





Preview text:
lOMoAR cPSD| 61622079
Phân tích quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất. (bản gọn hơn)
Theo triết học Mác – Lênin, quan hệ sản xuất là tổng hợp các quan hệ kinh tế – vật
chất, khách quan, hình thành giữa người với người trong quá trình sản xuất xã hội,
bao gồm sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng. Nó biểu hiện mối quan hệ giữa
người với người trong sản xuất vật chất và gồm ba mặt cơ bản có quan hệ thống nhất
hữu cơ với nhau: quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất (giữ vai trò quyết định),
quan hệ tổ chức – quản lý sản xuất, và quan hệ phân phối sản phẩm lao động.
Lực lượng sản xuất là sự kết hợp giữa người lao động và tư liệu sản xuất, thể hiện
mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá trình sản xuất. Hai yếu tố cơ bản
của lực lượng sản xuất là người lao động – yếu tố trung tâm, và tư liệu sản xuất (gồm
tư liệu lao động và đối tượng lao động). Chính lực lượng sản xuất tạo ra năng lực
thực tiễn để sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội.
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là
quy luật cơ bản nhất của sự vận động và phát triển xã hội, chi phối sự ra đời, tồn tại
và thay thế lẫn nhau giữa các phương thức sản xuất. Quy luật này phản ánh mối quan
hệ biện chứng giữa hai mặt của phương thức sản xuất: Lực lượng sản xuất biểu hiện
mối quan hệ giữa con người với tự nhiên và quan hệ sản xuất biểu hiện mối quan hệ
giữa con người với con người trong quá trình sản xuất. Sự vận động của quy luật
diễn ra theo hai chiều hướng: lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, và
quan hệ sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất là yếu tố động nhất và cách mạng nhất, quy định tính chất và
trình độ của quan hệ sản xuất. Khi lực lượng sản xuất phát triển đến mức nhất định,
nó đòi hỏi quan hệ sản xuất phải thay đổi tương ứng để phù hợp. Nếu công cụ lao
động và trình độ khoa học kỹ thuật còn thấp, quan hệ sản xuất thường mang tính sở
hữu cá nhân; còn khi lực lượng sản xuất phát triển cao, mang tính xã hội hóa, thì cần
có hình thức sở hữu tập thể hoặc toàn dân để tổ chức sản xuất phù hợp. Nói cách
khác, lực lượng sản xuất là nội dung, còn quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của
quá trình sản xuất. Nội dung phát triển đến đâu thì hình thức phải được điều chỉnh
đến đó – đây chính là biểu hiện cụ thể của tính khách quan trong quy luật này.
Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất. Quan hệ sản
xuất không chỉ chịu sự chi phối mà còn tác động trở lại lực lượng sản xuất. Khi quan
hệ sản xuất phù hợp, nó tạo cơ chế, động lực để người lao động phát huy năng lực,
hăng hái sản xuất và ứng dụng tiến bộ khoa học – kỹ thuật, từ đó thúc đẩy lực lượng
sản xuất phát triển mạnh mẽ. Ngược lại, khi quan hệ sản xuất trở nên lạc hậu, lỗi
thời, không còn phù hợp với trình độ phát triển mới của lực lượng sản xuất, nó sẽ lOMoAR cPSD| 61622079
trở thành xiềng xích, kìm hãm sự phát triển. Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất mới
và quan hệ sản xuất cũ sẽ ngày càng gay gắt, tất yếu dẫn đến sự thay thế quan hệ sản
xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới – tiến bộ hơn, mở đường cho lực lượng sản xuất
tiếp tục phát triển. Sự thay đổi này thể hiện qua cách mạng xã hội, đặc biệt là cách
mạng trong lĩnh vực kinh tế – chính trị.
Quy luật này là cơ sở khoa học để lý giải sự phát triển xã hội, sự thay thế các hình
thái kinh tế - xã hội trong lịch sử (công xã nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến,
tư bản chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa) là quá trình lịch sử - tự nhiên diễn ra một cách
khách quan, do sự vận động của chính quy luật này. Phải luôn coi phát triển lực
lượng sản xuất là nhiệm vụ trung tâm, hàng đầu. Phải thường xuyên đổi mới, hoàn
thiện quan hệ sản xuất để nó luôn phù hợp, tạo động lực mạnh mẽ nhất cho lực lượng
sản xuất phát triển. Không được nóng vội thay đổi quan hệ sản xuất khi lực lượng
sản xuất chưa đạt đến trình độ chín muồi.
Trong thực tiễn Việt Nam, quy luật này được thể hiện rõ qua công cuộc Đổi mới năm
1986. Trước đó, nền kinh tế vận hành theo cơ chế bao cấp, mang tính tập trung cao,
không còn phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất đang dần mở rộng. Để
giải quyết mâu thuẫn này, Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện đường lối Đổi mới toàn
diện, chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thừa nhận
nhiều thành phần kinh tế và mở cửa hội nhập quốc tế. Kết quả là lực lượng sản xuất
được giải phóng, năng suất lao động tăng, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt,
khoa học – công nghệ phát triển nhanh chóng. Hiện nay, trong bối cảnh toàn cầu hóa
và chuyển đổi số, quy luật này tiếp tục được vận dụng linh hoạt: Nhà nước tập trung
phát triển hạ tầng[ công nghệ, đào tạo nhân lực số và đổi mới cơ chế quản lý để bảo
đảm quan hệ sản xuất phù hợp, tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất tri thức và công
nghệ cao phát triển mạnh mẽ hơn.
Tóm lại, quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất là quy luật khách quan, chi phối toàn bộ quá trình phát triển của xã hội. Việc
nắm vững và vận dụng đúng đắn quy luật này giúp chúng ta nhận thức rõ vai trò
trung tâm của phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời không ngừng đổi mới quan
hệ sản xuất để phù hợp với thời đại, mở đường cho sự phát triển bền vững của đất
nước trong kỷ nguyên công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chuyển đổi số.
Phân tích quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Quan hệ sản xuất là tổng hợp các quan hệ kinh tế vật chất, khách quan, độc lập với
ý chí của con người, hình thành giữa người với người trong quá trình sản xuất xã hội
(sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng). Quan hệ sản xuất biểu hiện mối quan hệ lOMoAR cPSD| 61622079
giữa người với người trong quá trình sản xuất vật chất. Quan hệ sản xuất bao gồm
ba mặt cơ bản, có quan hệ thống nhất hữu cơ với nhau: Quan hệ sở hữu đối với tư
liệu sản xuất – quan hệ quyết định nhất, quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất, quan
hệ phân phối sản phẩm lao động
Lực lượng sản xuất là sự kết hợp giữa người lao động với tư liệu sản xuất, tạo ra
năng lực thực tiễn để sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội. Lực lượng sản xuất
biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá trình sản xuất. Lực
lượng sản xuất bao gồm hai yếu tố cơ bản: Người lao động – yếu tố quan trọng nhất
và tư liệu sản xuất ( gồm tư liệu lao động và đối tượng lao động)
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là
quy luật cơ bản nhất, có vai trò quyết định trong sự vận động và phát triển của xã
hội, bởi vì nó chi phối sự ra đời, tồn tại và thay thế lẫn nhau giữa các phương thức
sản xuất. Quy luật này đề cập đến mối quan hệ biện chứng, khách quan giữa hai mặt
của phương thức sản xuất:
Lực lượng sản xuất: Biểu hiện mối quan hệ của con người với tự nhiên (gồm Tư liệu
sản xuất và Người lao động với kinh nghiệm, kỹ năng).
Quan hệ sản xuất: Biểu hiện mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản
xuất (gồm Quan hệ sở hữu, Quan hệ quản lý và Quan hệ phân phối).
Quy luật này vận động theo hai khía cạnh chủ yếu và có tính biện chứng: vai trò
quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất và sự tác động trở lại của
quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất quy định quan hệ sản xuất. Lực lượng sản xuất là yếu tố động
nhất, cách mạng nhất và quyết định tính chất của quan hệ sản xuất. Ở tính khách
quan, trình độ lực lượng sản xuất (mức độ phát triển của công cụ lao động, kinh
nghiệm, khoa học kỹ thuật) như thế nào thì đòi hỏi một quan hệ sản xuất tương ứng
để tổ chức quá trình sản xuất. Quan hệ sản xuất, đặc biệt là quan hệ sở hữu về tư liệu
sản xuất, phải được thiết lập sao cho phù hợp với tính chất của lực lượng sản xuất.
Ví dụ: Khi lực lượng sản xuất còn thô sơ, cá thể, thì quan hệ sản xuất thường mang
tính sở hữu cá nhân. Khi lực lượng sản xuất phát triển cao, mang tính xã hội hóa (sử
dụng máy móc lớn, cần sự hợp tác của nhiều người), thì quan hệ sản xuất đòi hỏi
phải có hình thức sở hữu và tổ chức sản xuất phù hợp với tính chất xã hội hóa đó (sở
hữu tập thể hoặc toàn dân). Tóm lại, lực lượng sản xuất là nội dung, còn quan hệ sản
xuất là hình thức xã hội của quá trình sản xuất. Nội dung quyết định hình thức.
Quan hệ sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất không thụ
động mà có sự tác động trở lại mạnh mẽ đối với lực lượng sản xuất. Khi quan hệ sản lOMoAR cPSD| 61622079
xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất (nghĩa là nó mở đường,
tạo điều kiện thuận lợi cho lực lượng sản xuất phát triển), nó sẽ là động lực to lớn
thúc đẩy sản xuất phát triển mạnh mẽ. Sự phù hợp này biểu hiện ở việc quan hệ sản
xuất tạo ra cơ chế, động lực để người lao động hăng hái sản xuất và áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật.
Trong quá trình phát triển, lực lượng sản xuất không ngừng thay đổi, tiến bộ. Ban
đầu quan hệ sản xuất là phù hợp, nhưng dần dần trở nên lỗi thời, lạc hậu so với trình
độ mới của lực lượng sản xuất. Khi quan hệ sản xuất không còn phù hợp nữa (trở
thành xiềng xích, trói buộc), nó sẽ kìm hãm, cản trở sự phát triển của lực lượng sản
xuất. Mâu thuẫn này ngày càng gay gắt, tất yếu dẫn đến yêu cầu phải thay thế quan
hệ sản xuất cũ bằng một quan hệ sản xuất mới, tiến bộ hơn. Sự mâu thuẫn giữa quan
hệ sản xuất cũ và lực lượng sản xuất mới đòi hỏi phải được giải quyết bằng cách
mạng xã hội (biểu hiện tập trung nhất là cách mạng trong lĩnh vực kinh tế, chính trị).
Về bản chất, thay thế quan hệ sản xuất cũ (kìm hãm) bằng quan hệ sản xuất mới (phù
hợp) để mở đường cho lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển. Kết quả là sự thay thế
quan hệ sản xuất tất yếu dẫn đến sự thay thế toàn bộ phương thức sản xuất (một hình
thái kinh tế - xã hội cũ được thay thế bằng một hình thái kinh tế - xã hội mới).
Về phương pháp luận, quy luật này là cơ sở khoa học để lý giải sự phát triển xã hội,
sự thay thế các hình thái kinh tế - xã hội trong lịch sử (công xã nguyên thủy, chiếm
hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa) là quá trình lịch sử -
tự nhiên diễn ra một cách khách quan, do sự vận động của chính quy luật này. Định
hướng hành động thực tiễn trong xây dựng kinh tế và phát triển xã hội, cần phải nhận
thức và vận dụng quy luật này một cách sáng tạo. Phải luôn coi phát triển lực lượng
sản xuất là nhiệm vụ trung tâm, hàng đầu. Phải thường xuyên đổi mới, hoàn thiện
quan hệ sản xuất (như chế độ sở hữu, quản lý, phân phối) để nó luôn phù hợp, tạo
động lực mạnh mẽ nhất cho lực lượng sản xuất phát triển. Không được nóng vội thay
đổi quan hệ sản xuất khi lực lượng sản xuất chưa đạt đến trình độ chín muồi.
Trong thực tiễn Việt Nam, quy luật này thể hiện rõ qua công cuộc Đổi mới năm 1986,
khi nước ta chuyển từ cơ chế bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, thừa nhận nhiều thành phần kinh tế và mở cửa hội nhập. Nhờ đó, lực
lượng sản xuất được giải phóng, năng suất lao động và đời sống nhân dân được nâng
cao. Hiện nay, trong bối cảnh chuyển đổi số và hội nhập toàn cầu, việc tiếp tục đổi
mới cơ chế, chính sách và phát triển nguồn nhân lực số là minh chứng cho việc vận
dụng đúng quy luật này, giúp quan hệ sản xuất tiếp tục phù hợp và thúc đẩy lực lượng
sản xuất phát triển mạnh mẽ hơn. Khi lực lượng sản xuất, tức là trình độ khoa học – lOMoAR cPSD| 61622079
công nghệ và con người, phát triển đến một mức mới, thì quan hệ sản xuất phải được
điều chỉnh tương ứng để không kìm hãm sự phát triển đó
Là sinh viên trường ĐHSP TP.HCM, em sẽ làm gì để góp phần phát triển lực
lượng sản xuất trong bối cảnh hiện nay.
Là một sinh viên của trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, bản thân tôi
sẽ góp phần phát triển lực lượng sản xuất bằng việc tập trung thúc đẩy, nâng cao
năng lực, tri thức của bản thân từ sự hướng dẫn của giảng viên và chính bản thân tôi
cũng cần phải tự tìm hiểu, học hỏi để củng cố tư duy, nhận thức về ứng dụng các
phương tiện, công cụ của khoa học - công nghệ làm sao cho bắt kịp xu hướng thời
đại, để chính bản thân luôn là người nắm bắt và đi theo sự phát triển, đổi thay không
ngừng nghỉ của thế giới, đăc biệt là khi Việt Nam đang trong bối cảnh toàn cầu hóa
và đẩy mạnh chuyển đổi số.
Thứ nhất, phát triển bản thân để trở thành yếu tố chất lượng cao của lực lượng sản
xuất là mục tiêu tiên quyết của tôi. Để làm được điều đó, tôi cần phải tích lũy tri thức lOMoAR cPSD| 61622079
qua thời gian, tập trung học tập chuyên sâu, nắm vững kiến thức của môn học chuyên
ngành của mình - Công nghệ giáo dục. Ngoài ra, trong quá trình học tập tại trường,
qua các hoạt động học tập và làm việc theo nhóm cũng giúp tôi phát triển thêm các
kỹ năng mềm như kỹ năng giải quyết vấn đề; tư duy phản biện; kỹ năng làm việc
nhóm. Sự vận động và phát triển của sự vật đều được diễn ra một cách từ từ có quy
luật, quá trình học tập cũng vậy. Trong hoạt động nhận thức và phát triển tri thức, tôi
phải biết từng bước tích lũy tri thức (lượng) làm biến đổi về kết quả học tập (chất) theo quy luật.
Thứ hai, trong thời đại ngày nay, khi toàn cầu hóa và chuyển đổi số diễn ra mạnh
mẽ, tri thức và công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, trong đó con người
– người lao động tri thức là nhân tố trung tâm. Là một sinh viên đang theo học ngành
Công nghệ Giáo dục, tôi hiểu rõ việc ứng dụng công nghệ số trong bối cảnh hiện
nay vô cùng quan trọng để tối ưu hóa hoạt động dạy và học. Ví dụ: Xây dựng bài
giảng tương tác bằng các công cụ như Canva, Moodle và sử dụng AI truy cập dữ liệu
học tập để cá nhân hóa quá trình học của học sinh. Điều này không chỉ nâng cao hiệu
quả đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, mà còn góp phần phát triển lực lượng
sản xuất tri thức – yếu tố then chốt của nền kinh tế hiện đại. Do đó, tôi sẽ không
ngừng học tập, rèn luyện năng lực số và tư duy sáng tạo, biết ứng dụng công nghệ
vào dạy học để nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực tri thức.
Đồng thời, tôi mong muốn tham gia nghiên cứu, sáng tạo học liệu số, đổi mới phương
pháp học tập và lan tỏa tri thức công nghệ đến cộng đồng, đặc biệt là những vùng
còn hạn chế về điều kiện học tập. Tôi tin rằng, trong thời đại số, việc phát triển lực
lượng sản xuất không chỉ nằm ở công nghệ, mà quan trọng hơn là phát huy trí tuệ,
sáng tạo và giá trị nhân văn của con người.
Theo quy luật, lực lượng sản xuất (bao gồm người lao động có kỹ năng cao và khoa
học tiên tiến) là yếu tố quyết định sự phát triển của xã hội. Việc tôi, một sinh viên sư
phạm, tập trung vào việc nâng cao chất lượng bản thân (yếu tố người lao động) và
nắm bắt công nghệ, đổi mới phương pháp giảng dạy (yếu tố khoa học), chính là sự
vận dụng đúng đắn tinh thần của quy luật này vào thực tiễn, góp phần tạo ra một thế
hệ lao động mới đủ khả năng làm chủ tư liệu sản xuất hiện đại trong tương lai.