











Preview text:
lOMoAR cPSD| 61622079
BÀI KIỂM TRA GIỮA KÌ HỌC PHẦN TRIẾT HỌC MÁC- LÊNIN
Đề tài: Phân tích cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện và quan điểm lịch
sử cụ thể và sự vận dụng những quan điểm này trong cuộc sống, học tập của bản thân. BÀI LÀM
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUAN ĐIỂM TOÀN DIỆN VÀ QUAN ĐIỂM
LỊCH SỬ CỤ THỂ:
1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến:
a. Quan điểm siêu hình về mối liên hệ:
Những người theo quan điểm siêu hình cho rằng các sự vật, hiện tượng tồn tại
biệt lập, tách rời nhau, cái này tồn tại bên cạnh cái kia, hết cái này đến cái kia.
Chúng không có mối liên hệ ràng buộc quy định và chuyển hóa lẫn nhau. Nếu
giữa chúng có sự quy định lẫn nhau thì cũng chỉ là những quy định bề ngoài, mang tính ngẫu nhiên.
Ví dụ: Giới vô cơ và giới hữu cơ không có liên hệ gì với nhau, tồn tại độc
lập, không thâm nhập lẫn nhau. Tổng số đơn giản của những con người riêng lẻ
tạo thành xã hội. Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính tách rời nhau... Quan
điểm như vậy dẫn thế giới quan triết học đến sai lầm là dựng lên ranh giới giả
tạo giữa các sự vật, hiện tượng, đặt đối lập các nghiên cứu khoa học chuyên
ngành với nhau. Vì vậy, quan điểm siêu hình không có khả năng phát hiện ra
những quy luật, bản chất và bản tính phổ biến của sự vận động, phát triển của
các sự vật, hiện tượng. Quan điểm siêu hình chỉ thấy bộ phận mà không thấy toàn
thể, “chỉ thấy cây mà không thấy rừng”. b. Quan điểm duy vật biện chứng về mối liên hệ:
* Khái niệm liên hệ, mối liên hệ lOMoAR cPSD| 61622079
- Khái niệm liên hệ: là quan hệ giữa hai đối tượng nếu sự thay đổi của một trong
số chúng nhất định làm đối tượng kia thay đổi. Ngược lại, cô lập (tách rời) là
trạng thái của đối tượng, khi sự thay đổi của đối tượng này không ảnh hưởng gì
đến các đối tượng khác, không làm chúng thay đổi.
- Khái niệm mối liên hệ: là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự ràng buộc, phụ
thuộc, quy định lẫn nhau, sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các mặt, các yếu tố
cấu thành nên sự vật, hiện tượng; giữa các sự vật, hiện tượng với nhau; giữa sự
vật, hiện tượng với môi trường, mà trong đó sự biến đổi của sự vật, hiện tượng
này sẽ kéo theo sự biến đổi của sự vật hiện tượng khác.
Ví dụ: Mối liên hệ giữa các cơ quan trong cơ thể con người; giữa đồng hóa
và dị hóa; mối liên hệ giữa các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa; giữa cung và
cầu... trong một quốc gia và giữa các quốc gia với nhau...
- Khái niệm mối liên hệ phổ biến:
Trong phép biện chứng, khái niệm mối liên hệ dùng để chỉ sự qui định, sự tác
động và chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt, các
yếu tố của mỗi sự vật, hiện tượng trong thế giới. Còn khái niệm mối liên hệ phổ
biến dùng để chỉ các mối liên hệ tồn tại ở nhiều sự vật, hiện tượng của thế giới,
trong đó, những mối liên hệ phổ biến nhất là những mối liên hệ tồn tại ở mọi sự
vật, hiện tượng của thế giới, nó thuộc đối tượng nghiên cứu của phép biện chứng.
Ví dụ: Mối liên hệ giữa cái riêng và cái chung, giữa nguyên nhân và kết quả,
giữa nội dung và hình thức, giữa tất nhiên và ngẫu nhiên, giữa bản chất và hiện
tượng, giữa khả năng và hiện thực, ... giữa lượng và chất, giữa các mặt đối lập
trong một mâu thuẫn, giữa cái khẳng định và cái phủ định,...
Như vậy, giữa các sự vật, hiện tượng của thế giới vừa tồn tại những mối liên hệ
đặc thù vừa tồn tại những mối liên hệ phổ biến ở những phạm vi nhất định, nhưng
đồng thời cũng tồn tại những mối liên hệ phổ biến nhất, trong đó, những mối liên
hệ đặc thù là sự thể hiện những mối liên hệ phổ biến trong những điều kiện nhất
định. Toàn bộ những mối liên hệ đặc thù và phổ biến đó tạo nên tính thống nhất
trong tính đa dạng và ngược lại, tính đa dạng trong tính thống nhất của các mối
liên hệ trong giới tự nhiên, xã hội và tư duy. lOMoAR cPSD| 61622079
* Tính chất của các mối liên hệ
Tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú là những tính chất cơ
bản của các mối liên hệ.
- Tính khách quan của các mối liên hệ:
+ Xuất phát từ tính thống nhất vật chất của thế giới.
+ Sự qui định lẫn nhau, tác động lẫn nhau và làm chuyển hóa lẫn nhau của các
sự vật, hiện tượng (hoặc trong chính bản thân chúng) là cái vốn có của nó, tồn tại
độc lập không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người; con người chỉ có
thể nhận thức và vận dụng các mối liên hệ đó trong hoạt động thực tiễn của mình.
Ví dụ: mối liên hệ giữa con vật cụ thể(một cái riêng) với quá trình đồng hóa dị
hóa, biến dị - di truyền, quy luật sinh học: sinh-trưởng thành-già-chết...(cái
chung); mối liên hệ ràng buộc và tương tác (theo lực hút - lực đẩy) giữa các vật
thể; mối liên hệ ràng buộc và ảnh hưởng lẫn nhau giữa cung và cầu hàng hóa trên
thị trường; mối liên hệ tất yếu giữa các khái niệm trong quá trình tư duy của con
người. Đó đều là những mối liên hệ khách quan, tồn tại độc lập, không phụ thuộc
vào ý chí chủ quan của con người, con người không thể sáng tạo ra được mối liên
hệ đó, mà chỉ có thể nhận thức, tác động...
- Tính phổ biến của các mối liên hệ:
Thể hiện ở chỗ bất kỳ nơi đâu, bất kỳ một sự vật, hiện tượng nào, ở bất kỳ không
gian nào và bất kỳ thời gian nào trong tự nhiên, trong xã hội và trong tư duy đều
có vô vàn các mối liên hệ đa dạng, chúng giữ vai trò, vị trí khác nhau trong sự
vật động, chuyển hóa của các sự vật, hiện tượng. Mối liên hệ ấy không chỉ diễn
ra ở mọi sự vật, hiện tượng tự nhiên, xã hội, tư duy, mà còn diễn ra giữa các mặt,
các yếu tố, các quá trình của mỗi sự vật, hiện tượng.
Ví dụ: Mỗi cơ thể sống là một hệ thống cấu trúc tạo nên khả năng tự trao đổi
chất với môi trường, nhờ đó mà nó tồn tại, phát triển. Đồng thời bản thân môi
trường sống cũng là một hệ thống được tạo thành từ nhiều lớp yếu tố, phân hệ
trực tiếp và gián tiếp...
- Tính đa dạng, phong phú của mối liên hệ: lOMoAR cPSD| 61622079
Tính đa dạng, phong phú của các mối liên hệ được thể hiện ở chỗ: các sự vật,
hiện tượng hay quá trình khác nhau đều có những mối liên hệ cụ thể khác nhau,
giữ vai trò, vị trí khác nhau đối với sự tồn tại và phát triển của nó. Mặt khác,
cùng một mối liên hệ nhất định của sự vật nhưng trong những điều kiện cụ thể
khác nhau, ở những giai đoạn khác nhau trong quá trình vận động, phát triển của
sự vật thì cũng có những tính chất và vai trò khác nhau. Như vậy, không thể đồng
nhất tính chất và vị trí, vai trò cụ thể của các mối liên hệ khác nhau đối với những
sự vật nhất định, trong những điều kiện xác định. Vì vậy, sự phân loại mối liên
hệ là điều hết sức cần thiết:
+ Mối liên hệ bên trong - mối liên hệ bên ngoài.
+ Mối liên hệ cơ bản - mối liên hệ không cơ bản.
+ Mối liên hệ chủ yếu - mối liên hệ thứ yếu.
+ Mối liên hệ tất nhiên - mối liên hệ ngẫu nhiên.
+ Mối liên hệ bản chất - mối liên hệ hiện tượng.
+ Mối liên hệ trực tiếp - mối liên hệ gián tiếp.
Quan điểm về tính phong phú đa dạng của các mối liên hệ còn bao hàm quan
niệm về sự thể hiện phong phú, đa dạng của các mối liên hệ phổ biến ở các mối
liên hệ đặc thù trong mỗi sự vật, mỗi hiện tượng, mỗi quá trình cụ thể, trong
những điều kiện không gian và thời gian cụ thể.
Ví dụ: + Mối liên hệ con người, con cá... với nước là khác nhau. Cùng con người
nhưng mỗi giai đoạn phát triển khác nhau nhu cầu về nước cũng khác, người
sống ở nơi lạnh có nhu cầu về nước khác với người sống ở nơi nóng. Cây xanh
có cây cần nhiều nước, ánh sáng, có cây cần ít nước, ánh sáng...
+ Cùng mối liên hệ thầy - trò, cha mẹ - con cái, chồng - vợ... giữa phương
Tây và phương Đông, phương Đông truyền thống và hiện nay, ở mỗi nước
phương Đông cũng có biểu hiện khác nhau...
- Hiện nay, khoa học hiện đại đã chứng minh rằng:
+ Phương thức tồn tại của các sự vật, hiện tượng do cách thức liên hệ giữa các
yếu tố cấu thành quyết định. lOMoAR cPSD| 61622079
Cùng từ các nguyên tử C, nhưng theo những cách thức liên hệ khác nhau sẽ
tạo thành than hoặc kim cương.
Cùng từ công thức phân tử C2H6O, nhưng cách thức liên hệ khác nhau sẽ tạo
ra rượu (CH3 - CH2 - OH) hoặc ete (CH3 - O - CH3).
Mối liên hệ giữa các axit nucleic (A - T, G - X) mà bị đảo lộn sẽ gây ra hiện tượng đột biến gen.
+ Sự vận động, phát triển của các sự vật, hiện tượng do sự tác động qua lại giữa
các yếu tố cấu thành quyết định, mà trước hết là do sự tác động qua lại lẫn nhau
giữa các mặt đối lập.
* Ý nghĩa phương pháp luận:
Mỗi sự vật, hiện tượng tồn tại trong nhiều mối liên hệ, tác động qua lại với nhau,
do vậy, khi xem xét đối tượng cụ thể cần tuân thủ nguyên tắc toàn diện. - Thứ
nhất, khi nghiên cứu, xem xét các đối tượng cụ thể, cần đặt nó trong chỉnh thể
thống nhất của tất cả các mặt, các bộ phận, các yếu tố, các thuộc tính, các mối
liên hệ của chỉnh thể đó, “ cần phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả tất cả các
mặt, tất cả các mối liên hệ và “quan hệ gián tiếp” của sự vật đó”.
Ví dụ: Khi đánh giá một sinh viên cần phải xem xét nhiều mặt của sinh viên ấy
( về thể lực, về trí lực, về phẩm chất, về hoạt động học tập và hoạt động đoàn
thể,...), xem xét các mối liên hệ của sinh viên đó với nhiều mối liên hệ khác (mối
liên hệ với thầy cô, với gia đình, với nhân viên trường học, với bạn bè,...) đó là
mối liên hệ giữa con người với con người. Ngoài ra cần đánh giá qua các mối
liên hệ với môi trường tự nhiên, với cơ sở vật chất của nhà trường... Giữa các
mặt, mối liên hệ đó luôn tác động qua lại. Do vậy, phải có cái nhìn bao quát để
rút ra kết luận chính xác bạn sinh viên ấy là người như thế nào. -
Thứ hai, chủ thể phải rút ra được các mặt, các mối liên hệ tất yếu của đối
tượng đó và nhận thức chúng trong sự thống nhất hữu cơ nội tại, bởi chỉ có như
vậy, nhận thức mới có thể phản ánh được đầy đủ sự tồn tại khách quan với nhiều
thuộc tính, nhiều mối liên hệ, quan hệ và tác động qua lại của đối tượng. Từ đó,
rút ra được đâu là mối liên hệ cơ bản, chủ yếu. lOMoAR cPSD| 61622079
Ví dụ: Khi đánh giá về công cuộc đổi mới ở Việt Nam từ năm 1986 đến nay,
chúng ta phải đánh giá toàn diện những thành tựu ( về kết cấu hạ tầng, thu nhập,
mức sống, giáo dục, y tế,...) cùng những hạn chế (mặt trái của những yếu tố trên,
đặc biệt là tệ nạn xã hội). Từ đó, rút ra được thành tựu là cái cơ bản. Trên cơ sở
đó, chúng ta kết luận đổi mới là tất yếu khách quan, phải phân tích chỉ ra được
nguyên nhân dẫn tới hạn chế, nguyên nhân nào là cơ bản, chủ yếu. Đề ra giải
pháp khắc phục yếu kém đó, để mỗi người có niềm tin vào công cuộc đổi mới
vào sự tất thắng của chủ nghĩa xã hội. -
Thứ ba, cần xem xét sự vật, hiện tượng này trong mối liên hệ với sự vật,
hiện tượng khác và với môi trường xung quanh, kể cả các mặt của các mối liên
hệ trung gian, gián tiếp, trong không gian, thời gian nhất định, trong những điều
kiện, hoàn cảnh cụ thể, tức cần nghiên cứu cả những mối liên hệ của đối tượng
trong quá khứ, hiện tại và phán đoán cả tương lai của nó.
Ví dụ: Khi chỉ ra những mặt hạn chế, tệ nạn xã hội như tham ô, tham nhũng,
lãng phí, con ông cháu cha, ma túy, cờ bạc,... Thì chúng ta phải tìm hiểu nguyên
nhân dẫn đến kết quả đó, xem xét cả nguyên nhân trực tiếp, gián tiếp, cơ bản và
không cơ bản, chủ yếu và thứ yếu (đời sống kinh tế hiện tại, do quan niệm truyền
thống, đặc biệt là chủ nghĩa cá nhân, thói tham lam, ích kỷ...; do hệ thống pháp
luật chưa đồng bộ, còn kẽ hở, một số cán bộ thoái hóa biến chất tham ô, tham
nhũng; do công tác giáo dục tuyên truyền, giám sát có lúc chưa xử lý mạnh, tính
răn đe chưa cao...). Từ đó đưa ra giải pháp phù hợp, nhằm xóa bỏ những tiêu cực,
tệ nạn, hạn chế đó trong tương lai. -
Thứ tư, nguyên tắc toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện (chỉ nhìn
thấy mặt này mà không nhìn thấy mặt kia, tuyệt đối hóa một mặt); thuật ngụy
biện ( đánh tráo các mối liên hệ cơ bản thành không cơ bản và ngược lại để đạt
động cơ nhất định) và chủ nghĩa chiết trung (lắp ghép các mối liên hệ trái ngược
nhau vào một mối liên hệ phổ biến một cách vô nguyên tắc dẫn đến mất phương
hướng). Nguyên tắc toàn diện còn chống lại cách xem xét cào bằng, dàn trải,
chống lại cách xem xét siêu hình. lOMoAR cPSD| 61622079
Ví dụ: Đánh giá một sự vật, hiện tượng chỉ nhìn vào một vài mặt, vài mối liên
hệ đã đi đến kết luận bản chất của sự vật (phiến diện - sai lầm), chẳng hạn khi
đánh giá con người, biến nguyên nhân cơ bản, chủ yếu thành thứ yếu và ngược
lại ( ngụy biện - sai lầm), giả sử kết quả học tập kém, nguyên nhân chủ yếu do
thái độ học tập của chính bản thân nhưng lại đổ lỗi cho thầy cô giảng dạy, do nhà,
do bản bè, do môi trường xung quanh tác động... * Kết luận:
- Từ tính khách quan, phổ biến, và đa dạng, phong phú của các mối liên hệ đã
cho thấy trong hoạt động nhận thức và thực tiễn cần phải có quan điểm toàn
diện. Quan điểm toàn diện đòi hỏi trong nhận thức và xử lý các tình huống thực
tiễn cần xem xét sự vật trong mối liên hệ biện chứng qua lại giữa các bộ phận,
giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật và trong sự tác động qua lại giữa
sự vật đó với các sự vật khác. Chỉ trên cơ sở đó mới có thể nhận thức đúng về
sự vật và xử lý có hiệu quả các vấn đề của đời sống thực tiễn. Lênin cho rằng:
“Muốn thực sự hiểu được sự vật, cần phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả
các mặt, tất cả các mối liên hệ “và quan hệ giao tiếp” của sự vật đó”.
- Từ tính chất đa dạng, phong phú của các mối liên hệ đã cho thấy trong hoạt
động nhận thức và thực tiễn khi đã thực hiện quan điểm toàn diện thì đồng thời
cũng cần phải kết hợp với quan điểm lịch sử - cụ thể.
Quan điểm lịch sử - cụ thể:
Mọi sự vật hiện tượng của thế giới đều tồn tại, vận động và phát triển trong những
điều kiện không gian và thời gian cụ thể xác định. Điều kiện không gian và thời
gian có ảnh hưởng trực tiếp tới tính chất, đặc điểm của sự vật. Cùng một sự vật
nhưng nếu tồn tại trong những điều kiện không gian và thời gian cụ thể khác
nhau thì tính chất, đặc điểm của nó sẽ khác nhau, thậm chí có thể làm thay đổi
hoàn toàn bản chất của sự vật. - Yêu cầu:
+ Thứ nhất: Khi phân tích xem xét sự vật, hiện tượng phải đặt nó trong điều
kiện không gian và thời gian cụ thể của nó, phải phân tích xem những điều
kiện không gian ấy có ảnh hưởng như thế nào đến tính chất, đặc điểm của lOMoAR cPSD| 61622079
sự vật, hiện tượng. Phải phân tích cụ thể mọi tình hình cụ thể ảnh hưởng
đến sự vật, hiện tượng, tránh cái nhìn chung chung, trừu tượng.
+ Thứ hai: Khi xem xét sự vật, hiện tượng phải tái tạo lại sự vận động, phát triển
của sự vật, hiện tượng qua những ngẫu nhiên lịch sử, qua những bước quanh co,
qua những điều kiện lịch sử - cụ thể.
+ Thứ ba: Khi nghiên cứu một lý luận, một luận điểm khoa học nào đó cần phải
phân tích nguồn gốc xuất xứ, hoàn cảnh làm nảy sinh lý luận đó. Có như vậy mới
đánh giá đúng giá trị và hạn chế của lý luận đó. Việc tìm ra điểm mạnh và điểm
yếu có tác dụng trực tiếp đến quá trình vận dụng sau này.
+ Thứ tư: Trong nhận thức và xử lý các tình huống trong hoạt động thực tiễn cần
phải xét đến những tính chất đặc thù của đối tượng, phải giải quyết khác nhau
trong thực tiễn. Phải xác định rõ vị trí, vai trò khác nhau của mỗi mối liên hệ cụ
thể trong những điều kiện cụ thể để từ đó có được những giải pháp đúng đắn và có hiệu quả.
+ Thứ năm: Không những cần phải tránh và khắc phục quan điểm phiến diện siêu
hình, giáo điều mà còn phải tránh và khắc phục quan điểm chiết trung, ngụy
biện. Đặc biệt, phải chống lại thái độ tuyệt đối hóa cái cụ thể, xem nhẹ tiến trình chung, quy luật chung.
V.I.Lênin: “ Xem xét cụ thể mỗi tình hình cụ thể, đó là bản chất, là linh hồn của chủ nghĩa Mác.”
II. VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM TOÀN DIỆN VÀ QUAN ĐIỂM LỊCH SỬ CỤ
THỂ TRONG CUỘC SỐNG, HỌC TẬP CỦA BẢN THÂN:
1. Vận dụng quan điểm toàn diện trong cuộc sống, học tập của bản thân:
a. Vận dụng trong cuộc sống:
Trong cuộc sống hằng ngày các sự vật hiện tượng xảy ra trước chúng ta mà ta
không nhìn nhận một cách đúng đắn sẽ làm cho ta hiểu sai bản chất vấn đề, không
đúng với sự thật. Vì vậy, khi xem xét, đánh giá một sự vật, hiện tượng phải xem
xét đánh giá một cách toàn diện, mọi mặt của vấn đề để hiểu được bản chất thật
sự của sự vật hiện tượng. Ví dụ như cách chọn cho mình những người bạn phù
hợp với bản thân. Không phải chỉ vì cái là nhìn đầu tiên là ta có thể đánh giá đó lOMoAR cPSD| 61622079
là một người bạn tốt hay xấu được cho dù đó là một người có ngoại hình đẹp dễ
nhìn hay chỉ là người có ngoại hình xấu khi nhìn đã có ấn tượng không tốt về họ.
Tính cách và ngoại hình là hai mặt khác nhau của một con người. Vì vậy, đánh
giá một con người qua vẻ bề ngoài là hoàn toàn phiến diện. Cho dù trong một
hoàn cảnh cụ thể nào đó người đó có những cử chỉ tốt hay nhìn có vẻ rất thân
thiện, dễ gần gũi thì cũng chỉ gây ấn tượng tốt ban đầu đối với chúng ta chứ
không thể khẳng định đó là một người bạn tốt. Đôi khi đó chỉ là cách gây ấn
tượng với người khác của họ chứ không phải là bản chất thật sự của họ. Vì vậy
muốn đánh giá 1 con người cần phải có thời gian tiếp xúc lâu dài , nhìn nhận họ
trên mọi phương diện , ở từng thời điểm từng hoàn cảnh khác nhau và về nhiều
mặt khác nhau của họ. Cách thức họ ứng xử, giao tiếp với mọi người xung quanh,
cách họ làm việc với bản thân và tập thể. Việc đánh giá con người cũng phải là
một công việc lâu dài, một ngày có thể ta không thấy nhưng nhiều ngày ta sẽ thấy
họ như thế nào: ích kỉ, nhỏ nhen, vụ lợi hay là một người rộng lượng tốt bụng để
ta có thể chọn lựa đúng đắn hơn. Qua đó ta cũng thấy rằng cho dù có những người
không tốt ở hiện tại nhưng chưa chắc họ sẽ không tốt ở tương lai, vì vậy ta hãy
đánh giá lại khi họ đã thay đổi để có cái nhìn toàn diện hơn.
Hay khi xem xét nguyên nhân của một vấn đề nào đó để giải quyết, chúng ta cần
xem xét chúng trong các mối liên hệ để xem nguyên nhân từ đâu để có cách giải
quyết, xử lý tốt. Khi ta học kém đi, điểm số giảm cần tìm nguyên nhân do đâu
khiến ta như vậy. Do lười học, không hiểu bài, không làm bài tập hay không có
thời gian học. Nếu tìm được nguyên nhân cụ thể, chủ yếu , thì sẽ tìm được cách giải quyết đúng đắn.
Ngoài ra, ta còn áp dụng quan điểm toàn diện trong giao tiếp hằng ngày với mọi
người xung quanh. Tùy trường hợp cụ thể mà ta có những cách cư xử khác nhau
cho phù hợp,ta phải biết mình đứng ở đâu, vị trí nào trong hoàn cảnh đó để có
cách ứng xử và lời nói, suy nghĩ cho phù hợp. Ví dụ như khi giao tiếp với người
lớn thì ta cần có thái độ tôn trọng,lễ phép.Còn khi nhìn nhận một vấn đề thì ta
cần đặt nó vào những mối liên hệ, xem xét tất cả các mặt để đưa ra những kết luận đúng đắn. lOMoAR cPSD| 61622079
Áp dụng quan điểm toàn diện không những giúp ta có những đánh giá đúng bản
chất của sự vật, hiện tượng mà còn giúp ta có những mối quan hệ tốt đẹp hơn với
mọi người xung quanh. b. Vận dụng trong học tập:
Trong học tập bao giờ cũng xác định mục tiêu, động cơ, thái độ đúng đắn thì mới
có kết quả cao hơn. Khi chúng ta vận dụng quan điểm toàn diện trong học tập sẽ
giúp định hướng học tập sâu hơn và cao hơn. Cụ thể là khi áp dụng quan điểm
toàn diện thì ta sẽ đặt việc học tập vào các mối liên hệ khác nhau: cần học cái gì,
khi nào thì học, học như thế nào, áp dụng ở đâu, áp dụng như thế nào... , từ đó ta
có thể rút ra mối quan hệ giữa những điều ta học được để tạo nên một hệ thống
kiến thức cần thiết cho quá trình học tập.
- Học luôn đi đôi với hành, không thể tách rời nhau được nên trong học tập,
không chỉ có việc học mà tôi còn áp dụng những hiểu biết ấy vào trong thực tế
để có thể hiển một cách tròn vẹn hơn. Và chỉ khi nào áp dụng những thứ học
được vào thực tế thì mới có thể đối chiếu để so sánh xem những điều mình học
đã đúng hay chưa, có phát sinh ra những vấn đề khác hay không. Người xưa vẫn
dạy rằng: “Trăm hay không bằng tay quen”. Trước hết ta cần hiểu: “học” là tiếp
thu kiến thức đã được tích luỹ trong sách vở, là nắm vững lí luận đã được đúc
kết. Còn “hành” nghĩa là làm, là thực hành, là ứng dụng kiến thức, lí thuyết vào
thực tiễn đời sống. Một khi đã nắm vững kiến thức, đã tiếp thu lí thuyết mà ta
không vận dụng vào thực tiễn, thì học cũng trở nên vô ích. Do vậy việc học tập,
trau dồi kiến thức và kinh nghiệm là nền tảng để mỗi người áp dụng vào thực tế,
thực hành trong thực tiễn cuộc sống. -Ngoài ra thì học tập thôi thì chưa đủ, chúng
ta cần phải rèn luyện cả về phẩm chất, đạo đức như Bác đã từng dạy “Có tài mà
không có đức là người vô dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”.
+Nhận thức được điều đó nên đang là sinh viên ngồi trên ghế nhà trường, đang
trong quá trình phát triển về mọi mặt cả về thể lực và trí lực, tri thức và trí tuệ
nhân cách... cần tu dưỡng các phẩm chất đạo đức, nâng cao năng lực cho bản
thân, học hỏi bạn bè, gia đình, nhà trường và xã hội để trở thành con người mới lOMoAR cPSD| 61622079
xã hội chủ nghĩa nhằm đáp ứng nhu cầu của xã hội hiện nay làm nền tảng cho sự
phát triển tiếp tục trong tương lai.
2. Vận dụng quan điểm lịch sử - cụ thể trong cuộc sống, học tập của bản thân:
Học tập là một quá trình hoạt động căng thẳng của tư duy. Muốn đạt tới mục đích
học tập, cho dù là rất nhỏ (giải một bài tập, học thuộc một công thức v.v ), người
học tập phải suy nghĩ thông qua các thao tác trí tuệ, từ nhận biết, so sánh, phân
tích, tổng hợp đến cụ thể hóa đến khả năng dự đoán, bảo vệ chân lý do mình đề
xuất,... Tất thảy những gì có được về phương pháp nhận thức, về tư duy là kết
quả tất yếu của một quá trình học tập lâu dài, bền bỉ.
Quá trình học tập của sinh viên: Một khi người học đã tích lũy được một khối
lượng tri thức cần thiết có được một trình độ nhận thức xác định, họ có thể nhận
thức thế giới khách quan một cách sâu sắc hơn. Tính quy luật của những gì đang
tồn tại và vận động quanh họ được dần sáng tỏ vì chúng luôn có các mối quan hệ
và liên hệ lẫn nhau, sự thích ứng của họ với tự nhiên, với xã hội vừa được định
hướng theo những quan điểm chính thống của thời đại, vừa mang màu sắc cá nhân.
Vận dụng quan điểm lịch sử cụ thể vào quá trình học tập của sinh viên: bước vào
một môi trường mới có sự thay đổi về các yếu tố không gian và thời gian. Một
môi trường học tập mới khác nhiều với cách dạy truyền thống ở phổ thông, chính
vì thế không thể áp dụng các quá trình học tập cũ như: thầy đọc trò chép, vì vậy,
sinh viên cần tìm tòi áp dụng các phương pháp học tập mới khi bước vào giảng
đường đại học. Cụ thể có thể áp dụng một số phương pháp học tập sau:
Tự học: là quá trình lao động trí óc để chiếm lĩnh kiến thức, quá trình tự học giúp
sinh viên tìm kiếm và giải quyết một vấn đề được đặt ra. Sau khi giải quyết được
vấn đề đó sẽ giúp cho quá trình nhận thức của sinh viên ngày càng phát triển.
Trong quá trình học tập trên giảng đường: sinh viên cần tập trung nghe giảng. Vì
mỗi sự vật hiện tượng luôn có sự liên hệ nên tập trung nghe giảng sẽ giúp sinh
viên nắm được quy luật vận động và phát triển của một sự vật, hiện tương vấn
đề để có cái nhìn sâu sắc và toàn diện. lOMoAR cPSD| 61622079
Luôn tìm tòi những kiến thức mới Vì sự vật hiện tương luôn phong phú, phổ
biến. Khi vận dụng vào quá trình học tập, cần xem xét các yếu tố như: khả năng,
mục đích, từ đó mỗi cá nhân sẽ sử dụng những điểm mạnh và khắc phục những điểm yếu.
Phân chia quá trình học tập thành các giai đoạn nhỏ khác nhau, từ đó nhận
thức và tìm ra được phương pháp học hiệu quả nhất, hiệu suất cao nhất, từ đó
nhằm thúc đẩy quá trình tiếp thu kiến thức một cách hiệu quả. Quan điểm phát
triển góp phần khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, định kiến trong hoạt động
nhận thức và hoạt động thực tiễn của sinh viên. Nếu chúng ta tuyệt đối hóa
nhận thức, nhất là nhận thức khoa học về sự vật hay hiện tượng nào đó thì các
khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn sẽ không thể phát huy nỗ lực
của bản thân trong việc thực hiện hóa quan điểm phát triển vào nhận thức và
cải tạo sự vật nhằm phục vụ nhu cầu, lợi ích của chúng ta và toàn xã hội.
Ví dụ: Chẳng hạn, muốn nhận thức đúng và đầy đủ tri thức của khoa học triết
học, chúng ta còn phải tìm ra mối liên hệ của tri thức triết học với tri thức khoa
học khác, với tri thức cuộc sống và ngược lại, vì tri thức triết học được khái quát
từ tri thức của các khoa học khác và hoạt động của con người, nhất là tri thức
chuyên môn được chúng ta lĩnh hội. Sinh viên, những người đang trong quá trình
phát triển mọi mặt về thể chất lẫn trí lực tri thức và trí tuệ nhân cách, cho nên
thời kỳ này phải tranh thủ hoàn thiện bản thân, làm nền tảng cho sự phát triển
tiếp tục trong tương lai.
Trong quá trình làm bài, em đã sử dụng nền tảng tài liệu từ Giáo trình Triết học
Mác - Lênin của GS.TS Phạm Văn Đức, Giáo trình “Những nguyên lý cơ bản
của chủ nghĩa Mác – Lênin” và từ Slide bài giảng của cô. Em xin cảm ơn cô vì
đã tận tình hướng dẫn chúng em trong suốt quá trình học tập. Dù đã cố gắng
nhưng do kiến thức và hiểu biết còn hạn chế nên bài làm của em sẽ không tránh khỏi sai sót.
Một lần nữa, em xin chân thành cảm ơn cô ạ.