường cách mạng Mỹ cũng như cách mạng Pháp hay nói cách khác cách
mạng Việt Nam không thể đi theo con đường cách mạng tư sản vì: “Cách mệnh Pháp
cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh không đến nơi, tiếng là
cộng hòa và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc
địa. Cách mệnh đã 4 lần rồi, mà nay công nông Pháp hẵng còn phải mưu cách mệnh lần
nữa mới hòng thoát khỏi vòng áp bức”.
Năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi đã ảnh hưởng sâu sắc tới Hồ
Chí Minh trong việc lựa chọn con đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Cách mạng
Tháng Mười Nga (1917) là cuộc cách mạng vô sản đầu tiên trên thế giới nổ ra và giành
thắng lợi rung chuyển thế giới. Thực tiễn thành công của cách mạng Tháng Mười Nga đã
cho thấy tính ưu việt của chế độ mới theo lý tưởng của Cách mạng Tháng Mười được
hiện thực hóa: xóa bỏ tận gốc ách bóc lột người lao động, thực hiện quyền bình đẳng nam
nữ, thực hiện giáo dục, chữa bệnh không phải trả tiền, người già cô đơn được chăm sóc,
nuôi dưỡng. Đồng thời, Cách mạng Tháng Mười Nga còn mở ra thời đại mới - thời đại
quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội và cách mạng vô sản trên phạm vi toàn
thế giới. Kinh nghiệm hoạt động thực tiễn và ý nghĩa to lớn của Cách mạng Tháng Mười
Nga đã ảnh hưởng sâu sắc đến những quyết định quan trọng đối với cuộc đời và hoạt
động cách mạng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Người cho rằng: “Trong thế giới bây giờ
chỉ có cách mệnh Nga là đã thành công và thành công đến nơi nghĩa là dân chúng được
hưởng cái hạnh phúc, tự do, bình đẳng thật, không phải tự do và bình đẳng giả dối như
đế quốc chủ nghĩa Pháp khoe khoang bên An Nam. Cách mệnh Nga đã đuổi được vua, tư
bản, địa chủ rồi, lại ra sức cho công, nông các nước và dân tộc bị áp bức các thuộc địa
làm cách mạng để đập đổ tất cả đế quốc chủ nghĩa và tư bản trong thế giới…Nói tóm lại
là phải theo chủ nghĩa Mã Tư Khắc và Lênin”. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng nhận định:
“Giống như mặt trời chói lọi, Cách mạng Tháng Mười chiếu sáng khắp năm châu, thức 11
tỉnh hàng triệu người bị áp bức, bóc lột trên trái đất. Trong lịch sử loài người từ trước tới
nay chưa có một cuộc cách mạng có ý nghĩa sâu xa như vậy”. Người nhận thấy trước hết
đây là cuộc dân tộc cách mạng, không chỉ giải phóng giai cấp mà còn giải phóng dân tộc.
Như vậy, Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi đã đem lại sự giúp đỡ có tính quyết định
cho các dân tộc thuộc địa trên thế giới.
Năm 1920, Khi Nguyễn Ái Quốc đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương
về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I. Lênin (Luận cương của Lênin) công bố
trên Báo Nhân đạo (L’Humanité) Pháp (7/1920), Người đã lập tức bị cuốn hút vì tính chất
cách mạng triệt để của nó, vì nó đã giải đáp thỏa đáng những điều mà bấy lâu nay Người
hằng mong ước, đợi chờ. Đây là văn bản chính thức đầu tiên bênh vực cho các nước
thuộc địa, các dân tộc “nhược tiểu”. Những tư tưởng cơ bản trong Luận cương có nhiều
điểm phù hợp với tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc, đặc biệt là sự đau xót trước nỗi thống
khổ của quần chúng lao động khắp thế giới và sự quan tâm đến vấn đề giải phóng các dân
tộc thuộc địa cũng như tinh thần đoàn kết của quần chúng lao động trong đấu tranh. Hơn
thế, Luận cương của Lênin đã giải đáp cho Người những băn khoăn, trăn trở về bạn - thù;
về vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử và con đường đấu tranh giành độc lập
cho dân tộc; đã trả lời các câu hỏi mà bấy lâu Người thắc mắc: Ai là người lãnh đạo cách
mạng, ai tham gia lực lượng cách mạng và mối quan hệ giữa cách mạng giải phóng dân
tộc ở các nước thuộc địa với cách mạng vô sản ở chính quốc.
Luận cương của Lênin giúp Người tìm thấy phương hướng và phương pháp cách
mạng để đấu tranh giải phóng dân tộc, nhận rõ kẻ thù của dân tộc Việt Nam. Qua đó,
Người phát hiện ra động lực to lớn của cách mạng là khối đại đoàn kết toàn dân tộc với
khối đoàn kết, nòng cốt là liên minh công - nông - trí, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản. Người khẳng định: Cách mạng Việt Nam muốn thành công phải đi theo con
đường của Cách mạng Tháng Mười Nga, phải có Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Từ
đó, Hồ Chí Minh đã rút ra kết luận quan trọng: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc,
không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Đó là con đường gắn độc
lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, gắn cách mạng Việt Nam với xu thế thời đại. Luận 12
cương của Lênin thực sự đem lại cho Người ánh sáng mới đầy hy vọng và sự tin tưởng về
một tương lai tươi sáng đối với dân ta. Sau này, khi kể lại cảm xúc lần đầu được đọc bản
luận cương của Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa, Người đã nói: “Luận cương của
Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến
phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần
chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta,
đây là con đường giải phóng chúng ta!”. Từ đó, tôi hoàn toàn tin theo Lênin, tin theo Quốc tế ba”.
Như vậy, chính Luận cương của Lênin đã tạo ra bước ngoặt căn bản về chất trong
sự phát triển nhận thức, tư tưởng và lập trường chính trị của Nguyễn Ái Quốc: Từ chủ
nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác - Lênin, từ giác ngộ dân tộc đến giác ngộ giai cấp, từ
người yêu nước trở thành người cộng sản và nhất quyết đi theo con đường cách mạng vô
sản để giành độc lập, tự do, hạnh phúc cho dân tộc, cho nhân dân Nam. Cũng chính từ
đây mà Người đã dần dần thực hiện con đường cứu nước của mình theo hướng cách
mạng vô sản thế giới, gắn liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Bước đầu chính là sự
kiện tại Đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp (12/1920), Nguyễn Ái Quốc đã quyết
định bỏ phiếu tán thành Quốc tế III và tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Người
chính thức trở thành người cộng sản đầu tiên của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam.
Trong quá trình vận dụng lý luận cách mạng vô sản của chủ nghĩa Mác - Lênin
vào Việt Nam, Hồ Chí Minh đã có những vận dụng một cách sáng tạo dựa theo điều kiện
cách mạng Việt Nam. Trước hết, khác với quan niệm của Lê nin về con đường cách mạng
vô sản ở phương Tây là đi từ giải phóng giai cấp - giải phóng dân tộc - giải phóng xã hội
- giải phóng con người; thì Hồ Chí Minh đã căn cứ mâu thuẫn cơ bản nhất là mâu thuẫn
dân tộc nên con đường cách mạng vô sản ở Việt Nam phải đi từ giải phóng dân tộc - giải
phóng xã hội - giải phóng giai cấp - giải phóng con người. Quan điểm mới, sáng tạo của
Hồ Chí Minh chính là: giải phóng dân tộc gắn với giải phóng giai cấp, trong đó giải
phóng dân tộc là trước hết, là tiền đề để giải phóng giai cấp. 13
Bên cạnh đó, ta còn thấy được sự sáng tạo trong tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện ở
việc Người đề cao việc độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Vì độc lập dân tộc
là để giải phóng dân tộc, nhưng nếu giải phóng dân tộc mà không giải phóng giai cấp thì
nhân dân lao động vẫn khổ, vẫn bị áp bức bóc lột. Chỉ khi nào chúng ta tiến lên xây dựng
chủ nghĩa xã hội, thực hiện công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu thì mới xóa bỏ tận gốc
áp bức bóc lột. Xây dựng nhà nước “của dân, do dân, vì dân” thì mới đảm bảo địa vị
vững chắc cho nhân dân. Nhân dân là chủ, làm chủ đất nước thì họ mới có cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
2. Cách mạng giải phóng dân tộc, trong điều kiện của Việt Nam, muốn
thắng lợi phải do Đảng cộng sản lãnh đạo
Về tầm quan trọng của tổ chức đảng đối với cách mạng, chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ
rõ: Đảng Cộng sản là nhân tố chủ quan để giai cấp công nhân hoàn thành sứ mệnh lịch sử
của mình. Giai cấp công nhân phải tổ chức ra chính đảng, đảng đó phải thuyết phục, giác
ngộ và tập hợp đông đảo quần chúng, huấn luyện quần chúng và đưa quần chúng ra đấu
tranh. Hồ Chí Minh đã tiếp thu lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và rất chú trọng đến
việc thành lập Đảng Cộng sản, Người còn khẳng định vai trò to lớn của Đảng đối với
cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản. Đây là một sáng tạo của
Hồ Chí Minh về lý luận cách mạng giải phóng dân tộc. Trong tác phẩm “Đường cách
mệnh” (1927), Người đặt vấn đề: Cách mệnh trước hết phải có cái gì? Trước hết phải có
đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với các
dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công…
Đảng đó phải được xây dựng theo nguyên tắc đảng kiểu mới của V.I. Lênin, được vũ
trang bằng chủ nghĩa Mác - Lênin. Nhiệm vụ lãnh đạo của Đảng Cộng sản là: Xác định
mục tiêu của cách mạng, xây dựng đường lối cách mạng giải phóng dân tộc; thông qua
cương lĩnh, tổ chức vận động, tập hợp các lực lượng cách mạng, xây dựng Mặt trận Dân
tộc thống nhất. Đối với cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản phải thực hiện đồng thời 14
hai nhiệm vụ: chống đế quốc và chống phong kiến, giành độc lập dân tộc, đem lại tự do
và hạnh phúc cho nhân dân.
Trong hoàn cảnh Việt Nam là một nước thuộc địa - phong kiến, Hồ Chí Minh cho
rằng, Đảng Cộng sản vừa là đội tiên phong của giai cấp công nhân vừa là đội tiên phong
của nhân dân lao động, kiên quyết nhất, hăng hái nhất, trong sạch nhất, tận tâm tận lực
phụng sự Tổ quốc. Đó còn là Đảng của cả dân tộc Việt Nam. Trong Báo cáo chính trị tại
Đại hội II của Đảng (1951), Người viết “Chính là Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt
Nam”. Năm 1961, khi nhân dân miền Bắc đang thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất,
Hồ Chí Minh một lần nữa khẳng định: “Đảng ta là Đảng của giai cấp, đồng thời cũng là
của dân tộc, không thiên tư, thiên vị”.
Đây là một luận điểm quan trọng của Hồ Chí Minh có ý nghĩa bổ sung, phát triển
lý luận mácxít về đảng cộng sản. Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh rằng, sự
lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của
cách mạng Việt Nam. Đồng thời, chính trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng đã
được tôi luyện, thử thách và không ngừng trưởng thành, dày dạn kinh nghiệm để ngày
càng xứng đáng với vai trò và sứ mệnh lãnh đạo cách mạng, xứng đáng với sự tin cậy của
nhân dân; qua đó, khẳng định một chân lý: “ở Việt Nam không có một lực lượng chính trị
nào khác, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ bản lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín và
khả năng lãnh đạo đất nước vượt qua mọi khó khăn, thử thách cam go để đưa dân tộc
đến bến bờ vinh quang, hạnh phúc”.
3. Cách mạng giải phóng dân tộc phải dựa trên lực lượng đại đoàn kết
toàn dân tộc, lấy liên minh công nông làm nền tảng
Sinh thời, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đoàn
kết toàn dân, trên cơ sở liên minh công nông làm nòng cốt”. Vậy đại đoàn kết toàn dân tộc là gì? 15
Đại đoàn kết toàn dân tộc – di sản vô giá, truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc
Việt Nam được hun đúc qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước. Tinh thần yêu nước,
trọng nhân nghĩa, khoan dung, sự cố kết, đùm bọc yêu thương nhau đã thấm sâu vào tư
tưởng, tình cảm, tâm hồn mỗi người dân, trở thành lẽ sống, chất kết dính gắn bó các
thành viên trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Lịch sử mấy ngàn năm tồn tại và phát
triển của dân tộc ta đã chứng minh truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc dù trong bất kỳ
hoàn cảnh nào cũng đều kết thành sức mạnh vô địch, đưa Việt Nam vượt qua mọi khó
khăn, thách thức, giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác, lập nên những kỳ tích vẻ
vang. Nhờ tinh thần đoàn kết, nhân dân ta đã vượt qua mọi gian lao, thử thách, đánh
thắng mọi kẻ thù xâm lược, giữ vững non sông bờ cõi, viết nên những trang sử vàng hào hùng của dân tộc.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đoàn kết toàn dân tộc là chiến lược lâu dài, nhất
quán xuyên suốt cách mạng Việt Nam; đại đoàn kết dân tộc là một mục tiêu, nhiệm vụ
hàng đầu cách mạng Việt Nam. Người cho rằng: Muốn giải phóng các dân tộc bị áp bức
và nhân dân lao động phải tự mình cứu lấy mình bằng cách mạng vô sản. Trong từng thời
kỳ, từng giai đoạn cách mạng, có thể và cần thiết phải điều chỉnh chính sách và phương
pháp tập hợp lực lượng cho phù hợp với những đối tượng khác nhau, nhưng đại đoàn kết
dân tộc luôn luôn được Người coi là vấn đề sống còn của cách mạng.
Hồ Chí Minh khẳng định “Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đoàn kết
toàn dân”. Dựa vào cả mặt lý luận và cả về mặt thực tiễn, Về mặt thực tiễn Người đã kế
thừa tư tưởng “trọng dân”, “thân dân” của ông cha ta; Về mặt lý luận Người cũng đã kế
thừa tư tưởng các nhà lý luận kinh điển Mác - Lênin.
Tư tưởng “Thân dân" đã được hình thành từ các triều đại phong kiến, tiêu biểu
nhất là tư tưởng của Trần Hưng Đạo và Nguyễn Trãi - những bậc danh nhân đại tài của
dân tộc. Trần Hưng Đạo đã thể hiện tư tưởng này qua câu nói của ông vào tháng 6 năm
1300, khi ông bị ốm. Vua ngự tới nhà thăm, hỏi rằng: "Nếu có điều chẳng may, mà giặc 16
phương Bắc lại sang xâm lược thì kế sách như thế nào?" Hưng Đạo Vương trả lời: "Ngày
xưa Triệu Vũ Đế (tức Triệu Đà) dựng nước, vua nhà Hán cho quân đánh, nhân dân làm
kế thanh dã, đại quân ra Khâm Châu, Liêm Châu đánh vào Trường Sa, Hồ Nam, còn
đoàn binh thì đánh úp phía sau. Đó là một thời. Đời nhà Đinh, nhà Tiền Lê dùng người
tài giỏi, đất phương nam mới mạnh mà phương bắc thì mệt mỏi suy yếu, trên dưới một
dạ, lòng dân không lìa, xây thành Bình Lỗ mà phá được quân Tống. Đó lại là một thời.
Vua nhà Lý mở nền, nhà Tống xâm phạm địa giới, dùng Lý Thường Kiệt đánh Khâm,
Liêm, đến tận Mai Lĩnh là vì có thế. Vừa rồi Toa Đô, Ô Mã Nhi bốn mặt bao vây. Vì vua
tôi đồng tâm, anh em hòa mục, cả nước góp sức, giặc phải bị bắt. Đó là trời xui nên vậy.
Đại khái, nó cậy trường trận, ta dựa vào đoàn binh. Dùng đoản binh chế trường trận là
sự thường của binh pháp. Nếu chỉ thấy quân nó kéo đến như lửa, như gió thì thể dễ chế
ngự. Nếu nó tiến chậm như các tằm ăn, không cầu thắng chóng, thì phải chọn dùng tướng
giỏi, xem xét quyền biến, như đánh cờ vây, tùy thời tạo thế, có được đội quân một lòng
như cha con thì mới dùng được. Vả lại, khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó
là thượng sách giữ nước vậy." Ông đã biết coi trọng sức mạnh của nhân dân, dựa vào dân
để đánh giặc giữ nước, đây là một tư tưởng hết sức tiến bộ mà ở thời đại đó rất ít người
có thể nhận ra vì các triều đại phong kiến xưa kia chỉ coi dân là cỏ dại, gọi là: “thảo dân”.
Tư tưởng “Thân dân" còn được Nguyễn Trãi thể hiện rõ nét hơn nữa qua tư tưởng
nhân nghĩa của mình. Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi là một triết lý sâu sắc, cốt
lõi, bao trùm toàn bộ cuộc đời ông. Theo đó, tư tưởng nhân nghĩa trong quan điểm của
Nguyễn Trãi, trước hết được gắn chặt với tư tưởng vì dân và an dân: “việc nhân nghĩa cốt
ở yên dân”, “dùng quân nhân nghĩa cứu dân khổ, đánh kẻ có tội”, “đại đức hiếu sinh, thần
vũ bất sát, đem quân nhân nghĩa đi đánh dẹp cốt để an dân”. Như vậy, nhân nghĩa chính
là yêu nước, thương dân, là đánh giặc cứu nước, cứu dân. Nguyễn Trãi đã coi “an dân” là
mục đích của nhân nghĩa và “trừ bạo” là đối tượng, là phương tiện của nhân nghĩa. Như
vậy, với Nguyễn Trãi, tư tưởng nhân nghĩa gắn kết biện chứng với tư tưởng thân dân, an
dân là một yêu cầu cao, một hoài bão lớn, một đối tượng, là phương tiện của đích chiến
lược cần phải đạt tới. Tư tưởng an dân, Nguyễn Trãi đưa ra một chân lý, đó là: phải 17
giương cao ngọn cờ “nhân nghĩa, an dân”, phải cố kết lòng dân làm sức mạnh của nước,
làm thế nước. Ông chủ trương cứu nước bằng sức mạnh của dân, muốn lấy lại được nước
phải biết lấy sức dân mà kháng chiến. Đó là một chiến lược bất khả biến, có tính trường
tồn, một quy luật dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Và một khía cạnh rất
đáng quý trong tư tưởng về dân của Nguyễn Trãi, đó là tư tưởng trọng dân, biết ơn dân.
“Dân chúng” vẫn luôn được ông nhắc tới và chú ý đề cao ngay cả sau khi kháng chiến đã
thành công, đất nước đã giành được độc lập và bước vào xây dựng cuộc sống mới.
Nguyễn Trãi nhận thức được rằng lực lượng làm ra thóc gạo, cơm ăn, áo mặc là nhân
dân; rằng điện ngọc cung vàng của vua chúa cũng đều do mồ hôi nước mắt của nhân dân
mà có: “thường nghĩ quy mô lớn lao, lộng lẫy đều là sức lao khổ của quân dân”. Chính
xuất phát từ suy nghĩ như vậy, nên khi đã làm quan trong triều đình, được hưởng lộc của
vua ban, Nguyễn Trãi đã nghĩ ngay đến nhân dân, những người dãi nắng dầm mưa,
những người lao động cực nhọc. Ông viết: “Ăn lộc đền ơn kẻ cấy cày”. Trong suốt cuộc
đời của mình, Nguyễn Trãi đã có cuộc sống gần gũi, gắn bó với nhân dân, hoà mình vào
nhân dân. Do đó, ông đã nhận thấy rất rõ những đức tính cao quý của nhân dân, hiểu
được nguyện vọng tha thiết của nhân dân, thấy rõ được sức mạnh vĩ đại của nhân dân
trong sáng tạo lịch sử.
Hồ Chí Minh đã sớm hấp thụ và nhận thức được vai trò của truyền thống yêu nước
- nhân nghĩa - đoàn kết của dân tộc. Người khẳng định: "Dân ta có một lòng nồng nàn
yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị
xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn,
nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp
nước". Chủ nghĩa yêu nước, truyền thống đoàn kết, cộng đồng của dân tộc Việt Nam là
cơ sở đầu tiên, sâu xa cho sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.
Các nhà lý luận kinh điển Mác – Lênin cũng khẳng định rằng: cách mạng là sự
nghiệp của quần chúng nhân dân; quần chúng nhân dân là sự sáng tạo ra lịch sử. V.I.
Lênin viết: “Không có sự đồng tình ủng hộ của đại đa số nhân dân lao động đối với đội
tiên phong của mình, tức là với giai cấp vô sản, thi cách mạng vô sản không thể thực hiện 18
được”. Kế thừa tư tưởng của ông cha ta và các nhà lý luận nói trên Hồ Chí Minh quan
niệm rằng: có dân là có tất cả, trên đời này không gì quý bằng dân, được lòng dân là được
tất cả, mất lòng dân thì mất tất cả. Người khẳng định “cách mệnh là việc chung của cả
dân chúng chứ không phải việc một hai người”. Người lý giải rằng: “dân tộc cách mệnh
thì chưa phân giai cấp, nghĩa là sĩ, nông, công, thương đều nhất trí chống lại cường
quyền”. Vậy nên phải tập hợp và đoàn kết toàn dân thì cách mạng mới thành công.
Trong Sách lược vắn tắt của Đảng, Hồ Chí Minh cũng xác định lực lượng cách
mạng bao gồm toàn dân: Đảng phải thu phục đại bộ phân giai cấp công nhân, tập hợp đại
bộ phận dân cày và phải dựa vào dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng, liên lạc với tiểu
tư sản, trí thức, trung nông… để lôi kéo họ về phía vô sản giai cấp; còn đối với phú nông,
trung, tiểu địa chủ và tư sản Việt Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng,
ít ra cũng làm cho họ trung lập. Lực lượng ra mặt phản cách mạng như Đảng lập hiến thì
chúng ta phải đánh đổ.
Khi thực dân Pháp tiến hành xâm lược Việt Nam lần thứ hai, Hồ Chí Minh thiết
tha kêu gọi mọi người không phân biệt giai tầng, dân tộc, tôn giáo, đảng phái… đoàn kết
đấu tranh chống kẻ thù chung của dân tộc. Trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến
(tháng 12/1946), Người viết: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không
chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân
Pháp để cứu Tổ quốc” “Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có
gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc”.
Trong khi xác định lực lượng cách mạng là toàn dân, Hồ Chí Minh lưu ý rằng, không
được quên “công nông là người chủ cách mệnh… là gốc cách mệnh”. Giai cấp công
nhân xuất thân từ nông dân, có vị trí trung tâm trong xã hội bởi là giai cấp đại diện cho
phương thức sản xuất tiến bộ nhất, là giai cấp có sứ mệnh lịch sử thông qua Đảng của
mình lãnh đạo cách mạng và toàn xã hội. Song để hoàn thành được sứ mệnh đó, giai cấp
công nhân cần lôi cuốn, tập hợp các giai cấp, tầng lớp nhân dân lao động và cả dân tộc
đứng lên làm cách mạng. Còn giai cấp nông dân Việt Nam là lực lượng đông đảo nhất 19
trong xã hội, được Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định là “đồng minh chắc chắn nhất của
giai cấp công nhân” và là “quân chủ lực của cách mạng”. Người chỉ rõ: Giai cấp nông
dân, trong đó bần nông và trung nông là đội quân chủ lực của kháng chiến và của cách
mạng dân chủ mới. Ở nông thôn, bần nông là lớp người đông nhất và nghèo khổ nhất. Họ
bị địa chủ phong kiến bóc lột tàn tệ. Bần nông hăng hái kháng chiến, hăng hái cách mạng
và rất mong muốn thực hiện chính sách dân cày có ruộng. Vì vậy, họ là đồng minh chắc
chắn nhất của giai cấp công nhân. Trung nông là lớp người mình cày ruộng của mình,
cũng không phải làm thuê cho ai. Họ cũng bị địa chủ, bọn cho vay nặng lãi và bọn đế
quốc áp bức bóc lột. Thực hiện chính sách “dân cày có ruộng” thì họ cũng có lợi. Cho
nên họ cũng hăng hái kháng chiến, hăng hái cách mạng. Vì vậy, họ là đồng minh chắc
chắn của giai cấp công nhân. Trong tác phẩm Đường cách mệnh, Người giải thích: giai
cấp công nhân và nông dân là hai giai cấp đông đảo và cách mạng nhất, bị bóc lột nặng
nề nhất, vì thế “lòng cách mệnh càng bền, chí cách mệnh càng quyết… công nông là tay
không chân rồi, nếu thua thì chỉ mất một cái kiếp khổ, nếu được thì cả thế giới, cho nên họ gan góc”.
Tóm lại, lực lượng góp thành sức mạnh của đại đoàn kết dân tộc là toàn dân, trong
đó lấy liên minh công - nông làm nền tảng được tập hợp trong một Mặt trận thống nhất
đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Thực tiễn đã trả lời chỉ trên cơ sở tuân thủ nguyên tắc
này, đại đoàn kết dân tộc mới có sức sống bền vững và trường tồn.
4. Cách mạng giải phóng dân tộc cần chủ động, sáng tạo, có khả năng
giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc
Đây cũng chính là luận điểm độc đáo, sáng tạo nhất, luận điểm mang giá trị lý
luận và giá trị thực tiễn to lớn.
Trước hết, cần phải phân biệt giữa cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa
và cuộc cách mạng vô sản ở chính quốc. 20
Cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa được hiểu là cuộc đấu tranh đòi
quyền độc lập dân tộc và bảo vệ độc lập dân tộc của các nước thuộc địa khi bị các nước
tư bản xâm chiếm vào thế kỷ XX, chủ yếu từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai năm 1945.
Hầu hết, sau cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai, đa số các nước kém phát triển trong đó có
Việt Nam là thuộc địa của các nước giàu có. Sự tàn bạo, độc ác của những nước này
trong giai đoạn đó khiến cho cuộc sống của nhân dân vô cùng cơ cực, chúng bóc lột sức
lao động, tài nguyên, gây ra mâu thuẫn gay gắt giữa người dân thuộc địa và chính phủ
chính quốc. Vì thế, trong giai đoạn này đã xuất hiện các phong trào đòi quyền độc lập dân
tộc (trở thành nước độc lập, tự do, không bị nước khác áp đặt quyền cai trị), nhưng đa số
bị dập tắt do nhiều nguyên nhân khác nhau. Giải phóng dân tộc chính là tiền đề để xây
dựng chủ nghĩa xã hội và mục đích cuối cùng của giải phóng dân tộc chính là vì con
người, giải phóng con người. Từ lâu, Bác Hồ đã nêu cao quan điểm sự nghiệp giải phóng
dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người không thể bị một thế lực nào ngăn cản
được. Để giải phóng được con người, giải phóng giai cấp thì lựa chọn giải phóng dân tộc
đầu tiên là điều kiện cho các mục tiêu tiếp theo. Ðộc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội mới bảo đảm mọi quyền và đem lại hạnh phúc cho con người.
Còn cách mạng vô sản ở chính quốc là một cuộc cách mạng xã hội trong đó giai
cấp công nhân cố gắng lật đổ giai cấp tư sản. Các cuộc cách mạng vô sản nói chung được
những người theo chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản và hầu hết những người vô chính
phủ ủng hộ. Các nhà lý luận Mácxít tin rằng các cuộc cách mạng vô sản có thể sẽ xảy ra
ở tất cả các nước tư bản, liên quan đến khái niệm cách mạng thế giới.
Từ việc phân tích cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa và cách mạng vô
sản ở chính quốc, ta thấy hai cuộc cách mạng có những nét tương đồng và nhiều điểm khác biệt.
Về nét tương đồng, hai cuộc cách mạng đều có nguồn gốc từ tư sản Pháp và đều
mang tính chất, mục đích chính là đập tan ách thống trị của các đế quốc tư bản, các nước
thuộc địa để thoát khỏi ách đô hộ và bóc lột tàn ác của các nước thống trị. 21
Về điểm khác biệt:
Cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa là cuộc cách mạng tất yếu. Hồ Chí
Minh đã chỉ ra rằng nhân dân thuộc địa đang tiềm ẩn một sức mạnh to lớn mà cách mạng
giải phóng dân tộc là sự nghiệp thiết thân của họ, họ phải đứng lên tự giải phóng mà
không thể dựa vào sự cầu viện của bất cứ ai. Nếu được thức tỉnh thì nhân dân thuộc địa sẽ
là một lực lượng khổng lồ có thể làm lên sự nghiệp cách mạng. Lực lượng của cách mạng
giải phóng dân tộc là sức mạnh của toàn dân tộc. Cách mạng là sự nghiệp của dân chúng
bị áp bức, bao gồm lực lượng của cả dân tộc. Trong lực lượng toàn dân tộc, Hồ Chí Minh
hết sức nhấn mạnh vai trò động lực cách mạng của công nhân và nông dân, lực lượng
nòng cốt trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Mục tiêu cấp thiết của cách mạng ở thuộc
địa chưa phải là giành quyền lợi riêng biệt của mỗi giai cấp mà là quyền lợi chung của
toàn dân tộc. Đó là những mục tiêu của chiến lược đấu tranh dân tộc, phù hợp với xu thế
của thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc, đáp ứng nguyện vọng
độc lập, tự do của quần chúng nhân dân.
Bên cạnh đó, cách mạng vô sản ở chính quốc: phân nhánh Lênin của chủ nghĩa
Mác cho rằng một cuộc cách mạng vô sản phải được dẫn dắt bởi một đội tiên phong của
"những người làm cách mạng chuyên nghiệp", gồm những nam giới và phụ nữ toàn tâm
toàn ý theo chủ nghĩa cộng sản và trở thành hạt nhân của phong trào cách mạng cộng sản.
Đội tiên phong này sẽ lãnh đạo và tổ chức cho giai cấp công nhân trước và trong cuộc
cách mạng, nhằm mục đích ngăn chặn chính phủ cản trở cách mạng thành công. Những
người theo chủ nghĩa Mác khác như Rosa Luxemburg không đồng ý với ý tưởng của
những người theo chủ nghĩa Lênin về một đội tiên phong và khăng khăng rằng toàn bộ
giai cấp công nhân, hoặc ít nhất là một phần lớn của nó phải tham gia sâu sắc và cam kết
cho sự nghiệp xã hội chủ nghĩa thì cuộc cách mạng vô sản mới có thể thành công. Để đạt
tới mục đích này, họ tìm cách xây dựng các phong trào của tầng lớp lao động với số
lượng thành viên rất lớn. Quan điểm của họ là cuộc cách mạng phải là một cuộc cách
mạng xã hội từ dưới lên, tìm cách biến đổi tất cả các khía cạnh của xã hội và các cá nhân
tạo nên xã hội. Một số cuộc cách mạng chỉ thay đổi hình thức chính phủ bằng cách đưa 22
một bộ cai trị mới thay thế cho cái cũ. Đây là những cuộc cách mạng chính trị, vì thế
chúng thường gặp rất ít kháng cự. Nhưng một cuộc cách mạng nhằm xóa bỏ toàn bộ hệ
thống nô lệ tiền lương cũng phải loại bỏ quyền lực của một giai cấp chuyên đàn áp giai
cấp khác. Nghĩa là, cuộc cách mạng đó không chỉ là một sự thay đổi đơn thuần của những
người cai trị, của chính phủ, không phải là một cuộc cách mạng chính trị, mà là một cuộc
cách mạng tìm cách thay đổi toàn bộ tính cách của xã hội. Đó sẽ là một cuộc cách mạng
“xã hội”. Cách mạng vô sản ở chính quốc với mục đích lật đổ các giai cấp tư sản ở các
nước đế quốc tại thuộc địa. Để đạt được mục đích chính là giành được độc lập cho các
nước thuộc địa khỏi sự thống trị của các nước đế quốc.
Xét quan điểm của Quốc tế cộng sản về cách mạng thuộc địa và cách mạng vô
sản ở chính quốc:
Thứ nhất, Quốc tế cộng sản chưa quan tâm đến cách mạng thuộc địa. Thứ hai,
Quốc tế cộng sản cho rằng cách mạng thuộc địa phụ thuộc hoàn toàn vào cách mạng vô
sản ở chính quốc. Có thể thấy, Quốc tế cộng sản xem nhẹ vai trò của cách mạng giải
phóng dân tộc thuộc địa. Điều đó được thể hiện ngay trong tuyên ngôn thành lập Quốc tế
cộng sản tháng 3/1919: “Việc giải phóng các thuộc địa chỉ có thể tiến hành với việc giải
phóng giai cấp công nhân ở chính quốc...” “công nhân và nông dân không chỉ ở
Angiêri, Bănggan, mà cả ở Ba Tư hay Ácmêni chỉ có thể được độc lập khi nào công nhân
ở Anh và Pháp lật đổ chính phủ “Lôigioóc” và “Clêmăngxô” giành chính quyền về tay
mình”. Quốc tế cộng sản khẳng định mối quan hệ biện chứng, chặt chẽ giữa vấn đề dân
tộc và vấn đề giai cấp. Song, trong mối quan hệ đó, nhiệm vụ cấp bách hàng đầu của giai
cấp công nhân là phải tiến hành cuộc cách mạng lật đổ giai cấp tư sản, giành lấy chính
quyền và sau khi lên nắm chính quyền thì sẽ trao trả độc lập cho các nước thuộc địa, hoặc
tạo điều kiện cho phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa giành thắng lợi. Tức là
khẳng định cách mạng vô sản ở chính quốc có vai trò quyết định đến thắng lợi của cách
mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa. Quan điểm này đã làm giảm đi tính chủ động sáng
tạo trong phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa trong công cuộc
đấu tranh chống thực dân đế quốc, giành độc lập dân tộc. 23
Trong khi Quốc tế Cộng sản đánh giá thấp vị trí, vai trò của cách mạng giải
phóng thuộc địa trong mối quan hệ với cách mạng vô sản ở chính quốc thì Hồ Chí
Minh lại đưa ra những quan điểm khác với quan điểm của Quốc tế Cộng sản.
Thứ nhất, đây là hai cuộc cách mạng bình đẳng, không hề phụ thuộc. Trong tác
phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Chủ nghĩa tư bản là
một con đỉa có một cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc và một cái vòi khác
bám vào giai cấp vô sản ở thuộc địa. Nếu muốn giết con vật ấy, người ta phải đồng thời
cắt cả hai vòi. Nếu người ta chỉ cắt một vòi thôi, thì cái vòi còn lại kia vẫn tiếp tục hút
máu của giai cấp vô sản, con vật vẫn tiếp tục hút sống và cái vòi bị cắt đứt sẽ lại mọc
ra”. Người chỉ rõ: Chủ nghĩa đế quốc là một con đỉa hai vòi, một vòi bám vào chính
quốc, một vòi bám vào thuộc địa. Muốn đánh bại chủ nghĩa đế quốc, phải đồng thời cắt
cả hai cái vòi của nó đi, tức là phải kết hợp cách mạng vô sản ở chính quốc với cách
mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa; phải xem cách mạng ở thuộc địa như là "một trong
những cái cánh của cách mạng vô sản". Người khẳng định: “…vận mệnh của giai cấp vô
sản thế giới và đặc biệt là vận mệnh của giai cấp vô sản ở các nước đi xâm lược thuộc địa
gắn chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở các thuộc địa… nọc độc và sức sống của
con rắn độc tư bản chủ nghĩa đang tập trung ở các thuộc địa…”, và nếu khinh thường
cách mạng ở thuộc địa tức là “…muốn đánh chết rắn đằng đuôi”.
Thứ hai, hai cuộc cách mạng ấy không những bình đẳng mà Cách mạng giải
phóng dân tộc ở thuộc địa còn có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở
chính quốc. Nhờ việc phân tích sâu sắc thực tiễn của các dân tộc thuộc địa, nhận thấy vai
trò, vị trí chiến lược của các thuộc địa đối với các nước chính quốc, Hồ Chí Minh cho
rằng: “An Nam dân tộc cách mạng thành công thì tư bản Pháp yếu, tư bản Pháp yếu thì
công nông Pháp làm giai cấp cách mệnh cũng dễ”. Ngay từ năm 1921, trên Tạp chí Cộng
sản số 15, thấy rõ vai trò to lớn của cách mạng giải phóng dân tộc đối với cách mạng ở
chính quốc, thậm chí có thể thành công trước và giúp đỡ cho thắng lợi của cách mạng vô
sản ở chính quốc, Người viết: “Ngày mà hàng trăm triệu nhân dân châu Á bị tàn sát và
áp bức thức tỉnh để gạt bỏ sự bóc lột đê tiện của một bọn thực dân lòng tham không đáy, 24
họ sẽ hình thành một lực lượng khổng lồ, và trong khi thủ tiêu một trong những điều kiện
tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ những người anh em
mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn”. Như vậy, từ những nghiên
cứu về chủ nghĩa thực dân và phong trào đấu tranh ở thuộc địa, Hồ Chí Minh đã đưa ra
dự đoán mang tính then chốt: cách mạng thuộc địa có thể thành công trước cách mạng
chính quốc, cách mạng Việt Nam có thể thành công trước cách mạng Pháp. Đồng chí
Phạm Văn Đồng nhận định: “Luận điểm của Hồ Chí Minh mới mẻ đến kỳ lạ... nó nằm
trong dòng sáng tạo cách mạng của những con người mà cống hiến lý luận và sự nghiệp
đấu tranh vạch đường cho thời đại”.
Hồ Chí Minh đã dựa vào hai cơ sở để đưa ra luận điểm sáng tạo “Cách mạng
giải phóng dân tộc cần chủ động, sáng tạo, có khả năng giành chiến thắng trước
cách mạng vô sản ở chính quốc”:
Thứ nhất, thuộc địa có vị trí, vai trò quan trọng với sự tồn tại và phát triển của chủ
nghĩa đế quốc. Thuộc địa là nơi duy trì sự tồn tại phát triển, là món mồi “béo bở” cho chủ
nghĩa đế quốc. Thuộc địa là thị trường tiêu thụ hàng hóa, thuộc địa cung cấp tài nguyên
khoáng sản và là nơi có nguồn nhân công rẻ mạt. Tại Đại hội V Quốc tế Cộng sản, trong
Phiên họp thứ Tám, ngày 23-6-1924, Hồ Chí Minh đã phát biểu để “thức tỉnh…về vấn đề
thuộc địa”. Người cho rằng: “nọc độc và sức sống của con rắn độc tư bản chủ nghĩa
đang tập trung ở các thuộc địa hơn là ở chính quốc”; nếu thờ ơ về vấn đề cách mạng ở
thuộc địa thì như “đánh chết rắn đằng đuôi”. Cho nên, cách mạng ở thuộc địa có vai trò
rất lớn trong việc cùng với cách mạng vô sản ở chính quốc tiêu diệt chủ nghĩa đế quốc.
Theo Hồ Chí Minh, cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa có sức bật thuận
lợi vì: Chính sách khai thác, bóc lột thuộc địa hết sức tàn bạo và dã man của chủ nghĩa đế
quốc ở nhiều nơi đã đẩy nhân dân thuộc địa vào khó khăn, túng quẫn. Trong cuộc khai
thác này, chúng đã chiếm hàng ngàn, hàng vạn hecta đất để lập các đồn điền trồng lúa,
trồng cà phê, chè hay cao su; tập trung và khai thác mỏ để vơ vét nguồn khoáng sản giàu
có ở Việt Nam, đặc biệt là các mỏ than đá, thiếc, kẽm ở Hòn Gai, Thái Nguyên, Tuyên
Quang… Tất cả khoáng sản mà chúng vơ vét được đều được đưa về Pháp. Đồng thời, 25
chúng còn tận dụng nguồn nhân công lao động rẻ mạt tại Việt Nam để tiến vào các hầm
mỏ làm việc cho chúng; tiến hành cho xây dựng nhiều cơ sở phục vụ đời sống của chúng
tại Việt Nam như: điện, nước, bưu điện, hay cơ sở sản xuất xi măng, dệt nhằm tận dụng
nhân công và nguồn nguyên liệu tại chỗ phục vụ cho nhu cầu thiết yếu của chúng khi
hàng hóa chính quốc chưa kịp chuyển sang. Do đó, một số ngành nghề thủ công tại Việt
Nam đã bị mai một như dệt, gốm, … do không có đủ điều kiện để sản xuất. Quá đáng
hơn, để nhằm mục đích bóc lột kinh tế, thu nhiều lợi nhuận, bọn thực dân ra sức vơ vét,
bóc lột nhân dân ta bằng hình thức cổ truyền đó là thuế, đặc biệt là thuế thân, thuế rượu,
thuế muối, thuốc phiện vô cùng man rợ. Điều đó đã làm cho lòng căm thù, tức giận chủ
nghĩa đế quốc tư bản trong nhân dân thuộc địa vô cùng sâu sắc. Vì vậy mà rất cần một
cuộc cách mạng để giải phóng nhân dân thuộc địa. Nhân dân thuộc địa sẵn sàng vùng lên
đấu tranh nếu có sự chỉ đạo, dẫn dắt.
Thứ hai, tinh thần đấu tranh cách mạng hết sức quyết liệt của các dân tộc thuộc
địa, mà theo Hồ Chí Minh nó sẽ bùng lên mạnh mẽ, hình thành một “lực lượng khổng lồ”
khi được tập hợp, hướng dẫn và giác ngộ cách mạng. Căn cứ vào luận điểm của C. Mác
về khả năng tự giải phóng của giai cấp công nhân, trong Tuyên ngôn của Hội liên hiệp
thuộc địa, khi kêu gọi các dân tộc thuộc địa đứng lên đấu tranh giành quyền độc lập dân
tộc, Người viết: “Hỡi anh em ở các thuộc địa…Anh em phải làm thế nào để được giải
phóng? Vận dụng công thức của C. Mác, chúng tôi xin nói với anh em rằng, công cuộc
giải phóng anh em chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em”. Cuộc
đấu tranh của các lực lượng dân chủ và yêu nước được đẩy mạnh ở nhiều quốc gia.
Chẳng hạn: các cuộc đấu tranh của quần chúng ở Chi Lê đã lật đổ chính phủ độc tài Mỹ
của Emaniét. Phong trào quần chúng tiếp diễn đòi thiết lập chế độ cai trị theo hiến pháp,
chống lại ảnh hưởng của các độc quyền Mỹ ở trong nước, đòi giải quyết nạn thất nghiệp
và khắc phục tình trạng sinh hoạt đắt đỏ. Trong những năm 1935 - 1939, ở nhiều nước Mĩ
latinh, mặt trận nhân dân đã được thành lập, tập hợp đông đảo lực lượng nhân dân trong
nước: công nhân, nông dân, tiểu tư sản, trí thức tiến bộ và một bộ phận giai cấp tư sản dân tộc. 26
Luận điểm “Cách mạng giải phóng dân tộc cần chủ động, sáng tạo, có khả
năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc” mang giá trị lý luận sâu
sắc và giá trị thực tiễn to lớn.
Về giá trị lý luận, có thể thấy đây là một cống hiến vô cùng quan trọng vào kho
tàng lý luận Mác – Lênin. Nền kinh tế hàng hóa phát triển mạnh, chủ nghĩa tư bản chuyển
sang giai đoạn độc quyền. Các nước thuộc địa trở thành nơi nuôi dưỡng chủ nghĩa đế
quốc. Từ đó mà các cuộc chiến tranh xâm lược thuộc địa nổ ra. Trong các cuộc đấu tranh
chống chủ nghĩa đế quốc ấy, cách mạng giải phóng thuộc địa có tầm quan trọng đặc biệt.
Vì thế mà “Cách mạng giải phóng dân tộc cần chủ động, sáng tạo, có khả năng giành
chiến thắng trước cách mạng vô sản ở chính quốc” đã được chứng minh là hoàn toàn
đúng đắn qua thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Về giá trị thực tiễn, luận điểm sáng tạo này có ý nghĩa thực tiễn rất lớn. Trước hết
là giúp cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam không thụ động, ỷ nại chờ sự giúp đỡ
từ bên ngoài mà luôn phát huy tính độc lập tự chủ, tự lực, tự cường. Bên cạnh đó còn góp
phần định hướng cho phong trào giải phóng dân tộc ở các nước khác trên thế giới trong
thời kỳ bấy giờ. Trong công cuộc đổi mới hiện nay, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về
vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc: kiên định con đường độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội; tăng cường, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở
“đem tài dân, sức dân để làm lợi cho dân”; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trên cơ
sở bình đẳng, cùng có lợi; kết hợp phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để
xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
5. Cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng phương pháp
bạo lực cách mạng
Về mặt logic cũng như lịch sử, các giai cấp phản động thống trị không bao giờ tự
nguyện rời bỏ chính quyền nếu không có sự cưỡng bức bằng bạo lực, và một chính quyền
mới cũng sẽ không tồn tại nếu không có đủ sức mạnh bạo lực để tự bảo vệ mình. Vì thế 27
mà để giành và giữ được chính quyền thì không thể thiếu bạo lực cách mạng. Trong bộ
Tư bản, quyển I, tập thứ nhất, xuất bản lần đầu tiên năm 1867, C. Mác viết: “Bạo lực là
bà đỡ của một chế độ xã hội cũ đang thai nghén một chế độ mới”. Năm 1878, trong tác
phẩm Chống Đuyrinh, Ph. Ăngghen nhắc lại: “Bạo lực còn đóng vai trò khác trong lịch
sử, vai trò cách mạng; nói theo Mác, bạo lực còn là bà đỡ cho mọi xã hội cũ đang thai
nghén một xã hội mới; bạo lực là công cụ mà sự vận động xã hội dùng để tự mở đường
cho mình và đập tan những hình thức chính trị đã hóa đá và chết cứng”. Trên cơ sở tiếp
thu quan điểm của C. Mác và Ph. Ăngghen, với kinh nghiệm Cách mạng Tháng Mười
Nga và cách mạng thế giới, V.I. Lênin khẳng định tính tất yếu của bạo lực cách mạng,
làm sáng tỏ hơn vấn đề bạo lực cách mạng trong học thuyết về cách mạng vô sản: không
có bạo lực cách mạng thì không thể thay thế nhà nước tư sản bằng nhà nước vô sản được.
Dựa trên cơ sở quan điểm về bạo lực cách mạng của các nhà kinh điển của chủ
nghĩa Mác lênin, Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng, Hồ Chí Minh đã
thấy rõ sự thiết phải sử dụng bạo lực cách mạng. Người viết: “Trong cuộc đấu tranh gian
khổ chống kẻ thù của giai cấp và dân tộc, cần dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực
phản cách mạng, giành lấy chính quyền và bảo vệ chính quyền”. Tất yếu là vậy, vì ngay
như hành động mang quân đi xâm lược của thực dân, đế quốc đối với các nước thuộc địa
và phụ thuộc, Người vạch rõ: “Chế độ thực dân, tự bản thân nó, đã là một hành động
bạo lực của kẻ mạnh đối với kẻ yếu rồi”.
Sau khi xâm chiếm các nước thuộc địa, bọn thực dân đế quốc đã thực hiện chế độ
cai trị vô cùng tàn bạo: dùng bạo lực để đàn áp dã man các phong trào yêu nước, thủ tiêu
mọi quyền tự do dân chủ của nhân dân, bóc lột và đẩy người dân thuộc địa vào bước
đường cùng. Vì vậy, muốn đánh đổ thực dân-phong kiến giành độc lập dân tộc thì tất yếu
phải sử dụng phương pháp bạo lực cách mạng, dung bạo lực cách mạng để chống lại bạo
lực phản cách mạng của kẻ thù. 28
Về hình thức bạo lực cách mạng theo Hồ Chí Minh, bạo lực cách mạng ở đây là
bạo lực của quần chúng, được thực hiện với hai lực lượng chính trị và quân sự, hai hình
thức đấu tranh: đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang; chính trị và đấu tranh chính trị
của quần chúng là cơ sở, nền tảng cho việc dựng lực lượng vũ trang và đấu tranh vũ
trang; đấu tranh vũ trang có ý nghĩa quyết định đối với việc tiêu diệt lực lượng quân sự và
âm mưu thôn tính của thực dân đế quốc, đi đến kết thúc chiến tranh. Việc xác định hình
thức đấu tranh phải căn cứ vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể mà áp dụng cho thích hợp, như
Người đã chỉ rõ: “Tùy tình hình cụ thể mà quyết định những hình thức đấu tranh cách
mạng thích hợp, sử dụng đúng và khéo kết hợp các hình thức đấu tranh vũ trang và đấu
tranh chính trị để giành thắng lợi cho cách mạng”. Trong Cách mạng Tháng Tám năm
1945, với hình thức tổng khởi nghĩa của quần chúng nhân dân trong cả nước, chủ yếu dựa
vào lực lượng chính trị, kết hợp với lực lượng vũ trang, nhân dân ta đã thắng lợi, giành
chính quyền về tay nhân dân.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về bạo lực cách mạng mang tính cách mạng, nhân văn,
hoàn toàn không đối lập với lòng nhân ái, tinh thần yêu chuộng hoà bình, nhưng cũng
không ảo tưởng hoà bình, bó tay, mất cảnh giác trước những âm mưu, thủ đoạn xảo quyệt
của kẻ thù. Tư tưởng này là một bộ phận hợp thành nền tảng tư tưởng, đường lối quân sự
của Đảng ta, đã soi sáng con đường đi tới thắng lợi hoàn toàn, trọn vẹn của cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước. Ngày nay, tư tưởng về bạo lực cách mạng của Người vẫn giữ
nguyên giá trị. Thực tiễn không ngừng vận động phát triển, đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục
nghiên cứu, vận dụng sáng tạo tư tưởng của Người về bạo lực cách mạng cho phù hợp
nhằm bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội
hiện nay. Mặt khác, thực tiễn còn đòi hỏi chúng ta phải luôn chủ động, nhạy bén về chính
trị, cảnh giác cao độ trước những âm mưu thủ đoạn mới của kẻ thù, tăng cường xây dựng
sức mạnh của bạo lực cách mạng để có thể chiến thắng kẻ thù trong bất kỳ tình huống
nào. Đồng thời, phải tích cực đấu tranh phê phán những nhận thức sai trái, lệch lạc, phủ
nhận hoặc mơ hồ về quan điểm bạo lực cách mạng trong tình hình mới. 29 KẾT LUẬN
Những luận điểm của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ
phận quan trọng của Tư tưởng Hồ Chí Minh. Đây chính là một tia sáng trong bối cảnh
khủng hoảng của con đường cứu nước thời bấy giờ. Tư tưởng của Người đem đến một
góc nhìn mới, một góc nhìn đầy tính sáng tạo và có ý nghĩa to lớn đối với sự nghiệp cách
mạng Việt Nam ta. Người khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có
con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Kết hợp với Chủ nghĩa Mác Lênin,
tư tưởng HCM đã trở thành “kim chỉ nam” cho sự nghiệp cách mạng của Đảng cộng sản
Việt Nam giành thắng lợi. Với sự tiến bộ của nhân loại, tư tưởng Hồ Chí Minh góp phần
mở ra con đường giải phóng cho các dân tộc thuộc địa; góp phần tích cực vào cuộc đấu
tranh vì độc lập dân tộc, dân chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển trên thế giới.
“Cách mạng giải phóng dân tộc cần chủ động, sáng tạo, có khả năng giành thắng
lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc” là luận điểm độc đáo nhất, sáng tạo nhất của
Hồ Chí Minh. Quan điểm ấy đã giúp cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam trở nên
chủ động hơn và định hướng cho phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa trên thế giới.
Đối với Đảng và Nhà nước, cần không ngừng kế thừa và phát huy tư tưởng Hồ Chí
Minh để hoàn thành mục tiêu xây dựng tổ chức cơ sở Đảng trong sạch, vững mạnh. Để
thực hiện được thì Đảng cần đẩy mạnh thi đua, tổ chức các chương trình bồi dưỡng,
nhằm nâng cao chất lượng Đảng viên, góp phần củng cố niềm tin của nhân dân đối với
Đảng. Còn với thế hệ trẻ Việt Nam nói chung và sinh viên nói riêng, việc học tập và
nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh có vai trò vô cùng quan trọng trong việc hình thành
nhận thức và nhân cách. Tiếp thu tư tưởng Hồ Chí Minh góp phần nâng cao năng lực tư
duy lý luận cho mỗi cá nhân; giáo dục và định hướng thực hành đạo đức cách mạng, củng
cố niềm tin khoa học gắn liền với trau dồi tình cảm cách mạng, bồi dưỡng lòng yêu nước.
Học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh giúp mỗi người rèn luyện được phương pháp,
tác phong làm việc, từ đó nâng cao năng suất, chất lượng công việc và cuộc sống. 30
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Bộ Giáo dục và Đào tạo (2021), Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh (Dành cho bậc đại
học hệ không chuyên lý luận chính trị), Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội.
[2] Bộ Giáo dục và Đào tạo (2021), Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh (Dành cho bậc đại
học hệ chuyên lý luận chính trị), Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội.
[3] C. Mác và Ph. Ăngghen (2004), Toàn tập, Tập 4. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[4] V.I. Lênin (2005), Toàn tập, 15 tập. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[5] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, 15 tập. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[6] Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đảng toàn tập, các tập 12, 37,43, 50, 51.
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[7] Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ IX, “Sự ra đời và
sứ mệnh lịch sử của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với giai cấp, dân tộc và xã hội”, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[8] Mạch Quang Thắng (2009), Hồ Chí Minh, nhà cách mạng sáng tạo, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[9] Nguyễn Thế Phúc (2015), Nghiên cứu học tập tư tưởng Hồ Chí Minh và vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh về liên minh giai cấp công - nông trong thời kỳ đổi mới.
[10] Đinh Thắng (2019), Vai trò lãnh đạo của Đảng - Nhân tố quyết định thắng lợi của
cách mạng Việt Nam, báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam.
[11] Ngô Thị Thúy Mai - Khoa xây dựng Đảng (2020), Nghiên cứu trao đổi sử dụng
phong trào bạo lực cách mạng trong thời kỳ 1930 - 1945. 31
[12] Diễn văn của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng tại Lễ kỷ niệm 90 năm
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3/2/1930 - 3/2/2020).
[13] Đại tá, TS. Nguyễn Viết Hiển (2020), “Hồ Chí Minh lựa chọn con đường cách mạng
Việt Nam theo gương Cách mạng Tháng Mười”, Tạp chí Quốc phòng toàn dân.
[14] Đại tá Lương Cường (2021), “Tầm nhìn và ý nghĩa, phương pháp cách mạng Hồ
Chí Minh trong xây dựng đội ngũ cán bộ Quân đội hiện nay”, Báo Quân đội nhân dân. 32