-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Phân tích sang thu của Hữu Thỉnh - Ngữ Văn 7
Mùa thu vốn là một trong những đề tài quen thuộc trong thơ ca, là nguồn thi hứng dạt dào để người nghệ sĩ viết lên những trang thơ đong đầy cảm xúc. Tuy nhiên đến với thu, mỗi thi nhân lại góp vào đề tài này những nét độc đáo và thi vị riêng. Trước đây, Nguyễn Khuyến nổi tiếng với ba bài thơ thu nức danh “Thu điếu”, “Thu vịnh”, “Thu ẩm”, Tản Đà có “Cảm thu - Tiễn thu”. Sau này thì có “Tiếng thu” của Lưu Trọng Lư hay Xuân Diệu với “Đây mùa thu tới”. Tài liệu được sưu tầm giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao trong kì thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem !
Tài liệu chung Ngữ Văn 7 170 tài liệu
Ngữ Văn 7 1.4 K tài liệu
Phân tích sang thu của Hữu Thỉnh - Ngữ Văn 7
Mùa thu vốn là một trong những đề tài quen thuộc trong thơ ca, là nguồn thi hứng dạt dào để người nghệ sĩ viết lên những trang thơ đong đầy cảm xúc. Tuy nhiên đến với thu, mỗi thi nhân lại góp vào đề tài này những nét độc đáo và thi vị riêng. Trước đây, Nguyễn Khuyến nổi tiếng với ba bài thơ thu nức danh “Thu điếu”, “Thu vịnh”, “Thu ẩm”, Tản Đà có “Cảm thu - Tiễn thu”. Sau này thì có “Tiếng thu” của Lưu Trọng Lư hay Xuân Diệu với “Đây mùa thu tới”. Tài liệu được sưu tầm giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao trong kì thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem !
Chủ đề: Tài liệu chung Ngữ Văn 7 170 tài liệu
Môn: Ngữ Văn 7 1.4 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:
Tài liệu khác của Ngữ Văn 7
Preview text:
SANG THU (Hữu Thỉnh) I. Mở bài:
Mùa thu vốn là một trong những đề tài quen thuộc trong thơ ca, là nguồn thi hứng dạt dào
để người nghệ sĩ viết lên những trang thơ đong đầy cảm xúc. Tuy nhiên đến với thu, mỗi thi
nhân lại góp vào đề tài này những nét độc đáo và thi vị riêng. Trước đây, Nguyễn Khuyến nổi
tiếng với ba bài thơ thu nức danh “Thu điếu”, “Thu vịnh”, “Thu ẩm”, Tản Đà có “Cảm thu -
Tiễn thu”. Sau này thì có “Tiếng thu” của Lưu Trọng Lư hay Xuân Diệu với “Đây mùa thu
tới”. Nhưng viết về tiết thu lúc giao mùa thì có lẽ “Sang thu” của Hữu Thỉnh là nổi bật hơn cả.
Bằng tâm hồn nhạy cảm và tình yêu thiên nhiên tha thiết, nhà thơ đã mở rộng lòng mình để
đón nhận giây phút chuyển mình của cảnh vật, đất trời từ cuối hạ sang đầu thu. Đồng thời bộc
lộ những chiêm nghiệm, những suy ngẫm về nhân sinh cuộc đời vốn đầy dẫy những khó khăn, thử thách. II. Thân bài:
Hữu Thỉnh tên đầy đủ là Nguyễn Hữu Thỉnh, sinh năm 1942, quê ở Vĩnh Phúc, là nhà thơ
trưởng thành từ trong quân đội. Ông viết nhiều, viết hay về những con người, cuộc sống ở
nông thôn, về mùa thu. Nhiều vần thơ thu của ông mang cảm xúc bâng khuâng, vấn vương
trước đất trời trong trẻo, đang biến chuyển nhẹ nhàng. Thơ Hữu Thỉnh mang đậm hồn quê Việt
Nam dân dã, mộc mạc tinh tế và giàu rung cảm. Bài thơ “Sang thu” của nhà thơ được viết vào
cuối năm 1977, in lần đầu trên Báo Văn Nghệ. Sau đó được in trong tập thơ “Từ chiến hào đến
thành phố” xuất bản năm 1991 và nhiều tập thơ khác. Bài thơ là những cảm nhận tinh tế của
nhà thơ về phút giao mùa của đất trời Việt Nam từ cuối hạ sang đầu thu. Từ đó gửi gắm những
triết lí nhẹ nhàng nhưng sâu sắc về đời người. 1. Phân tích: a. Khổ 1:
“Sang thu” ở đây là chớm thu, là lúc thiên nhiên giao mùa. Mùa hè vẫn chưa hết mà mùa thu
tới có những tín hiệu đầu tiên. Trước những sự thay đổi tinh vi ấy, phải nhạy cảm lắm mới cảm
nhận được. Tác giả đã thể hiện sự tinh tế đó của mình ngay từ những câu thơ đầu:
“Bỗng nhận ra hương ổi Phả vào trong gió se Sương chùng chình qua ngõ Hình như thu đã về”
Mùa thu đã xuất hiện bao lần trong thơ ca với đủ mọi sắc thái. Cổ thi Trung Hoa có câu thơ nổi tiếng:
“Ngô đồng nhất diệp lạc Thiên hạ cộng tri thu”
(Một chiếc lá ngô đồng rụng
Cả thiên hạ đều biết là mùa thu)
Nếu như trong thơ ca cổ điển mùa thu thường hiện ra qua các hình ảnh ước lệ như cây ngô
đồng, lá phong, hoa cúc,… hay mới hơn có Xuân Diệu, với hình ảnh rặng liễu: “Rặng liễu đìu
hiu đứng chịu tang/ Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng” thì với Hữu Thỉnh ông lại bắt đầu
bằng “hương ổi”. Đó là một hình ảnh, một tứ thơ khá mới mẻ với thơ ca viết về mùa thu nhưng
lại vô cùng quen thuộc và gần gũi đối với mỗi người dân Việt Nam, đặc biệt là người dân miền Bắc mỗi độ thu về.
Mở đầu bài thơ là từ “bỗng” diễn tả cảm xúc bất ngờ, đột ngột, ngỡ ngàng của chủ thể trữ
tình trước những tín hiệu của mùa thu. Thu về với đất trời quê hương, với lòng người một cách
tự nhiên mà không hề báo trước. Hương vị đặc trưng của mùa thu bất chợt làm nhà thơ xao
lòng, không phải hương thơm của một loài hoa mà là mùi ổi chín, nghe mới mộc mạc, dân dã
làm sao! Hương ổi không chỉ lan tỏa mà còn vận động rất mạnh trong không gian, “phả vào
trong gió se”. Động từ “phả” gợi cho ta cảm nhận làn gió thu se lạnh nhẹ nhàng như đang đón
nhận hương thơm nồng nàn ấy để rồi lại hào phóng ban phát hương thu đến khắp đất trời. 1
Chính hương ổi chín nồng nàn lan tỏa trong không khí đang se lạnh của mùa thu xứ Bắc đã
đánh thức tâm hồn thi nhân để nhà thơ mở lòng đón nhận tất cả vẻ đẹp của thời khắc giao mùa.
Để rồi tâm hồn nhà thơ giao hòa với cảnh vật, thả hồn say đắm với nàng thu. Trước Hữu Thỉnh
có rất nhiều nhà thơ viết về mùa thu nhưng có lẽ đây là một phát hiện mới mẻ, tinh tế tạo nên
cái điệu hồn rất riêng trong thơ của Hữu Thỉnh.
Cùng với hương ổi và gió se, mùa thu dần hiện hữu trong không gian đất trời qua hình ảnh
“Sương chùng chình qua ngõ”. Nghệ thuật nhân hóa kết hợp với từ láy “chùng chình” khiến
cho sương thu như chất chứa đầy tâm trạng. Sương mang dáng vẻ lãng đãng, cố ý bước đi
chầm chậm đầy lưu luyến, ngập ngừng giăng mắc khắp đầu thôn ngõ xóm. “Ngõ” ở đây vừa là
ngõ thực của làng quê, nhưng cũng có thể là con ngõ thông giữa hai mùa hạ và thu. Phải chăng
cảnh vật vẫn còn cái gì đó lưu luyến với mùa hạ, chưa muốn chuyển hẳn mình sang thu hay
tâm trạng con người đang đợi chờ, tiếc nuối một điều gì đó trước ngưỡng cửa thời gian của đời
người? Bằng tất cả các giác quan: khứu giác, xúc giác, thị giác và một tâm hồn nhạy cảm trước
biến chuyển của thiên nhiên đất trời, nhà thơ ngỡ ngàng, thốt lên như tự hỏi “hình như thu đã
về”. Từ tình thái “hình như” diễn tả cảm giác mơ hồ, bối rối, phán đoán không chắc chắn. Nó
gợi lên cảm xúc bâng khuâng trong tâm hồn thi sĩ trước những tín hiệu bất ngờ không hẹn trước của mùa thu. b. Khổ 2:
Sang khổ thơ thứ hai, sự vận động của thời điểm giao mùa được cụ thể hóa bằng những sắc
thái đổi thay của mọi vật, mở ra một không gian cao, rộng:
Sông được lúc dềnh dàng Chim bắt đầu vội vã Có đám mây mùa hạ Vắt nửa mình sang thu
Từ láy “dềnh dàng” đầy gợi cảm như mở ra trước mắt người đọc con sông quê hiền hòa duyên
dáng. Hè đã qua, thu tới, thế nên dòng sông không còn đỏ ngầu phù sa cuồn cuộn chảy mà trở
nên bình lặng, hiền hòa hơn. Hình ảnh dòng sông lững lờ trôi gợi lên vẻ đẹp thanh bình yên ả
của làng quê thôn dã khi đất trời cuối hạ sang thu. Cấu trúc thơ có sự tương phản: Dòng sông
dềnh dàng còn chim thì vội vã. Mùa thu đến những chú chim không còn nhởn nhơ rối rít mà
vội vàng, hối hả bắt đầu di trú về phương Nam tránh rét. “Dềnh dàng” – “Vội vã” hai trạng
thái trái chiều nhưng đó lại là những hình ảnh thực vào thời điểm giao thoa của muôn vật
muôn loài. Phải gắn bó với cuộc đời, phải có tình yêu thiên nhiên tha thiết nhà thơ mới có
được sự quan sát tinh tế đến vậy. Có lẽ ở khổ thơ này hình ảnh ấn tượng nhất với người đọc là: Có đám mây mùa hạ Vắt nửa mình sang thu.
Đám mây mùa hạ mà lại “Vắt nửa mình sang thu”. Quả là một lối diễn đạt hết sức độc đáo.
Nghệ thuật nhân hóa đã làm cho hình ảnh thơ mềm mại trữ tình. Mùa hạ - mùa thu như hai đầu
bến của thời gian mà đám mây là nhịp cầu ô thước. Nhịp cầu ấy nối hai đầu thời gian bằng một
sợi tơ trời. Trí tưởng tượng của nhà thơ thật tuyệt vời. Hữu Thỉnh không phải là người duy
nhất viết về mây của mùa thu. Trước đây Nguyễn Khuyến cũng từng viết: “ Tầng mây lơ lửng
trời xanh ngắt”, sau này nhà thơ Xuân Diệu từng viết “Mây vẫn từng không chim bay đi”.
Nhưng cái hay cái mới trong thơ Hữu Thỉnh là đám mây của mùa hạ đã vắt nửa mình sang thu.
Hình ảnh của đám mây tưởng tượng độc đáo ấy đã diễn tả thành công thời khắc chuyển mùa
bởi ranh giới giữa hai mùa thật mong manh. Dẫu thu đã sang nhưng vẫn còn vương vấn một
chút sắc hạ. Có thể nói rằng đây là hình ảnh đặc sắc nhất trong bài thể hiện một cách duyên
dáng và thần tình nhất phút giao mùa từ hạ sang thu thật đẹp, thật ấn tượng. 2 c. Khổ 3:
Bài thơ không chỉ cho ta cảm nhận về thiên nhiên đất trời lúc chuyển mùa mà thấm đẫm
trong từng dòng thơ ấy là những ý nghĩa triết lý sâu sắc. Điều này được thể hiện đậm nét ở khổ thơ cuối: Vẫn còn bao nhiêu nắng Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bướt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi.
Nhà thơ thật tinh tế và nhạy cảm khi phát hiện ra những thay đổi về mặt thời tiết. Vẫn là
nắng, mưa, sấm, chớp như mùa hạ, nhưng ở cuối mùa, ở mức độ khác rồi. Nắng nhạt dần chứ
không còn chói chang, gay gắt. Mưa cũng đã ít đi, nhất là những trận mưa rào, mưa đông ầm
ầm, ào ạt. Những từ ngữ “vẫn còn”, “đã vơi dần”, “cũng bớt bất ngờ” gợi tả rất hay cái hiện
tượng, sự vật đang dần đi vào thế ổn định của mùa thu. Bài thơ khép lại với hình ảnh “sấm” và
“hàng cây đứng tuổi’ vừa tả thực vừa mang ý nghĩa ẩn dụ, gợi ra những suy nghĩ thăng trầm,
triết lý nhân sinh sâu sắc. Cuối hạ - đầu thu, khi không còn những cơn mưa xối xả thì sấm cũng
bớt bất ngờ, dữ dội và hàng cây già cũng không còn bị bất ngờ, giật mình vì tiếng sấm nữa.
Nắng, mưa, sấm là không đơn thuần chỉ là những hiện tượng, những biến động của thiên nhiên
mà còn mang ý nghĩa tượng trưng cho những thay đổi, những khó khăn thử thách trong cuộc
đời. Hình ảnh “hàng cây đứng tuổi” lại là một ẩn dụ nói về lớp người từng trải, đã từng vượt
qua biết bao khó khăn, thăng trầm, bão táp của cuộc đời. Họ không còn quá bất ngờ trước
những thách thức của cuộc sống mà trở nên vững vàng, bình tĩnh đến lạ thường! Bởi một lẽ
đương nhiên rằng: ai cũng phải trải qua những năm tháng non dại bồng bột, những vấp ngã
trong cuộc đời thì mới có thể trưởng thành và con người ta khi có trải nghiệm rồi thì cũng dần
trở nên quen thuộc với sự thay đổi của cuộc sống, trở nên vững vàng và nhìn đời bằng đôi mắt
bình thản và chậm rãi hơn hẳn.
d. Tổng kết nghệ thuật:
Bằng thể thơ năm chữ mộc mạc cùng biện pháp tu từ nhân hóa, các hình ảnh thơ tự nhiên,
vừa quen thuộc, vừa mới lạ, không trau chuốt mà giàu sức gợi cảm, bài thơ “Sang thu” của
Hữu Thỉnh đã thể hiện một cách đặc sắc những cảm nhận tinh tế để tạo ra một bức tranh
chuyển giao từ cuối hạ sang thu nhẹ nhàng, êm dịu, trong sáng nên thơ ở vùng đồng bằng Bắc
Bộ để từ đó gửi gắm những suy nghĩ mang tính triết lí rất sâu sắc về con người và cuộc đời.
Đọc “Sang thu”, ta nhận ra ở Hữu Thỉnh là tình yêu tha thiết với thiên nhiên, là một tâm hồn
tinh tế và vô cùng nhạy cảm. III. Kết bài:
Hạ đi, thu đến mang theo những cảm xúc bất chợt để rồi gieo lại trong lòng người
những bồi hồi về một nàng thu nồng nàn êm ái. Qua “Sang thu”, bằng ngòi bút sắc nét mang
đầy hơi thở trữ tình với những triết lí sâu xa, nhà thơ Hữu Thỉnh đã khắc họa một bức tranh
giao mùa với những biến đổi tinh vi của đất trời. Từ đó đánh thức trong lòng độc giả tình yêu
thiên nhiên, lòng tự hào về quê hương, đất nước. Chỉ với vỏn vẹn ba khổ thơ, thi nhân đã góp
vào nền thơ thu Việt Nam một áng thơ thật đẹp. Gấp sách lại mà dư âm của mùa thu vẫn
vương vấn mãi trong lòng độc giả. Tác phẩm như viên pha lê đầy góc cạnh, trải qua bao thăng
trầm để trọn vẹn lung linh mãi với thời gian. 3