



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 58707906 BÀI TẬP SỐ 1
ĐỀ BÀI: Phân tích tác động của đầu tư phát triển đến tăng trưởng kinh tế của các
quốc gia. Liên hệ thực tế Việt Nam giai đoạn 2016-2022.
PHẦN 1. LÝ LUẬN VỀ TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN 0
1.1. Các khái niệm..........................................................................................................0
1.2. Đầu tư phát triển tác động tới tốc độ tăng trưởng kinh tế.........................................0
1.3 Các nhân tố tác động đến hệ số ICOR (giáo trình – p33,34).....................................0
1.4. Ưu nhược điểm của hệ số ICOR (giáo trình – p35-37)............................................0
PHẦN 2. THỰC TIỄN TẠI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2016 - 2021............................1
2.1. Tình hình đầu tư phát triển tại Việt Nam giai đoạn 2016 - 2021..............................1
2.2. Đánh giá chung........................................................................................................6
PHẦN 1. LÝ LUẬN VỀ TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN
1.1. Các khái niệm
Đầu tư: Đầu tư phát triển là 1 phương thức đầu tư trực tiếp, nhằm duy trì và tạo ra năng
lực mới trong sản xuất kinh doanh dịch vụ và trong sinh hoạt đời sống xã hội.
Tăng trưởng kinh tế: Là sự gia tăng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP)/ tổng sản lượng
quốc dân (GNP) trong một thời gian nhất định
1.2. Đầu tư phát triển tác động tới tốc độ tăng trưởng kinh tế
(gtr-p31, từ đầu mục 2.2.2 đến hết trang)
Hệ số ICOR (Incremental Capital Output Ratio- tỷ số gia tăng của vốn so với sản lượng)
là tỷ số giữa qui mô đầu tư tăng thêm với mức gia tăng sản lượng, hay là suất đầu tư cần thiết
để tạo ra một đơn vị sản lượng (GDP) tăng thêm.
- Hệ số ICOR là tỷ số giữa quy mô đầu tư tăng thêm với mức gia tăng sản lượng, hay
làsuất đầu tư cần thiết để tạo ra một đơn vị sản lượng (GDP) tăng thêm
- Nếu ICOR không thay đổi, mức tăng GDP hoàn toàn phụ thuộc vào vốn đầu tư.
Theomột số nghiên cứu của các nhà kinh tế, muốn giữ tốc độ tăng trưởng khá cao và ổn định
thì tỷ lệ đầu tư phải chiếm khoảng trên 25% so với GDP, tùy thuộc vào ICOR của mỗi nước
1.3 Các nhân tố tác động đến hệ số ICOR (giáo trình – p33,34)
1.4. Ưu nhược điểm của hệ số ICOR (giáo trình – p35-37)
1.5. Tác động của đầu tư phát triển trong việc tăng trưởng kinh tế
1.5.1. Khái niệm
Chất lượng tăng trưởng là một tập hợp các đặc trưng về kết quả và hiệu quả của chính tăng trưởng kinh tế. lOMoAR cPSD| 58707906
1.5.2. Đặc điểm
- Chất lượng tăng trưởng thể hiện nhất quán và liên tục trong suốt quá trình tái sản xuấtxã hội.
- Chất lượng tăng trưởng thể hiện ở cả yếu tố đầu vào như việc quản lý và phân bổ
cácnguồn lực trong quá trình tái sản xuất, đồng thời cả ở kết quả đầu ra của quá trình sản xuất
với chất lượng cuộc sống được cải thiện, phân phối sản phẩm đầu ra đảm bảo tính công bằng
và góp phần bảo vệ môi trường sinh thái.
- Chất lượng tăng trưởng thể hiện bằng sự bền vững của tăng trưởng và mục tiêu
tăngtrưởng dài hạn, mặc dù tốc độ tăng trưởng cao trong ngắn hạn là những điều kiện rất cần thiết.
- Chất lượng tăng trưởng thể hiện ở tính hiệu quả, đặc biệt hiệu quả lan tỏa giữa
cácngành, các vùng, các khu vực kinh tế khác nhau
Vai trò của đầu tư đối với TTKT thường được phân tích theo biểu thức sau: g = Di + D1 + TFP Trong
đó : g: tốc độ tăng trưởng kinh tế
Di : phần đóng góp của vốn đầu tư vào tăng trưởng kinh tế
Dl : phần đóng góp của lao động vào TTKT
TFP : phần đóng góp của tổng các yếu tố năng suất vào tăng trưởng GDP.
TFP là chỉ tiêu phản ánh kết quả sản xuất do sử dụng hiệu quả nhân tố vốn và lao động
(các nhân tố hữu hình - được xác định bằng số lượng), nhờ vào tác động của các nhân tố vô
hình như cải tiến quản lý, đổi mới công nghệ, hợp lý hóa sản xuất, nâng cao trình độ lao động của công nhân…
PHẦN 2. THỰC TIỄN TẠI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2016 - 2021
Nền kinh tế Việt Nam đã có những bước tiến mạnh mẽ trong những năm vừa qua và đạt
được những thành tựu đáng kể, thể hiện rõ nhất qua tăng trưởng nhanh gắn liền với giảm tỷ lệ
nghèo. Tuy nhiên, nền kinh tế đang bộc lộ như hiệu quả đầu tư chưa cao, phát triển kết cấu hạ
tầng đồng bộ, hiện đại chưa đạt yêu cầu, chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất
lượng cao chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo chưa thực
sự là động lực để nâng cao năng suất lao động, năng lực cạnh tranh, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
2.1. Tình hình đầu tư phát triển tại Việt Nam giai đoạn 2016 - 2021
Hệ số ICOR là tỷ lệ vốn đầu tư so với tốc độ tăng trưởng (còn gọi là hệ số đầu tư tăng
trưởng). Hệ số ICOR cho biết khối lượng vốn đầu tư cần thiết để tạo ra một đơn vị GDP tăng thêm.
Việt Nam đã huy động được lượng vốn đầu tư khá lớn, nhưng dù vốn đầu tư tăng lên,
hiệu quả đầu tư còn thấp, biểu hiện ở chỉ số ICOR khá cao trong các giai đoạn phát triển. Từ lOMoAR cPSD| 58707906
năm 2016 - 2019, hệ số ICOR của nước ta dao động trong khoảng 6 – 6,5. Năm 2020, 2021,
do tác động của đại dịch Covid-19, hệ số ICOR tăng đột biến, gấp 3 lần so với năm 2019.
Dưới đây là bảng tổng hợp các chỉ tiêu ảnh hưởng đến hệ số ICOR trong giai đoạn 2016 - 2021: 201 201 201 201 202 202 6 7 8 9 0 1 So 394 421 453 486 500 513 GDP sánh 2010 4,14 7,88 2,74 6,32 5,76 3,98 (tỷ VND) Hi 563 629 700 770 804 847 ện hành 9,40 3,91 9,04 7,20 4,39 9,67 So Vốn 148 166 179 192 198 199 sánh đầu tư 2010 6,05 4,28 4,45 1,37 9,38 2,71 (tỷ VND) Hi 192 218 242 267 280 289 ện hành 6,86 6,56 6,40 0,47 3,07 1,91 Tốc độ tăng 6,2 6,8 7,0 7,0 2,9 2,5 GDP 1 1 8 2 1 8 Vốn đầu tư thực 34, 34, 34, 34, 34, 34, hiện so với tổng sản phẩm trong nước 17 74 62 65 84 10 6,0 6,0 5,7 5,7 14, 15, ICOR 1 8 0 6 27 54 lOMoAR cPSD| 58707906
Biểu đồ thể hiện sự thay đổi của hệ số ICOR tại Việt Nam giai đoạn 2016 - 2021 a.
Giai đoạn 2016 - 2019
Việt Nam bước vào giai đoạn phát triển mới, để huy động được nguồn vốn lớn, Việt Nam
mới có thể đảm bảo tốc độ tăng trưởng kinh tế 6,5-7% và thực hiện đột phá về xây dựng hệ
thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại. Huy động vốn ngày càng khó khăn, nhất là trong bối
cảnh ngân sách thâm hụt, bội chi ngân sách lớn, nợ công đang tăng nhanh, áp lực trả nợ lớn,
buộc chúng ta phải sử dụng hiệu quả từng đồng vốn đầu tư, giảm thiểu ICOR.
ICOR của Việt Nam vẫn khá cao, nhất là khi so sánh với các nước trong khu vực. Điều
này cho thấy hiệu quả đầu tư của Việt Nam còn thấp so với nhiều nền kinh tế trong khu vực.
Nguyên nhân của đầu tư kém hiệu quả ở nước ta hiện nay, trước hết là do việc chọn và quyết
định dự án đầu tư. Mối quan hệ giữa đầu tư và tăng trưởng kinh tế, không chỉ được đặt ra đối
với nền kinh tế của một quốc gia, mà còn phải đặt ra cho từng lĩnh vực, từng ngành và từng đơn vị kinh tế.
Năm 2016 : Hệ số ICOR của 2016 đạt mức 6.01. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội năm
2016 theo giá hiện hành ước tính đạt 1.926,86 nghìn tỷ đồng, bằng 34,17 % GDP . Đầu tư
trực tiếp của nước ngoài từ đầu năm đến thời điểm 26/12/2016 thu hút 2.556 dự án cấp phép
mới, tăng 27% về số dự án so với cùng kỳ năm 2015. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực
hiện năm 2016 ước tính đạt 15,8 tỷ USD, tăng 9% so với năm 2015, đạt mức giải ngân vốn
FDI cao nhất từ trước đến nay. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2016 ước tính tăng 6,21% so với năm 2015.
Năm 2017: Hệ số ICOR năm 2017 của Việt Nam là 6,08. Tổng sản phẩm trong nước
(GDP) năm 2017 ước tính tăng 6,81% so với năm 2016. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện
năm 2017 theo giá hiện hành ước tính đạt 2.186,56 nghìn tỷ đồng, tăng 12,1% so với năm 2016 và bằng 34,74% GDP.
Đầu tư trực tiếp của nước ngoài từ đầu năm đến thời điểm 20/12/2017 thu hút 2.591 dự
án cấp phép mới với số vốn đăng ký đạt 21,3 tỷ USD, tăng 3,5% về số dự án và tăng 42,3%
vốn đăng kí. Hiệu quả đầu tư và năng lực cạnh tranh được cải thiện. Hệ số ICOR năm 2017 lOMoAR cPSD| 58707906
đạt 6,08, thấp hơn so với năm 2016 là 6,01. Mặc dù có thể biến động do nhiều yếu tố tác động,
nhưng xu hướng ICOR đã giảm xuống, phản ánh hiệu quả đầu tư của nền kinh tế đang dần
được cải thiện. Tỷ lệ đầu tư của khu vực tư nhân trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội có xu hướng
gia tăng: Năm 2015 là 38,7%; năm 2016 là 38,9%; năm 2017 là 40,6%. Khu vực kinh tế tư
nhân tiếp tục chiếm tỷ trọng khá lớn trong nền kinh tế: Năm 2015 chiếm 43,22% GDP, năm
2016 chiếm 42,56%, ước tính năm 2017 là 41,74%.
Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư và năng suất lao động tiếp tục được cải thiện, thể hiện qua
Hệ số ICOR có xu hướng giảm dần: Hệ số ICOR của Việt Nam năm 2017 ước tính là 6,11,
thấp hơn các năm 2012 (6,76), năm 2013 (6,67), năm 2014 (6,29) và năm 2016 (6,42).
Năm 2018: Ghi nhận sự giảm của hệ số ICOR, cụ thể từ 6,08 (năm 2017) giảm còn 5,70
(năm 2018). Tỷ lệ vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện/GDP năm 2018 đạt 33,5%, đảm bảo mục
tiêu Quốc hội đề ra từ 33-34%. Theo số liệu Tổng cục Thống kê công bố, GDP 2018 tăng
trưởng 7,08%, cao nhất trong 10 năm qua; giải ngân vốn đầu tư nước ngoài hơn 19 tỷ USD,
cao nhất từ trước đến nay; 132.000 doanh nghiệp thành lập mới; cả nước đón gần 15,6 triệu
lượt khách quốc tế... Đây là năm thứ ba liên tiếp lạm phát được kiểm soát dưới mức 4%. Các
chính sách tài khóa, tiền tệ được điều hành linh hoạt, đáp ứng yêu cầu về vốn của nền kinh tế.
Đầu tư trực tiếp của nước ngoài từ đầu năm đến thời điểm 31/12/2018 thu hút 3.147 dự
án cấp phép mới với số vốn đăng ký đạt 18,5 tỷ USD, tăng 14,8% về số dự án và giảm 16,5%
về vốn đăng ký so với năm 2017. Bên cạnh đó, có 1.195 lượt dự án đã cấp phép từ các năm
trước đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư với số vốn tăng thêm đạt 7,8 tỷ USD, giảm 10% so với
năm trước. Như vậy, tổng số vốn đăng ký cấp mới và vốn tăng thêm trong năm 2018 đạt 26,3
tỷ USD, giảm 14,7% so với năm 2017. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện năm 2018
ước tính đạt 19,1 tỷ USD, tăng 9,1% so với năm 2017.
Năm 2019: Vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm 2019 đạt mức tăng 10,2% so với năm
2018, trong đó khu vực kinh tế ngoài Nhà nước tăng 17,3% với tỷ trọng trong tổng vốn đầu tư
lớn nhất từ trước đến nay (46%). Khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tiếp tục giữ đà
phát triển, tăng 7,9% so với năm trước, số vốn FDI thực hiện 20,4 tỷ USD cao nhất trong nhiều
năm trở lại đây. Vốn đầu tư khu vực Nhà nước tăng 2,6%, trong đó vốn đầu tư từ ngân sách
Nhà nước chưa cải thiện nhiều, tăng 5,8% so với năm trước.
Vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện theo giá hiện hành năm 2019 ước tính đạt 2.046,8 nghìn
tỷ đồng, tăng 10,2% so với năm trước và bằng 33,9% GDP, bao gồm: Vốn khu vực Nhà nước
đạt 634,9 nghìn tỷ đồng (chiếm 31% tổng vốn 14 đầu tư thực hiện toàn xã hội), tăng 2,6%;
khu vực ngoài Nhà nước đạt 942,5 nghìn tỷ đồng, (chiếm 46%), tăng 17,3%; khu vực có vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 469,4 nghìn tỷ đồng (chiếm 23%), tăng 7,9%. Cơ cấu vốn đầu
tư chuyển dịch theo hướng tỷ trọng vốn khu vực ngoài nhà nước tăng đều qua các năm, giảm
tỷ trọng vốn đầu tư của khu vực Nhà nước. Năm 2019, tỷ trọng vốn đầu tư của khu vực ngoài
Nhà nước đạt 46% trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội, mức tỷ trọng cao nhất từ trước đến nay,
khẳng định rõ chủ trương của Đảng về phát triển kinh tế ngoài Nhà nước trở thành động lực
quan trọng của nền kinh tế.
Tóm lại, hiệu quả đầu tư được cải thiện với nhiều năng lực sản xuất mới bổ sung cho nền
kinh tế. Chỉ số hiệu quả sử dụng vốn đầu tư (Hệ số ICOR) giảm từ mức 6,42 năm 2016 xuống lOMoAR cPSD| 58707906
6,07 năm 2019. Bình quân giai đoạn 2016-2019 hệ số ICOR đat 6,14, thấp hơn so vớị hệ số
6,25 của giai đoạn 2011-2015. b. Năm 2020, 2021
Hệ số ICOR tăng đột biến, vốn đầu tư tăng không đáng kể, tốc độ tăng GDP thấp hơn
so với giai đoạn trước
Năm 2020, đại dịch COVID – 19 đã gây ra những ảnh hưởng toàn diện, sâu rộng đến tất
cả các quốc gia trên thế giới và hiện nay vẫn còn diễn biến phức tạp. Nền kinh tế Việt Nam đã
hội nhập quốc tế sâu rộng và chịu nhiều tác động, ảnh hưởng nghiêm trọng đến các lĩnh vực
kinh tế - xã hội. Năm 2020, quy mô nền kinh tế Việt Nam đứng trong top 40 nền kinh tế lớn
nhất thế giới và đứng thứ tư ASEAN.
Vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội năm 2020 theo giá hiện hành đạt 2.164,5 nghìn tỷ đồng,
tăng 5,7% so với năm 2019, bao gồm: Vốn của khu vực Nhà nước đạt 729 nghìn tỷ đồng
(chiếm 33,7% tổng vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội), tăng 14,5%; khu vực ngoài Nhà nước
đạt 972,2 nghìn tỷ đồng (chiếm 44,9%), tăng 3,1%; khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt
463,3 nghìn tỷ đồng (chiếm 21,4%), giảm 1,3%. Tổng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam
năm 2020 bao gồm vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ
phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt 31 tỷ USD, giảm 20,3% so với năm 2019. Trong đó có
2.610 dự án được cấp phép mới với số vốn đăng ký đạt 15,2 tỷ USD, giảm 35,2% về số dự án
và giảm 12,8% về số vốn đăng ký so với năm trước; có 1.312 lượt dự án đã cấp phép từ các
năm trước đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư với số vốn tăng thêm đạt 7,3 tỷ USD, tăng 22,7%;
có 6.453 lượt góp vốn mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài với tổng giá trị góp vốn 8,5 tỷ
USD, giảm 45,2%. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện năm 2020 ước tính đạt gần 20
tỷ USD, giảm 2% so với năm trước.
Đối với năm 2021, vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội theo giá hiện hành năm 2021 tăng
3,2% so với năm trước. Vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội năm 2021 theo giá hiện hành đạt
2.891,9 nghìn tỷ đồng, tăng 3,2% so với năm trước, bao gồm: Vốn khu vực Nhà nước đạt
713,5 nghìn tỷ đồng, chiếm 24,7% tổng vốn và giảm 2,9% so với năm trước; khu vực ngoài
Nhà nước đạt 1.720,3 nghìn tỷ đồng, bằng 59,5% và tăng 7,2%; khu vực có vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài đạt 458,1 nghìn tỷ đồng, bằng 15,8% và giảm 1,1%. Tổng vốn đầu tư nước
ngoài vào Việt Nam tính đến 31/12/2021 bao gồm vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều
chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt 38,9 tỷ USD, tăng 25,2%
so với năm 2020. Trong đó, có 1.818 dự án được cấp phép mới với số vốn đăng ký đạt 18,9 tỷ
USD. Tuy đây là mức tăng thấp nhất trong nhiều năm qua 1 nhưng là kết quả khả quan trong
bối cảnh dịch Covid-19 diễn biến phức tạp trong nước và trên thế giới. Thu hút vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài (FDI) phục hồi, vốn đăng ký mới và vốn đăng ký tăng thêm tăng trở lại
cho thấy nhà đầu tư nước ngoài tiếp tục tin tưởng vào môi trường đầu tư Việt Nam.
GDP bình quân đầu người theo giá hiện hành luôn đạt mức năm sau cao hơn năm trước.
Năm 2021 đạt 3.717 USD/người, tăng 165 USD so với năm 2020. GDP theo giá hiện hành
năm 2021 đạt 8.479,7 nghìn tỷ đồng (tương đương 366,1 tỷ USD); năm 2020 đạt 8.044,4 nghìn
tỷ đồng (tương đương 346,6 tỷ USD). - Năng suất lao động của toàn nền kinh tế theo giá hiện
hành năm 2021 ước tính đạt 172,8 triệu đồng/lao động (tương đương 7.461 USD/lao động).
Theo giá so sánh, năng suất lao động năm 2021 tăng 4,6% do trình độ của người lao động lOMoAR cPSD| 58707906
được cải thiện (tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng, chứng chỉ năm 2021 đạt 26,1%, cao hơn mức 24,1% của năm 2020).
Biểu đồ thể hiện mối tương quan giữa vốn đầu tư và tổng sản phẩm trong
nước giai đoạn 2016 - 2021
2.2. Đánh giá chung
Hiện trạng ICOR của Việt Nam còn cao là do cả nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan.
Nguyên nhân khách quan là do Việt Nam đang trong giai đoạn tập trung cho phát triển
hạ tầng, bao gồm cả hạ tầng vùng sâu, vùng xa và đầu tư cho xóa đói, giảm nghèo, bảo đảm
an sinh xã hội. Do xuất phát điểm của nền kinh tế còn thấp, trong khi nhu cầu đầu tư rất lớn,
cùng lúc phải triển khai xây dựng nhiều công trình nên không bảo đảm đủ vốn, thời gian xây
dựng kéo dài, chậm đưa công trình vào khai thác, đây cũng là một nguyên nhân khách quan
kéo lùi hiệu quả đầu tư. Khủng hoảng kinh tế thế giới đã ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động
sản xuất, kinh doanh trên tất cả các ngành, lĩnh vực giá cả các yếu tố đầu vào tiếp tục tăng,
đã làm giảm đáng kể hiệu quả đầu tư.
Bên cạnh nguyên nhân khách quan trên, còn có các nguyên nhân chủ quan sau, cụ thể:
- Vẫn chủ yếu đầu tư chiều rộng: Đầu tư vẫn tập trung chủ yếu vào việc gia tăng cácyếu
tố cơ học, các yếu tố tăng chiều rộng mà chưa chú trọng đúng mức đến đầu tư vào các yếu tố
gia tăng chiều sâu, gia tăng bền vững.
- Yếu kém trong quy hoạch, lãng phí, thất thoát: do công tác quy hoạch còn nhiều hạnchế,
quyết định đầu tư dàn trải, hiệu quả thấp và nhiều công trình, nhiều dự án đầu tư còn để xảy
ra thất thoát, lãng phí. Do phân cấp quá rộng dẫn tới tình trạng phê duyệt quá nhiều dự án vượt
khả năng cân đối vốn ngân sách nhà nước và vốn trái phiếu Chính phủ. Do đầu tư phân tán,
nên các dự án thường bị thiếu vốn và kéo dài tiến độ, làm tăng chi phí đầu tư và chậm đưa
công trình vào sử dụng. Đầu tư kém hiệu quả, dẫn đến những hệ quả tiêu cực khác, như: tăng
sức ép lạm phát, mất cân đối vĩ mô - như cân đối ngành, cán cân xuất - nhập khẩu, … lOMoAR cPSD| 58707906
Một nguyên nhân hiệu quả đầu tư thấp là công tác phân tích dự báo cũng chưa được coi
trọng đúng mức, dẫn đến thường xuyên phải bổ sung, sửa đổi, tạo sự thất thoát.
- Cơ chế: Do Luật Đầu tư công, Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sảnxuất,
kinh doanh nghiệp vẫn thiếu các văn bản dưới luật và chưa có cơ chế đủ mạnh để kiểm tra,
giám sát và chưa có chế tài xử lý các vấn đề phát sinh. Chính phủ chưa có cơ chế giám sát
chặt chẽ đối với hoạt động đầu tư, nhất là với các doanh nghiệp nhà nước được coi là "tự chủ".
=> Hệ số ICOR của nước ta tăng và giữ ở mức cao qua các năm, chứng tỏ hiệu quả sử
dụng vốn đầu tư đã và đang giảm qua các năm. Hệ số ICOR cao cho thấy khả năng cạnh tranh
của hàng hóa Việt Nam trên thị trường tiêu thụ đang giảm. Đầu tư không hiệu quả, giá trị gia
tăng của sản phẩm, hiệu quả kinh tế của các dự án thấp cũng đồng nghĩa với việc sinh lợi thấp,
giá trị của đồng tiền giảm, còn dẫn đến lạm phát.
Hệ số ICOR của Việt Nam tăng nhanh và giữ ở mức cao so với các nước đang phát triển
trong khu vực, cho thấy hiệu quả sử dụng vốn của Việt Nam thấp hơn so với các nước khác.
Với quá trình hội nhập kinh tế thế giới nhanh như hiện tại, điều này làm giảm lợi thế cạnh
tranh của Việt Nam trên trường quốc tế cũng như gia tăng khoảng cách phát triển giữa Việt
Nam với các quốc gia khác.
Việc cải thiện ICOR, nâng cao hiệu quả đầu tư nhằm thúc đẩy tăng trưởng là rất quan
trọng, tuy nhiên, lao động hay vốn vật chất không phải là những nguồn lực vô hạn cho tăng
trưởng. Lực lượng lao động của Việt Nam vẫn gia tăng nhưng tỷ trọng lao động trẻ ngày cảng
giảm do dân số đang già hóa. Sự phụ thuộc của tăng trưởng vào vốn được hỗ trợ bởi sự mở
rộng tín dụng liên tục trong nhiều năm, đã dẫn tới hệ quả là tăng trưởng thiếu bền vững, đi
kèm những bất ổn kinh tế vĩ mô. Nhu cầu tái cơ cấu và nâng cao hiệu quả đầu tư cần phải
được ưu tiên hàng đầu trong quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng
trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, năng suất, hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.
2.3. Đề xuất giải pháp
Thứ nhất, về giải pháp tổng thể: Đầu tư công phải đảm bảo tuân thủ quy hoạch, kế hoạch
đầu tư phát triển đã được phê duyệt nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nguồn vốn NSNN; hướng
tới đa dạng hóa nguồn vốn đầu tư; không ngừng bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện cơ chế, chính
sách quản lý; cải cách hành chính trong quản lý đầu tư công; tăng cường giám sát đầu tư, thực
hiện kiên quyết các biện pháp phòng ngừa, chống tham nhũng, lãng phí.
Tăng cường và nâng cao hiệu quả các chính sách khuyến khích đầu tư trong nước nhằm
thu hút vốn đầu tư của khu vực tư nhân; tăng cường thu hút, sử dụng hiệu quả nguồn vốn ngoài
nước, cụ thể là FDI và ODA. Cùng với đó, cần thay đổi tư duy về mô hình tăng trưởng kinh
tế, cần quán triệt quan điểm thực hiện tăng trưởng kinh tế dựa trên nền tảng coi trọng chất lượng.
Cần kịp thời sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật để phù hợp với yêu cầu thực tế
nhằm tạo sự thông thoáng để huy động nguồn lực cho đầu tư phát triển.
Thứ hai, kiên quyết khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải, lãng phí, kém hiệu quả.
Theo đó, từng địa phương, đơn vị, bộ, ngành phải tập trung rà soát kỹ, giảm số lượng dự án,
nhất là các dự án khởi công mới để tập trung nguồn lực cho hạ tầng chiến lược. Đặc biệt, cần lOMoAR cPSD| 58707906
nghiên cứu khoa học trong việc lựa chọn các dự án hạ tầng chiến lược, các dự án liên kết vùng
để tập trung nguồn lực đầu tư phát triển, tạo động lực mới cho sự phát triển kinh tế - xã hội,
đảm bảo quốc phòng an ninh.
Thứ ba, đảm bảo tiến độ giải ngân. Cần khắc phục có hiệu quả tình trạng chậm giải
ngân vốn, đẩy mạnh tiến độ triển khai các dự án quan trọng quốc gia. Kiên quyết cắt giảm,
điều chuyển vốn trong trường hợp chậm giải ngân; xác định rõ trách nhiệm các tổ chức, cá
nhân, người đứng đầu để chậm tiến độ theo quyết định chủ trương đầu tư được duyệt.
Thứ tư, nghiên cứu, xây dựng và ban hành bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả đầu tư
công và hiệu quả dự án đầu tư công. Bộ tiêu chí này sẽ là cơ sở để lựa chọn “cơ hội” trong
đầu tư công, dự án đầu tư công trong điều kiện nguồn lực cho đầu tư từ NSNN ngày càng hạn hẹp.
Bên cạnh đó, cần tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát việc chấp hành kỷ
luật, kỷ cương trong quản lý đầu tư công; thành lập các Đoàn công tác để kiểm tra, đôn đốc,
tháo gỡ khó khăn, khen thưởng kịp thời và xử lý nghiêm những hành vi vi phạm pháp luật,
gây thất thoát, lãng phí trong đầu tư công.
Thực hiện nghiêm chế độ báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch đầu tư công định kỳ, đột
xuất theo quy định; Đặc biệt, cần nâng cao trách nhiệm minh bạch và giải trình công khai;
Tiếp thu ý kiến của người dân và giải trình, phản hồi kịp thời để người dân biết, đồng thuận
chủ trương, chính sách về đầu tư công, đầu tư dự án.
Thứ năm, nâng cao khả năng huy động nguồn lực ngoài NSNN: Thực hiện quyết liệt
việc huy động nguồn vốn của các thành phần kinh tế khác, nhất là các dự án PPP. Cân nhắc
kỹ việc bố trí vốn NSNN đối với các dự án, mà các thành phần kinh tế khác đang có nhu cầu đầu tư.
Tập trung thu hút vốn đầu tư của khu vực tư nhân nhiều hơn, mặt khác hoạt động đầu tư
phải có trọng tâm, trọng điểm vào những ngành, lĩnh vực mang lại hiệu quả kinh tế cao, tránh
đầu tư dàn trải, lãng phí. Hiệu quả đầu tư sẽ tăng lên đáng kể khi cơ cấu đầu tư tập trung vào
một số ngành trọng điểm như thông tin và truyền thông; hoạt động tài chính, ngân hàng và
bảo hiểm; hoạt động khoa học và công nghệ do những ngành này có hiệu suất đầu tư tốt, mang
lại giá trị gia tăng cao hơn các nhóm ngành khác. Đồng thời chú trọng đầu tư cơ sở hạ tầng để
nâng cao năng lực sản xuất, cạnh tranh của nền kinh tế.
Để tiếp cận mô hình tăng trưởng trên, trong giai đoạn tới, cần đẩy mạnh cơ cấu lại nền
kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức
cạnh tranh, bảo đảm phát triển nhanh và bền vững, nâng cao trình độ phát triển và năng lực
cạnh tranh của các ngành, doanh nghiệp, sản phẩm và nền kinh tế. Huy động và phân bổ, sử
dụng có hiệu quả các nguồn lực tạo lập và phát triển các cân đối của nền kinh tế gắn phát triển
kinh tế với bảo vệ tài nguyên, môi trường. lOMoAR cPSD| 58707906
Chủ đề 02: Phân tích tác động của đầu tư phát triển đến chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế tại các quốc gia. Liên hệ thực tế Việt Nam giai đoạn 2011-2015 và giai đoạn 2016-2022.
Phần A: Phân tích tác động của đầu tư phát triển đến chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế tại
các quốc gia...................................................................................................................1
I. TỔNG QUAN.............................................................................................................1
1. Đầu tư phát triển là gì?...............................................................................................1
2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là gì?...............................................................................1
3. Mối quan hệ giữa đầu tư phát triển và chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế...................1
II. CƠ SỞ LÝ THUYẾT................................................................................................1 1.
Đầu tư phát triển làm thay đổi tỷ trọng đóng góp vào GDP các
ngành.......................1
1.1. Nguyên nhân............................................................................................................1
1.2. Ví dụ minh họa........................................................................................................2 2.
Đầu tư phát triển làm thay đổi số lượng các ngành trong nền kinh
tế.........................3 Phần B: Liên hệ thực tế Việt Nam giai đoạn 2011-2015 và giai đoạn 2016-2022.........3
I. LIÊN HỆ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2011-2015.........................................................3
1. Bối cảnh kinh tế Việt Nam 2011-2015.......................................................................3
2. Đầu tư phát triển tại Việt Nam 2011-2015..................................................................3
3. Đầu tư phát triển làm thay đổi tỷ trọng đóng góp vào GDP của các ngành tại Việt
Nam giai đoạn 2011-2015.......................................................................................................4
3.1. Tỷ trọng vốn đầu tư phát triển tại Việt Nam 2011-2015..........................................4
3.2. Tỷ trọng vốn đầu tư phát triển ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế tại
Việt Nam 2011-2015...............................................................................................................5
II. LIÊN HỆ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2016-2022........................................................6 1. Bối cảnh kinh tế Việt Nam 2016-
2022.......................................................................6 2. Đầu tư phát triển tại Việt Nam 2016-
2022..................................................................7 3.
Đầu tư phát triển làm thay đổi tỷ trọng đóng góp vào GDP của các ngành tại Việt
Nam giai đoạn 2016-2022.......................................................................................................8 lOMoAR cPSD| 58707906
3.1. Tỷ trọng vốn đầu tư phát triển tại Việt Nam giai đoạn 2016-2022..........................8
3.2. Tỷ trọng vốn đầu tư phát triển ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế tại
Việt Nam 2016-2022...............................................................................................................9 4. NHẬN XÉT, ĐÁNH
GIÁ........................................................................................11Phần A: Phân tích tác
động của đầu tư phát triển đến chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế tại các quốc gia
I. TỔNG QUAN
1. Đầu tư phát triển là gì?
Đầu tư phát triển là bộ phận cơ bản của đầu tư, là việc chi dùng vốn trong hiện tại
để tiến hành các hoạt động nhằm làm tăng thêm hoặc tạo ra những tài sản vật chất (nhà
xưởng thiết bị, ...) và tài sản trí tuệ (tri thức, kỹ năng…), gia tăng năng lực sản xuất, tạo
thêm việc làm và vì mục tiêu phát triển.
2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là gì?
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một quá trình khách quan làm thay đổi cơ cấu, tỷ
trọng, tốc độ và chất lượng của các mối quan hệ kinh tế giữa các ngành và các vùng để
đạt được cơ cấu hợp lý hơn cho sự phát triển kinh tế xã hội của một quốc gia.
3. Mối quan hệ giữa đầu tư phát triển và chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
Đầu tư phát triển có vai trò quan trọng và có mối quan hệ gắn bó mật thiết đến
chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Quy mô tổng số vốn đầu tư phát triển hay cách tối ưu tổng
vốn đều sẽ tác động trực tiếp đến sự phát triển của từng ngành và cả nền kinh tế của một
quốc gia. Đầu tư phát triển chính xác góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp
với quy luật và chiến lược phát triển của mỗi quốc gia, từ đó có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững. II.
CƠ SỞ LÝ THUYẾT
Đầu tư phát triển tác động mạnh mẽ và trực tiếp đến chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế,
được phân tích dựa trên 2 khía cạnh chính: -
Đầu tư phát triển làm thay đổi tỷ trọng đóng góp vào GDP của các ngành trong nền kinh tế. -
Đầu tư phát triển làm thay đổi số lượng ngành trong nền kinh tế.
1. Đầu tư phát triển làm thay đổi tỷ trọng đóng góp vào GDP các ngành
1.1. Nguyên nhân
Đầu tư tác động làm thay đổi tỷ trọng đóng góp vào GDP của các ngành là 1 hệ quả
tất yếu của đầu tư. Đầu tư vào ngành nào càng nhiều thì ngành đó càng có khả năng đóng
góp lớn hơn vào GDP. Việc tập trung đầu tư vào ngành nào phụ thuộc vào chính sách và
chiến lược phát triển của mỗi quốc gia, nhà nước có thể tăng cường khuyến khích hoặc
hạn chế đầu tư đối với các ngành cho phù hợp với từng giai đoạn phát triển.
Việc xác định nên tập trung đầu tư vào ngành nào có tính chất quyết định sự phát
triển của quốc gia. Kinh nghiệm của các nước trên thế giới đã cho thấy con đường tất yếu lOMoAR cPSD| 58707906
có thể tăng trưởng nhanh là tăng cường đầu tư nhằm phát triển ở khu vực công nghiệp và dịch vụ.
Sự thay đổi tỷ trọng này có khả năng tạo ra sự thay đổi cơ cấu sản xuất trong từng ngành.
Từ đó, cơ cấu sản xuất của mỗi ngành kinh tế thêm phân hóa - một tất yếu để phù hợp với sự
phát triển của ngành. Đầu tư phát triển sẽ tập trung vào các ngành có điều kiện thuận lợi để
phát triển, phát huy được lợi thế của ngành đó và làm điểm tựa cho các ngành khác cùng phát triển.
1.2. Ví dụ minh họa
Một ví dụ cụ thể là Nhật Bản, trong quá trình phát triển của đất nước sau chiến tranh
thế giới thứ II, việc đầu tư vào công nghệ cao và sản xuất hạng nhẹ đã làm thay đổi tỷ
trọng đóng góp của các ngành vào GDP.
Trước đó, nền kinh tế của Nhật Bản dựa trên sản xuất và kinh doanh hạng nặng,
nhưng sau đó việc đầu tư vào công nghệ cao và ngành dịch vụ đã giúp cho các ngành này
trở nên quan trọng hơn và đóng góp mạnh vào GDP của đất nước. Hiện tại, các ngành
công nghệ cao và dịch vụ đang là những ngành quan trọng và đóng góp mạnh vào GDP của Nhật Bản.
Hình 1: Mức độ tăng trưởng GDP và tỷ trọng các lĩnh vực đóng góp vào GDP Nhật Bản 1995-2003
Với mục tiêu thúc đẩy phát triển công nghệ tiên tiến bậc nhất thế giới, Nhật Bản tăng
cường các dự án đầu tư nghiên cứu và phát triển cho cả khu vực công và tư nhân, ưu tiên
những lĩnh vực công nghệ cao mang tính thương mại cao... Chính phủ Nhật Bản đã hỗ trợ
nhiều dự án nghiên cứu và phát triển, như: Hội đồng Khoa học và Công nghệ Nhật Bản
đã chi 17 nghìn tỷ yên cho nghiên cứu và phát triển trong giai đoạn 1995-2000 và trong
những năm này, kinh phí dành cho hoạt động nghiên cứu và phát triển tăng từ 2,3% GDP
năm 1995 lên 3,1% GDP năm 2000. Nghiên cứu khoa học ở Nhật Bản phải gắn với sản
xuất, tạo sức cạnh tranh cao trên thị trường. Chẳng hạn, để phát triển ngành điện tử, Nhật
Bản chú trọng đầu tư nghiên cứu và phát triển lĩnh vực công nghệ cao vi mạch. Ngành
này mỗi năm đem lại cho Nhật Bản khoảng 1 tỷ USD lợi nhuận, cao hơn cả ngành luyện thép truyền thống. lOMoAR cPSD| 58707906
2. Đầu tư phát triển làm thay đổi số lượng các ngành trong nền kinh tế
Việc đầu tư phát triển có thể làm thay đổi số lượng ngành trong nền kinh tế bởi vì
nó có thể tạo ra các cơ hội mới cho sản xuất và kinh doanh, tăng trưởng cho các ngành
liên quan. Đầu tư cũng có thể tạo ra các công nghệ mới và tiếp cận các hoạt động sản xuất
mới, đồng thời giảm thiểu hoạt động sản xuất cũ hoặc không cần thiết. Tất cả những điều
này có thể dẫn đến sự thay đổi trong số lượng và tầm quan trọng của các ngành trong nền kinh tế.
Phần B: Liên hệ thực tế Việt Nam giai đoạn 2011-2015 và giai đoạn 2016-2022
I. LIÊN HỆ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2011-2015
1. Bối cảnh kinh tế Việt Nam 2011-2015
- Tăng trưởng GDP bình quân 5 năm đạt khoảng 5,88%/năm, thể hiện rõ xu thế phục
hồi, thấp hơn giai đoạn trước trong đó năm 2015 ước đạt trên 6,5%, cao nhất trong 5 năm qua.
Quy mô của nền kinh tế tiếp tục tăng; GDP năm 2015 đạt khoảng 200 tỷ USD, thu nhập bình
quân đầu người đạt khoảng 2.180 USD.
- Nền kinh tế thế giới tăng trưởng trong khó khăn, đặc biệt là các nước đang phát triển
- Thương mại toàn cầu đánh mất đà phát triển, thường dưới mức 5%
2. Đầu tư phát triển tại Việt Nam 2011-2015
Tăng trưởng đầu tư của Việt Nam (theo giá so sánh năm 2010) giai đoạn 2011 -
2014 chỉ đạt 3,85%, thấp hơn đáng kể so với giai đoạn trước đó (giai đoạn 2006 2010
đạt 13,42%) do tác động không thuận lợi của kinh tế trong nước và quốc tế.
Tổng vốn đầu tư toàn xã hội ước đạt khoảng 31,7% GDP, thấp hơn so với mục tiêu
đã được Quốc hội thông qua đầu nhiệm kỳ (là 33,5% đến 35%). Năm 2015, tổng vốn đầu
tư phát triển toàn xã hội theo giá hiện hành ước tăng 12%, tương đương 32,6% GDP và
vượt kế hoạch đề ra.
Trong giai đoạn 2011 - 2015, vốn FDI thực hiện đạt 59,96 tỷ USD, vốn cấp mới và
tăng thêm đạt 96,39 tỷ USD, đều vượt mục tiêu đã đề ra (mục tiêu kế hoạch giai đoạn
2011-2015 là 57,3 - 58 tỷ USD vốn thực hiện, vốn cấp mới và tăng thêm là 86 tỷ USD)
nhờ nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, đặc biệt là trong lĩnh vực thuế, phí và hải quan…
3. Đầu tư phát triển làm thay đổi tỷ trọng đóng góp vào GDP của các ngành tại Việt
Nam giai đoạn 2011-2015
3.1. Tỷ trọng vốn đầu tư phát triển tại Việt Nam 2011-2015 lOMoAR cPSD| 58707906
Bảng 1: Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội thực hiện theo giá hiện hành phân theo
ngành Kinh tế tại Việt Nam giai đoạn 2011-2015 (Nguồn: Tổng cục thống kê)
3.2. Tỷ trọng vốn đầu tư phát triển ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu ngành
kinh tế tại Việt Nam 2011-2015
Năm 2011, tỷ trọng các khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản; công nghiệp và xây
dựng; dịch vụ trong GDP tương ứng 19,57%; 32,24%; 36,73%. Cơ cấu này đã có sự dịch
chuyển theo xu hướng giảm tỷ trọng ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản; tăng tỷ trọng
ngành công nghiệp và xây dựng và tỷ trọng ngành dịch vụ. Đến năm 2015 tỷ trọng của
các khu vực này lần lượt là: 17,00%, 33,25%, 39,73%. Trong 5 năm 2011-2015 tỷ trọng
nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm 2,57 điểm phần trăm; công nghiệp và xây dựng tăng
1,01 điểm phần trăm; dịch vụ tăng 3,0 điểm phần trăm lOMoAR cPSD| 58707906
Hình 2: Tỷ trọng GDP theo ngành tại Việt Nam giai đoạn 2011-2020
- Sản xuất công nghiệp, nhất là công nghiệp chế biến tiếp tục tăng trưởng cao: tốc
độ tăng trưởng khu vực công nghiệp - xây dựng đạt 9,29%. Chỉ số sản xuất công nghiệp
(IIP) năm 2015 ước tăng 9,8%, cao hơn các năm trước (năm 2013 tăng 5,9%; năm 2014
tăng 7,6%); trong đó, công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 10,6%.
- Về sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản: tăng trưởng khu vực nông, lâm nghiệpvà
thủy sản đạt 2,36%. Tổng sản lượng lương thực có hạt toàn quốc ước đạt gần 50,5 triệu
tấn, tăng 0,6% so với năm trước. Sản xuất lúa cả năm 2015 vẫn đạt khá, tăng nhẹ về diện
tích, năng suất và sản lượng: diện tích gieo trồng lúa đạt 7,83 triệu ha, tăng 0,2% so với
năm trước; năng suất ước đạt 57,7 tạ/ha, tăng 0,2 tạ/ha (tăng 0,3%), sản lượng ước đạt
gần 45,22 triệu tấn, tăng 241 nghìn tấn (tăng 0,5%).
- Khu vực dịch vụ tiếp tục phát triển, sức mua và tổng cầu tiếp tục cải thiện: tăng
trưởng khu vực dịch vụ đạt 6,04%. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu
dùng năm 2015 ước tăng 9,5% so với năm trước; nếu loại trừ yếu tố giá, tăng 8,4%. Khách
quốc tế đến nước ta ước đạt khoảng 7,94 triệu lượt khách, bằng xấp xỉ năm 2014.
=> Xu hướng chuyển dịch:
Đầu tư đã có tác động tạo ra những chuyển biến về tỷ trọng đóng góp vào GDP của
các thành phần kinh tế. Trong những năm qua cơ cấu thành phần kinh tế ở nước ta đã có
sự chuyển dịch theo hướng tiến bộ và bước đầu đã đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ.
Bên cạnh khu vực kinh tế trong nước, khu vực kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp của nước
ngoài FDI cũng ngày càng có những đóng góp tích cực vào sự tăng trưởng kinh tế của cả
nước. Đáng chú ý là trong khu vực kinh tế trong nước, cơ cấu của các thành phần đã có
sự chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng các thành phần kinh tế ngoài nhà nước và giảm
tỷ trọng của kinh tế nhà nước phù hợp với chủ trương đa dạng hoá các thành phần kinh tế
nhưng vẫn đảm bảo vai trò quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. lOMoAR cPSD| 58707906
II. LIÊN HỆ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2016-2022
1. Bối cảnh kinh tế Việt Nam 2016-2022
Về bối cảnh quốc tế, khu vực Châu Á- Thái Bình Dương vẫn là trung tâm phát triển
năng động của kinh tế thế giới. Khoa học, công nghệ cùng toàn cầu hóa và hội nhập quốc
tế ngày càng phát triển sâu rộng và ảnh hưởng đến tình hình kinh tế Việt Nam 2016-2020.
Tuy nhiên, vào giai đoạn 2019-2022, dịch Covid-19 lần đầu tiên xảy ra trên toàn cầu đã
ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế toàn cầu, bao gồm cả Việt Nam. Nền kinh tế rơi
vào tình trạng suy thoái, hậu quả kéo dài nhiều năm sau đó.
Theo (Tổng Cục Thống kê), tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân 5 năm 20162020
tăng 6.5 - 7%/năm, GDP bình quân đầu người năm 2020 khoảng 3200 - 3500 USD. Nhìn vào
biểu đồ hình 1.1, có thể thấy, kinh tế Việt Nam tăng trưởng khá, từng bước chuyển dịch sang
chiều sâu, quy mô kinh tế ngày càng mở rộng, lạm phát được kiểm soát, đặc biệt năm 2020
nền kinh tế vẫn đạt tăng trưởng dương dù bị ảnh hưởng nặng nề của dịch Covid-19.
Hình 3. Tăng trưởng Việt Nam so với các khu vực trên thế giới giai đoạn 20112020
2. Đầu tư phát triển tại Việt Nam 2016-2022
Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội giai đoạn 2016-2022 tiếp tục xu hướng tăng
trưởng tích cực. Huy động nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội tăng lên, hiệu quả sử
dụng dần được nâng cao, đặc biệt vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng mạnh và đạt mức kỷ lục.
Theo văn bản số 8652/BC- của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tổng vốn đầu tư phát triển
toàn xã hội giai đoạn 2016-2020 ước đạt gần 9.2 triệu tỷ đồng, bằng 33.5% GDP, đạt mục
tiêu bình quân 5 năm (32-34%). Trong đó, năm 2020, huy động nguồn lực xã hội cho đầu
tư phát triển đạt 34.4% GDP - cao nhất trong giai đoạn 5 năm.
Cơ cấu đầu tư chuyển dịch tích cực, tỷ trọng đầu tư của khu vực Nhà nước giảm,
phù hợp với định hướng cơ cấu lại đầu tư công và giảm dần sở hữu Nhà nước tại các
doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế, nhất là các lĩnh vực Nhà nước không cần nắm giữ cổ phần lOMoAR cPSD| 58707906
chi phối. Tỷ trọng vốn đầu tư từ khu vực kinh tế ngoài nhà nước tăng nhanh từ mức 38.3%
năm 2015 lên khoảng 46.8% năm 2020. Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
tăng mạnh, tổng vốn FDI đăng ký ước đạt khoảng 173174 tỷ USD - đạt mức kỷ lục, trong
khi đó vốn thực hiện ước đạt khoảng 92-93 tỷ USD.
3. Đầu tư phát triển làm thay đổi tỷ trọng đóng góp vào GDP của các ngành tại Việt
Nam giai đoạn 2016-2022
3.1. Tỷ trọng vốn đầu tư phát triển tại Việt Nam giai đoạn 2016-2022
Theo tổng hợp và phân tích số liệu từ Tổng cục Thống kê, bảng 1.1 dưới đây đã chỉ
rõ tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội theo giá cơ sở trong 3 khu vực: Khu vực 1 (Nông,
lâm, ngư nghiệp), Khu vực 2 (Công nghiệp, xây dựng) và Khu vực 3 (Dịch vụ) giai đoạn 2016-2020.
Có thể thấy, trong 5 năm, tỷ trọng trong tổng vốn đầu tư phát triển của Khu vực 2
và 3 luôn chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng vốn đầu tư phát triển cho toàn xã hội.
Bên cạnh đó, Khu vực 1 và Khu vực 3 có xu hướng tăng theo thời gian (Khu vực 1: tăng
từ 5.89% năm 2016 lên 7.75% năm 2020, Khu vực 3: tăng từ 48.01% năm 2016 lên
49.67% năm 2020); còn Khu vực 2 (Công nghiệp, xây dựng) lại có xu hướng giảm dần
(từ 46.04% năm 2016 xuống 42.58% năm 2020).
Nhìn chung, Khu vực 2 (Công nghiệp, xây dựng) và Khu vực 3 (Dịch vụ) luôn chiếm
tỷ trọng cao nhất và có xu hướng tăng dần.
3.2. Tỷ trọng vốn đầu tư phát triển ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu ngành
kinh tế tại Việt Nam 2016-2022 lOMoAR cPSD| 58707906
Có thể thấy, tỷ trọng các ngành trong tổng vốn đầu tư phát triển xã hội Việt Nam có
ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Việt Nam theo GDP giai đoạn 2016-
2020. Cụ thể, giảm tỷ trọng ngành nông lâm, ngư nghiệp và tăng tỷ trọng ngành công
nghiệp-xây dựng và dịch vụ. -
Nông nghiệp: Nông nghiệp khẳng định vai trò là trụ đỡ của nền kinh tế trong khókhǎn.
+ Tăng trưởng cả năm ước đạt khoảng 2,68% (cao hơn mức 2,01% của năm 2019).
+ Cơ cấu lại ngành nông nghiệp một cách thực chất và hiệu quả hơn, đặc biệt sản
xuất lúa gạo tǎng cà về năng suất, sản lượng, giá bán, bảo đảm vững chǎc an ninh lương
thực quốc gia. Nhiều nhà máy chế biến nông sản được xây dựng và đi vào hoạt động.
+ Xây dựng nông thôn mới và đầu tư phát triển hạ tầng nông nghiệp, nông thôn được
chú trọng; đến cuối năm 2020 dự kiến có trên 63% số xã đạt chuẩn nông thôn mới (mục tiêu đề ra là 50%).
+ Nông nghiệp có xu hướng tập trung vào đầu tư phát triển hạ tầng nông nghiệp, vào
công nghệ máy móc hiện đại cũng như tiến đến những giá trị bền vững hơn (nông sản
sạch, nông sản xanh, ...) - Công nghiệp:
+ Sản xuất công nghiệp gặp nhiều khó khǎn nhưng vân đạt mức tǎng trưởng 3,36%.
+ Cơ cấu nội ngành tiếp tục chuyển dịch tích cực; tỷ trọng công nghiệp chế biến,
chế tạo tăng, trong đó có ngành điện tử, dược, vật tư y tế, chế biến thực phẩm, hóa chất, chế biến gỗ...
+ Vai trò của khu vực doanh nghiệp trong nước được phát huy, là một động lực tăng
trưởng quan trọng của toàn ngành công nghiệp lOMoAR cPSD| 58707906
+ Cơ cấu lại các ngành kinh tế đi vào thực chất, tiếp tục chuyển dịch tích cực và đúng
hướng, tỉ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo và ứng dụng công nghệ tăng lên
+ Giảm tỉ trọng của ngành khai khoáng, tăng nhanh tỉ trọng ngành công nghiệp chế biến,
chế tạo, phù hợp với mục tiêu phát triển bền vững.
=> Công nghiệp hỗ trợ từng bước hình thành và phát triển, góp phần nâng cao tỉ lệ
nội địa hóa và giá trị gia tăng. Công nghiệp năng lượng tái tạo được quan tâm đầu tư,
nhiều dự án điện gió, điện mặt trời được khởi công xây dựng và đi vào hoạt động.
Bên cạnh đó, ngành xây dựng phát triển mạnh cả về khả nǎng thiết kế và thi công
xây lắp. Sản xuất vật liệu xây dựng phát triển với tốc độ nhanh theo hướng hiện đại, doanh
nghiệp xây dựng phát triển cả về số lượng và chất lượng, làm chủ được nhiều công nghệ
tiên tiến trong tất cả các khâu từ thiết kế, thi công với các loại vật liệu xây dựng, thiết bị máy móc hiện đại. - Dịch vụ
+ Đóng góp của ngành dịch vụ vào tăng trưởng kinh tế ngày càng tăng. Các ngành
dịch vụ có tiềm năng, lợi thế, có hàm lượng khoa học, công nghệ cao như viễn thông và
công nghệ thông tin, logistics và vận tải, tài chính, ngân hàng, du lịch, thương mại điện
tử... được tập trung phát triển. Một số doanh nghiệp viễn thông và công nghệ thông tin
Việt Nam đã phát triển vượt bậc.
+ Ngành du lịch được triển khai theo hướng tập trung đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật
đồng bộ, chú trọng nâng cao chất lượng và phát triển đa dạng các loại hình dịch vụ, đặc
biệt là sản phẩm, dịch vụ có năng lực cạnh tranh cao.
+ Ngành du lịch đã có bước phát triển rõ rệt và đạt được những kết quả quan trọng,
cơ bản trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Số lượng khách du lịch quốc tế tăng nhanh, bình
quân giai đoạn 2016-2019 ước tǎng khoảng 15%/năm và năm 2019 đạt 18 triệu lượt người,
tăng trên 10 triệu so với năm 2015. Năm 2020, dịch bệnh Covid-19 đã tác động rất nghiêm
trọng đến ngành du lịch và nhiều ngành dịch vụ như giao thông vận tải, hàng không, khách
sạn, ǎn uống, giải trí..., số khách du lịch quốc tế đến Việt Nam giảm mạnh.
4. NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ
So sánh với giai đoạn 2011-2015, nền kinh tế Việt Nam 2016-2020 đạt mức tăng
trưởng cao hơn, cơ cấu ngành kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Vốn đầu tư phát triển tập trung phát triển về công nghệ hiện đại, dần tránh
phụ thuộc vào nông nghiệp mà đẩy mạnh về phía công nghiệp, xây dựng và dịch vụ.