lOMoARcPSD| 61431571
Câu 1 :Phân tích điều kiện ra đời tồn tại của sản xuất hàng hóa . Giải thích sao hàng
hóa có hai thuộc tính ?
1. Khái niệm
Sản xuất hàng hóa là một kiểu tổ chức sản xuất mà ở đó sản phẩm được sản xuất ra
Sản xuất tự cung tự cấp được hiểu là kiểu sản xuất mà trong đó sản phẩm làm ra chỉ nhằm đáp ứng
nhu cầu của người sản xuất trực tiếp.
2. Điều kiện ra đời tồn tại của sản xuất hàng hóa*Sản xuất hàng hóa ch
ra đời khi XH có đủ hai điều kiện:
- Phân công lao động xã hội:
+ là sự chuyên môn hóa sx thành những ngành nghề khác nhau.
+ Cơ sở dựa vào ưu thế, lợi thế tự nhiên; khả năng kỹ thuật; sở trường năng khiếu của từng người,
từng đơn vị…
+ Vai trò: làm cho việc trao đổi sản phẩm trở thành tất yếu. Mỗi người, mỗi đơn vị chỉ sản xuất 1
hoặc vài loại sản phẩm nhất định tuy nhiên nhu cầu cuộc sống đòi hỏi phải nhiều sản phẩm khác
nhau, do đó họ phải trao đổi sản phẩm cho nhau còn góp phần tăng năng suất lao động chính
vậy ngày càng có nhiều sản phẩm thặng dư mang trao đổi.
Như vậy, thể nói, phân công lao động hội chính sở, tiền đề của quá trình sản xuất,
trao đổi hàng hóa.
- Phải có sự tách biệt tương đối về kinh tế giữa các chủ thể sản xuất.
+ Chế độ hữu về liệu sản xuất biểu hiện ra liệu sản xuất chủ yếu trong hội thuộc về
các chủ thể (các cá nhân, các gia đình…) trong xã hội. Do sự tách rời giữa quyền sở hữu và quyền
sử dụng thì sự tách biệt về kinh tế không chỉ sự khác biệt về quyền sở hữu còn khác biệt
quyền sử dụng những khối lượng tư liệu sản xuất khác nhau của cùng một chủ thể sở hữu.
+ Khi sự tách biệt về kinh tế giữa những chủ thsản tồn tại trong điều kiện sự phân công lao
động hội thì việc trao đổi sản phẩm giữa những chủ thể khác nhau phải đảm bảo được lợi ích
của họ. Điều đó chỉ có thđược khi trao đổi dựa trên nguyên tắc ngang giá, đi lại tức
trao đổi hàng hóa, sản phẩm của lao động trở thành hàng hóa.
Như vậy, phân công lao động xã hội đã làm nảy sinh các quan hệ kinh tế giữa những chủ thể sản
xuất trong xã hội, làm cho họ có liên quan đến nhau, phải dựa vào nhau, phụ thuộc lẫn nhau. Còn
sự tách biệt về lợi ích kinh tế giữa các chủ thể sản xuất trong hội khiến cho việc trao đổi sản
phẩm giữa họ trở thành trao đổi hàng hóa và do đó sản xuất sản phẩm giữa họ sản xuất hàng hóa.
Đó chính là hai điều kiện cần và đủ để sản xuất hàng hóa ra đời, tồn tại phát triển, nếu thiếu một
trong hai điều kiện ấy sản xuất hàng hóa sẽ không tồn tại.
Thứ nhất: Sản xuất hàng hóa ra đời trên cơ sở của phân công lao động xã hội, chuyên môn hóa sản
xuất. Do đó, nó khai thác được những lợi thế về tự nhiên, xã hội, kỹ thuật của từng người, từng cơ
sở sản xuất cũng như từng vùng, từng địa phương. Đồng thời, sự phát triển của sản xuất hàng hóa
lại có tác động trở lại, thúc đẩy sự phát triển của phân công lao động xã hội, làm cho chuyên môn
lOMoARcPSD| 61431571
hóa lao động ngày càng tăng, mối liên hệ giữa các ngành, các vùng ngày càng trở nên mở rộng,
sâu sắc. Từ đó, phá vỡ tính tự cấp tự túc, bảo thủ, trì trệ, lạc hậu của mỗi ngành, mỗi địa phương
làm cho năng suất lao động xã hội tăng lên nhanh chóng, nhu cầu của xã hội được đáp ứng đầy đủ
hơn. Khi sản xuất trao đổi hàng hóa mở rộng giữa các quốc gia, thì còn khai thác được lợi
thế của các quốc gia với nhau.
Thứ hai: Trong nền sản xuất hàng hóa, quy sản xuất không còn bị giới hạn bởi nhu cầu
nguồn lực mang tính hạn hẹp của mỗi cá nhân, gia đình, mỗi cơ sở, mỗi vùng, mỗi địa phương, mà
nó được mở rộng, dựa trên cơ sở nhu cầu và nguồn lực của xã hội. Điều đó lại tạo điều kiện thuận
lợi cho việc ứng dụng những thành tựu khoa học - kỹ thuật vào sản xuất... thúc đẩy sản xuất phát
triển.
Thứ ba: Trong nền sản xuất hàng hóa, sự tác động của quy luật vốn của sản xuất trao đổi
hàng hóa là quy luật giá trị, cung - cầu, cạnh tranh... buộc người sản xuất hàng hóa phải luôn luôn
năng động, nhạy bén, biết tính toán, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, nâng cao năng suất, chất
lượng và hiệu quả kinh tế, cải tiến hình thức, quy cách và chủng loại hàng hóa, làm cho chi phí sản
xuất hạ xuống đáp ứng nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng ngày càng cao hơn.
Thứ tư: Trong nền sản xuất hàng hóa, sự phát triển của sản xuất, sự mở rộng giao lưu kinh tế
giữa các nhân, giữa các vùng, giữa các nước... không chỉ làm cho đời sống vật chất cả đời
sống văn hóa, tinh thần cũng được nâng cao hơn, phong phú hơn, đa dạng hơn.
Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực, sản xuất hàng hóa cũng có những mặt trái của nó như phân hóa
giàu - nghèo giữa những người sản xuất hàng hóa, tiềm ẩn những khả năng khủng hoảng, phá hoại
môi trường sinh thái, xã hội, v.v..
* Sở dĩ hàng hóa có hai thuộc tính : lao động sản xuất có tính chất hai mặt: Lao động cụ thể và
lao động trừu tượng.
- Lao động cụ thể: sự hao phí sức lao động giữa một ngành nghề chuyên môn nhất định. Laođộng
này tạo ra giá trị sử dụng của hàng hoá
- Lao động trừu tượng: sự hao phí sức lao động của người sản xuất ng hoá không kể đến
cáchình thức cụ thể của nó. Lao động trừu tượng tạo ra giá trị của hàng hoá.
Câu 2: Phân tích hai thuộc tính của hàng hóa. Lấy ví dthực tiễn để minh họa giải thích
vì sao hàng hóa lại có hai thuộc tính?
Trong mỗi hình thái kinh tế - xã hội khác nhau, sản xuất hàng hóa bản chất khác nhau, nhưng
một vật phẩm sản xuất ra khi đã mang hình thái là hàng hóa thì đều có hai thuộc tính cơ bản là giá
trị sử dụng và giá trị.
- Giá trị sử dụng
Giá trị sử dụng là công dụng của vật phẩm có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người.
dụ: Giá trị sử dụng của cơm để ăn, của áo để mặc, của máy móc, thiết bị, nguyên nhiên
vật liệu là để sản xuất... Và ngay mỗi một vật cũng có thể có nhiều thuộc tính tự nhiên khác nhau,
do đó nó có nhiều giá trị sử dụng hay công dụng khác nhau: gạo có thể dùng nấu cơm, nhưng gạo
cũng có thể dùng làm nguyên liệu trong ngành rượu, bia hay chế biến cồn y tế..
lOMoARcPSD| 61431571
Số lượng giá trị sử dụng của một vật không phải ngay một lúc đã phát hiện ra được hết, mà được
phát hiện dần dần trong quá trình phát triển của khoa học - kỹ thuật.
Giá trị sử dụng hay công dụng của hàng hóa là do thuộc nh tự nhiên của vật thể hàng hóa quyết
định. Với ý nghĩa như vậy, giá trị sử dụng là một phạm trù vĩnh viễn.
Giá trị sử dụng chỉ thể hiện khi con người sử dụng hay tiêu dùng, là nội dung vật chất của của
cải, không kể hình thức xã hội của của cái đó như thế nào. C.Mác chỉ rõ: Chỉ có trong việc sử dụng
hay tiêu dùng, thì giá trị sử dụng mới được thể hiện.
Con người ở bất kỳ thời đại nào cũng đều cần đến các giá trị sử dụng khác nhau của vật phẩm để
thỏa mãn những nhu cầu muôn vẻ của mình.
Một vật khi đã hàng hóa thì nhất thiết phải giá trị sử dụng. Nhưng không phải bất cứ vật
gì có giá trị sử dụng cũng đều là hàng hóa. Chẳng hạn, không khí rất cần cho cuộc sống con người.
nhưng không phải là hàng hóa. Nước suối, quả dại cũng có giá trị sử dụng, nhưng cũng không phải
là hàng hóa. Như vậy, một vật muốn trở thành hàng hóa thì giá trị sử dụng của nó phải là vật được
sản xuất ra để bán, để trao đổi, cũng có nghĩa là vật đó phải có giá trị trao đổi. Trong kinh tế hàng
hóa, giá trị sử dụng là vật mang giá trị trao đổi.
- Giá trị
Muốn hiểu được giá trị hàng hóa phải đi từ giá trị trao đổi. C.Mác viết: "Giá trị trao đổi trước hết
biểu hiện ra như một quan hệ về số lượng, một tỷ lệ theo đó những giá trị sử dụng loại này
được trao đổi với những giá trị sử dụng loại khác".
Ví dụ: 1 mét vải = 10 kg thóc.
Vấn đề đặt ra là, tại sao vải và thóc là hai hàng hóa có giá trị sử dụng khác nhau lại có thể trao đổi
được với nhau, hơn nữa chúng lại trao đổi với nhau theo một tỷ lệ nhất định?
Khi hai hàng hóa khác nhau vải thóc thể trao đổi được với nhau, thì phải một sở
chung nào đó: Cái chung đó không phải là giá trị sử dụng, tuy sự khác nhau về giá trị sử dụng của
chúng là điều kiện cần thiết của sự trao đổi. Song, cái chung đó phải nằm cả hai hàng hóa. Nếu
gạt giá trị sử dụng của sản phẩm sang một bên, thì giữa chúng chỉ có một cái chung: chúng đều là
sản phẩm của lao động. Để sản xuất ra vải và thóc, người thợ thủ công và người nông dân đều phải
hao phí lao động để sản xuất ra chúng. Hao phí lao động là cơ sở chung để so sánh vải với thóc, để
trao đổi giữa chúng với nhau.
Sở phải trao đổi theo một tỷ lệ nhất định, (1m vải = 10kg thóc), người ta cho rằng lao động
hao phí sản xuất ra lm vải bằng lao động hao phí để sản xuất ra 10kg thóc. Lao động hao phí đ
sản xuất ra hàng hóa ẩn giấu trong hàng hóa chính là giá trị của hàng hóa. Từ sự phân tích trên, rút
ra kết luận: giá trị là lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa.
Như vậy, chất của giá trị lao động, vậy, sản phẩm nào không có lao động của người sản xuất
kết tinh trong đó thì nó không có giá trị. Sản phẩm nào lao động hao phí để sản xuất ra chúng càng
nhiều thì giá trị càng cao. Giá trị hàng hóa biểu hiện quan hệ giữa những người sản xuất hàng
hóa. Giá trị một phạm trù lịch sử, gắn liền với nền sản xuất hàng hóa. Giá trị là nội dung,
lOMoARcPSD| 61431571
sở của giá trị trao đổi, còn giá trị trao đổi chỉ là hình thức biểu hiện của giá trị. Nếu giá trị sử dụng
là thuộc tính tự nhiên, thì giá trị là thuộc tính xã hội của hàng hóa.
Sự đối lập và mâu thuẫn giữa giá trị sử dụng và giá trị thể hiện ở chỗ: người làm ra hàng hóa đem
bán chỉ quan tâm đến giá trị hàng hóa do nh làm ra, nếu họ chú ý đến giá trị sử dụng cũng
chính để được giá trị. Ngược lại, người mua hàng hóa lại chỉ chú ý đến giá trị sử dụng của
hàng hóa, nhưng muốn tiêu dùng giá trị sử dụng đó người mua phải trả giá trị của cho người
bán. Nghĩa quá trình thực hiện giá trị tách rời quá trình thực hiện giá trị sử dụng: giá trị được
thực hiện trước, sau đó giá trị sử dụng mới được thực hiện
Hàng hóa là sự thống nhất của hai thuộc tính giá trị sử dụng và giá trị, nhưng đây là sự thống nhất
của hai mặt đối lập.
--Đã là hàng hóa thì phải có 2 thuộc tính( Kẻ bảng ra nhé )
Giá trị sử dụng . mục đích của người mua
Thực hiện trong tiêu dùng
Thực hiện sau
Giá trị
Mục đích của ng sản xuất
Tạo ra trong sx
Thực hiện trước
Câu 3 :Phân tích khái niệm , ưu thế, khuyết tật của nền kinh tế thị trường . Liên hệ thực tiễn
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VÀ NHỮNG ƯU NHƯỢC ĐIỂM CỦA
1. Khái niệm kinh tế thị trường
- Nền kinh tế được coi như một hệ thống các quan hệ kinh tế. Khi các quan hệ kinh tế giữacác
chủ thể biểu hiện qua mua, bán hàng hoá, dịch vụ trên thị trường (người bán cần tiền, người
mua cần bán họ phải gặp nhau trên thị trường) tnền kinh tế đó gọi là nền kinh tế thị trường.
- Kinh tế thị trường cách tổ chức nền kinh tế - hội, trong đó các quan hệ kinh tế của
cáccá nhân, các doanh nghiệp đều biểu hiện qua quan hệ mua, bán hàng hoá, dịch vụ trên thị
trường thái độ xử của từng thành viên chủ thể kinh tế định hướng vào việc m kiếm
lợi ích của chính mình theo sự dẫn dắt của giá cả thị trường.
- Kinh tế thị trường kinh tế hàng hoá phát triển trình độ cao. Khi tất cả các quan hệ kinhtế
trong quá trình tái sản xuất xã hội đều được tiền tệ hoá, các yếu tố của sản xuất như: đất đai và
tài nguyên, vốn bằng tiền vốn vật chất, sức lao động, công nghệ và quản lý, các sản phẩm
dịch vụ tạo ra, chất xám đều là đối tượng mua - bán và hàng hoá
2. Những ưu điểm (đặc trưng) của kinh tế thị trường Nền kinh tế thị trường nền kinh
tế tự do cạnh tranh. Doanh nghiệp muốn đứng vững được trên thị trường phải luôn luôn đổi
lOMoARcPSD| 61431571
mới về sản phẩm, về tổ chức quản lý. Do vậy, nó luôn tạo ra lực lượng sản xuất cho xã hội, tạo
ra sự dư thừa hàng hoá để cho phép thoả mãn nhu cầu ở mức tối đa.
Ưu điểm: Kinh tế thị trường luôn tạo ra cơ hội cho mọi người sáng tạo, luôn m cách để cải
tiến lối làm việc và rút ra những bài học kinh nghiệm về thành công hay thất bại để phát triển
không ngừng.
- Kinh tế thị trường tạo ra chế đào tạo, tuyển chọn, sử dụng người quản kinh doanh
năngđộng, có hiệu quả và đào thải các nhà quản lý kém hiệu quả.
-Kinh tế thị trường tạo ra môi trường kinh doanh tự do, dân chủ trong kinh tế bảo vệ lợi ích người
tiêu dùng.
Những khuyết tật của kinh tế thị trường Kinh tế thị trường là một hệ thống tự điều chỉnh nền
kinh tế, bảo đảm có năng suất, chất lượng hiệu quả cao, thừa và phong phú hàng hóa. Dịch
vụ được mở rộng và coi như là hàng hoá.
- Thị trường năng động, luôn luôn đổi mới mặt hàng, công nghệ. Song ngoài những ưu điểm
nêutrên, kinh tế thị trường còn tồn tại một số khuyết tật sau:
-+Kinh tế thị trường chú trọng đến những nhu cầu có khả năng thanh toán, không cý đến những
nhu cầu cơ bản của xã hội.
+ Kinh tế thị trường, đặt lợi nhuận lên hàng đầu , cái gì có lãi thì làm, không có lãi thì thôi nên nó
không giải quyết được cái gọi là “hàng hoá công cộng” (đường xá, các công trình văn hoá, y tế và
giáo dục .v.v.)
+ Trong nền kinh tế thị trường có sự phân biệt giàu nghèo rõ rệt: giàu ít, nghèo nhiều, bất công xã
hội. Do tính tự phát vốn có, kinh tế thị trường có thể mang lại không chỉ có tiến bộ mà còn cả suy
thoái, khủng hoảng và xung đột xã hội nên cần phải có sự can thiệp của Nhà nước.
+ Sự can thiệp của Nhà nước sẽ đảm bảo hiệu quả cho sự vận động của thị trường được ổn định,
nhằm tối đa hoá hiệu quả kinh tế, bảo đảm định hướng chính trị của sự phát triển kinh tế, sửa chữa
khắc phục những khuyết tật vốn có của kinh tế thị trường, tạo ra những công cụ quan trọng để điều
tiết thị trường tầm mô. Bằng cách đó Nhà nước mới thể kiềm chế tính tự phát của kinh tế
thị trường, đồng thời kích thích đối với sản xuất thông qua trao đổi hàng hoá dưới hình thức thương
mại. KINH DOANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP TRONG CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG
LIÊN H
- Thứ nhất,không ngừng nâng cao nhận thức về KTTT định hướng XHCN. Phải thấy rõ,
KTTTlà thành quả phát triển hàng nghìn năm của nhân loại và đạt được tốc độ phát triển đột biến
khi chuyển sang nền kinh tế dựa trên nền tảng công nghiệp cơ khí sản xuất hàng loạt. Chỉ có phát
triển KTTT ở trình độ cao, mới có thể hoàn thành quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa với một
cấu kinh tế chuyên môn hóa sâu dựa trên lợi thế cạnh tranh. Sự nỗ lực đó chính nhằm tăng
năng suất lao động chuyên môn hóa sản xuất là con đường tất yếu khách quan. Vấn đề là phải
tìm được các ngành có lợi thế cạnh tranh.
- Thứ hai, không ngừng tạo ra các quy chế đảm bảo tính tổ chức văn minh của các giao
dịchtrên thị trường, nhất về phương diện giảm thiểu chi phí rủi ro cho các chủ thể kinh tế,
trong đó chú ý tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm, cung cấp thông tin về sản phẩm, kỷ luật hợp đồng
lOMoARcPSD| 61431571
thanh toán không dùng tiền mặt… Từng bước phát triển các phương thức giao dịch phái sinh
và hỗ trợ (giao dịch tương tác, bảo hiểm…).
- Thứ ba, giảm thiểu can thiệp của Nhà nước vào gcả để tăng cường điều tiết thông qua
cáccông cụ thị trường như doanh nghiệp nhà nước cạnh tranh bình đẳng với các loại hình doanh
nghiệp khác; Nhà nước sử dụng chính sách tài chính, tiền tệ, thương mại quốc tế để điều tiết phân
bổ nguồn lực và phân phối của cải xã hội...
- Thứ tư, tìm kiếm các hình kinh tế tập thể hấp dẫn hộ gia đình. Trong khi chưa thể
kếtluận rõ ràng về chế độ sở hữu XHCN vềliệu sản xuất thì các doanh nghiệp nhà nước hiện tại
cần thực hiện theo ba hướng:
1) Nếu doanh nghiệp nhà nước sản xuất hàng hóa công cộng thì hoặc quản như một
đơnvị sự nghiệp, hoặc cho đấu thầu đơn hàng sản xuất theo gói hỗ trợ của Nhà nước.
2) Các doanh nghiệp còn lại phải định hướng theo tiêu chí hiệu quả kinh tế biệt trong so
sánhvà cạnh tranh bình đẳng với các loại hình doanh nghiệp khác cùng ngành. Có thể cổ phần hóa
doanh nghiệp nhà nước phù hợp; hoặc thể cho giải thể, phá sản doanh nghiệp quá yếu kém đi
đôi với xem xét trách nhiệm của cá nhân cán bộ quản lý.
3) Thiết lập chế kiểm soát tài sản nhà nước trong các doanh nghiệp theo một cách chặt
chẽ,phù hợp với thực tiễn.
- Thứ năm, kiên quyết cải cách hành chính để các cơ quan quản lý nhà nước trong sạch, thủtục
quản đơn giản, dễ tiếp cận, công khai, đề cao trách nhiệm phục vụ giải trình của công
chức. Trọng trách của Đảng là phải lãnh đạo thành công công cuộc cải cách này phải thu hút,
đào tạo được các công chức trong sạch, tài năng, thích hợp với chức trách được giao. Tạo
chế để nhân dân tăng cường giám sát đảng viên, công chức (tổ chức các kênh thông tin cung
cấp bằng chứng sai trái của công chức, tổ chức bảo vệ hiệu quả nhân chứng, tăng cường
trách nhiệm phản biện của công luận, nhất là báo chí, truyền thông,…).
- Thứ sáu,tăng cường vị thế của đất nước trên thị trường thế giới bằng chính sách đối ngoại
mềmdẻo, bảo vệ hiệu quả lợi ích quốc gia, dân tộc.
Câu 4 :Phân tích nội dung , yêu cầu và tác động của quy luật giá trị trong nền kinh tế hàng
hóa . ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này
Nội dung yêu cầu của quy luật giá trị
- Quy luật giá trị quy luật kinh tế căn bản của sản xuất lưu thông hàng hóa, ở đâu sảnxuất
và trao đổi hàng hoá thì ở đó có sự tồn tại và phát huy tác dụng của quy luật giá trị.
- Yêu cầu của quy luật giá trị:
+ Thứ nhất, theo quy luật này, sản xuất hàng hóa được thực hiện theo hao phí lao động xã hội cần
thiết, nghĩa cần tiết kiệm lao động (cả lao động quá khứ và lao động sống) nhằm: đối với một
hàng hóa thì giá trị của nó phải nhỏ hơn hoặc bằng thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất
ra hàng hóa đó, tức là giá cả thị trường của hàng hóa
lOMoARcPSD| 61431571
+ Thứ hai, trong trao đổi phải tuân theo nguyên tắc ngang giá, nghĩa là phải đảm bảo bù đắp được
chi phí chí người sản xuất (tất nhiên chi phí đó phải dựa trên cơ sở thời gian lao động hội cần
thiết, chứ không phải bất kỳ chi phí cá biệt nào) và đảm bảo có lãi để tái sản xuất mở rộng.
- Sự tác động, hay biểu hiện sự hoạt động của quy luật giá trị được thể hiện thông qua sự vậnđộng
của giá cả hàng hoá. Vì giá trị sở của giá cả, còn giá cả là sự biểu hiện bằng tiền của giá
trị, nên trước hết giá cả phụ thuộc vào giá trị.
Trên thị trường, ngoài giá trị, giá cả còn phụ thuộc vào các nhân tố khác như: cạnh tranh, cung cầu,
sức mua của đồng tiền. Sự tác động của các nhân tố này làm cho giá cả hàng hoá trên thị trường
tách rời giá trịlên xuống xoay quanh trục giá trị của nó. Sự vận động giá cả thị trường của hàng
hoá xoay quanh trục giá trị của nó hình là cơ chế hoạt động của quy luật giá trị. Thông qua sự vận
động của giá cả thị trường mà quy luật giá trị phát huy tác dụng.
Tác động của quy luật giá trị
- Thứ nhất, điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá.
Điều tiết sản xuất tức là điều hoà, phân bổ các yếu tố sản xuất giữa các ngành, các lĩnh vực
của nền kinh tế. Tác lộng này của quy luật giá trị thông qua sự biến động của giá cả hàng hoá trên
thị trường dưới tác động của quy luật cung - cầu.
* Nếu cung nhỏ hơn cầu, thì giá cả lớn hơn giá trị, nghĩa hàng hóa sản xuất ra lãi, bán
chạy.Giá cả cao hơn giá trị sẽ kích thích mở rộng đẩy mạnh sản xuất để tăng cung; ngược lại
cầu giảm vì giá tăng.
* Nếu cung lớn hơn cầu, sản phẩm sản xuất ra quá nhiều so với nhu cầu, giá cả thấp hơn giá
trị,hàng hóa khó bán, sản xuất không lãi. Thực tế đó, tự người sản xuất ra quyết định ngừng
hoặc giảm sản xuất; ngược lại, giá giảm sẽ kích thích tăng cầu, tự nó nhân tố làm cho cung tăng.
* Cung cầu tạm thời cân bằng; giá cả trùng hợp với giá trị. Bề mặt nền kinh tế người ta
thườnggọi là “bão hòa”.
Tuy nhiên nền kinh tế luôn luôn vận động, do đó quan hệ giá cả cung cầu cũng thường xuyên
biến động liên tục.
Như vậy, sự tác động trên của quy luật giá trị đã dẫn đến sự di chuyển sức lao động và tư liệu sản
xuất giữa các ngành sản xuất khác nhau. Đây là vai trò điều tiết sản xuất của quy luật giá trị.
+ Điều tiết lưu thông của quy luật giá trị cũng thông qua diễn biến giá cả trên thị trường. Sự biến
động của giá cả thị trường cũng tác dụng thu hút luồng hàng từ nơi giá cả thấp đến nơi giá cả
cao, do đó làm cho lưu thông hàng hoá thông suốt.
Như vậy, sự biến động của giả cả trên thị trường không những chỉ sự biến động về kinh tế,
còn có tác động điều tiết nền kinh tế hàng hoá.
- Thứ hai, kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, tăng năng suất lao động, thúc đẩy
lựclượng sản xuất xã hội phát triển.
lOMoARcPSD| 61431571
Trong nền kinh tế hàng hoá, mỗi người sản xuất hàng hoá là một chủ thể kinh tế độc lập, tự quyết
định hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Nhưng do điều kiện sản xuất khác nhau nên hao phí
lao động cá biệt của mỗi người khác nhau, người sản xuất nào có hao phí lao động cá biệt nhỏ hơn
hao phí lao động hội của hàng hoá thế lợi sẽ thu được lãi cao. Người sản xuất nào hao
phí lao động cá biệt lớn hơn hao phí lao động xã hội cần thiết sẽ ở thế bất lợi, lỗ vốn. Để giành lợi
thế trong cạnh tranh, và tránh nguy cơ vỡ nợ, phá sản, họ phải hạ thấp hao phí lao động cá biệt của
mình sao cho bằng hao phí lao động xã hội cần thiết. Muốn vậy, họ phải luôn tìm cách cải tiến kỹ
thuật, cải tiến tổ chức quản lý, thực hiện tiết kiệm chặt chẽ, tăng năng suất lao động. Sự cạnh tranh
quyết liệt càng thúc đẩy qtrình này diễn ra mạnh mẽ hơn, mang tính hội. Kết quả là lực lượng
sản xuất xã hội được thúc đẩy phát triển mạnh mẽ.
- Thứ ba, thực hiện sự lựa chọn tự nhiên phân hoá người sản xuất hàng hoá thành người
giàu,người nghèo.
Quá trình cạnh tranh theo đuổi giá trị tất yếu dẫn đến kết quả là: những người điều kiện sản xuất
thuận lợi, có trình độ, kiến thức cao, trang bị kỹ thuật tốt nên có hao phí lao động cá biệt thấp hơn
hao phí lao động xã hội cần thiết, nhờ đó phát tài, giàu lên nhanh chóng. Họ mua sắm thêm tư liệu
sản xuất, mở rộng sản xuất kinh doanh. Ngược lại những người không có điều kiện thuận lợi, làm
ăn kém cỏi, hoặc gặp rủi ro trong kinh doanh nên bị thua lỗ dẫn đến phá sản trở thành nghèo khó.
- Ý NGHĨA
Góp phần làm cho hàng hóa giữa các vùng có sự cân bằng nhất định
Tạo ra động lực phát triển cho nền kinh tế theo nguyên tắc “có làm có “
Tạo ra quy luật đào thải loại bỏ hết nhân , doanh nghiệp , tổ chức yếu kém không
đáp ứng nhu cầu cho xã hội
Nâng cao lực cạnh tranh trong việc sản xuất hàng hóa , chất lượng hàng hóa ngày càng
cao , giá cả cạnh tranh có lợi cho ng tiêu dùng
Kích thích cải tiến kỹ thuật , hợp hóa sản xuất , cải tiến tổ chức quản Câu 5: Phân
tích hàng hóa sức lao động . Ý nghĩa của việc nghiên cứu?
Để giải quyết mâu thuẫn của công thức chung của tư bản, cần tìm trên thị trường một loại hàng hóa
mà việc sử dụng nó có thể tạo ra được giá trị lớn hơn giá trị của bản thân nó.
- Hàng hóa đó hàng hóa sức lao động, sự chuyển hóa sức lao động thành hàng hóa. Sức
lao động là toàn bộ những năng lực (thể lực và trí lực) tồn tại trong một con người và được người
đó sử dụng vào sản xuất.
- Sức lao động là cái có trước, còn lao động chính là quá trình sử dụng sức lao động. Trong
mọi xã hội, sức lao động là yếu tố của sản xuất, nhưng sức lao động chỉ trở thành hàng hóa khi có
hai điều kiện sau đây:
Thứ nhất, người lao động phải được tự do về thân thể, có quyền sở hữu sức lao động của mình và
chỉ bán sức lao động ấy trong một thời gian nhất định.
lOMoARcPSD| 61431571
Thứ hai, người lao động không liệu sản xuất cần thiết để tự mình đứng ra tổ chức sản xuất
nên muốn sống chỉ còn cách bán sức lao động cho người khác sử dụng.
-Hai thuộc tính của hàng hóa sức lao động. Giống như mọi hàng hóa khác, hàng hóa sức lao động
cũng có hai thuộc tính: giá trị và giá trị sử dụng.
- Giá trị của hàng hóa sức lao động cũng do số lượng lao động xã hội cần thiết để sản xuất
và tái sản xuất ra nó quyết định.
-Giá trị sức lao động được quy về giá trị của toàn bộ các tư liệu sinh hoạt cần thiết để sản xuất và
tái sản xuất sức lao động, để duy trì đời sống của công nhân làm thuê và gia đình họ.
-Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động thể hiện quá trình tiêu dùng (sử dụng) sức lao động,
tức là quá trình lao động để sản xuất ra một hàng hóa, một dịch vụ nào đó.
-Trong quá trình lao động, sức lao động tạo ra một lượng giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân
nó; phần giá trị dôi ra so với giá trị sức lao động là giá trị thặng dư. Đó chính là đặc điểm riêng có
của giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động.
Ý NGHĨA :
Là chìa khóa để giải quyết mâu thuẫn trong công thức chung của tư bản
Vạch rõ nguồn gốc giá trthặng dư , đó lao động không công của người công nhân làm
thuê tạo ra quá trình sản xuất và bị tư sản chiếm không
Vạch rõ bản chất cơ bản nhất của xã hội tư bản đó là quan hệ bóc lột đối với lđ làm thuê
Vạch rõ các hình thức biểu hiện các giá trị thặng dư ; lợi nhuận , lợi nhuận bình quân , lợi
tức, làm thuê…
Vạch rõ đc nguồn gốc , bản chất và tích lũy tư bản
Câu 6: VÌ SAO SỨC LAO ĐỘNG LÀ HÀNG HÓA ĐẶC BIỆT ?
Cũng như mọi hàng hóa khác, hàng hóa sức lao động cũng 2 thuộc tính: giá trị giá trị sử
dụng. Nhưng trong cả 2 thuộc tính đó của hàng hóa sức lao động đều tồn tại những khía cạnh khác
biệt để có thể khẳng định rằng: hàng hóa sức lao động là hàng hóa đặc biệt.
-Trong thuộc tính “ giá trị”: là hàng hóa đặc biệt, giá trị hàng hóa sức lao động khác với hàng hóa
thông thường ở chỗ còn bao gồm cả yếu tố tinh thần lịch sử. Điều đó nghĩa là ngoài những
nhu cầu về vật chất, người công nhân còn có những nhu cầu về tinh thần, văn hóa…
- Những nhu cầu đó phụ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử của mỗi nước ở từng thời kỳ, đồng thời
nócòn phụ thuộc vào cả điều kiện địa lý, khí hậu của nước đó.
-Trong thuộc tính giá trị sử dụng”: cũng giống như hàng hóa thông thường khác giá trị sử dụng
của hàng hóa sức lao động, tức là quá trình lao động của người công nhân.
lOMoARcPSD| 61431571
-Nhưng quá trình sử dụng hay tiêu dùng hàng hóa sức lao động khác với hàng hóa thông thường
chỗ: hàng hóa thông thường sau quá trình tiên dùng hay sử dụng thì cả giá trị lẫn giá trị sử dụng
của nó đều tiêu biến mất theo thời gian.
-Trái lại, quá trình tiêu dùng hàng hóa sức lao động, đó lại quá trình sản xuất ra một loạt hàng
hóa nào đó, đồng thời là quá trình tạo ra một giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân hàng hóa sức
lao động.
-Phần lớn hơn đó chính giá trị thặng mà nhà bản đã chiếm đoạt. Như vậy, giá trị sử dụng
của hàng hóa sức lao động có tính chất đặc biệt, nónguồn gốc sinh ra giá trị, tức là nó có thể tạo
ra giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân nó.
-Nói cách khác, hàng hóa sức lao động tạo ra giá trị thặng dư khi được đem vào sử dụng và chỉ có
hàng hóa sức lao động mới có thể tạo ra giá trị thặng dư.
=> Chính vì vậy mà hàng hóa sức lao động là một hàng hóa đặc biệt khác hẳn với những hàng hóa
thông thường khác.
Câu 7: phân tích các phương pháp sản xuất giá trị thặng , từ đó rút ra ý nghĩa của việc
nghiên cứu
1. Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư
a. Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối
Khái niệm: là phương pháp sản xuất giá trị thặng dư thu được do kéo dài thời gian lao động vượt
quá thời gian lao động cần thiết, trong khi năng suất lao động, giá trị sức lao động và thời gian lao
động cần thiết không thay đổi.
VD: Ngày lao động là 8h, thời gian lao động tất yếu là 4h, thời gian lao động thặng dư là 4h, mỗi
giờ công nhân tạo ra một giá trị mới là 10 đơn vị thì giá trị thặng dư tuyệt đối là 40 và tỷ suất giá
trị thặng dư là m’=4/40x100%=100%.
Nếu kéo dài ngày lao động thêm 2 giờ nữa mộ điều kiện khác vẫn như cũ , thì giá trị thặng tuyệt
đối tăng lên 60 và tỷ suất giá trị thặng dư cùng tăng lên thành m’=60/40x100%=150%
Như vậy trong điều kiện thời gian lao động tất yếu không thay đổi, ngày lao động kéo dài tức
thời gian lao động thặng tăng lên kéo theo tỷ suất giá trị thặng cùng tăng theo. Bởi vậy
mà các nhà tư bản đã tìm mọi cách kéo dài ngày lao động nhằm mục đích sản xuất ra ở mức độ tối
đa nhất.
Khi kéo dài tuyệt đối ngày lao động trong điều kiện thời gian lao động tất yếu không thay đổi thì
thời gian lao động thặng dư tăng lên, tỷ suất giá trị thặng dư tăng lên. Phương pháp nâng cao trình
độ bóc lột bằng cách kéo dài toàn bộ ngày lao động một cách tuyệt đối gọi phương pháp sản xuất
giá trị thặng dư tuyệt đối.
Bóc lột giá trị thặng dư tuyệt đối gặp phải giới hạn về thể chất và tinh thần,đồng thời vấp phải sức
đấu tranh càng mạnh mẽ của công nhân. Nha bản luôn cố gắng tìm mọi cách để kéo dài ngày
làm việc của công nhân nhưng việc kéo dài ngày lao động không thể vượt qua giới hạn sinh lý ( vì
công nhân còn phải có thời gian ngủ nghỉ ngơi giải trí để phục hồi sức khỏe) thì gặp phải sự phản
lOMoARcPSD| 61431571
kháng gay gắt của giai cấp công nhân đòi giảm giờ làm. Điều này cũng chính là hạn chế của việc
kéo dài ngày lao động của các nhà tư bản.
Khi độ dài ngày lao động không thay đổi, nhà bản sẽ nâng cao trình độ bóc lột bằng việc tăng
cường độ lao động. Thực chất tăng cường độ lao động cũng giống như kéo dài ngày lao động. Vì
vậy, kéo dài thời gian lao động, tăng cường độ lao động là để sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối. b.
Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối
Khái niệm: giá trị thặng thu được do rút ngắn thời gian lao động tất yếu trong điều kiện độ
dài của ngày lao động không đổi nhờ đó tăng thời gian lao động thặng dư.
VD: ngày lao động là 8h và nó được chia thành 4 giờ là thời gian lao động tất yếu và 4 giờ là thời
gian lao động thặng dư thì tỷ suất giá trị thặng dư là m’ = 4/4 x 100% =100%
Giả định rằng ngày lao động không thay đổi nhưng bây giờ công nhân chỉ cần 3h lđ đã tạo ra được
một lượng giá trị mới bằng với giá trị sức lao động của mình. Do đó tỷ lệ phân chia ngày lao động
sẽ thay đổi 3h gọi thời gian lao động tất yếu và 3 thời gian là thời gian lao động thặng dư. Như
vậy tỷ suất giá trị thặng dư đã tăng từ 100% lên 150%
Phương pháp sản xuất giá trị tương đối phương pháp nâng cao trình độ bóc lột, bằng cách rút
ngắn thời gian lao động cần thiết để kéo dài thời gian lao động thặng dư trong điều kiện độ dài của
ngày lao động vẫn như cũ gọi là phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối.
Muốn rút ngắn thời gian lao động tất yếu thì phải hạ thấp giá trị sức lao động bằng cách giảm giá
trị tư liệu sinh hoạt và dịch vụ của người công nhân.
Bởi việc kéo dài ngày lao động bị giới hạn về thể chất tinh thần của người lao động và vấp
phải cuộc đấu tranh ngày càng mạnh mẽ của giai cấp công nhân. Mặt khác,khi sản xuất TBCN phát
triển trên giai đoạn công nghiệp khí kỹ thuật đã tiến bộ làm cho năng suất lao động tăng lên
nhanh chóng thì các nhà tư bản chuyển sang phương thức bóc lột dựa trên cơ sở tăng năng suất lao
động bóc lột giá trị thặng dư tương đối
Lịch sử phát triển của lực lượng sản xuất và của năng suất lao động XH dưới CNTB đã trải qua 3
giai đoạn hợp tác giản đơn, công trường thủ công và đại công nghiệp cơ khí, đó cũng là quá trình
nâng cao trình độ bóc lột giá trị thặng dư tương đối.
Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư nói trên được các nhà tư bản sdụng kết hợp với nhau
để nâng cao trình độ bóc lột công nhân làm thuê. Dưới chủ nghĩa bản, việc áp dụng máy móc
không phải để giảm nhcường độ lao động của công nhân trái lại tạo điều kiện để tăng cường
độ lao động. Ngày nay việc tự động hóa sản xuất làm cho cường độ lao động tăng lên, nhưng dưới
hình thức mới, sự căng thẳng của thần kinh thay thế cho cường độ lao động cơ bắp
2. Ý nghĩa thực tiễn
Quá trình nghiên cứu 2 phương pháp sản xuất giá trị thặng dư cho thấy khi gạt bỏ mục đích và tính
chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản thì sản xuất giá trị thặng dư chính là khoa học sử dụng lao động
có hiệu quả nhất mà bất kỳ xã hội nào cũng cần phải quan m. Bởi vậy, các phương pháp sản xuất
giá trị thặng có thể vận dụng trong các doanh nghiệp nước ta nhằm kích thích sản xuất tăng
năng suất lao độnghội, sử dụng kĩ thuật mới, cải tiến tổ chức quản lí, tiết kiệm chi phí sản xuất.
lOMoARcPSD| 61431571
Đối với quá trình phát triển nền kinh tế quốc dân của nước ta, việc nghiên cứu sản xuất giá trị thặng
dư gợi ra cho nhà hoạch định chính sách phương thức làm tăng của cải thúc đẩy phát triển kinh tế.
Trong điều kiện điểm xuất phát của nước ta còn thấp,để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cần tận dụng
triệt để các nguồn lực nhất là lao động và sản xuất kinh doanh. Về cơ bản lâu dài cần phải coi trọng
việc tăng năng suất lao động xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân
là giải pháp cơ bản để tăng năng suất lao động xã hội.
Quy luật giá trị thặng đã phát huy vai trò to lớn của nó đem lại những tiến bộ vượt bậc và thành
tựu kinh tế cho CNTB. Nước ta nói riêng và các nước XHCN nói chung cần nỗ lực không ngừng
trên con đường của mình để xây dựng XHCN trên thế giới. Riêng nước ta, đang trong giai đoạn độ
lên CNXH từ chế độ PK bỏ qua giai đoạn TBCN với xuất phát điểm là một nền kinh tế lạc hậu chủ
yếu là dựa vào nông nghiệp. Yêu cầu đặt ra là phải từng bước xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH.
Vì vậy, chúng ta phải học tập những thành tựu CNTB đã đạt được trong đó quan tâm đặc biệt
đến quy luật kinh tế cơ bản của nógiá trị thặng dư, sửa chữa quan niệm sai lầm trước kia trong
xây dựng kinh tế.
Câu 8 :phân tích căn cứ, nội dung của việc phân chia tư bản thành các cặp phạm trù ; tư bản
bất biến – tư bản khả biến và tư bản cố định – tư bản lưu động . ý nghĩa của việc nghiên cứu
-Căn cứ để phân chia ra bản bất biến bản khả biến dựa vào vai trò khác nhau của
các bộ phận của tư bản trong quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư
- Căn cứ để phân chia ra tư bản cố định và tư bản lưu động là phương thức chuyển dịch giá trị
khác nhau của từng bộ phận tư bản trong quá trình sản xuất\
- nội dung của việc phân chia tư bản thành các cặp phạm trù
Tư bản bất biến, tư bản khả biến
Muốn tiến hành sản xuất, nhà tư bản phải ứng tư bản (bỏ vốn) ra để mua tư liệu sản xuất và sức lao
động, tức là biến tư bản tiền tệ thành các yếu tố của quá trình sản xuất, thành các hình thức tồn tại
khác nhau của bản sản xuất. Các bộ phận khác nhau đó của bản vai trò khác nhau trong
quá trình sản xuất giá trị thặng dư.
– Trước hết, xét bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thức tư liệu sản xuất.
Tư liệu sản xuất có nhiều loại:
+ loại được sử dụng toàn bộ trong quá trình sản xuất, nhưng chỉ hao mòn dần, do đó chuyển
dần từng phần giá trị của nó vào sản phẩm như máy móc, thiết bị, nhà xưởng…
+ loại khi đưa vào sản xuất thì chuyển toàn bgiá trị của trong một chu kỳ sản xuất như
nguyên liệu, nhiên liệu. Song, giá trị của bất kỳ tư liệu sản xuất nào cũng đều nhờ lao động cụ
thể của công nhân mà được bảo toàn và di chuyển vào sản phẩm, nên giá trị đó không thể lớn hơn
giá trị tư liệu sản xuất đã bị tiêu dùng để sản xuất ra sản phẩm. Cái bị tiêu dùng của tư liệu sản xuất
giá trị sử dụng, kết quả của việc tiêu dùng đó là tạo ra một giá trị sử dụng mới. Giá trị tư liệu sản
xuất dược bảo toàn dưới dạng giá trị sử dụng mới chứ không phải là được sản xuất ra.
lOMoARcPSD| 61431571
Khái niệm: bộ phận tư bản biến thành tư liệu sản xuất mà giá trị được bảo toàn và chuyển vào sản
phẩm, không thay đổi về lượng giá trị của nó, được C. Mác gọi là tư bản bất biến, và ký hiệu là c.
– Xét bộ phận tư bản dùng để mua sức lao động:
+ Một mặt, giá trị của nó biến thành các tư liệu sinh hoạt của người công nhân và mất đi trong tiêu
dùng của công nhân.
+ Mặt khác, trong quá trình lao động, bằng lao động trừu tượng, công nhân tạo ra giá trị mới lớn
hơn giá trị của bản thân sức lao động, nó bằng giá trị sức lao động cộng với giá trị thặng dư.
Như vậy, bộ phận bản dùng để mua sức lao động đã không ngừng chuyển hoá từ đại lượng bất
biến thành một đại lượng khả biến, tức là đã tăng lên về lượng trong quá trình sản xuất.
Khái niệm: bộ phận bản biến thành sức lao động không tái hiện ra, nhưng thông qua lao động
trừu tượng công nhân m thuê tăng lên, tức là biến đổi về lượng, được C. Mác gọi là bản
khả biến, và ký hiệu là v tư bản cố định – tư bản lưu động
- bản cố định bộ phận bản sản xuất tồn tại dưới dạng máy c, thiết bị, nhà
xưởng,V.V. tham gia toàn bộ vào quá trình sản xuất, nhưng giá trị của không chuyển hết mệt
lần vào sản phẩm mà chuyển dần từng phần theo mức độ hao mòn của nó trong thời gian sản xuất.
bản cđịnh được sử dụng lâu dài trong nhiều chu kỳ sản xuất và bị hao mòn dần trong quá trình
sản xuất. Có hai loại hao mòn là hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình:
+ Hao mòn hữu hình hao mòn về vật chất, hao mòn về học thể nhận thấy. Hao mòn hữu
hình do quá trình sử dụng và sự tác động của tự nhiên làm cho các bộ phận của tư bản cố định dần
dần hao mòn đi tới chỗ hỏng và phải được thay thế.
+ Hao mòn hình sự hao mòn thuần tuý về mặt giá trị. Hao mòn nh xảy ra ngay cả khi
máy móc còn tốt nhưng bị mất giá xuất hiện các máy c hiện đại hơn, rẻ hơn hoặc giá trị
tương đương, nhưng công suất cao hơn. Để tránh hao mòn hình, các nhà bản tìm cách kéo
dài ngày lao động, tăng cường độ lao động, tăng ca kíp làm việc, v.v. nhằm tận dụng máy móc
trong thời gian càng ngắn càng tốt.
- bản lưu động là bộ phận bản sản xuất tồn tại dưới dạng nguyên liệu, nhiên liệu, vật
liệuphụ, sức lao động, v.v.. Giá trị của được hoàn lại toàn bộ cho các nhà bản sau mỗi quá
trình sản xuất, khi hàng hóa được bán xong.
- Căn cứ để phân chia bản sản xuất thành bản cố định bản lưu động phương
thứcchuyển dịch giá trị khác nhau của từng bộ phận tư bản trong quá trình sản xuất.
- Ý nghĩa của việc nghiên cứu: Việc phát hiện ra tính hai mặt của lao động sản xuất hàng
hóa đã giúp C.Mác tìm ra chìa khóa để xác định skhác nhau giữa tư bản bất biến và tư bản khả
biến. Ông người đầu tiên chia bản thành bản bất biến bản khbiến. Căn cứ cho sự
phân chia đó dựa vào sự khác nhau của các bộ phận của tư bản trong quá trình sản xuất ra giá trị
thặng dư, do đó nó vạch rõ bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản, chỉ lao động của công nhân làm
thuê mới tạo ra giá trị thặng cho các nhà bản. Qua việc nghiên cứu trên giúp ta hiểu được
tăng tốc độ chu chuyển của bản cố định một biện pháp quan trọng đtăng quỹ khấu hao tài
sản cố định làm cho lượng bản sử dụng tăng lên, tránh được thiệt hại hao mòn hữu tình do tự
nhiên phá hủy và hao mòn vô hình gây ra. Nhờ đó mà có điều kiện đổi mới thiết bị nhanh.
lOMoARcPSD| 61431571
Câu 9 :phân tích tính tất yếu khách quan của việc phát triển kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Nhất gạo nhì rau
Tam dầu tứ muối
Thịt thì đuôi đuối
Cá biển mất mùa
Đậu phụ chua chua
Nước chấm nhạt thếch
Mì chính có đếch
Vải sợi chưa về
Săm lốp thiếu ghê
Cái gì cũng thiếu… Tất yếu khách quan
- kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa Việt Nam 1 kiểu tổ chức kinh tế vừa dựa
trênnhững nguyên tắc quy luật của kinh tế thị trường vừa trên sở dẫn dắt chi phối bởi
các nguyên tắc và bản chất cnxh thể hiện trên 3 mặt ; sở hữu, tổ chức quản lý, và phân phối
-VN, trong thời kỳ quá độ chủ nghĩa , những điều kiện chung về kinh tế hàng hóa xuất hiện vẫn
còn tồn tại , do đó, sự tồn tại kinh tế hàng hóa , kinh tế thị trường ở nước ta là 1 tất yếu khách quan
- Sản phẩm để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người khác Sản xuất hàng hóa là kiểu kinh tếThông
qua việc trao đổi mua bán
- pclđ là cơ sở tất yếu của nền sx hh vẫn tồn tại và ngày càng phát triển về chiều sâu lẫn chiềurộng
của nc ta
- • Phân chia lao động xã hội thành các ngành,các lĩnh vực sản xuất khác nhau
Chuyên môn hóa sản xuất
Đa dạng hóa ngành nghề
- góp phần tự cung tự cấp và thúc đẩy kt mạnh mẽ
-là cơ sở và động lực nâng cao năng suất lao động xã hội , nghĩa là làm cho nền kinh tế ngày càng
có nhiều sp thặng dư dùng trao đổi , mua bán . …để ngày càng pt
- Tồn tại phát triển nhiều hình thức sở hữu nhiều thành phần kinh tế khác nhau (sở hữu toàndân
, tập thể , tư hữu , hỗn hợp ) .do đó tồn tại nhiều chủ thể kinh tế độc lập , lợi ích riêng , nên quan
hệ kinh tế giữa họ chỉ thể hiện bằng quan hệ hàng hóa – tiền tệ
-thành phần kinh tế NN kinh tế tập thể, tuy đều dựa vào chế độ công hữu về liệu sx, nhưng
các đơn vị kinh tế luôn có sự khác biệt nhất đinh , có quyền tự chủ sản xuất kinh doanh , lợi ích
riêng , mặt khác các đơn vị kinh tế còn có trình độ kỹ thuật công nghệ , trình độ quản , nên chi
lOMoARcPSD| 61431571
phí sản xuất hiệu quả cx khác nhau nên quan hệ kinh tế giữa họ phải thực hiện bằng quan hệ
hàng hóa tiền tệ
-trong quan hệ kinh tế đối ngoại trong điều kiện phân công quốc tế mỗi quốc gia riêng biệt
chủ sở hữu đối vs mỗi hàng hóa đưa ra trao đổi trên thị trg , sự trao đổi trên nguyên tắc ngang giá
- Sdụng quy luật cung cầu, giá trị, cạnh tranh để buộc mỗi người chịu trách n-nhiệm với sảnphẩm
mình làm ra
- Đại hội VI chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần thực hiện chuyển đổi sang
chếhạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa.
• đại hội VII đảng ta đã xác định việc đổi mới cơ chế kinh tế nước ta là một tất yếu khách quan và
trên thực trạng diễn ra việc đó tức là chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập chung sang nền kinh
tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN
Câu 10: Phân tích đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Việt Nam
Kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa Việt Nam là một kiểu tổ chức kinh tế, vừa dựa
trên những nguyên tắc và quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên sở được dẫn dắt, chi
phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội, thể hiện trên cả ba mặt: sở hữu, quản lý
phân phối. vậy, vừa tính phổ biến mang đặc trưng chung của nền kinh tế thị trường,
vừa có đặc trưng riêng của tính định hướng XHCN ở nước ta.
Đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
ĐẶC TRƯNG CHUNG
- Về chủ thể kinh tế: Các chủ thể kinh tế được tự do sản xuất kinh doanh theo luật pháp
đượcbình đẳng không phân biệt đối xử. Các chủ thể kinh tế đều hội để tiếp cận các nguồn
lực phát triển có hiệu quả.
- Về thị trường: Thực hiện các giải pháp để tạo lập và phát triển các yếu tố thị trường cơ bản
nhưthị trường hàng hóa dịch vụ; thị trường vốn, tiền tệ; thị trường khoa học, công nghệ; thị
trường lao động, thị trường bất động sản và lành mạnh hóa các yếu tố thị trường đó nhằm tạo điều
kiện cho nền kinh tế thị trường phát triển ổn định, bền vững bảo đảm định hướng hội chủ
nghĩa.
- Về chế vận hành: Tôn trọng tính khách quan của các quy luật kinh tế thị trường; tính
năngđộng của cơ chế thị trường.
- Về vai trò của Nhà nước: Nhà nước điều tiết nền kinh tế thị trường trên cơ sở vận dụng các
quyluật kinh tế của nền kinh tế thị trường vào điều kiện Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế
quốc tế để định hướng phát triển nền kinh tế, tạo lập môi trường cho nền kinh tế phát triển ổn định,
bền vững và hạn chế mặt trái của cơ chế thị trường.
Những đặc trưng riêng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
- Về hệ thống mục tiêu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa
ởnước ta: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI đã chỉ rỏ: phát triển nền kinh tế thị
lOMoARcPSD| 61431571
trường định hướng hội chủ nghĩa nước ta nhằm mục tiêu phát triển kinh tế - hội của đất
nước, thực hiện: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Để thực hiện được mục
tiêu đó trong phát triển nền kinh tế thị trường, phải tạo điều kiện để giải phóng mạnh mẽ sức sản
xuất và không ngừng phát triển lực lượng sản xuất; phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn với
xây dựng quan hệ sản xuất mới XHCN phù hợp trên cả ba mặt: sở hữu, quản lý và phân phối; phát
triển kinh tế thị trường để từng bước xây dựng htầng kinh tế cho chủ nghĩa xã hội; cải thiện
nâng cao đời sống nhân dân.
Mục tiêu kinh tế - hội - văn hóa nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước
ta phải đạt là:
+Làm cho dân giàu: Nội dung căn bản của dân giàu là mức bình quân GDP đầu người tăng nhanh
trong một thời gian ngắn và khoảng cách giàu, nghèo trong xã hội ngày càng được thu hẹp.
+Làm cho nước mạnh: Thể hiện mức đóng góp to lớn của nền kinh tế thị trường cho ngân sách
quốc gia; ở sự gia tăng ngành kinh tế mũi nhọn; ở sự sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả các nguồn tài
nguyên quốc gia; ở sự bảo vệ môi trường sinh thái, bảo vệ các bí mật quốc gia về tiềm lực kinh tế,
khoa học, công nghệ và an ninh, quốc phòng.
+Làm cho xã hội công bằng, văn minh: Thể hiện việc xử lý các quan hệ lợi ích ngay trong nội bộ
nền kinh tế thị trường, ở đó việc góp phần to lớn vào giải quyết các vấn đề xã hội, ở việc cung ứng
các hàng hóa và dịch vụ có giá trị không chỉ về kinh tế mà còn có giá trị cao về văn hóa, xã hội.
Về mục tiêu chính trị: Làm cho xã hội dân chủ, biểu hiện ở chỗ dân chủ hóa nền kinh tế, mọi người,
mọi thành phần kinh tế quyền tham gia vào hoạt động kinh tế, vào sản xuất kinh doanh,
quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của mình; quyền của người sản xuất người tiêu dùng được
bảo vệ trên cơ sở pháp luật của nhà nước.
- Về chế độ sở hữu các thành phần kinh tế: Nền kinh tế nhiều thành phần, với nhiều
hình thức sở hữu. Các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh với
nhau trên sở pháp luật của nhà nước, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo kinh tế
nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc
dân; chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, từng bước được xác lập và sẽ chiếm ưu thế tuyệt
đối khi chủ nghĩa xã hội về cơ bản được xây dựng xong.
- Về chế độ phân phối: Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta,
thực hiện phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế chủ yếu; đồng thời các hình
thức phân phối khác nữa (phân phối theo vốn, theo tài năng cùng các nguồn lực khác đóng góp vào
sản xuất kinh doanh), vừa khuyến khích lao động, vừa bảo đảm phúc lợi hội bản, bảo đảm
sự phân phối công bằng, hợp lý và hạn chế sự bất bình đẳng trong xã hội.
- Về vai trò quản của nớc hội chủ nghĩa: Nền kinh tế thị trường định hướng
hội chủ nghĩa, sự quản điều tiết nền kinh tế của nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa đặt
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Vì vậy, sự quản lý của nhà nước trong nền kinh tế
thị trường phải định hướng cho nền kinh tế phát triển có hiệu quả trên cơ sở đảm bảo lợi ích quốc
gia, lợi ích của nhân dân lao động thông qua hệ thống pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch,
lOMoARcPSD| 61431571
chính sách phát triển kinh tế, hội. Đồng thời, sử dụng chế thị trường (vận dụng các quy
luật kinh tế thị trường để đưa ra những công cụ tác động vào thị trường) kích thích sản xuất, giải
phóng sức sản xuất, phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường.
Sự quản của nhà nước xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường nhằm giải quyết mối quan
hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, cải thiện đời sống nhân dân. Nhà nước
thực hiện chính sách hội, một mặt, khuyến khích làm giàu hợp pháp, mặt khác phải thực hiện
xóa đói, giảm nghèo.
- Về nguyên tắc giải quyết các mối quan hệ chủ yếu: Kết hợp ngay từ đầu giữa lực lượng sản
xuất với quan hệ sản xuất, bảo đảm giải phóng sức sản xuất; xây dựng lực lượng sản xuất kết hợp
với củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới XHCN, nhằm phục vụ cho phát triển sản xuất
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; giữa phát triển sản xuất với từng bước cải thiện nâng
cao đời sống nhân dân; giải quyết tốt các vấn đề xã hội và công bằng xã hội, ngăn chặn các tệ nạn
xã hội; giải quyết tốt các nhiệm vụ chính trị, xã hội, văn hóa, môi trường và an ninh, quốc phòng.
- Về tính cộng đồng và tính dân tộc: Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước
ta mang tính cộng đồng cao theo truyền thống của hội Việt Nam, phát triển kinh tế thị trường
có sự tham gia của cộng đồng và vì lợi ích của cộng đồng, hướng tới xây dựng một cộng đồng
hội Việt Nam giàu có, đầy đủ về vật chất, phong phú về tinh thần, dân chủ, công bằng, văn minh,
đảm bảo cuộc sống ấm no và hạnh phúc cho nhân dân.
- Về quan hệ quốc tế: Kinh tế thị trường định hướng XHCN nước ta dựa vào sự phát huy
tối đa nguồn lực trong nước triệt để tranh thủ nguồn lực nước ngoài theo phương châm “Kết
hợp sức mạnh của dân tộc sức mạnh của thời đại” sử dụng các nguồn lực đó một cách hợp
lý, đạt hiệu quả cao, để phát triển nền kinh tế đất nước với tốc độ nhanh, hiện đại và bền vững.
Như vậy, nền kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa nước ta vừa mang tính phổ biến
(đặc trưng chung) của mọi nền kinh tế thị trường; vừa có đặc trưng riêng của tính định hướng
hội chủ nghĩa. Hai nhóm nhân tố này cùng tồn tại, kết hợp và bổ sung cho nhau. Trong đó, nhóm
đặc trưng chung đóng vai trò động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển, nhóm đặc trưng riêng
đóng vai trò hướng dẫn nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Câu 11: phân tích tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến sự phát triển kinh tế của Việt
Nam
Hiện nay, phạm vi đối tác FTA của Việt Nam đã khá rộng và toàn diện, trong 3 - 5 năm tới sẽ chạm
đến các dấu mốc quan trọng của nhiều Hiệp định dần tiến đến tự do hóa thuế quan hầu hết các
mặt hàng nhập khẩu với các đối tác thương mại chính. Ngoài ra, việc ký kết 2 Hiệp định và tuyên
bố kết thúc 2 Hiệp định quan trọng TPPViệt Nam - EU sẽ tác động đáng kể đến nền kinh tế của
Việt Nam trong giai đoạn tới. Cụ thể:
Đối với xuất, nhập khẩu: Quá trình thực hiện các cam kết cắt giảm thuế quan trong hội nhập kinh
tế quốc tế, hoàn thiện hệ thống quản lý hải quan theo tiêu chuẩn quốc tế và cắt giảm hàng rào thuế
quan đã tạo ra tác động tích cực đến hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam.
Cơ hội lớn nhất là mở rộng thị trường nhờ cắt giảm thuế và dỡ bỏ rào cản thương mại để tham gia
sâu hơn vào chuỗi sản xuất cung ứng toàn cầu. Nếu như năm 2007, tổng kim ngạch xuất nhập
khẩu của Việt Nam 111,3 tỷ USD (trong đó xuất khẩu 48,5 tỷ USD nhập khẩu 62,7 tỷ
lOMoARcPSD| 61431571
USD), thì tới năm 2015 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam đã tăng khoảng 3 lần đạt
328 tỷ USD (trong đó nhập khẩu là 165,6 tỷ USD và xuất khẩu là 162,4 tỷ USD).
Trong đó, các đối tác FTA của Việt Nam đều các đối tác thương mại quan trọng, thể hiện ở giá
trị thương mại lớn tỉ trọng cao trên tổng số liệu thương mại với thế giới của Việt Nam hằng năm.
Thương mại của Việt Nam với các đối tác đã đang đàm phán luôn chiếm trên 80% tổng kim
ngạch thương mại của Việt Nam.
Trong thời gian tới, khi các cam kết FTA bước vào giai đoạn cắt giảm sâu, đặc biệt các FTA với
Hoa Kỳ, EU hiệu lực sẽ thúc đẩy xuất khẩu mạnh hơn, đem đến nhiều cơ hội mở rộng thị trường
cho hàng hóa của Việt Nam đồng thời giúp đa dạng hóa thị trường nhập khẩu, tránh phụ thuộc vào
các thị trường nguyên liệu truyền thống.
Đối với chuyển dịch cơ cấu sản xuất hàng xuất khẩu: Hội nhập kinh tế quốc tế đã thúc đẩy tái cấu
trúc nền kinh tế, đặc biệt là chuyển dịch cơ cấu sản xuất hàng hóa xuất khẩu theo hướng tích cực,
phù hợp với chủ trương công nghiệp hóa theo hướng hiện đại, theo đó tập trung nhiều hơn vào các
mặt hàng chế biến, chế tạo có giá trị và hàm lượng công nghệ và giá trị gia tăng cao hơn.
Năm 2015, tỷ trọng xuất khẩu các nhóm hàng sản phẩm dệt may, giày dép, nông sản có xu hướng
giảm xuống trong khi đó tỷ trọng của các nhóm sản phẩm như máy vi tính, linh kiện điện tử, điện
thoại tăng lên, chiếm tới 27,7% tổng giá trị kim ngạch hàng hóa xuất khẩu.
Đối với thu hút FDI: Cùng với việc cải thiện môi trường đầu tư, hội nhập kinh tế quốc tế đã và s
mở ra các cơ hội lớn đối với lĩnh vực đầu tư của Việt Nam. Đầu tư tại Việt Nam, các nhà đầu tư có
thể tiếp cận và hưởng ưu đãi thuế quan từ các thị trường lớn mà Việt Nam đã ký kết FTA như khu
vực ASEAN, Trung Quốc, Hàn Quốc, Ấn Độ...
Bên cạnh đó, việc thực hiện các cam kết trong các Hiệp định thế hệ mới như TPP, EVFTA (dỡ bỏ
các biện pháp hạn chế đầu tư và dịch vụ, bảo hộ đầu tư công bằng, không phân biệt đối xử, mở cửa
thị trường mua sắm Chính phủ, dịch vụ tài chính…) sẽ khiến cho môi trường đầu tư của Việt Nam
trở nên thông thoáng n, minh bạch hơn, thuận lợi hơn từ đó sẽ thu hút được nhiều vốn đầu
hơn nữa.
Theo số liệu từ Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), tính chung trong 12 tháng năm
2015, tổng vốn đăng ký cấp mới và tăng thêm là 22,757 tỷ USD, tăng 12,5% so với cùng kỳ năm
2014.
Đối với thu ngân sách nhà nước: Lộ trình cắt giảm thuế trong các FTA sẽ dẫn tới giảm nguồn thu
NSNN đối với hàng hóa nhập khẩu. Tuy nhiên, tác động của việc giảm thuế đối với tổng thu NSNN
về cơ bản là không lớn do:
Mặc dù giai đoạn 2015 - 2018, các Hiệp định thương mại đã ký kết với ASEAN, Trung Quốc,
Hàn Quốc bước vào giai đoạn cắt giảm thuế và xóa bỏ thuế quan sâu và cơ cấu nhập khẩu của Việt
Nam chủ yếu là từ các ớc này, song lộ trình cắt giảm thuế đã thực hiện từ nhiều năm, nên không
ảnh hưởng đột ngột đến nguồn thu NSNN. Đối với TPP, nhập khẩu của Việt Nam từ các nước
TPP chiếm khoảng hơn 20% tổng kim ngạch nhập khẩu tuy nhiên, trong số 11 nước thành viên
TPP, Việt Nam đã kết FTA với 6/11 nước, đồng thời nhập khẩu từ 5 nước còn lại chỉ chiếm
lOMoARcPSD| 61431571
khoảng hơn 5% tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam. vậy, thể nói mức ảnh hưởng tới
thu NSNN là không nhiều.
Việc cắt giảm thuế quan trong TPP cũng như trong các FTA sẽ khiến cho hàng hoá nhập khẩu từ
các nước đối tác chắc chắn tăng lên do đó, số thu từ thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc
biệt đối với hàng nhập khẩu đương nhiên cũng ng theo. Ngoài ra, chi psản xuất của doanh
nghiệp giảm cũng sẽ tác động tích cực đến nguồn thu từ thuế thu nhập doanh nghiệp.
Xét về tổng thể, hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang đem lại nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp và
nền kinh tế của Việt Nam. Tuy nhiên, với 96% tổng số doanh nghiệp đang hoạt động doanh
nghiệp nhỏ và siêu nhỏ, áp lực cạnh tranh đối với nền kinh tế Việt Nam là rất lớn. Trong đó:
Đối với nh vực xuất nhập khẩu: Dù hàng rào thuế quan được dỡ bỏ, song việc có tận dụng được
các ưu đãi về thuế quan để mở rộng thị trường hay không lại phụ thuộc vào việc đáp ứng các yêu
cầu về quy tắc xuất xứ cũng như các yêu cầu khác (an toàn thực phẩm, vệ sinh dịch tễ...). Với năng
lực tự sản xuất và cung ứng nguyên phụ liệu còn hạn chế, thì những yêu cầu về quy tắc xuất xứ
hàng hóa lại đang đặt ra thách thức và mối lo ngại cho các doanh nghiệp Việt Nam.
Đối với sản xuất trong nước: Việc tự do hóa thuế nhập khẩu sẽ dẫn đến sự gia tăng nhanh chóng
nguồn hàng nhập khẩu từ các nước, đặc biệt là từ các nước TPP, EU vào Việt Nam do giá thành rẻ
hơn, chất lượng và mẫu mã đa dạng, phong phú hơn sẽ tác động đến lĩnh vực sản xuất trong nước.
Ngoài ra, khi hàng rào thuế quan được gỡ bỏ nhưng các hàng rào kỹ thuật không hiệu quả, Việt
Nam sẽ trở thành thị trường tiêu thụ các sản phẩm chất lượng kém, ảnh hưởng tới sức khỏe người
tiêu dùng trong khi lại không bảo vệ được sản xuất trong nước.
Đặc biệt, sản phẩm nông nghiệp các doanh nghiệp, nông dân Việt Nam đứng trước sự cạnh tranh
gay gắt, trong khi đó hàng hóa nông sản nông dân những đối tượng dễ bị tổn thương nhất
trong hội nhập.
Đối với lĩnh vực đầu tư: Việc gia tăng dòng vốn nước ngoài vào Việt Nam cũng đặt ra yêu cầu về
tăng cường năng lực của cơ quan quản lý trong việc giám sát dòng vốn ra vào, tránh nguy cơ bong
bóng hoặc rút vốn ồ ạt, để nền kinh tế có thể hấp thụ lượng vốn một cách có hiệu quả.
Do đó, để tối ưu hóa những tác động tích cực và giảm thiểu tác động tiêu cực của hội nhập kinh tế
đến nền kinh tế, trong thời gian tới cần thực hiện các giải pháp:
Đối với cơ quan quản lý Nhà nước:
- Tăng cường tuyên truyền cho các doanh nghiệp các thông tin về lộ trình các cam kết
hộinhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
- Nâng cao năng lực giám sát thị trường tài chính nhằm kịp thời đối phó với những biến động
củadòng vốn, những ảnh hưởng lây lan từ khủng hoảng tài chính của một nước trong khu vực.
Đối với hiệp hội ngành nghề:
Tiếp tục đẩy mạnh vai trò cầu nối giữa doanh nghiệp và các cơ quan quản lý, tạo điều kiện kết nối
giao lưu giữa các doanh nghiệp hội viên; tăng cường phổ biến thông tin hội nhập về pháp luật của
các nước, sở hữu trí tuệ, sở hữu công nghiệp, quản lý chất lượng, các quy tắc xuất xứ... cho doanh
nghiệp hội viên; hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng thương hiệu.
lOMoARcPSD| 61431571
Tổ chức các chương trình xúc tiến thương mại - đầu tư theo thị trường, ngành hàng, lĩnh vực kinh
doanh cụ thể để nâng cao khả năng tiếp cận thị trường trong và ngoài nước cũng như hỗ trợ doanh
nghiệp tiếp thị thương hiệu của sản phẩm, doanh nghiệp tới các thị trường xuất khẩu trọng điểm.
Triển khai các hoạt động cung cấp vấn cho các doanh nghiệp về pháp luật kinh doanh, các
kiến thức về hội nhập kinh tế quốc tế cũng như kinh nghiệm đối phó với các vụ kiện quốc tế, các
rào cản thương mại của các thị trường xuất khẩu.
Đối với doanh nghiệp:
Chủ động m hiểu nghiên cứu về thông tin, kiến thức vhội nhập kinh tế quốc tế, pháp luật
quốc tế. Mặc dù Việt Nam đã ký kết không ít các hiệp định thương mại tự do với các nước và khu
vực, song sự hiểu biết của doanh nghiệp trong nước về các FTAs là khá hạn chế, trong khi đó các
doanh nghiệp FDI lại rất chủ động và chuẩn bị khá kỹ để đón đầu và tận dụng ưu đãi từ các FTAs.
Do vậy, việc nghiên cứu tìm hiểu về TPP cũng như các FTAs việc cần thiết các doanh nghiệp
nếu muốn đứng vững trong cạnh tranh. Bên cạnh đó cũng cần sự hỗ trợ từ phía Chính phủ
các hiệp hội để doanh nghiệp thể tiếp cận c thông tin từ TPP, FTAs một cách nhanh nhất và
đầy đủ nhất.
Chủ động đầu tư và đổi mới trạng thiết bị công nghệ theo chiều sâu nhằm nâng cao chất lượng sản
phẩm, bởi nếu không đáp ứng được các tiêu chuẩn quốc tế thì sản phẩm của doanh nghiệp không
thể cạnh tranh với các nước khác. Như vậy, hiệp định mở ra hội, doanh nghiệp cũng không
thể tiếp cận thị trường và tham gia vào chuỗi cung ứng.
Chủ động lựa chọn và thay đổi nguồn nguyên liệu đầu vào. Việc loại bỏ thuế quan cho các đối tác
trong TPP chỉ áp dụng đối với các sản phẩm hàng hóa nguồn gốc xuất xứ nội khối. Trên thực
tế, với các FTA đã ký kết, cũng chỉ có khoảng 30% doanh nghiệp đã tận dụng được các ưu đãi thuế
quan.
Do đó, doanh nghiệp cần phải chủ động trong việc lựa chọn nguồn gốc của các nguyên phụ liệu,
đáp ứng các tiêu chuẩn về nguồn gốc xuất xứ. Đồng thời phải thực hiện tốt như các yêu cầu khác
(vệ sinh, kiểm dịch động thực vật, hàng rào kỹ thuật…).
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đặc biệt lao động tay nghề nhân lực trình độ cao.
Bên cạnh đó, cần chủ động tạo sự liên kết gắn bó giữa các doanh nghiệp, cùng xây dựng chiến lược
phát triển thị trường nội địa và nước ngoài.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 61431571
Câu 1 :Phân tích điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa . Giải thích vì sao hàng
hóa có hai thuộc tính ? 1. Khái niệm
Sản xuất hàng hóa là một kiểu tổ chức sản xuất mà ở đó sản phẩm được sản xuất ra
Sản xuất tự cung tự cấp được hiểu là kiểu sản xuất mà trong đó sản phẩm làm ra chỉ nhằm đáp ứng
nhu cầu của người sản xuất trực tiếp.
2. Điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa*Sản xuất hàng hóa chỉ
ra đời khi XH có đủ hai điều kiện:
- Phân công lao động xã hội:
+ là sự chuyên môn hóa sx thành những ngành nghề khác nhau.
+ Cơ sở dựa vào ưu thế, lợi thế tự nhiên; khả năng kỹ thuật; sở trường năng khiếu của từng người, từng đơn vị…
+ Vai trò: làm cho việc trao đổi sản phẩm trở thành tất yếu. Mỗi người, mỗi đơn vị chỉ sản xuất 1
hoặc vài loại sản phẩm nhất định tuy nhiên nhu cầu cuộc sống đòi hỏi phải có nhiều sản phẩm khác
nhau, do đó họ phải trao đổi sản phẩm cho nhau còn góp phần tăng năng suất lao động chính vì
vậy ngày càng có nhiều sản phẩm thặng dư mang trao đổi.
Như vậy, có thể nói, phân công lao động xã hội chính là cơ sở, là tiền đề của quá trình sản xuất, trao đổi hàng hóa.
- Phải có sự tách biệt tương đối về kinh tế giữa các chủ thể sản xuất.
+ Chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất biểu hiện ra là tư liệu sản xuất chủ yếu trong xã hội thuộc về
các chủ thể (các cá nhân, các gia đình…) trong xã hội. Do sự tách rời giữa quyền sở hữu và quyền
sử dụng thì sự tách biệt về kinh tế không chỉ ở sự khác biệt về quyền sở hữu mà còn khác biệt ở
quyền sử dụng những khối lượng tư liệu sản xuất khác nhau của cùng một chủ thể sở hữu.
+ Khi sự tách biệt về kinh tế giữa những chủ thể sản tồn tại trong điều kiện có sự phân công lao
động xã hội thì việc trao đổi sản phẩm giữa những chủ thể khác nhau phải đảm bảo được lợi ích
của họ. Điều đó chỉ có thể có được khi trao đổi dựa trên nguyên tắc ngang giá, có đi có lại tức là
trao đổi hàng hóa, sản phẩm của lao động trở thành hàng hóa.
Như vậy, phân công lao động xã hội đã làm nảy sinh các quan hệ kinh tế giữa những chủ thể sản
xuất trong xã hội, làm cho họ có liên quan đến nhau, phải dựa vào nhau, phụ thuộc lẫn nhau. Còn
sự tách biệt về lợi ích kinh tế giữa các chủ thể sản xuất trong xã hội khiến cho việc trao đổi sản
phẩm giữa họ trở thành trao đổi hàng hóa và do đó sản xuất sản phẩm giữa họ là sản xuất hàng hóa.
Đó chính là hai điều kiện cần và đủ để sản xuất hàng hóa ra đời, tồn tại và phát triển, nếu thiếu một
trong hai điều kiện ấy sản xuất hàng hóa sẽ không tồn tại.
Thứ nhất: Sản xuất hàng hóa ra đời trên cơ sở của phân công lao động xã hội, chuyên môn hóa sản
xuất. Do đó, nó khai thác được những lợi thế về tự nhiên, xã hội, kỹ thuật của từng người, từng cơ
sở sản xuất cũng như từng vùng, từng địa phương. Đồng thời, sự phát triển của sản xuất hàng hóa
lại có tác động trở lại, thúc đẩy sự phát triển của phân công lao động xã hội, làm cho chuyên môn lOMoAR cPSD| 61431571
hóa lao động ngày càng tăng, mối liên hệ giữa các ngành, các vùng ngày càng trở nên mở rộng,
sâu sắc. Từ đó, nó phá vỡ tính tự cấp tự túc, bảo thủ, trì trệ, lạc hậu của mỗi ngành, mỗi địa phương
làm cho năng suất lao động xã hội tăng lên nhanh chóng, nhu cầu của xã hội được đáp ứng đầy đủ
hơn. Khi sản xuất và trao đổi hàng hóa mở rộng giữa các quốc gia, thì nó còn khai thác được lợi
thế của các quốc gia với nhau.
Thứ hai: Trong nền sản xuất hàng hóa, quy mô sản xuất không còn bị giới hạn bởi nhu cầu và
nguồn lực mang tính hạn hẹp của mỗi cá nhân, gia đình, mỗi cơ sở, mỗi vùng, mỗi địa phương, mà
nó được mở rộng, dựa trên cơ sở nhu cầu và nguồn lực của xã hội. Điều đó lại tạo điều kiện thuận
lợi cho việc ứng dụng những thành tựu khoa học - kỹ thuật vào sản xuất... thúc đẩy sản xuất phát triển.
Thứ ba: Trong nền sản xuất hàng hóa, sự tác động của quy luật vốn có của sản xuất và trao đổi
hàng hóa là quy luật giá trị, cung - cầu, cạnh tranh... buộc người sản xuất hàng hóa phải luôn luôn
năng động, nhạy bén, biết tính toán, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, nâng cao năng suất, chất
lượng và hiệu quả kinh tế, cải tiến hình thức, quy cách và chủng loại hàng hóa, làm cho chi phí sản
xuất hạ xuống đáp ứng nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng ngày càng cao hơn.
Thứ tư: Trong nền sản xuất hàng hóa, sự phát triển của sản xuất, sự mở rộng và giao lưu kinh tế
giữa các cá nhân, giữa các vùng, giữa các nước... không chỉ làm cho đời sống vật chất mà cả đời
sống văn hóa, tinh thần cũng được nâng cao hơn, phong phú hơn, đa dạng hơn.
Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực, sản xuất hàng hóa cũng có những mặt trái của nó như phân hóa
giàu - nghèo giữa những người sản xuất hàng hóa, tiềm ẩn những khả năng khủng hoảng, phá hoại
môi trường sinh thái, xã hội, v.v..
* Sở dĩ hàng hóa có hai thuộc tính vì: lao động sản xuất có tính chất hai mặt: Lao động cụ thể và lao động trừu tượng.
- Lao động cụ thể: Là sự hao phí sức lao động giữa một ngành nghề chuyên môn nhất định. Laođộng
này tạo ra giá trị sử dụng của hàng hoá
- Lao động trừu tượng: Là sự hao phí sức lao động của người sản xuất hàng hoá không kể đến
cáchình thức cụ thể của nó. Lao động trừu tượng tạo ra giá trị của hàng hoá.
Câu 2: Phân tích hai thuộc tính của hàng hóa. Lấy ví dụ thực tiễn để minh họa và giải thích
vì sao hàng hóa lại có hai thuộc tính?
Trong mỗi hình thái kinh tế - xã hội khác nhau, sản xuất hàng hóa có bản chất khác nhau, nhưng
một vật phẩm sản xuất ra khi đã mang hình thái là hàng hóa thì đều có hai thuộc tính cơ bản là giá
trị sử dụng và giá trị.
- Giá trị sử dụng
Giá trị sử dụng là công dụng của vật phẩm có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người.
Ví dụ: Giá trị sử dụng của cơm là để ăn, của áo là để mặc, của máy móc, thiết bị, nguyên nhiên
vật liệu là để sản xuất... Và ngay mỗi một vật cũng có thể có nhiều thuộc tính tự nhiên khác nhau,
do đó nó có nhiều giá trị sử dụng hay công dụng khác nhau: gạo có thể dùng nấu cơm, nhưng gạo
cũng có thể dùng làm nguyên liệu trong ngành rượu, bia hay chế biến cồn y tế..
lOMoAR cPSD| 61431571
Số lượng giá trị sử dụng của một vật không phải ngay một lúc đã phát hiện ra được hết, mà nó được
phát hiện dần dần trong quá trình phát triển của khoa học - kỹ thuật.
Giá trị sử dụng hay công dụng của hàng hóa là do thuộc tính tự nhiên của vật thể hàng hóa quyết
định. Với ý nghĩa như vậy, giá trị sử dụng là một phạm trù vĩnh viễn.
Giá trị sử dụng chỉ thể hiện khi con người sử dụng hay tiêu dùng, nó là nội dung vật chất của của
cải, không kể hình thức xã hội của của cái đó như thế nào. C.Mác chỉ rõ: Chỉ có trong việc sử dụng
hay tiêu dùng, thì giá trị sử dụng mới được thể hiện.
Con người ở bất kỳ thời đại nào cũng đều cần đến các giá trị sử dụng khác nhau của vật phẩm để
thỏa mãn những nhu cầu muôn vẻ của mình.
Một vật khi đã là hàng hóa thì nhất thiết nó phải có giá trị sử dụng. Nhưng không phải bất cứ vật
gì có giá trị sử dụng cũng đều là hàng hóa. Chẳng hạn, không khí rất cần cho cuộc sống con người.
nhưng không phải là hàng hóa. Nước suối, quả dại cũng có giá trị sử dụng, nhưng cũng không phải
là hàng hóa. Như vậy, một vật muốn trở thành hàng hóa thì giá trị sử dụng của nó phải là vật được
sản xuất ra để bán, để trao đổi, cũng có nghĩa là vật đó phải có giá trị trao đổi. Trong kinh tế hàng
hóa, giá trị sử dụng là vật mang giá trị trao đổi. - Giá trị
Muốn hiểu được giá trị hàng hóa phải đi từ giá trị trao đổi. C.Mác viết: "Giá trị trao đổi trước hết
biểu hiện ra như là một quan hệ về số lượng, là một tỷ lệ theo đó những giá trị sử dụng loại này
được trao đổi với những giá trị sử dụng loại khác".
Ví dụ: 1 mét vải = 10 kg thóc.
Vấn đề đặt ra là, tại sao vải và thóc là hai hàng hóa có giá trị sử dụng khác nhau lại có thể trao đổi
được với nhau, hơn nữa chúng lại trao đổi với nhau theo một tỷ lệ nhất định?
Khi hai hàng hóa khác nhau là vải và thóc có thể trao đổi được với nhau, thì phải có một cơ sở
chung nào đó: Cái chung đó không phải là giá trị sử dụng, tuy sự khác nhau về giá trị sử dụng của
chúng là điều kiện cần thiết của sự trao đổi. Song, cái chung đó phải nằm ở cả hai hàng hóa. Nếu
gạt giá trị sử dụng của sản phẩm sang một bên, thì giữa chúng chỉ có một cái chung: chúng đều là
sản phẩm của lao động. Để sản xuất ra vải và thóc, người thợ thủ công và người nông dân đều phải
hao phí lao động để sản xuất ra chúng. Hao phí lao động là cơ sở chung để so sánh vải với thóc, để
trao đổi giữa chúng với nhau.
Sở dĩ phải trao đổi theo một tỷ lệ nhất định, (1m vải = 10kg thóc), vì người ta cho rằng lao động
hao phí sản xuất ra lm vải bằng lao động hao phí để sản xuất ra 10kg thóc. Lao động hao phí để
sản xuất ra hàng hóa ẩn giấu trong hàng hóa chính là giá trị của hàng hóa. Từ sự phân tích trên, rút
ra kết luận: giá trị là lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa.
Như vậy, chất của giá trị là lao động, vì vậy, sản phẩm nào không có lao động của người sản xuất
kết tinh trong đó thì nó không có giá trị. Sản phẩm nào lao động hao phí để sản xuất ra chúng càng
nhiều thì giá trị càng cao. Giá trị hàng hóa là biểu hiện quan hệ giữa những người sản xuất hàng
hóa. Giá trị là một phạm trù lịch sử, gắn liền với nền sản xuất hàng hóa. Giá trị là nội dung, là cơ lOMoAR cPSD| 61431571
sở của giá trị trao đổi, còn giá trị trao đổi chỉ là hình thức biểu hiện của giá trị. Nếu giá trị sử dụng
là thuộc tính tự nhiên, thì giá trị là thuộc tính xã hội của hàng hóa.
Sự đối lập và mâu thuẫn giữa giá trị sử dụng và giá trị thể hiện ở chỗ: người làm ra hàng hóa đem
bán chỉ quan tâm đến giá trị hàng hóa do mình làm ra, nếu họ có chú ý đến giá trị sử dụng cũng
chính là để có được giá trị. Ngược lại, người mua hàng hóa lại chỉ chú ý đến giá trị sử dụng của
hàng hóa, nhưng muốn tiêu dùng giá trị sử dụng đó người mua phải trả giá trị của nó cho người
bán. Nghĩa là quá trình thực hiện giá trị tách rời quá trình thực hiện giá trị sử dụng: giá trị được
thực hiện trước, sau đó giá trị sử dụng mới được thực hiện
Hàng hóa là sự thống nhất của hai thuộc tính giá trị sử dụng và giá trị, nhưng đây là sự thống nhất của hai mặt đối lập.
--Đã là hàng hóa thì phải có 2 thuộc tính( Kẻ bảng ra nhé )
Giá trị sử dụng . mục đích của người mua
Thực hiện trong tiêu dùng Thực hiện sau Giá trị
Mục đích của ng sản xuất Tạo ra trong sx Thực hiện trước
Câu 3 :Phân tích khái niệm , ưu thế, khuyết tật của nền kinh tế thị trường . Liên hệ thực tiễn
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VÀ NHỮNG ƯU NHƯỢC ĐIỂM CỦA NÓ
1. Khái niệm kinh tế thị trường
- Nền kinh tế được coi như một hệ thống các quan hệ kinh tế. Khi các quan hệ kinh tế giữacác
chủ thể biểu hiện qua mua, bán hàng hoá, dịch vụ trên thị trường (người bán cần tiền, người
mua cần bán và họ phải gặp nhau trên thị trường) thì nền kinh tế đó gọi là nền kinh tế thị trường.
- Kinh tế thị trường là cách tổ chức nền kinh tế - xã hội, trong đó các quan hệ kinh tế của
cáccá nhân, các doanh nghiệp đều biểu hiện qua quan hệ mua, bán hàng hoá, dịch vụ trên thị
trường và thái độ cư xử của từng thành viên chủ thể kinh tế là định hướng vào việc tìm kiếm
lợi ích của chính mình theo sự dẫn dắt của giá cả thị trường.
- Kinh tế thị trường là kinh tế hàng hoá phát triển ở trình độ cao. Khi tất cả các quan hệ kinhtế
trong quá trình tái sản xuất xã hội đều được tiền tệ hoá, các yếu tố của sản xuất như: đất đai và
tài nguyên, vốn bằng tiền và vốn vật chất, sức lao động, công nghệ và quản lý, các sản phẩm
dịch vụ tạo ra, chất xám đều là đối tượng mua - bán và hàng hoá
2. Những ưu điểm (đặc trưng) của kinh tế thị trường Nền kinh tế thị trường là nền kinh
tế tự do cạnh tranh. Doanh nghiệp muốn đứng vững được trên thị trường phải luôn luôn đổi lOMoAR cPSD| 61431571
mới về sản phẩm, về tổ chức quản lý. Do vậy, nó luôn tạo ra lực lượng sản xuất cho xã hội, tạo
ra sự dư thừa hàng hoá để cho phép thoả mãn nhu cầu ở mức tối đa.
Ưu điểm: Kinh tế thị trường luôn tạo ra cơ hội cho mọi người sáng tạo, luôn tìm cách để cải
tiến lối làm việc và rút ra những bài học kinh nghiệm về thành công hay thất bại để phát triển không ngừng. -
Kinh tế thị trường tạo ra cơ chế đào tạo, tuyển chọn, sử dụng người quản lý kinh doanh
năngđộng, có hiệu quả và đào thải các nhà quản lý kém hiệu quả.
-Kinh tế thị trường tạo ra môi trường kinh doanh tự do, dân chủ trong kinh tế bảo vệ lợi ích người tiêu dùng.
Những khuyết tật của kinh tế thị trường Kinh tế thị trường là một hệ thống tự điều chỉnh nền
kinh tế, bảo đảm có năng suất, chất lượng và hiệu quả cao, dư thừa và phong phú hàng hóa. Dịch
vụ được mở rộng và coi như là hàng hoá. -
Thị trường năng động, luôn luôn đổi mới mặt hàng, công nghệ. Song ngoài những ưu điểm
nêutrên, kinh tế thị trường còn tồn tại một số khuyết tật sau:
-+Kinh tế thị trường chú trọng đến những nhu cầu có khả năng thanh toán, không chú ý đến những
nhu cầu cơ bản của xã hội.
+ Kinh tế thị trường, đặt lợi nhuận lên hàng đầu , cái gì có lãi thì làm, không có lãi thì thôi nên nó
không giải quyết được cái gọi là “hàng hoá công cộng” (đường xá, các công trình văn hoá, y tế và giáo dục .v.v.)
+ Trong nền kinh tế thị trường có sự phân biệt giàu nghèo rõ rệt: giàu ít, nghèo nhiều, bất công xã
hội. Do tính tự phát vốn có, kinh tế thị trường có thể mang lại không chỉ có tiến bộ mà còn cả suy
thoái, khủng hoảng và xung đột xã hội nên cần phải có sự can thiệp của Nhà nước.
+ Sự can thiệp của Nhà nước sẽ đảm bảo hiệu quả cho sự vận động của thị trường được ổn định,
nhằm tối đa hoá hiệu quả kinh tế, bảo đảm định hướng chính trị của sự phát triển kinh tế, sửa chữa
khắc phục những khuyết tật vốn có của kinh tế thị trường, tạo ra những công cụ quan trọng để điều
tiết thị trường ở tầm vĩ mô. Bằng cách đó Nhà nước mới có thể kiềm chế tính tự phát của kinh tế
thị trường, đồng thời kích thích đối với sản xuất thông qua trao đổi hàng hoá dưới hình thức thương
mại. KINH DOANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP TRONG CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG LIÊN HỆ -
Thứ nhất,không ngừng nâng cao nhận thức về KTTT định hướng XHCN. Phải thấy rõ,
KTTTlà thành quả phát triển hàng nghìn năm của nhân loại và đạt được tốc độ phát triển đột biến
khi chuyển sang nền kinh tế dựa trên nền tảng công nghiệp cơ khí sản xuất hàng loạt. Chỉ có phát
triển KTTT ở trình độ cao, mới có thể hoàn thành quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa với một
cơ cấu kinh tế chuyên môn hóa sâu dựa trên lợi thế cạnh tranh. Sự nỗ lực đó chính là nhằm tăng
năng suất lao động và chuyên môn hóa sản xuất là con đường tất yếu khách quan. Vấn đề là phải
tìm được các ngành có lợi thế cạnh tranh. -
Thứ hai, không ngừng tạo ra các quy chế đảm bảo tính tổ chức và văn minh của các giao
dịchtrên thị trường, nhất là về phương diện giảm thiểu chi phí và rủi ro cho các chủ thể kinh tế,
trong đó chú ý tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm, cung cấp thông tin về sản phẩm, kỷ luật hợp đồng lOMoAR cPSD| 61431571
và thanh toán không dùng tiền mặt… Từng bước phát triển các phương thức giao dịch phái sinh
và hỗ trợ (giao dịch tương tác, bảo hiểm…). -
Thứ ba, giảm thiểu can thiệp của Nhà nước vào giá cả để tăng cường điều tiết thông qua
cáccông cụ thị trường như doanh nghiệp nhà nước cạnh tranh bình đẳng với các loại hình doanh
nghiệp khác; Nhà nước sử dụng chính sách tài chính, tiền tệ, thương mại quốc tế để điều tiết phân
bổ nguồn lực và phân phối của cải xã hội... -
Thứ tư, tìm kiếm các mô hình kinh tế tập thể hấp dẫn hộ gia đình. Trong khi chưa thể có
kếtluận rõ ràng về chế độ sở hữu XHCN về tư liệu sản xuất thì các doanh nghiệp nhà nước hiện tại
cần thực hiện theo ba hướng: 1)
Nếu là doanh nghiệp nhà nước sản xuất hàng hóa công cộng thì hoặc quản lý nó như một
đơnvị sự nghiệp, hoặc cho đấu thầu đơn hàng sản xuất theo gói hỗ trợ của Nhà nước. 2)
Các doanh nghiệp còn lại phải định hướng theo tiêu chí hiệu quả kinh tế cá biệt trong so
sánhvà cạnh tranh bình đẳng với các loại hình doanh nghiệp khác cùng ngành. Có thể cổ phần hóa
doanh nghiệp nhà nước phù hợp; hoặc có thể cho giải thể, phá sản doanh nghiệp quá yếu kém đi
đôi với xem xét trách nhiệm của cá nhân cán bộ quản lý. 3)
Thiết lập cơ chế kiểm soát tài sản nhà nước trong các doanh nghiệp theo một cách chặt
chẽ,phù hợp với thực tiễn.
- Thứ năm, kiên quyết cải cách hành chính để có các cơ quan quản lý nhà nước trong sạch, thủtục
quản lý đơn giản, dễ tiếp cận, công khai, đề cao trách nhiệm phục vụ và giải trình của công
chức. Trọng trách của Đảng là phải lãnh đạo thành công công cuộc cải cách này và phải thu hút,
đào tạo được các công chức trong sạch, tài năng, thích hợp với chức trách được giao. Tạo cơ
chế để nhân dân tăng cường giám sát đảng viên, công chức (tổ chức các kênh thông tin cung
cấp bằng chứng sai trái của công chức, tổ chức bảo vệ có hiệu quả nhân chứng, tăng cường
trách nhiệm phản biện của công luận, nhất là báo chí, truyền thông,…).
- Thứ sáu,tăng cường vị thế của đất nước trên thị trường thế giới bằng chính sách đối ngoại
mềmdẻo, bảo vệ hiệu quả lợi ích quốc gia, dân tộc.
Câu 4 :Phân tích nội dung , yêu cầu và tác động của quy luật giá trị trong nền kinh tế hàng
hóa . ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này
Nội dung yêu cầu của quy luật giá trị
- Quy luật giá trị là quy luật kinh tế căn bản của sản xuất và lưu thông hàng hóa, ở đâu có sảnxuất
và trao đổi hàng hoá thì ở đó có sự tồn tại và phát huy tác dụng của quy luật giá trị.
- Yêu cầu của quy luật giá trị:
+ Thứ nhất, theo quy luật này, sản xuất hàng hóa được thực hiện theo hao phí lao động xã hội cần
thiết, nghĩa là cần tiết kiệm lao động (cả lao động quá khứ và lao động sống) nhằm: đối với một
hàng hóa thì giá trị của nó phải nhỏ hơn hoặc bằng thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất
ra hàng hóa đó, tức là giá cả thị trường của hàng hóa lOMoAR cPSD| 61431571
+ Thứ hai, trong trao đổi phải tuân theo nguyên tắc ngang giá, nghĩa là phải đảm bảo bù đắp được
chi phí chí người sản xuất (tất nhiên chi phí đó phải dựa trên cơ sở thời gian lao động xã hội cần
thiết, chứ không phải bất kỳ chi phí cá biệt nào) và đảm bảo có lãi để tái sản xuất mở rộng.
- Sự tác động, hay biểu hiện sự hoạt động của quy luật giá trị được thể hiện thông qua sự vậnđộng
của giá cả hàng hoá. Vì giá trị là cơ sở của giá cả, còn giá cả là sự biểu hiện bằng tiền của giá
trị, nên trước hết giá cả phụ thuộc vào giá trị.
Trên thị trường, ngoài giá trị, giá cả còn phụ thuộc vào các nhân tố khác như: cạnh tranh, cung cầu,
sức mua của đồng tiền. Sự tác động của các nhân tố này làm cho giá cả hàng hoá trên thị trường
tách rời giá trị và lên xuống xoay quanh trục giá trị của nó. Sự vận động giá cả thị trường của hàng
hoá xoay quanh trục giá trị của nó hình là cơ chế hoạt động của quy luật giá trị. Thông qua sự vận
động của giá cả thị trường mà quy luật giá trị phát huy tác dụng.
Tác động của quy luật giá trị
- Thứ nhất, điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá.
Điều tiết sản xuất tức là điều hoà, phân bổ các yếu tố sản xuất giữa các ngành, các lĩnh vực
của nền kinh tế. Tác lộng này của quy luật giá trị thông qua sự biến động của giá cả hàng hoá trên
thị trường dưới tác động của quy luật cung - cầu. *
Nếu cung nhỏ hơn cầu, thì giá cả lớn hơn giá trị, nghĩa là hàng hóa sản xuất ra có lãi, bán
chạy.Giá cả cao hơn giá trị sẽ kích thích mở rộng và đẩy mạnh sản xuất để tăng cung; ngược lại cầu giảm vì giá tăng. *
Nếu cung lớn hơn cầu, sản phẩm sản xuất ra quá nhiều so với nhu cầu, giá cả thấp hơn giá
trị,hàng hóa khó bán, sản xuất không có lãi. Thực tế đó, tự người sản xuất ra quyết định ngừng
hoặc giảm sản xuất; ngược lại, giá giảm sẽ kích thích tăng cầu, tự nó là nhân tố làm cho cung tăng. *
Cung cầu tạm thời cân bằng; giá cả trùng hợp với giá trị. Bề mặt nền kinh tế người ta
thườnggọi là “bão hòa”.
Tuy nhiên nền kinh tế luôn luôn vận động, do đó quan hệ giá cả và cung cầu cũng thường xuyên biến động liên tục.
Như vậy, sự tác động trên của quy luật giá trị đã dẫn đến sự di chuyển sức lao động và tư liệu sản
xuất giữa các ngành sản xuất khác nhau. Đây là vai trò điều tiết sản xuất của quy luật giá trị.
+ Điều tiết lưu thông của quy luật giá trị cũng thông qua diễn biến giá cả trên thị trường. Sự biến
động của giá cả thị trường cũng có tác dụng thu hút luồng hàng từ nơi giá cả thấp đến nơi giá cả
cao, do đó làm cho lưu thông hàng hoá thông suốt.
Như vậy, sự biến động của giả cả trên thị trường không những chỉ rõ sự biến động về kinh tế, mà
còn có tác động điều tiết nền kinh tế hàng hoá. -
Thứ hai, kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, tăng năng suất lao động, thúc đẩy
lựclượng sản xuất xã hội phát triển. lOMoAR cPSD| 61431571
Trong nền kinh tế hàng hoá, mỗi người sản xuất hàng hoá là một chủ thể kinh tế độc lập, tự quyết
định hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Nhưng do điều kiện sản xuất khác nhau nên hao phí
lao động cá biệt của mỗi người khác nhau, người sản xuất nào có hao phí lao động cá biệt nhỏ hơn
hao phí lao động xã hội của hàng hoá ở thế có lợi sẽ thu được lãi cao. Người sản xuất nào có hao
phí lao động cá biệt lớn hơn hao phí lao động xã hội cần thiết sẽ ở thế bất lợi, lỗ vốn. Để giành lợi
thế trong cạnh tranh, và tránh nguy cơ vỡ nợ, phá sản, họ phải hạ thấp hao phí lao động cá biệt của
mình sao cho bằng hao phí lao động xã hội cần thiết. Muốn vậy, họ phải luôn tìm cách cải tiến kỹ
thuật, cải tiến tổ chức quản lý, thực hiện tiết kiệm chặt chẽ, tăng năng suất lao động. Sự cạnh tranh
quyết liệt càng thúc đẩy quá trình này diễn ra mạnh mẽ hơn, mang tính xã hội. Kết quả là lực lượng
sản xuất xã hội được thúc đẩy phát triển mạnh mẽ. -
Thứ ba, thực hiện sự lựa chọn tự nhiên và phân hoá người sản xuất hàng hoá thành người giàu,người nghèo.
Quá trình cạnh tranh theo đuổi giá trị tất yếu dẫn đến kết quả là: những người có điều kiện sản xuất
thuận lợi, có trình độ, kiến thức cao, trang bị kỹ thuật tốt nên có hao phí lao động cá biệt thấp hơn
hao phí lao động xã hội cần thiết, nhờ đó phát tài, giàu lên nhanh chóng. Họ mua sắm thêm tư liệu
sản xuất, mở rộng sản xuất kinh doanh. Ngược lại những người không có điều kiện thuận lợi, làm
ăn kém cỏi, hoặc gặp rủi ro trong kinh doanh nên bị thua lỗ dẫn đến phá sản trở thành nghèo khó. - Ý NGHĨA
● Góp phần làm cho hàng hóa giữa các vùng có sự cân bằng nhất định
Tạo ra động lực phát triển cho nền kinh tế theo nguyên tắc “có làm có “
Tạo ra quy luật đào thải loại bỏ hết cá nhân , doanh nghiệp , tổ chức yếu kém không
đáp ứng nhu cầu cho xã hội
Nâng cao lực cạnh tranh trong việc sản xuất hàng hóa , chất lượng hàng hóa ngày càng
cao , giá cả cạnh tranh có lợi cho ng tiêu dùng
Kích thích cải tiến kỹ thuật , hợp lý hóa sản xuất , cải tiến tổ chức quản lý Câu 5: Phân
tích hàng hóa sức lao động . Ý nghĩa của việc nghiên cứu?
Để giải quyết mâu thuẫn của công thức chung của tư bản, cần tìm trên thị trường một loại hàng hóa
mà việc sử dụng nó có thể tạo ra được giá trị lớn hơn giá trị của bản thân nó. -
Hàng hóa đó là hàng hóa sức lao động, sự chuyển hóa sức lao động thành hàng hóa. Sức
lao động là toàn bộ những năng lực (thể lực và trí lực) tồn tại trong một con người và được người
đó sử dụng vào sản xuất. -
Sức lao động là cái có trước, còn lao động chính là quá trình sử dụng sức lao động. Trong
mọi xã hội, sức lao động là yếu tố của sản xuất, nhưng sức lao động chỉ trở thành hàng hóa khi có hai điều kiện sau đây:
Thứ nhất, người lao động phải được tự do về thân thể, có quyền sở hữu sức lao động của mình và
chỉ bán sức lao động ấy trong một thời gian nhất định. lOMoAR cPSD| 61431571
Thứ hai, người lao động không có tư liệu sản xuất cần thiết để tự mình đứng ra tổ chức sản xuất
nên muốn sống chỉ còn cách bán sức lao động cho người khác sử dụng.
-Hai thuộc tính của hàng hóa sức lao động. Giống như mọi hàng hóa khác, hàng hóa sức lao động
cũng có hai thuộc tính: giá trị và giá trị sử dụng. -
Giá trị của hàng hóa sức lao động cũng do số lượng lao động xã hội cần thiết để sản xuất
và tái sản xuất ra nó quyết định.
-Giá trị sức lao động được quy về giá trị của toàn bộ các tư liệu sinh hoạt cần thiết để sản xuất và
tái sản xuất sức lao động, để duy trì đời sống của công nhân làm thuê và gia đình họ.
-Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động thể hiện ở quá trình tiêu dùng (sử dụng) sức lao động,
tức là quá trình lao động để sản xuất ra một hàng hóa, một dịch vụ nào đó.
-Trong quá trình lao động, sức lao động tạo ra một lượng giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân
nó; phần giá trị dôi ra so với giá trị sức lao động là giá trị thặng dư. Đó chính là đặc điểm riêng có
của giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động. Ý NGHĨA :
● Là chìa khóa để giải quyết mâu thuẫn trong công thức chung của tư bản
● Vạch rõ nguồn gốc giá trị thặng dư , đó là lao động không công của người công nhân làm
thuê tạo ra quá trình sản xuất và bị tư sản chiếm không
● Vạch rõ bản chất cơ bản nhất của xã hội tư bản đó là quan hệ bóc lột đối với lđ làm thuê
● Vạch rõ các hình thức biểu hiện các giá trị thặng dư ; lợi nhuận , lợi nhuận bình quân , lợi tức, làm thuê…
● Vạch rõ đc nguồn gốc , bản chất và tích lũy tư bản
Câu 6: VÌ SAO SỨC LAO ĐỘNG LÀ HÀNG HÓA ĐẶC BIỆT ?
Cũng như mọi hàng hóa khác, hàng hóa sức lao động cũng có 2 thuộc tính: giá trị và giá trị sử
dụng. Nhưng trong cả 2 thuộc tính đó của hàng hóa sức lao động đều tồn tại những khía cạnh khác
biệt để có thể khẳng định rằng: hàng hóa sức lao động là hàng hóa đặc biệt.
-Trong thuộc tính “ giá trị”: là hàng hóa đặc biệt, giá trị hàng hóa sức lao động khác với hàng hóa
thông thường ở chỗ nó còn bao gồm cả yếu tố tinh thần và lịch sử. Điều đó có nghĩa là ngoài những
nhu cầu về vật chất, người công nhân còn có những nhu cầu về tinh thần, văn hóa… -
Những nhu cầu đó phụ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử của mỗi nước ở từng thời kỳ, đồng thời
nócòn phụ thuộc vào cả điều kiện địa lý, khí hậu của nước đó.
-Trong thuộc tính “ giá trị sử dụng”: cũng giống như hàng hóa thông thường khác giá trị sử dụng
của hàng hóa sức lao động, tức là quá trình lao động của người công nhân. lOMoAR cPSD| 61431571
-Nhưng quá trình sử dụng hay tiêu dùng hàng hóa sức lao động khác với hàng hóa thông thường ở
chỗ: hàng hóa thông thường sau quá trình tiên dùng hay sử dụng thì cả giá trị lẫn giá trị sử dụng
của nó đều tiêu biến mất theo thời gian.
-Trái lại, quá trình tiêu dùng hàng hóa sức lao động, đó lại là quá trình sản xuất ra một loạt hàng
hóa nào đó, đồng thời là quá trình tạo ra một giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân hàng hóa sức lao động.
-Phần lớn hơn đó chính là giá trị thặng dư mà nhà tư bản đã chiếm đoạt. Như vậy, giá trị sử dụng
của hàng hóa sức lao động có tính chất đặc biệt, nó là nguồn gốc sinh ra giá trị, tức là nó có thể tạo
ra giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân nó.
-Nói cách khác, hàng hóa sức lao động tạo ra giá trị thặng dư khi được đem vào sử dụng và chỉ có
hàng hóa sức lao động mới có thể tạo ra giá trị thặng dư.
=> Chính vì vậy mà hàng hóa sức lao động là một hàng hóa đặc biệt khác hẳn với những hàng hóa thông thường khác.
Câu 7: phân tích các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư , từ đó rút ra ý nghĩa của việc nghiên cứu
1. Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư
a. Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối
Khái niệm: là phương pháp sản xuất giá trị thặng dư thu được do kéo dài thời gian lao động vượt
quá thời gian lao động cần thiết, trong khi năng suất lao động, giá trị sức lao động và thời gian lao
động cần thiết không thay đổi.
VD: Ngày lao động là 8h, thời gian lao động tất yếu là 4h, thời gian lao động thặng dư là 4h, mỗi
giờ công nhân tạo ra một giá trị mới là 10 đơn vị thì giá trị thặng dư tuyệt đối là 40 và tỷ suất giá
trị thặng dư là m’=4/40x100%=100%.

Nếu kéo dài ngày lao động thêm 2 giờ nữa mộ điều kiện khác vẫn như cũ , thì giá trị thặng dư tuyệt
đối tăng lên 60 và tỷ suất giá trị thặng dư cùng tăng lên thành m’=60/40x100%=150%
Như vậy trong điều kiện thời gian lao động tất yếu không thay đổi, ngày lao động kéo dài tức là
thời gian lao động thặng dư tăng lên và kéo theo tỷ suất giá trị thặng dư cùng tăng theo. Bởi vậy
mà các nhà tư bản đã tìm mọi cách kéo dài ngày lao động nhằm mục đích sản xuất ra ở mức độ tối đa nhất.
Khi kéo dài tuyệt đối ngày lao động trong điều kiện thời gian lao động tất yếu không thay đổi thì
thời gian lao động thặng dư tăng lên, tỷ suất giá trị thặng dư tăng lên. Phương pháp nâng cao trình
độ bóc lột bằng cách kéo dài toàn bộ ngày lao động một cách tuyệt đối gọi là phương pháp sản xuất
giá trị thặng dư tuyệt đối.
Bóc lột giá trị thặng dư tuyệt đối gặp phải giới hạn về thể chất và tinh thần,đồng thời vấp phải sức
đấu tranh càng mạnh mẽ của công nhân. Nha tư bản luôn cố gắng tìm mọi cách để kéo dài ngày
làm việc của công nhân nhưng việc kéo dài ngày lao động không thể vượt qua giới hạn sinh lý ( vì
công nhân còn phải có thời gian ngủ nghỉ ngơi giải trí để phục hồi sức khỏe) thì gặp phải sự phản lOMoAR cPSD| 61431571
kháng gay gắt của giai cấp công nhân đòi giảm giờ làm. Điều này cũng chính là hạn chế của việc
kéo dài ngày lao động của các nhà tư bản.
Khi độ dài ngày lao động không thay đổi, nhà tư bản sẽ nâng cao trình độ bóc lột bằng việc tăng
cường độ lao động. Thực chất tăng cường độ lao động cũng giống như kéo dài ngày lao động. Vì
vậy, kéo dài thời gian lao động, tăng cường độ lao động là để sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối. b.
Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối
Khái niệm: là giá trị thặng dư thu được do rút ngắn thời gian lao động tất yếu trong điều kiện độ
dài của ngày lao động không đổi nhờ đó tăng thời gian lao động thặng dư.
VD: ngày lao động là 8h và nó được chia thành 4 giờ là thời gian lao động tất yếu và 4 giờ là thời
gian lao động thặng dư thì tỷ suất giá trị thặng dư là m’ = 4/4 x 100% =100%
Giả định rằng ngày lao động không thay đổi nhưng bây giờ công nhân chỉ cần 3h lđ đã tạo ra được
một lượng giá trị mới bằng với giá trị sức lao động của mình. Do đó tỷ lệ phân chia ngày lao động
sẽ thay đổi 3h gọi là thời gian lao động tất yếu và 3 thời gian là thời gian lao động thặng dư. Như
vậy tỷ suất giá trị thặng dư đã tăng từ 100% lên 150%
Phương pháp sản xuất giá trị tương đối là phương pháp nâng cao trình độ bóc lột, bằng cách rút
ngắn thời gian lao động cần thiết để kéo dài thời gian lao động thặng dư trong điều kiện độ dài của
ngày lao động vẫn như cũ gọi là phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối.
Muốn rút ngắn thời gian lao động tất yếu thì phải hạ thấp giá trị sức lao động bằng cách giảm giá
trị tư liệu sinh hoạt và dịch vụ của người công nhân.
Bởi vì việc kéo dài ngày lao động bị giới hạn về thể chất và tinh thần của người lao động và vấp
phải cuộc đấu tranh ngày càng mạnh mẽ của giai cấp công nhân. Mặt khác,khi sản xuất TBCN phát
triển trên giai đoạn công nghiệp cơ khí kỹ thuật đã tiến bộ làm cho năng suất lao động tăng lên
nhanh chóng thì các nhà tư bản chuyển sang phương thức bóc lột dựa trên cơ sở tăng năng suất lao
động bóc lột giá trị thặng dư tương đối
Lịch sử phát triển của lực lượng sản xuất và của năng suất lao động XH dưới CNTB đã trải qua 3
giai đoạn hợp tác giản đơn, công trường thủ công và đại công nghiệp cơ khí, đó cũng là quá trình
nâng cao trình độ bóc lột giá trị thặng dư tương đối.
Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư nói trên được các nhà tư bản sử dụng kết hợp với nhau
để nâng cao trình độ bóc lột công nhân làm thuê. Dưới chủ nghĩa tư bản, việc áp dụng máy móc
không phải là để giảm nhẹ cường độ lao động của công nhân mà trái lại tạo điều kiện để tăng cường
độ lao động. Ngày nay việc tự động hóa sản xuất làm cho cường độ lao động tăng lên, nhưng dưới
hình thức mới, sự căng thẳng của thần kinh thay thế cho cường độ lao động cơ bắp 2. Ý nghĩa thực tiễn
Quá trình nghiên cứu 2 phương pháp sản xuất giá trị thặng dư cho thấy khi gạt bỏ mục đích và tính
chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản thì sản xuất giá trị thặng dư chính là khoa học sử dụng lao động
có hiệu quả nhất mà bất kỳ xã hội nào cũng cần phải quan tâm. Bởi vậy, các phương pháp sản xuất
giá trị thặng dư có thể vận dụng trong các doanh nghiệp ở nước ta nhằm kích thích sản xuất tăng
năng suất lao động xã hội, sử dụng kĩ thuật mới, cải tiến tổ chức quản lí, tiết kiệm chi phí sản xuất. lOMoAR cPSD| 61431571
Đối với quá trình phát triển nền kinh tế quốc dân của nước ta, việc nghiên cứu sản xuất giá trị thặng
dư gợi ra cho nhà hoạch định chính sách phương thức làm tăng của cải thúc đẩy phát triển kinh tế.
Trong điều kiện điểm xuất phát của nước ta còn thấp,để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cần tận dụng
triệt để các nguồn lực nhất là lao động và sản xuất kinh doanh. Về cơ bản lâu dài cần phải coi trọng
việc tăng năng suất lao động xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân
là giải pháp cơ bản để tăng năng suất lao động xã hội.
Quy luật giá trị thặng dư đã phát huy vai trò to lớn của nó đem lại những tiến bộ vượt bậc và thành
tựu kinh tế cho CNTB. Nước ta nói riêng và các nước XHCN nói chung cần nỗ lực không ngừng
trên con đường của mình để xây dựng XHCN trên thế giới. Riêng nước ta, đang trong giai đoạn độ
lên CNXH từ chế độ PK bỏ qua giai đoạn TBCN với xuất phát điểm là một nền kinh tế lạc hậu chủ
yếu là dựa vào nông nghiệp. Yêu cầu đặt ra là phải từng bước xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH.
Vì vậy, chúng ta phải học tập những thành tựu mà CNTB đã đạt được trong đó quan tâm đặc biệt
đến quy luật kinh tế cơ bản của nó là giá trị thặng dư, sửa chữa quan niệm sai lầm trước kia trong xây dựng kinh tế.
Câu 8 :phân tích căn cứ, nội dung của việc phân chia tư bản thành các cặp phạm trù ; tư bản
bất biến – tư bản khả biến và tư bản cố định – tư bản lưu động . ý nghĩa của việc nghiên cứu
-Căn cứ để phân chia ra tư bản bất biến và tư bản khả biến là dựa vào vai trò khác nhau của
các bộ phận của tư bản trong quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư
- Căn cứ để phân chia ra tư bản cố định và tư bản lưu động là phương thức chuyển dịch giá trị
khác nhau của từng bộ phận tư bản trong quá trình sản xuất\
- nội dung của việc phân chia tư bản thành các cặp phạm trù
Tư bản bất biến, tư bản khả biến
Muốn tiến hành sản xuất, nhà tư bản phải ứng tư bản (bỏ vốn) ra để mua tư liệu sản xuất và sức lao
động, tức là biến tư bản tiền tệ thành các yếu tố của quá trình sản xuất, thành các hình thức tồn tại
khác nhau của tư bản sản xuất. Các bộ phận khác nhau đó của tư bản có vai trò khác nhau trong
quá trình sản xuất giá trị thặng dư.
– Trước hết, xét bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thức tư liệu sản xuất.
Tư liệu sản xuất có nhiều loại:
+ Có loại được sử dụng toàn bộ trong quá trình sản xuất, nhưng chỉ hao mòn dần, do đó chuyển
dần từng phần giá trị của nó vào sản phẩm như máy móc, thiết bị, nhà xưởng…
+ Có loại khi đưa vào sản xuất thì chuyển toàn bộ giá trị của nó trong một chu kỳ sản xuất như
nguyên liệu, nhiên liệu. Song, giá trị của bất kỳ tư liệu sản xuất nào cũng đều nhờ có lao động cụ
thể của công nhân mà được bảo toàn và di chuyển vào sản phẩm, nên giá trị đó không thể lớn hơn
giá trị tư liệu sản xuất đã bị tiêu dùng để sản xuất ra sản phẩm. Cái bị tiêu dùng của tư liệu sản xuất
là giá trị sử dụng, kết quả của việc tiêu dùng đó là tạo ra một giá trị sử dụng mới. Giá trị tư liệu sản
xuất dược bảo toàn dưới dạng giá trị sử dụng mới chứ không phải là được sản xuất ra. lOMoAR cPSD| 61431571
Khái niệm: bộ phận tư bản biến thành tư liệu sản xuất mà giá trị được bảo toàn và chuyển vào sản
phẩm, không thay đổi về lượng giá trị của nó, được C. Mác gọi là tư bản bất biến, và ký hiệu là c.
– Xét bộ phận tư bản dùng để mua sức lao động:
+ Một mặt, giá trị của nó biến thành các tư liệu sinh hoạt của người công nhân và mất đi trong tiêu dùng của công nhân.
+ Mặt khác, trong quá trình lao động, bằng lao động trừu tượng, công nhân tạo ra giá trị mới lớn
hơn giá trị của bản thân sức lao động, nó bằng giá trị sức lao động cộng với giá trị thặng dư.
Như vậy, bộ phận tư bản dùng để mua sức lao động đã không ngừng chuyển hoá từ đại lượng bất
biến thành một đại lượng khả biến, tức là đã tăng lên về lượng trong quá trình sản xuất.
Khái niệm: bộ phận tư bản biến thành sức lao động không tái hiện ra, nhưng thông qua lao động
trừu tượng công nhân làm thuê mà tăng lên, tức là biến đổi về lượng, được C. Mác gọi là tư bản
khả biến, và ký hiệu là v tư bản cố định – tư bản lưu động -
Tư bản cố định là bộ phận tư bản sản xuất tồn tại dưới dạng máy móc, thiết bị, nhà
xưởng,V.V. tham gia toàn bộ vào quá trình sản xuất, nhưng giá trị của nó không chuyển hết mệt
lần vào sản phẩm mà chuyển dần từng phần theo mức độ hao mòn của nó trong thời gian sản xuất.
Tư bản cố định được sử dụng lâu dài trong nhiều chu kỳ sản xuất và bị hao mòn dần trong quá trình
sản xuất. Có hai loại hao mòn là hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình:
+ Hao mòn hữu hình là hao mòn về vật chất, hao mòn về cơ học có thể nhận thấy. Hao mòn hữu
hình do quá trình sử dụng và sự tác động của tự nhiên làm cho các bộ phận của tư bản cố định dần
dần hao mòn đi tới chỗ hỏng và phải được thay thế.
+ Hao mòn vô hình là sự hao mòn thuần tuý về mặt giá trị. Hao mòn vô hình xảy ra ngay cả khi
máy móc còn tốt nhưng bị mất giá vì xuất hiện các máy móc hiện đại hơn, rẻ hơn hoặc có giá trị
tương đương, nhưng công suất cao hơn. Để tránh hao mòn vô hình, các nhà tư bản tìm cách kéo
dài ngày lao động, tăng cường độ lao động, tăng ca kíp làm việc, v.v. nhằm tận dụng máy móc
trong thời gian càng ngắn càng tốt. -
Tư bản lưu động là bộ phận tư bản sản xuất tồn tại dưới dạng nguyên liệu, nhiên liệu, vật
liệuphụ, sức lao động, v.v.. Giá trị của nó được hoàn lại toàn bộ cho các nhà tư bản sau mỗi quá
trình sản xuất, khi hàng hóa được bán xong. -
Căn cứ để phân chia tư bản sản xuất thành tư bản cố định và tư bản lưu động là phương
thứcchuyển dịch giá trị khác nhau của từng bộ phận tư bản trong quá trình sản xuất. -
Ý nghĩa của việc nghiên cứu: Việc phát hiện ra tính hai mặt của lao động sản xuất hàng
hóa đã giúp C.Mác tìm ra chìa khóa để xác định sự khác nhau giữa tư bản bất biến và tư bản khả
biến. Ông là người đầu tiên chia tư bản thành tư bản bất biến và tư bản khả biến. Căn cứ cho sự
phân chia đó là dựa vào sự khác nhau của các bộ phận của tư bản trong quá trình sản xuất ra giá trị
thặng dư, do đó nó vạch rõ bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản, chỉ lao động của công nhân làm
thuê mới tạo ra giá trị thặng dư cho các nhà tư bản. Qua việc nghiên cứu trên giúp ta hiểu được
tăng tốc độ chu chuyển của tư bản cố định là một biện pháp quan trọng để tăng quỹ khấu hao tài
sản cố định làm cho lượng tư bản sử dụng tăng lên, tránh được thiệt hại hao mòn hữu tình do tự
nhiên phá hủy và hao mòn vô hình gây ra. Nhờ đó mà có điều kiện đổi mới thiết bị nhanh. lOMoAR cPSD| 61431571
Câu 9 :phân tích tính tất yếu khách quan của việc phát triển kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa Việt Nam Nhất gạo nhì rau Tam dầu tứ muối
Thịt thì đuôi đuối Cá biển mất mùa
Đậu phụ chua chua
Nước chấm nhạt thếch
Mì chính có đếch Vải sợi chưa về
Săm lốp thiếu ghê
Cái gì cũng thiếu… Tất yếu khách quan
- kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là 1 kiểu tổ chức kinh tế vừa dựa
trênnhững nguyên tắc và quy luật của kinh tế thị trường vừa trên cơ sở dẫn dắt và chi phối bởi
các nguyên tắc và bản chất cnxh thể hiện trên 3 mặt ; sở hữu, tổ chức quản lý, và phân phối
-VN, trong thời kỳ quá độ chủ nghĩa , những điều kiện chung về kinh tế hàng hóa xuất hiện vẫn
còn tồn tại , do đó, sự tồn tại kinh tế hàng hóa , kinh tế thị trường ở nước ta là 1 tất yếu khách quan
- Sản phẩm để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người khác Sản xuất hàng hóa là kiểu kinh tếThông
qua việc trao đổi mua bán
- pclđ là cơ sở tất yếu của nền sx hh vẫn tồn tại và ngày càng phát triển về chiều sâu lẫn chiềurộng của nc ta
- • Phân chia lao động xã hội thành các ngành,các lĩnh vực sản xuất khác nhau
• Chuyên môn hóa sản xuất
• Đa dạng hóa ngành nghề
- góp phần tự cung tự cấp và thúc đẩy kt mạnh mẽ
-là cơ sở và động lực nâng cao năng suất lao động xã hội , nghĩa là làm cho nền kinh tế ngày càng
có nhiều sp thặng dư dùng trao đổi , mua bán . …để ngày càng pt
- • Tồn tại và phát triển nhiều hình thức sở hữu nhiều thành phần kinh tế khác nhau (sở hữu toàndân
, tập thể , tư hữu , hỗn hợp ) .do đó tồn tại nhiều chủ thể kinh tế độc lập , lợi ích riêng , nên quan
hệ kinh tế giữa họ chỉ thể hiện bằng quan hệ hàng hóa – tiền tệ
-thành phần kinh tế NN và kinh tế tập thể, tuy đều dựa vào chế độ công hữu về tư liệu sx, nhưng
các đơn vị kinh tế luôn có sự khác biệt nhất đinh , có quyền tự chủ sản xuất kinh doanh , có lợi ích
riêng , mặt khác các đơn vị kinh tế còn có trình độ kỹ thuật công nghệ , trình độ quản lý , nên chi lOMoAR cPSD| 61431571
phí sản xuất và hiệu quả cx khác nhau nên quan hệ kinh tế giữa họ phải thực hiện bằng quan hệ hàng hóa tiền tệ
-trong quan hệ kinh tế đối ngoại trong điều kiện phân công lđ quốc tế mỗi quốc gia riêng biệt là
chủ sở hữu đối vs mỗi hàng hóa đưa ra trao đổi trên thị trg , sự trao đổi trên nguyên tắc ngang giá
- Sử dụng quy luật cung cầu, giá trị, cạnh tranh để buộc mỗi người chịu trách n-nhiệm với sảnphẩm mình làm ra
- Đại hội VI chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần và thực hiện chuyển đổi sang cơ
chếhạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa.
• đại hội VII đảng ta đã xác định việc đổi mới cơ chế kinh tế nước ta là một tất yếu khách quan và
trên thực trạng diễn ra việc đó tức là chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập chung sang nền kinh
tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN
Câu 10: Phân tích đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một kiểu tổ chức kinh tế, vừa dựa
trên những nguyên tắc và quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi
phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội, thể hiện trên cả ba mặt: sở hữu, quản lý
và phân phối. Vì vậy, nó vừa có tính phổ biến mang đặc trưng chung của nền kinh tế thị trường,
vừa có đặc trưng riêng của tính định hướng XHCN ở nước ta.
Đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta ĐẶC TRƯNG CHUNG -
Về chủ thể kinh tế: Các chủ thể kinh tế được tự do sản xuất kinh doanh theo luật pháp và
đượcbình đẳng không phân biệt đối xử. Các chủ thể kinh tế đều có cơ hội để tiếp cận các nguồn
lực phát triển có hiệu quả. -
Về thị trường: Thực hiện các giải pháp để tạo lập và phát triển các yếu tố thị trường cơ bản
nhưthị trường hàng hóa và dịch vụ; thị trường vốn, tiền tệ; thị trường khoa học, công nghệ; thị
trường lao động, thị trường bất động sản và lành mạnh hóa các yếu tố thị trường đó nhằm tạo điều
kiện cho nền kinh tế thị trường phát triển ổn định, bền vững và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa. -
Về cơ chế vận hành: Tôn trọng tính khách quan của các quy luật kinh tế thị trường; tính
năngđộng của cơ chế thị trường. -
Về vai trò của Nhà nước: Nhà nước điều tiết nền kinh tế thị trường trên cơ sở vận dụng các
quyluật kinh tế của nền kinh tế thị trường vào điều kiện Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế
quốc tế để định hướng phát triển nền kinh tế, tạo lập môi trường cho nền kinh tế phát triển ổn định,
bền vững và hạn chế mặt trái của cơ chế thị trường.
Những đặc trưng riêng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam -
Về hệ thống mục tiêu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
ởnước ta: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI đã chỉ rỏ: phát triển nền kinh tế thị lOMoAR cPSD| 61431571
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta nhằm mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước, thực hiện: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Để thực hiện được mục
tiêu đó trong phát triển nền kinh tế thị trường, phải tạo điều kiện để giải phóng mạnh mẽ sức sản
xuất và không ngừng phát triển lực lượng sản xuất; phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn với
xây dựng quan hệ sản xuất mới XHCN phù hợp trên cả ba mặt: sở hữu, quản lý và phân phối; phát
triển kinh tế thị trường để từng bước xây dựng hạ tầng kinh tế cho chủ nghĩa xã hội; cải thiện và
nâng cao đời sống nhân dân.
Mục tiêu kinh tế - xã hội - văn hóa mà nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta phải đạt là:
+Làm cho dân giàu: Nội dung căn bản của dân giàu là mức bình quân GDP đầu người tăng nhanh
trong một thời gian ngắn và khoảng cách giàu, nghèo trong xã hội ngày càng được thu hẹp.
+Làm cho nước mạnh: Thể hiện ở mức đóng góp to lớn của nền kinh tế thị trường cho ngân sách
quốc gia; ở sự gia tăng ngành kinh tế mũi nhọn; ở sự sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả các nguồn tài
nguyên quốc gia; ở sự bảo vệ môi trường sinh thái, bảo vệ các bí mật quốc gia về tiềm lực kinh tế,
khoa học, công nghệ và an ninh, quốc phòng.
+Làm cho xã hội công bằng, văn minh: Thể hiện ở việc xử lý các quan hệ lợi ích ngay trong nội bộ
nền kinh tế thị trường, ở đó việc góp phần to lớn vào giải quyết các vấn đề xã hội, ở việc cung ứng
các hàng hóa và dịch vụ có giá trị không chỉ về kinh tế mà còn có giá trị cao về văn hóa, xã hội.
Về mục tiêu chính trị: Làm cho xã hội dân chủ, biểu hiện ở chỗ dân chủ hóa nền kinh tế, mọi người,
mọi thành phần kinh tế có quyền tham gia vào hoạt động kinh tế, vào sản xuất kinh doanh, có
quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của mình; quyền của người sản xuất và người tiêu dùng được
bảo vệ trên cơ sở pháp luật của nhà nước. -
Về chế độ sở hữu và các thành phần kinh tế: Nền kinh tế có nhiều thành phần, với nhiều
hình thức sở hữu. Các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh với
nhau trên cơ sở pháp luật của nhà nước, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo và kinh tế
nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc
dân; chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, từng bước được xác lập và sẽ chiếm ưu thế tuyệt
đối khi chủ nghĩa xã hội về cơ bản được xây dựng xong. -
Về chế độ phân phối: Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta,
thực hiện phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu; đồng thời có các hình
thức phân phối khác nữa (phân phối theo vốn, theo tài năng cùng các nguồn lực khác đóng góp vào
sản xuất kinh doanh), vừa khuyến khích lao động, vừa bảo đảm phúc lợi xã hội cơ bản, bảo đảm
sự phân phối công bằng, hợp lý và hạn chế sự bất bình đẳng trong xã hội. -
Về vai trò quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa: Nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, sự quản lý và điều tiết nền kinh tế của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đặt
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Vì vậy, sự quản lý của nhà nước trong nền kinh tế
thị trường phải định hướng cho nền kinh tế phát triển có hiệu quả trên cơ sở đảm bảo lợi ích quốc
gia, lợi ích của nhân dân lao động thông qua hệ thống pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, lOMoAR cPSD| 61431571
chính sách phát triển kinh tế, xã hội. Đồng thời, có sử dụng cơ chế thị trường (vận dụng các quy
luật kinh tế thị trường để đưa ra những công cụ tác động vào thị trường) kích thích sản xuất, giải
phóng sức sản xuất, phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường.
Sự quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường nhằm giải quyết mối quan
hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, cải thiện đời sống nhân dân. Nhà nước
thực hiện chính sách xã hội, một mặt, khuyến khích làm giàu hợp pháp, mặt khác phải thực hiện xóa đói, giảm nghèo. -
Về nguyên tắc giải quyết các mối quan hệ chủ yếu: Kết hợp ngay từ đầu giữa lực lượng sản
xuất với quan hệ sản xuất, bảo đảm giải phóng sức sản xuất; xây dựng lực lượng sản xuất kết hợp
với củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới XHCN, nhằm phục vụ cho phát triển sản xuất và
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; giữa phát triển sản xuất với từng bước cải thiện và nâng
cao đời sống nhân dân; giải quyết tốt các vấn đề xã hội và công bằng xã hội, ngăn chặn các tệ nạn
xã hội; giải quyết tốt các nhiệm vụ chính trị, xã hội, văn hóa, môi trường và an ninh, quốc phòng. -
Về tính cộng đồng và tính dân tộc: Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước
ta mang tính cộng đồng cao theo truyền thống của xã hội Việt Nam, phát triển kinh tế thị trường
có sự tham gia của cộng đồng và vì lợi ích của cộng đồng, hướng tới xây dựng một cộng đồng xã
hội Việt Nam giàu có, đầy đủ về vật chất, phong phú về tinh thần, dân chủ, công bằng, văn minh,
đảm bảo cuộc sống ấm no và hạnh phúc cho nhân dân. -
Về quan hệ quốc tế: Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta dựa vào sự phát huy
tối đa nguồn lực trong nước và triệt để tranh thủ nguồn lực nước ngoài theo phương châm “Kết
hợp sức mạnh của dân tộc và sức mạnh của thời đại” và sử dụng các nguồn lực đó một cách hợp
lý, đạt hiệu quả cao, để phát triển nền kinh tế đất nước với tốc độ nhanh, hiện đại và bền vững.
Như vậy, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta vừa mang tính phổ biến
(đặc trưng chung) của mọi nền kinh tế thị trường; vừa có đặc trưng riêng của tính định hướng xã
hội chủ nghĩa. Hai nhóm nhân tố này cùng tồn tại, kết hợp và bổ sung cho nhau. Trong đó, nhóm
đặc trưng chung đóng vai trò là động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển, nhóm đặc trưng riêng
đóng vai trò hướng dẫn nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Câu 11: phân tích tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến sự phát triển kinh tế của Việt Nam
Hiện nay, phạm vi đối tác FTA của Việt Nam đã khá rộng và toàn diện, trong 3 - 5 năm tới sẽ chạm
đến các dấu mốc quan trọng của nhiều Hiệp định và dần tiến đến tự do hóa thuế quan hầu hết các
mặt hàng nhập khẩu với các đối tác thương mại chính. Ngoài ra, việc ký kết 2 Hiệp định và tuyên
bố kết thúc 2 Hiệp định quan trọng TPP và Việt Nam - EU sẽ tác động đáng kể đến nền kinh tế của
Việt Nam trong giai đoạn tới. Cụ thể:
Đối với xuất, nhập khẩu: Quá trình thực hiện các cam kết cắt giảm thuế quan trong hội nhập kinh
tế quốc tế, hoàn thiện hệ thống quản lý hải quan theo tiêu chuẩn quốc tế và cắt giảm hàng rào thuế
quan đã tạo ra tác động tích cực đến hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam.
Cơ hội lớn nhất là mở rộng thị trường nhờ cắt giảm thuế và dỡ bỏ rào cản thương mại để tham gia
sâu hơn vào chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu. Nếu như năm 2007, tổng kim ngạch xuất nhập
khẩu của Việt Nam là 111,3 tỷ USD (trong đó xuất khẩu là 48,5 tỷ USD và nhập khẩu là 62,7 tỷ lOMoAR cPSD| 61431571
USD), thì tới năm 2015 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam đã tăng khoảng 3 lần đạt
328 tỷ USD (trong đó nhập khẩu là 165,6 tỷ USD và xuất khẩu là 162,4 tỷ USD).
Trong đó, các đối tác FTA của Việt Nam đều là các đối tác thương mại quan trọng, thể hiện ở giá
trị thương mại lớn và tỉ trọng cao trên tổng số liệu thương mại với thế giới của Việt Nam hằng năm.
Thương mại của Việt Nam với các đối tác đã và đang đàm phán luôn chiếm trên 80% tổng kim
ngạch thương mại của Việt Nam.
Trong thời gian tới, khi các cam kết FTA bước vào giai đoạn cắt giảm sâu, đặc biệt các FTA với
Hoa Kỳ, EU có hiệu lực sẽ thúc đẩy xuất khẩu mạnh hơn, đem đến nhiều cơ hội mở rộng thị trường
cho hàng hóa của Việt Nam đồng thời giúp đa dạng hóa thị trường nhập khẩu, tránh phụ thuộc vào
các thị trường nguyên liệu truyền thống.
Đối với chuyển dịch cơ cấu sản xuất hàng xuất khẩu: Hội nhập kinh tế quốc tế đã thúc đẩy tái cấu
trúc nền kinh tế, đặc biệt là chuyển dịch cơ cấu sản xuất hàng hóa xuất khẩu theo hướng tích cực,
phù hợp với chủ trương công nghiệp hóa theo hướng hiện đại, theo đó tập trung nhiều hơn vào các
mặt hàng chế biến, chế tạo có giá trị và hàm lượng công nghệ và giá trị gia tăng cao hơn.
Năm 2015, tỷ trọng xuất khẩu các nhóm hàng sản phẩm dệt may, giày dép, nông sản có xu hướng
giảm xuống trong khi đó tỷ trọng của các nhóm sản phẩm như máy vi tính, linh kiện điện tử, điện
thoại tăng lên, chiếm tới 27,7% tổng giá trị kim ngạch hàng hóa xuất khẩu.
Đối với thu hút FDI: Cùng với việc cải thiện môi trường đầu tư, hội nhập kinh tế quốc tế đã và sẽ
mở ra các cơ hội lớn đối với lĩnh vực đầu tư của Việt Nam. Đầu tư tại Việt Nam, các nhà đầu tư có
thể tiếp cận và hưởng ưu đãi thuế quan từ các thị trường lớn mà Việt Nam đã ký kết FTA như khu
vực ASEAN, Trung Quốc, Hàn Quốc, Ấn Độ...
Bên cạnh đó, việc thực hiện các cam kết trong các Hiệp định thế hệ mới như TPP, EVFTA (dỡ bỏ
các biện pháp hạn chế đầu tư và dịch vụ, bảo hộ đầu tư công bằng, không phân biệt đối xử, mở cửa
thị trường mua sắm Chính phủ, dịch vụ tài chính…) sẽ khiến cho môi trường đầu tư của Việt Nam
trở nên thông thoáng hơn, minh bạch hơn, thuận lợi hơn từ đó sẽ thu hút được nhiều vốn đầu tư hơn nữa.
Theo số liệu từ Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), tính chung trong 12 tháng năm
2015, tổng vốn đăng ký cấp mới và tăng thêm là 22,757 tỷ USD, tăng 12,5% so với cùng kỳ năm 2014.
Đối với thu ngân sách nhà nước: Lộ trình cắt giảm thuế trong các FTA sẽ dẫn tới giảm nguồn thu
NSNN đối với hàng hóa nhập khẩu. Tuy nhiên, tác động của việc giảm thuế đối với tổng thu NSNN
về cơ bản là không lớn do:
Mặc dù giai đoạn 2015 - 2018, các Hiệp định thương mại đã ký kết với ASEAN, Trung Quốc,
Hàn Quốc bước vào giai đoạn cắt giảm thuế và xóa bỏ thuế quan sâu và cơ cấu nhập khẩu của Việt
Nam chủ yếu là từ các nước này, song lộ trình cắt giảm thuế đã thực hiện từ nhiều năm, nên không
có ảnh hưởng đột ngột đến nguồn thu NSNN. Đối với TPP, nhập khẩu của Việt Nam từ các nước
TPP chiếm khoảng hơn 20% tổng kim ngạch nhập khẩu tuy nhiên, trong số 11 nước thành viên
TPP, Việt Nam đã ký kết FTA với 6/11 nước, đồng thời nhập khẩu từ 5 nước còn lại chỉ chiếm lOMoAR cPSD| 61431571
khoảng hơn 5% tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam. Vì vậy, có thể nói mức ảnh hưởng tới thu NSNN là không nhiều.
Việc cắt giảm thuế quan trong TPP cũng như trong các FTA sẽ khiến cho hàng hoá nhập khẩu từ
các nước đối tác chắc chắn có tăng lên và do đó, số thu từ thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc
biệt đối với hàng nhập khẩu đương nhiên cũng tăng theo. Ngoài ra, chi phí sản xuất của doanh
nghiệp giảm cũng sẽ tác động tích cực đến nguồn thu từ thuế thu nhập doanh nghiệp.
Xét về tổng thể, hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang đem lại nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp và
nền kinh tế của Việt Nam. Tuy nhiên, với 96% tổng số doanh nghiệp đang hoạt động là doanh
nghiệp nhỏ và siêu nhỏ, áp lực cạnh tranh đối với nền kinh tế Việt Nam là rất lớn. Trong đó:
Đối với lĩnh vực xuất nhập khẩu: Dù hàng rào thuế quan được dỡ bỏ, song việc có tận dụng được
các ưu đãi về thuế quan để mở rộng thị trường hay không lại phụ thuộc vào việc đáp ứng các yêu
cầu về quy tắc xuất xứ cũng như các yêu cầu khác (an toàn thực phẩm, vệ sinh dịch tễ...). Với năng
lực tự sản xuất và cung ứng nguyên phụ liệu còn hạn chế, thì những yêu cầu về quy tắc xuất xứ
hàng hóa lại đang đặt ra thách thức và mối lo ngại cho các doanh nghiệp Việt Nam.
Đối với sản xuất trong nước: Việc tự do hóa thuế nhập khẩu sẽ dẫn đến sự gia tăng nhanh chóng
nguồn hàng nhập khẩu từ các nước, đặc biệt là từ các nước TPP, EU vào Việt Nam do giá thành rẻ
hơn, chất lượng và mẫu mã đa dạng, phong phú hơn sẽ tác động đến lĩnh vực sản xuất trong nước.
Ngoài ra, khi hàng rào thuế quan được gỡ bỏ nhưng các hàng rào kỹ thuật không hiệu quả, Việt
Nam sẽ trở thành thị trường tiêu thụ các sản phẩm chất lượng kém, ảnh hưởng tới sức khỏe người
tiêu dùng trong khi lại không bảo vệ được sản xuất trong nước.
Đặc biệt, sản phẩm nông nghiệp và các doanh nghiệp, nông dân Việt Nam đứng trước sự cạnh tranh
gay gắt, trong khi đó hàng hóa nông sản và nông dân là những đối tượng dễ bị tổn thương nhất trong hội nhập.
Đối với lĩnh vực đầu tư: Việc gia tăng dòng vốn nước ngoài vào Việt Nam cũng đặt ra yêu cầu về
tăng cường năng lực của cơ quan quản lý trong việc giám sát dòng vốn ra vào, tránh nguy cơ bong
bóng hoặc rút vốn ồ ạt, để nền kinh tế có thể hấp thụ lượng vốn một cách có hiệu quả.
Do đó, để tối ưu hóa những tác động tích cực và giảm thiểu tác động tiêu cực của hội nhập kinh tế
đến nền kinh tế, trong thời gian tới cần thực hiện các giải pháp:
Đối với cơ quan quản lý Nhà nước: -
Tăng cường tuyên truyền cho các doanh nghiệp các thông tin về lộ trình và các cam kết
hộinhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. -
Nâng cao năng lực giám sát thị trường tài chính nhằm kịp thời đối phó với những biến động
củadòng vốn, những ảnh hưởng lây lan từ khủng hoảng tài chính của một nước trong khu vực.
Đối với hiệp hội ngành nghề:
Tiếp tục đẩy mạnh vai trò cầu nối giữa doanh nghiệp và các cơ quan quản lý, tạo điều kiện kết nối
giao lưu giữa các doanh nghiệp hội viên; tăng cường phổ biến thông tin hội nhập về pháp luật của
các nước, sở hữu trí tuệ, sở hữu công nghiệp, quản lý chất lượng, các quy tắc xuất xứ... cho doanh
nghiệp hội viên; hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng thương hiệu. lOMoAR cPSD| 61431571
Tổ chức các chương trình xúc tiến thương mại - đầu tư theo thị trường, ngành hàng, lĩnh vực kinh
doanh cụ thể để nâng cao khả năng tiếp cận thị trường trong và ngoài nước cũng như hỗ trợ doanh
nghiệp tiếp thị thương hiệu của sản phẩm, doanh nghiệp tới các thị trường xuất khẩu trọng điểm.
Triển khai các hoạt động cung cấp và tư vấn cho các doanh nghiệp về pháp luật kinh doanh, các
kiến thức về hội nhập kinh tế quốc tế cũng như kinh nghiệm đối phó với các vụ kiện quốc tế, các
rào cản thương mại của các thị trường xuất khẩu. Đối với doanh nghiệp:
Chủ động tìm hiểu và nghiên cứu về thông tin, kiến thức về hội nhập kinh tế quốc tế, pháp luật
quốc tế. Mặc dù Việt Nam đã ký kết không ít các hiệp định thương mại tự do với các nước và khu
vực, song sự hiểu biết của doanh nghiệp trong nước về các FTAs là khá hạn chế, trong khi đó các
doanh nghiệp FDI lại rất chủ động và chuẩn bị khá kỹ để đón đầu và tận dụng ưu đãi từ các FTAs.
Do vậy, việc nghiên cứu tìm hiểu về TPP cũng như các FTAs là việc cần thiết các doanh nghiệp
nếu muốn đứng vững trong cạnh tranh. Bên cạnh đó cũng cần có sự hỗ trợ từ phía Chính phủ và
các hiệp hội để doanh nghiệp có thể tiếp cận các thông tin từ TPP, FTAs một cách nhanh nhất và đầy đủ nhất.
Chủ động đầu tư và đổi mới trạng thiết bị công nghệ theo chiều sâu nhằm nâng cao chất lượng sản
phẩm, bởi nếu không đáp ứng được các tiêu chuẩn quốc tế thì sản phẩm của doanh nghiệp không
thể cạnh tranh với các nước khác. Như vậy, dù hiệp định có mở ra cơ hội, doanh nghiệp cũng không
thể tiếp cận thị trường và tham gia vào chuỗi cung ứng.
Chủ động lựa chọn và thay đổi nguồn nguyên liệu đầu vào. Việc loại bỏ thuế quan cho các đối tác
trong TPP chỉ áp dụng đối với các sản phẩm hàng hóa có nguồn gốc xuất xứ nội khối. Trên thực
tế, với các FTA đã ký kết, cũng chỉ có khoảng 30% doanh nghiệp đã tận dụng được các ưu đãi thuế quan.
Do đó, doanh nghiệp cần phải chủ động trong việc lựa chọn nguồn gốc của các nguyên phụ liệu,
đáp ứng các tiêu chuẩn về nguồn gốc xuất xứ. Đồng thời phải thực hiện tốt như các yêu cầu khác
(vệ sinh, kiểm dịch động thực vật, hàng rào kỹ thuật…).
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đặc biệt là lao động có tay nghề và nhân lực trình độ cao.
Bên cạnh đó, cần chủ động tạo sự liên kết gắn bó giữa các doanh nghiệp, cùng xây dựng chiến lược
phát triển thị trường nội địa và nước ngoài.