Phân tích sự phân hóa giai cấp ở Việt Nam dưới sự cai trị của thực dân Pháp
Sự phân hoá của các giai cấp trong xã hội Việt Nam là kết quả của chính sách thống trị và khai thác thuộc địa của thực dân Pháp. Sau khi đặt ách thống trị lên nước ta chúng bắt tay ngay vào khai thác thuộc địa nước ta. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Preview text:
lOMoARcPSD| 45562685
Đề cương giữa kì LSĐ
1. Phân tích sự phân hóa giai cấp ở Việt Nam dưới sự cai trị của thực dân Pháp
Sự phân hoá của các giai cấp trong xã hội Việt Nam là kết quả của chính sách thống trị và khai
thác thuộc địa của thực dân Pháp. Sau khi đặt ách thống trị lên nước ta chúng bắt tay ngay vào
khai thác thuộc địa nước ta. Chính vì thế chúng cần một lượng lớn nhân công lao động do đó giai
cấp công nhân đã ra đời. Ngay sau đó các giai cấp khác cũng lần lượt ra đời đó là giai cấp tư bản,
giai cấp tiểu tư sản điều này đã làm cho xã hội Việt Nam có sự phân hóa hết sức sâu sắc. Mỗi giai
cấp lại có một đặc điểm riêng biệt việc xác định giai cấp lãnh đạo cách mạng là rất quan trọng.
Địa chủ phong kiến: Giai cấp địa chủ phong kiến tồn tại hàng nghìn năm trong lịch sử từ địa vị là
giai cấp thống trị nay trở thành tay sai cho thực dân Pháp câu kết với thực dân Pháp bóc lột nhân dân ta. -
Giai cấp địa chủ được chia thành: Đại địa chủ (có nhiều ruộng đất, câu kết với thực dân Pháp bóc
lột nhân dân ta); Trung địa chủ; Tiểu địa chủ -
Những địa chủ phong kiến phản cách mạng được thực dân Pháp dung dưỡng và nuôi béo vì vậy
đây chính là đối tượng của cách mạng -
Những địa chủ phong kiến bị đế quốc chèn ép có tinh thần dân tộc và tinh thần cách mạng. Tuy
nhiên cũng không trở thành lực lượng lãnh đạo cách mạng. Giai cấp nông dân -
Chiếm 90% trong xã hội phong kiến thực dân Việt Nam bao gồm: Phú nông, trung nông, bần nông, cố nông -
Giai cấp nông dân bị địa chủ phong kiến và đế quốc bóc lột nặng nề, đế quốc bóc lột nhân dân
bằng sưu cao thuế nặng, địa chủ bóc lột nhân dân bằng cướp đoạt ruộng đất, địa tô, cướp đoạt
ruộng đất dẫn đến giai cấp nông dân bị đẩy vào đường cùng. -
Giai cấp nông dân là lực lượng đông đảo nhất và hăng hái nhất có vai trò quyết định đến cuộc giải
phóng dân tộc, bị đế quốc và địa chủ chèn ép mâu thuẫn đặc biệt với đế quốc thực dân và phong
kiến tay sai phản động vừa có mâu thuẫn về dân tộc vừa có mâu thuẫn về giai cấp trong đó mâu
thuẫn dân tộc là lớn nhất. Tuy nhiên giai cấp nông dân cũng không thể trở thành lực lượng lãnh
đạo cách mạng do trình độ văn hoá thấp.
Giai cấp công nhân -
Ra đời trong cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp ngay từ cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất. -
Giai cấp công nhân Việt Nam còn rất trẻ chiếm 1% dân số, trình độ văn hoá kỹ thuật rất thấp. -
Đặc điểm: Ngoài những đặc điểm chung với giai cấp công nhân thế giới giai cấp công nhân Việt
Nam còn có những đặc điểm riêng biệt khác so với giai cấp công nhân thế giới.
+ Chịu 3 tầng áp bức bóc lột (Đế quốc, tư bản trong nước, địa chủ phong kiến).
+ Phần lớn xuất thân từ giai cấp nông dân cho nên họ gắn bó với dân tộc có mới quan hệ gần gũi
với nhân dân và có mối thâm thù với thực dân Pháp. -
Ra đời trước tư sản lực lượng đồng nhất không bị phân tán về lực lượng và sức mạnh. -
Kế thừa truyền thống yêu nước đấu tranh của dân tộc. -
Do ra đời muộn giai cấp công nhân Việt Nam tiếp thu được ảnh hưởng của phong trào cách mạng
thế giới, ảnh hưởng của chủ nghĩa MácLênin và cách mạng tháng Mười Nga. -
Giai cấp công nhân Việt Nam đã sớm trở thành một lực lượng chính trị độc lập, có đủ điều kiện
và năng lực để lãnh đạo cách mạng. Giai cấp tư sản -
Ra đời trong cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp sau chiến tranh thế giới thứ nhất họ đã
trở thành một giai cấp rõ rệt trước đó họ chỉ được gọi là một tầng lớp. lOMoARcPSD| 45562685 -
Tư sản mại bản là những tư bản hoạt động trong lĩnh vực thầu khoán, công nghiệp và xây dựng có
quyền lợi gắn liền với thực dân Pháp trở thành đối tượng của cách mạng. -
Tư sản dân tộc là những nhà tư sản vừa và nhỏ có xu hướng kinh doanh độc lập bị tư sản Pháp
chèn ép nên họ có tinh thần dân tộc chống thực dân Pháp, chống phong kiến. Giai cấp này có tư
tưởng dao động do đó cũng không thể trở thành lực lượng lãnh đạo cách mạng.
Giai cấp tiểu tư sản -
Hình thành trong cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp sau chiến tranh thế giới thứ nhất
bao gồm: Trí thức, học sinhsinh viên, công chức, tiểu thương, tiểu chủ, dân nghèo thành thị.
Họ sống chủ yếu ở thành thị và khu công nghiệp bị thực dân Pháp chèn ép dễ bị rơi vào tình trạng thất nghiệp. -
Giai cấp tiểu tư sản cũng rất hăng hái tham gia cách mạng và là một trong những động lực
đáng kể của cách mạng, họ là đồng minh của giai cấp công nhân có thể đi với giai cấp công
nhân đến xã hội chủ nghĩa.Tuy nhiên tư tưởng của họ rất dao động do đó cũng không thể trở
thành lực lượng lãnh đạo cách mạng.
Tóm lại sự phân hoá các giai cấp trong xã hội Việt Nam là kết quả của quá trình khai thác thuộc địa
của thực dân Pháp. Trong đó sự xuất hiện của giai cấp công nhân giai cấp mang sứ mạng lịch sử là
đoàn kết và lãnh đạo các giai cấp khác đứng lên đấu tranh chống đế quốc Pháp giải phóng dân tộc.
Ngoài ra các giai cấp nông dân có lực lượng đông đảo có ý nghĩa quyết định đến thắng lợi của cách
mạng. Các giai cấp khác nếu đi theo cách mạng cần phải lôi kéo về phía cách mạng, còn lực lượng nào
chống đối cách mạng sẽ là đối tượng của cách mạng 2. So sánh nội dung cương lĩnh chính trị
3/2/1930 và luận cương T10/1930 Giống nhau: -
Cùng xác định phương hướng chiến lược cơ bản của cách mạng là làm cách mạng tư sản dân
quyển và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản. -
Xác định nhiệm vụ và mục tiêu của cách mạng là: chông đế quốc và phong kiến, làm cho
nước Nam được hoàn toàn độc lập -
Tính chất của cách mạng lúc đầu là cuộc cách mạng tư sản dân quyền sau đó liếp tục phát
triển bỏ qua thời kỳ tư bản tiến thắng lên con đường xã hội chủ nghĩa (độc lập dân tộc gắn
liền chủ nghĩa xã hội). -
Phương pháp cách mạng: sử dụng bạo lực cách nạng của quần chúng. Tuyệt đối không đi vào con đường thoả hiệp. -
Về lực lượng lãnh dạo cách mạng là giai cấp vô sản thông qua đội tiền phong của mình là Đảng Cộng sản. -
Về mối quan hệ cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới: cách mạng Việt Nam với cách
mạng Đông Dương là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới. Khác nhau: -
Xác định kẻ thù và nhiệm vụ, mục tiêu của cách mạng: Trong cương lĩnh chính trị xác định
kẻ thù, nhiệm vụ của cách mạng là đánh đổ giặc Pháp sau đó mới đánh đổ phong kiến và tay
sai phản cách mạng (nhiệm vụ dân tộc và dân chủ). Nhiệm vụ dân tộc được coi là nhiệm vụ
trọng đại của cách mạng, nhiệm vụ dân chủ cũng dựa vào vấn đề dân tộc để giải quyết. Như
vậy mục tiêu của cương lĩnh xác định: làm cho Việt Nam hoàn toàn độc lập, nhân dân được
tự do, dân chủ, bình đẳng, tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc Việt gian chia cho dân cày
nghèo, thành lập chính phủ công nông binh và tổ chức cho quân đội công nông, thi hành
chính sách tự do dân chủ bình đẳng phổ thông giáo dục theo hướng công nông hóa. Trong
Luận cương chính trị thì xác định phải “tranh đấu để đánh đổ các di tích phong kiến, đánh đổ
các cách bóc lột theo lối tiền tư bản và để thực hành thổ địa cách mạng cho triệt để” và “đánh
đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập”. Hai nhiệm vụ chiến
lược dân chủ và dân tộc được tiến hành cùng một lúc có quan hệ khăng khít với nhau. Việc lOMoARcPSD| 45562685
xác định nhiệm vụ như vậy của Luận cương đã đáp ứng những yêu cầu khách quan đồng thời
giải quyết hai mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam lúc đó là mâu thuẫn dân tộc và mâu
thuẫn giai cấp đang ngày càng sâu sắc. Tuy nhiên, Luận cương chưa xác định được kẻ thù,
nhiệm vụ hàng đầu ở một nước thuộc địa nửa phong kiến nên không nêu cao vấn đề dân tộc
lên hàng đầu đó là nêu cao vấn đề đấu tranh giai cấp, vấn đề cách mạng ruộng đất. -
Về lực lượng cách mạng: Trong Cương lĩnh chính trị xác định lực lượng cách mạng là giai
cấp công nhân và nông dân nhưng bên cạnh đó cũng phải liên minh đoàn kết với tiểu tư sản,
lợi dụng hoặc trung lập phú nông, trung nông, tiểu địa chủ và tư bản Việt Nam chưa rõ mặt
phản cách mạng. Như vậy, ngoài việc xác định lực lượng nòng cốt của cách mạng là giai cấp
công nhân thì cương lĩnh cũng phát huy được sức mạnh của cả khối đoàn kết dân tộc, hướng
vào nhiệm vụ hàng đầu là giải phóng dân tộc. Với Luận cương thì xác định giai cấp vô sản và
nông dân là hai động lực chính của cách mạng mạng tư sản dân quyền, trong đó giai cấp vô
sản là đông lực chính và mạnh, là giai cấp lãnh đạo cách mạng, nông dân có số lượng đông
đảo nhất, là một động lực mạnh của cách mạng, còn những giai cấp và tầng lớp khác ngoài
công nông như tư sản thương nghiệp thì đứng về phía đế quốc chống cách mạng, còn tư sản
công nghiệp thì đứng về phía quốc gia cải lương và khi cách mạng phát triển cao thì họ sẽ
theo đế quốc. Điều đó cho thấy ta chưa phát huy được khối đoàn kết dân tộc, chưa đánh giá
đúng khả năng cách mạng của tầng lớp tiểu tư sản, khả năng chống đế quốc và phong kiến ở
mức độ nhất định của tư sản dân tộc, khả năng lôi kéo một bộ phận trung, tiểu địa chủ tham
gia mặt trận dân tộc thống nhất chống đế quốc và tay sai.
3. Phân tích các bài học kinh nghiệm của CMT8. Vận dụng các bài học đó vào công cuộc xây
dựng đất nước hiện nay như thế nào?
Một là: Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc, kết hợp đúng đắn hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống
phong kiến. Con đường cứu nước của Nguyễn ái Quốc và Cương lĩnh của Đảng đã xác định cách
mạng nước ta trải qua hai giai đoạn, trước hết là cách mạng dân tộc dân chủ, sau đó chuyển lên cách
mạng xã hội chủ nghĩa. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của đường lối gắn liền độc
lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.
Trong cách mạng dân tộc dân chủ, Đảng ta đã xác định nhiệm vụ chống đế quốc và nhiệm vụ chống
phong kiến không thể tách rời nhau. Trải qua ba cao trào cách mạng, Đảng ta nhận thức sâu sắc hơn
về mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ đó và xác định: tuy hai nhiệm vụ không tách rời nhau nhưng nhiệm
vụ chống đế quốc là chủ yếu nhất, nhiệm vụ chống phong kiến phải phục tùng nhiệm vụ chống đế
quốc và phải thực hiện từng bước với những khẩu hiệu cụ thể như: giảm tô, giảm tức, chia ruộng đất
công, chia ruộng đất của bọn phản động cho nông dân nghèo, tiến tới cải cách ruộng đất. Phân tích
mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Việt Nam khi Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra, Đảng chủ trương chĩa
mũi nhọn của cách mạng vào đế quốc phátxít Nhật Pháp và bè lũ tay sai nhằm tập trung giải quyết
yêu cầu chủ yếu cấp bách của cách mạng là giải phóng dân tộc. Thắng lợi Cách mạng Tháng Tám là
thắng lợi của sự kết hợp đúng đắn hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến.
Hai là: Toàn dân nổi dậy trên nền tảng khối liên minh công nông. Cách mạng Tháng Tám thắng lợi
là nhờ cuộc đấu tranh yêu nước anh hùng của hơn 20 triệu người Việt Nam. Nhưng cuộc nổi dậy của
toàn dân chỉ có thể thực hiện được khi có đạo quân chủ lực là giai cấp công nhân và giai cấp nông
dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đạo quân chủ lực này được xây dựng, củng cố qua ba cao trào cách
mạng và lớn mạnh vượt bậc trong tổng khởi nghĩa. Dựa trên đạo quân chủ lực làm nền tảng. Đảng
xây dựng được khối đại đoàn kết dân tộc, động viên toàn dân tổng khởinghĩa thắng lợi.
Ba là: Lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù. Đảng ta đã lợi dụng được mâu thuẫn giữa chủ
nghĩa đế quốc và chủ nghĩa đế quốc phátxít, mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc và một bộ phận thế lOMoARcPSD| 45562685
lực địa chủ phong kiến, mâu thuẫn trong hàng ngũ ngụy quyền tay sai của Pháp và của Nhật, cô lập
cao độ kẻ thù chính là bọn đế quốc phátxít và bọn tay sai phản động; tranh thủ hoặc trung lập những
phần tử lừng chừng. Như vậy, Cách mạng Tháng Tám giành được thắng lợi nhanh gọn, ít đổ máu.
Bốn là: Kiên quyết dùng bạo lực cách mạng và biết sử dụng bạo lực cách mạng một cách thích hợp
để đập tan bộ máy nhà nước cũ, lập ra bộ máy nhà nước của nhân dân. Trong Cách mạng Tháng
Tám, bạo lực của cách mạng là sự kết hợp chặt chẽ giữa lực lượng chính trị với lực lượng vũ trang;
kết hợp nổi dậy của quần chúng với tiến công của lực lượng vũ trang cách mạng ở cả nông thôn và
thành thị, trong đó vai trò quyết định là các cuộc tổng khởi nghĩa ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn. Cách mạng
Tháng Tám là kết quả của sự kết hợp tất cả các hình thức đấu tranh kinh tế và chính trị, hợp pháp và
không hợp pháp của quần chúng, từ thấp đến cao, từ ở vài địa phương lan ra cả nước, từ khởi nghĩa
từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa, đập tan bộ máy nhà nước của giai cấp thống trị, lập ra bộ máy nhà nước của nhân dân.
Năm là: Nắm vững nghệ thuật khởi nghĩa, nghệ thuật chọn đúng thời cơ. Đảng ta coi khởi nghĩa là
một nghệ thuật, vừa vận dụng nguyên lý của chủ nghĩa Mác Lênin và kinh nghiệm của cách mạng
thế giới, vừa tổng kết những kinh nghiệm các cuộc khởi nghĩa ở nước ta. Trong rất nhiều văn kiện
của Đảng từ năm 1939 đến nửa đầu năm 1945, Đảng đã vạch ra những điều kiện làm thời cơ cho tổng
khởi nghĩa thắng lợi. Cách mạng Tháng Tám thắng lợi chứng tỏ Đảng đã chọn đúng thời cơ. Đó là lúc
bọn cầm quyền phát xít ở Đông Dương hoang mang đến cực độ sau khi Nhật đầu hàng; nhân dân ta
không thể sống nghèo khổ như trước được nữa (khi hơn hai triệu người đã bị chết đói...). Đảng đã
chuẩn bị sẵn sàng các mặt chủ trương, lực lượng và cao trào chống Nhật, cứu nước làm điều kiện chủ
quan cho tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.
Sáu là: Xây dựng một Đảng Mác Lênin đủ sức lãnh đạo tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Đảng ta
ngay từ đầu đã xác định đúng đường lối chiến lược và sách lược cách mạng, không ngừng bổ sung và
phát triển đường lối chiến lược và sách lược đó. Điều đó đòi hỏi Đảng phải biết vận dụng sang tạo
nguyên lý của chủ nghĩa Mác Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta, kịp thời tổng kết kinh nghiệm
thực tiễn cách mạng. Đảng ta rất coi trọng việc quán triệt đường lối chiến lược và sách lược, chủ
trương của Đảng trong đảng viên và quần chúng cách mạng, không ngừng đấu tranh khắc phục những
khuynh hướng lệch lạc. Đảng chăm lo công tác tổ chức, cán bộ, giáo dục rèn luyện cán bộ, đảng viên
về ý chí bất khuất, phẩm chất chính trị và đạo đức cách mạng, xây dựng Đảng vững mạnh và trong
sạch. Đảng biết phát huy triệt để vai trò của Mặt trận Việt Minh với hàng triệu hội viên và thông qua
Mặt trận để lãnh đạo nhân dân đấutranh
4. Phân tích vai trò của hoạt động đối ngoại của Đảng và ngoại giao của nhà nước trong 2 cuộc
kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.
• Kháng chiến chống Pháp
Hiệp định Giơnevơ về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dươngđình chỉ chiến sự ở Việt Nam
được ký kết ngày 20/7/1954 là một thắng lợi to lớn, có ý nghĩa vô cùng quan trọng của cách mạng nước
ta. Lần đầu tiên, Chính phủ Pháp và mỗi nước tham gia Hội nghị Giơnevơ cam kết tôn trọng, độc lập, chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Đầu những năm 1950, chiến tranh lạnh từ châu Âu lan sang châu
Á, các nước lớn tìm cáchtránh xung đột quân sự trực tiếp và dần chuyển sang hòa hoãn với nhau. Ngày
8/5/1954,Hội nghị Giơnevơ về chấm dứt chiến sự và lập lại hòa bình ở Đông Dương khai mạc, có 9 bên
tham dự gồm: Liên Xô, Trung Quốc, Mỹ, Anh, Pháp, Việt Nam Dân chủ cộng hòa,Quốc gia Việt Nam,
Vương quốc Lào và Vương quốc Campuchia. Các nước đến dự Hội nghị Giơnevơ có những lợi ích, chiến
lược và những mục tiêu khác nhau. Do tương quan lực lượng quốc tế lúc đó, Hội nghị đã bị các nước lớn
chi phối. Song chúng ta vẫn kiên trìđường lối đối ngoại độc lập, tự chủ thể hiện trong việc xác định mục
tiêu, nguyên tắc đàmphán, nhưng linh hoạt về sách lược và bước đi, chúng ta phải làm tất cả những gì có lOMoARcPSD| 45562685
thểlàm để đạt được lợi ích của mình.Ngay từ ngày Hội nghị bắt đầu, đoàn Việt Nam đã chủ động triển
khai nhiều hoạt động ngoại giao và vận động quốc tế. Song song với đấu tranh trên bàn đàm phán, ta đã
tích cực làm việc với các đoàn, tổ chức họp báo, gặp gỡ hàng trăm đoàn thể nhân dân và chính giớiPháp
để bày tỏ thiện chí và quyết tâm của ta, tố cáo hành động hiếu chiến và âm mưu pháhoại của các lực
lượng thù địch. Các hoạt động này đã góp phần làm cho dư luận Pháp và quốc tế ủng hộ lập trường của
Việt Nam.Trong nước, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã bước vào giai đoạn quyết định.Nhờ có
đường lối chiến tranh nhân dân, quân và dân ta từ thế bị động chuyển sang thế chủđộng tiến công và liên
tiếp giành thắng lợi. Ngày 7/5/1954, Chiến dịch Điện Biên Phủtoàn thắng, làm rung chuyển chính trường
và xã hội Pháp, thúc đẩy phong trào chốngchiến tranh của nhân dân Pháp lên cao trào, tạo phân hóa trong
chính giới Pháp, đặc biệttrong Quốc hội Pháp. Chiến thắng Điện Biên Phủ tăng thêm sự đồng tình, ủng
hộ củanhân dân Pháp và nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới đối với sự nghiệp đấu tranh giảiphóng
dân tộc của nhân dân Việt Nam; tạo thế vững vàng cho Việt Nam bước vào Hộinghị Giơnevơ. Qua 75
ngày đàm phán căng thẳng, với 31 phiên họp, cùng rất nhiều cuộc gặp, tiếp xúcsong phương và đa
phương bên lề Hội nghị, cuối cùng các bên tham gia Hội nghị (trừ Mỹ)đã thỏa thuận và ký kết được các
văn bản. Kết quả Hội nghị phản ánh được tương quan lực lượng giữa ta và đối phương trong hoàn cảnh
lúc đó, cả trên chiến trường lẫn trên bànđàm phán. Thắng lợi trong việc ký kết Hiệp định Giơnevơ là
thắng lợi vẻ vang của nềnngoại giao cách mạng non trẻ của Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông
Nam Á-Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nguyên nhân hàng đầu quyết định thắng lợi cơbản trên
là do đường lối chính trị, đường lối quân sự và đường lối đối ngoại đúng đắn của Đảng và Chủ tịch Hồ
Chí Minh, đặc biệt quân đội và nhân dân ta đã đoàn kết nhất trí,chiến đấu anh dũng suốt 9 năm, giành
thắng lợi của cuộc tổng tiến công chiến lược Đông xuân 1953-1954 với đỉnh cao là chiến thắng vĩ đại
Điện Biên Phủ, buộc đế quốc, thực dânphải ngồi vào bàn Hội nghị, cam kết chấm dứt chiến tranh, lập lại
hòa bình ở Việt Nam,Lào và Campuchia
• Kháng chiến chống Mỹ
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đã kết thúc bằng đại thắng mùaXuân năm 1975,
một cuộc tổng tiến công và nổi dậy với sức mạnh vũ bão, chiến côngrạng rỡ chưa từng có của dân tộc ta
suốt 30 năm chiến tranh chống xâm lược. Ðó là thắnglợi của một cuộc chiến tranh tổng lực trên cả ba mặt
trận đấu tranh quân sự, chính trị vàngoại giao.Cuộc đàm phán Paris và Hiệp định về chấm dứt chiến
tranh, lập lại hòa bình ở Việt Namlà đỉnh cao của mặt trận ngoại giao Việt Nam thời kỳ chống Mỹ, cứu
nước và là thànhcông lớn nhất trong lịch sử ngoại giao của dân tộc ta thời đại Hồ Chí Minh. Hiệp
địnhParis buộc Mỹ phải cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổcủa nước Việt
Nam, chấm dứt chiến tranh xâm lược, chấm dứt sự dính líu về quân sự vàcan thiệp vào công việc nội bộ
của miền nam Việt Nam.Một ngày sau khi Hiệp định Paris được ký kết, ngày 28-1-1973, trong lời kêu
gọi củamình, Ban Chấp hành Trung ương Ðảng Lao động Việt Nam và Chính phủ nước Việt NamDân
chủ cộng hòa khẳng định: "Với việc hiệp định được ký kết, cuộc kháng chiến chốngMỹ, cứu nước của
nhân dân ta đã giành được thắng lợi rất vẻ vang”
• Vận dụng: bài học thực tiễn phục hồi và phát triển XH sau COVID-19 VN
Thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đã từng bước vào nhiều cuộc chiến với quy mô, tínhchất
khác nhau. Từ cuối năm 2019, có một cuộc chiến không có tiếng súng nhưng lại rất nguyhiểm, ảnh
hưởng đến tính mạng của người dân trên phạm vi toàn cầu. Đó là cuộc chiến chốngCovid-19.
Ngay từ khi xuất hiện ca bệnh đầu tiên (ngày 22/1/2020), Việt Nam đã xác định đây là một dịchbệnh
nguy hiểm, có khả năng ảnh hưởng đến nhiều người, trên phạm vi rộng nên cần phải nêucao tinh
thần: Chống dịch như chống giặc. Sự chủ động đó đã giúp cho Việt Nam đã đưa ranhiều giải pháp
hữu ích. Một trong những giải pháp đã mang lại hiệu quả cao là huy động sựtham gia của đông đảo
nhân dân, phát huy sức mạnh toàn dân tộc trong công tác phòng, chốngCovid-19. lOMoARcPSD| 45562685
Chủ trương của Đảng, Chính phủ huy động sức mạnh toàn dân tộc tham gia phòng, chống dịch.Khi
ca bệnh đầu tiên xuất hiện không lâu, Đ&Nc kêu gọi toàn thểnhân dân cả nước đoàn kết mộtlòng,
thống nhất ý chí và hành động để tham gia chống dịch với quyết tâm cao, nỗ lực lớn. Ngày
30/3/2020, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng ra lời kêu gọi toàn thể dân tộcViệt Nam ta
hãy cùng chung sức, "đoàn kết một lòng, thống nhất ý chí và hành động, thực hiệnquyết liệt, hiệu quả
những chủ trương của Đảng và Nhà nước, sự chỉ đạo, điều hành của Chínhphủ, Thủ tướng Chính phủ.
Mỗi người dân là một chiến sĩ trên mặt trận phòng, chống dịchbệnh".
Tỏa sáng truyền thống đại đoàn kết của dân tộc Việt Nam trong công tác phòng, chống dịch. Trước
diễn biến phức tạp của đại dịch Covid-19, kế thừa truyền thống đại đoàn kết của dân tộcvà hưởng ứng
lời kêu gọi của Đảng, Chính phủ, nhân dân Việt Nam lại cùng chung tay, đồng lòng chống dịch. Tất
cả tỉnh, thành phố, bộ, ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị, tổ chức, cánhân đều nhiệttình, tích cực
tham gia phòng, chống dịch. Đi đầu là lực lượng cán bộ, nhân viên ngành Y tế đã không kể ngày đêm
tham gia xét nghiệm, sàng lọc, cứu chữa bệnh nhân bị mắc Covid-19. Đặc biệt, có nhiều sinh viên
ngành y mặc dùchưa tốt nghiệp nhưng đã tình nguyện tham gia chống dịch tại địa phương cũng như
xungphong đến những vùng dịch lớn để tăng cường cho các y, bác sĩ.
Ở khắp cả nước, đã có nhiều Tổ Covid cộng đồng với sự tham gia của nhiều cán bộ cơ sở nhưcông
an, dân phòng, mặt trận, phụ nữ, thanh niên... Nhiều doanh trại quân đội được trưng dụnglàm cơ sở
cách ly cho nhân dân. Nhiều cán bộ, chiến sĩ sẵn sàng vào rừng nhường lại nơi ăn, chốn ở cho nhân
dân có điều kiện tốt để cách ly., người cán bộ, chiến sĩ vừa là người hướngdẫn nhân dân thực hiện
đúng quy định của Nhà nước về cách ly tập trung song họ cũng giốngnhư những người thân trong gia
đình, luôn sẵn sàng giúp đỡ những người cách ly mỗi khi họ cần.
Với tinh thần "chống dịch như chống giặc", cả hệ thống chính trị của Việt Nam đã cùng vào cuôcđể
chung tay bảo vệ sức khỏe và tính mạng của nhân dân. Ở nhiều nơi trên khắp đất nước đãhình thành
các ATM đặc biệt như ATM gạo, ATM mì, ATM khẩu trang và nhiều của hàng 0 đồng.Nhiều người
dân, trong đó có cả những ca sĩ, người mẫu vốn chỉ quen ánh đèn sân khấu nhưngcũng đã chung tay
phát đồ ăn, nhu yếu phẩm miễn phí cho nhân dân vùng dịch. Đã có nhiều bếpăn từ thiện được mọc
lên khắp nơi để lan tỏa tinh thần yêu thương, sẻ chia, tình đoàn kết củanhân dân Việt Nam. Hiếm có
một đất nước nào mà có sự tham gia đông đảo, đầy trách nhiệmcủa Đảng, Chính phủ và các tầng lớp
nhân dân trong cuộc chiến chống covid-19 như Việt Nam.Biểu tượng cao đẹp nhất cho tinh thần đoàn
kết của dân tộc Việt Nam trong cuộc chiến chốngđại dịch là Quỹ Vaccine. Quỹ được thành lập ngày
26/5/2021 để tiếp nhận, quản lý, sử dụng cácnguồn tài trợ, hỗ trợ, đóng góp tự nguyện bằng tiền,
vaccine của các tổ chức, cá nhân trong vàngoài nước và các nguồn vốn hợp pháp khác cho hoạt động
mua, nhập khẩu vaccine, nghiêncứu, sản xuất vaccine trong nước và sử dụng vacccine phòng, chống
Covi-19 cho nhân dân. Cuộc chiến chống Covid-19 phía trước còn rất nhiều cam go với sự xuất hiện
của nhiều ổ dịchmới, với những biến thể có tốc độ lây lan mạnh. Điều đó tiếp tục gây nên những khó
khăn rất lớn cho Việt Nam và nhiều nước trên thế giới. Tuy nhiên, với tinh thần đại đoàn kết, sức
mạnh củatoàn thể dân tộc Việt Nam sẽ tiếp tục được nhân lên và trở thành động lực to lớn để nhân
dân tavượt qua những khó khăn, thử thách. Hơn bao giờ hết, tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn
kếtdân tộc đã được Đảng, Chính phủ kế thừa và phát huy có hiệu quả trong cuộc chiến chống đạidịch.