



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 58933639
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN BÀI TẬP NHÓM
BỘ MÔN: KINH TẾ ĐÀU TƯ
Đề bài: Phân tích tác động của đầu tư phát triển đến tăng trưởng kinh tế các
quốc gia. Liên hệ thực tế VN giai đoạn 2016-2020.
Lớp học phần: (122)_10 Giảng viên hướng dẫn: TS. Hoàng Thị Thu Hà Nhóm
thực hiện: Nhóm 1
Thành viên nhóm Mã sinh viên Đỗ Thu Hương (nhóm trưởng) 11212501 Bùi Phương Linh 11217374 Nguyễn Thị Huyền Anh 11216712
Nguyễn Thị Thanh Tâm 11218213 Nguyễn Thị Lan Anh 11210619 Trần Xuân Hưng 11218193 lOMoAR cPSD| 58933639 MỤC LỤC
I. KHÁI QUÁT LÝ LUẬN VỀ TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ ĐẾN TỐC ĐỘ
VÀ CHẤT LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG (NGUYỄN THỊ HUYỀN ANH).....1
1. KHÁI NIỆM ĐẦU TƯ.....................................................................................1
2. KHÁI NIỆM TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ............................................................1
3. VAI TRÒ CỦA ĐẦU TƯ ĐỐI VỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ..............................2
4. TÁC ĐỘNG NGƯỢC LẠI CỦA TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ ĐẾN
ĐẦU TƯ....................................................................................................................6
II. PHÂN TÍCH, NHẬN XÉT BẢNG SỐ LIỆU VỀ QUY MÔ VỐN ĐẦU
TƯ TOÀN XH GIAI ĐOẠN 2016-2020 (NGUYỄN THỊ LAN ANH).................7
III. PHÂN TÍCH, NHẬN XÉT BẢNG SỐ LIỆU VỀ QUY MÔ GDP VÀ
TỐC ĐỘ TĂNG GDP CỦA NỀN KINH TẾ GIAI ĐOẠN 2016-2020 (TRẦN XUÂN
HƯNG)........................................................................................................10
1. KHÁI QUÁT..............................................................................................10
2. TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN ĐẾN TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ THÔNG
QUA TỐC ĐỘ TĂNG TRƯỞNG VÀ QUY MÔ GDP VIỆT NAM 2016-2020.................11
IV. PHÂN TÍCH, NHẬN XÉT BẢNG SỐ LIỆU VỀ ĐÓNG GÓP CỦA
CÁC YẾU TỐ VỐN, LAO ĐỘNG, TFP VÀO TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
(ĐỖ THU HƯƠNG)...............................................................................................14
1.ĐÓNG GÓP CỦA YẾU TỐ VỐN VÀO TỐC ĐỘ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ..........14
2.ĐÓNG GÓP CỦA YẾU TỐ LAO ĐỘNG, TFP VÀO CHẤT LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG
KINH TẾ:................................................................................................................15
V. SO SÁNH VỚI MỘT SỐ QUỐC GIA TRONG KHU VỰC (NGUYỄN THỊ THANH
TÂM)...............................................................................................17
1. QUY MÔ GDP, TỐC ĐỘ TĂNG GDP...........................................................17
2.QUY MÔ VỐN ĐẦU TƯ TOÀN XÃ HỘI..........................................................18
3.ĐÓNG GÓP CÁC YẾU TỐ VỐN, LAO ĐỘNG, TFP..........................................20
VI. ĐÁNH GIÁ CHUNG, ĐƯA RA KHUYẾN NGHỊ (BÙI PHƯƠNG
LINH).................................................................................................................. ....20 lOMoAR cPSD| 58933639
I. Khái quát lý luận về tác động của đầu tư đến tốc độ và chất lượng tăng
trưởng (Nguyễn Thị Huyền Anh) 1. Khái niệm đầu tư
Đầu tư là quá trinh sử dụng các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động
nhằm thu được các kết quả, thực hiện được những mục tiêu trong tương lai.
2. Khái niệm tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế được hiểu là sự gia tăng về sản lượng của nền kinh tế theo
thời gian. Theo quan điểm của kinh tế học, thì tăng trưởng kinh tế thường chỉ sự gia
tăng của giá trị tổng sản phẩm quốc dân (GNP) hoặc sự gia tăng của giá trị GNP bình quân đầu người.
Tuy nhiên, để phản ánh chính xác hơn sự tăng trưởng kinh tế của một quốc gia,
người ta thường chỉ tính sản lượng ròng của một nền kinh tế, tức là tổng sản phẩm
quốc nội (GDP) của nền kinh tế đó.
Như vậy, tăng trưởng kinh tế được tính bằng mức tăng GDP hoặc mức tăng GDP
bình quân đầu người theo thời gian. Điều này có nghĩa là tăng trưởng kinh tế chỉ thể
hiện sự gia tăng về mặt lượng của nền kinh tế theo thời gian.
3. Vai trò của đầu tư đối với tăng trưởng kinh tế
a, Đầu tư tác động tới tốc độ tăng trưởng kinh tế
Cho đến nay đã có rất nhiều mô hình nghiên cứu và chỉ ra vai trò của hoạt động
đầu tư đối với sự tăng trưởng của nền kinh tế, ví dụ như: Mô hình Robert
Solow(1956) cho rằng: việc tăng vốn sản xuất chỉ ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh
tế trong ngắn hạn mà không ảnh hưởng trong dài hạn, tăng trưởng sẽ đạt ở trạng thái
dừng. Mô hình Sung Sang Park cho rằng: nguồn gốc tăng trưởng là tăng trưởng vốn
đầu tư quốc gia cho đầu tư con người. Theo mô hình Tân cổ điển, thì nguồn gốc của
tăng trưởng tùy thuộc vào cách thức kết hợp hai yếu tố đầu vào vốn (K ) và lao động
(L ). Theo quan điểm tăng trưởng của trường phái kinh tế học vĩ mô Keynes, với mô
hình tiêu biểu là mô hình Harrod-Domar thì: nguồn gốc tăng trưởng kinh tế là do
lượng vốn đưa vào sản xuất tăng lên. lOMoAR cPSD| 58933639
Mặc dù các mô hình kinh tế được đưa ra đều khẳng định vai trò của đầu tư đối
với tăng trưởng kinh tế, nhưng bản thân chúng cũng có những hạn chế nhất định.
Thực tế cho thấy rằng: mức gia tăng sản lượng của nền kinh tế phụ thuộc vào
sự gia tăng quy mô của vốn đầu tư. Vì vậy, việc gia tăng quy mô vốn đầu tư và sử
dụng vốn đầu tư hợp lý là những nhân tố quan trọng góp phần nâng cao hiệu quả đầu
tư, tăng năng suất nhân tố tổng hợp, tác động đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng CNH-HĐH, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế… do đó, nâng cao
chất lượng tăng trưởng kinh tế.
Biểu hiện tập trung của mối quan hệ giữa đầu tư phát triển với tăng trưởng kinh
tế thể hiện ở công thức tính hệ số ICOR.
Hệ số ICOR (tỷ số gia tăng của vốn so với sản lượng) là tỷ số giữa quy mô đầu
tư tăng thêm với mức gia tăng sản lượng, hay là suất đầu tư cần thiết để tạo ra một
đơn vị sản lượng (GDP) tăng thêm.
Về phương pháp, ICOR được tính như sau:
ICOR = Vốn đầu tư tăng thêm/ GDP tăng thêm
= Đầu tư trong kỳ/ GDP tăng thêm
Chia cả tử và mẫu số cho GDP, ta có công thức sau:
ICOR = (Tỷ lệ vốn đầu tư /GDP) / tốc độ tăng trưởng kinh tế
Từ công thức trên, ta thấy: Nếu ICOR không đổi, mức tăng GDP hoàn toàn phụ
thuộc vào vốn đầu tư. Theo một số nghiên cứu của các nhà kinh tế, muốn giữ tốc độ
tăng trưởng khá cao và ổn định thì tỷ lệ đầu tư phải chiếm khoảng trên 25% so với
GDP, tuỳ thuộc vào ICOR của các nước.
Hệ số ICOR của nền kinh tế cao hay thấp chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố:
• Thứ nhất, do thay đổi cơ cấu đầu tư ngành. Cơ cấu đầu tư ngành thay đổi ảnh
hưởng đến hệ số ICOR từng ngành, do đó, tác động đến hệ số ICOR
chung.Nếu gọi ICORi là hệ số ICOR của ngành i, αi là tỷ trọng của ngành i
trong GDP, gi là tốc độ tăng trưởng của ngành i, g là tốc độ tăng trưởng kinh
tế chung thì ICOR = ∑ ICORi * gi/g *αi lOMoAR cPSD| 58933639
• Thứ hai, sự phát triển của khoa học và công nghệ có ảnh hưởng hai mặt đến
hệ số ICOR. Gia tăng đầu tư cho khoa học công nghệ, một mặt làm cho tử số
của công thức tăng, mặt khác, sẽ tạo ra nhiều ngành mới, công nghệ mới, làm
máy móc hoạt động hiệu quả hơn, năng suất cao hơn, kết quả đầu tư tăng lên
(tăng mẫu số của công thức). Như vậy, hệ số ICOR tăng hay giảm phụ thuộc
vào xu hướng nào chiếm ưu thế.
• Thứ ba, do thay đổi cơ chế chính sách và phương pháp tổ chức quản lý. Cơ
chế chính sách phù hợp, đầu tư có hiệu quả hơn (nghĩa là, kết quả đầu tư ở
mẫu số tăng lớn hơn chi phí ở tử số) làm cho ICOR giảm và ngược lại. ICOR
của mỗi nước phụ thuộc vào nhiều nhân tố, thay đổi theo trình độ phát triển
kinh tế và cơ chế chính sách trong nước. Ở các nước phát triển, ICOR thường
lớn, từ 6-10 do thừa vốn, thiếu lao động, vốn được sử dụng nhiều thay thế cho
lao động, do sử dụng công nghệ hiện đại có giá cao. Ở các nước chậm phát
triển, ICOR thấp từ 3-5 do thiếu vốn, thừa lao động nên có thể và cần sử dụng
lao động để thay thế cho vốn, do sử dụng công nghệ kém hiện đại, giá rẻ.
Thông thường, ICOR trong nông nghiệp thấp hơn trong công nghiệp, ICOR
trong giai đoạn chuyển đổi cơ chế chủ yếu do tận dụng năng lực.
b, Đầu tư tác động tới chất lượng tăng trưởng kinh tế
Chất lượng tăng trưởng kinh tế là thuộc tính bên trong của quá trình tăng trưởng
kinh tế. Có thể chỉ ra bốn tiêu chí đánh giá chất lượng tăng trưởng kinh tế, gồm:
(1)Trạng thái của tăng trưởng kinh tế:
Tốc độ TTKT nhanh hay chậm, quy mô TTKT nhiều hay ít thể hiện số lượng
của TTKT. Tuy nhiên, tốc độ TTKT ổn định hay không ổn định thể hiện chất lượng
TTKT. Tốc độ TTKT không ổn định tức là khoảng cách trồi sụt giữa các năm tăng
cao, lúc lên cao, lúc xuống thấp, thậm chí là bằng không hoặc âm. Không thể nói chất
lượng TTKT cao, khi tốc độ TTKT không ổn định.
(2) Phương thức của TTKT lOMoAR cPSD| 58933639
Nhìn ở góc độ đầu vào: Nếu TTKT chủ yếu dựa vào tăng vốn đầu tư và lao động
(những yếu tố hữu hạn), thì đó là TTKT theo chiều rộng, thể hiện chất lượng TTKT
thấp. Nếu TTKT chủ yếu dựa vào tăng năng suất yếu tố tổng hợp (TFP), thì đó là
TTKT theo chiều sâu, thể hiện chất lượng TTKT cao.
Nhìn ở góc độ đầu ra: Nếu TTKT ngày càng dựa vào tích lũy tài sản, vào xuất
khẩu ròng của khu vực kinh tế trong nước, điều đó thể hiện sự tự chủ của nền kinh
tế, chất lượng TTKT cao và ngược lại.
Nhìn ở góc độ cấu trúc TTKT theo ngành: Nếu TTKT chủ yếu dựa vào khai thác
và bán tài nguyên thô, vào ngành dựa trên công nghệ thấp, thì đó là TTKT theo chiều
rộng, thể hiện chất lượng TTKT thấp. Nếu TTKT chủ yếu dựa vào các ngành công
nghệ cao, các ngành có giá trị gia tăng cao, đó là TTKT theo chiều sâu, thể hiện chất lượng TTKT cao.
Nhìn ở góc độ cấu trúc TTKT theo thành phần/khu vực kinh tế: Nếu TTKT chủ
yếu dựa vào khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (FDI), đó là TTKT phụ thuộc
và không vững chắc, thể hiện chất lượng TTKT thấp. Nếu TTKT chủ yếu dựa vào
khu vực kinh tế trong nước, đó là TTKT tự chủ và vững chắc, thể hiện chất lượng TTKT cao. (3) Hiệu quả của TTKT
Hiệu quả của TTKT thể hiện ở hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào như hiệu
quả sử dụng vốn (ICOR), hiệu quả sử dụng lao động (năng suất lao động), hiệu quả
sử dụng tiến bộ khoa học - công nghệ (TFP) trong sản xuất. Nếu hiệu quả sử dụng
vốn, lao động, khoa học - công nghệ thấp, đó là chất lượng TTKT thấp và ngược lại
nếu hiệu quả sử dụng vốn, lao động, khoa học - công nghệ cao, đó là chất lượng TTKT cao.
(4) Khả năng duy trì TTKT trong dài hạn
Khả năng duy trì TTKT trong dài hạn là khả năng sáng tạo khoa học - công nghệ
và nguồn nhân lực chất lượng cao. Đây là hai yếu tố bảo đảm vững chắc cho việc đạt
được TTKT trong tương lai và điều đó thể hiện chất lượng TTKT cao. Ngược lại, nếu lOMoAR cPSD| 58933639
TTKT chỉ dựa vào công nghệ lạc hậu, trình độ nguồn nhân lực thấp, thì trong tương
lai việc duy trì TTKT là rất khó khăn, thể hiện chất lượng tăng trưởng thấp.
g = DI + DL + TFP g: tốc độ tăng trưởng kinh tế
DI : phần đóng góp của vốn vào tăng trưởng kinh tế
DL: phần đóng góp của lao động vào tăng trưởng kinh tế
TFP: phần đóng góp của tổng các yếu tố năng suất vào tăng trưởng kinh tế
Nếu hệ số ICOR thấp, nghĩa là hiệu quả sử dụng vốn đầu tư cao và ngược lại.
Tuy nhiên, theo quy luật hiệu quả cận biên của tư bản có khuynh hướng giảm dần,
khi nền kinh tế tăng trưởng thì hệ số ICOR sẽ tăng lên, do vậy tăng trưởng vốn là
tăng trưởng không bền vững. Vậy để duy trì cùng một tốc độ tăng trưởng thì giai
đoạn sau cần một tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP cao hơn.
Đối với các nước đang phát triển, trong giai đoạn đầu tiến hành công nghiệp
hóa, do các yếu tố theo chiều rộng như lao động, tài nguyên thiên nhiên tương đối
dồi dào, trong khi trình độ của người lao động và công nghệ còn hạn chế thì tăng
trưởng thường theo chiều rộng. Khi nền kinh tế phát triển dựa quá nhiều vào vốn và
lao động thì tốc độ tăng trưởng không cao kém bền vững và dễ bị tổn thương khi có
những biến động, do đó chiến lược tăng trưởng theo chiều sâu, tức là dựa chủ yếu
vào nhân tố TFP rất cần thiết. Điều này khẳng định tầm quan trọng của đóng góp
khoa học công nghệ, trình độ quản lý đối với tăng trưởng kinh tế.
4. Tác động ngược lại của tăng trưởng và phát triển kinh tế đến đầu tư a,
Tăng trưởng và phát triển kinh tế góp phần cải thiện môi trường đầu tư
Môi trường đầu tư phải được hệ thống pháp luật và chính sách của nhà nước
đảm bảo. Hệ thống pháp luật trước hết là luật đầu tư công bằng, hợp lý và được đảm
bảo thực thi trong thực tiễn đối với mọi thành phần kinh tế, tạo dựng một nền kinh
tế thị trường, với những quy luật vốn có phát huy tác dụng tích cực của cơ chế thị
trường. Nhờ đó các nguồn vốn đầu tư được huy động, phân bổ sử dụng có hiệu quả.
Vấn đề này trực tiếp liên quan đến việc hình thành đồng bộ các yếu tố thị trường lOMoAR cPSD| 58933639
(trong đó có thị trường tài chính), đến quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý nền kinh
tế, đến việc hoàn thiện hệ thống chính sách và khuôn khổ pháp lý đảm bảo cho hoạt động nền kinh tế.
b, Tăng trưởng và phát triển kinh tế làm tăng tỷ lệ tích luỹ, cung cấp thêm vốn cho đầu tư:
Vấn đề tăng trưởng ở đây được nhìn nhận như một yếu tố tạo sự hấp dẫn ngày
càng lớn đối với vốn đầu tư cả trong nước và nước ngoài. Vấn đề này liên quan đến
một nguyên tắc mang tính chủ đạo trong việc thu hút vốn đầu tư: Vốn được sử dụng
càng hiệu quả thì khả năng thu hút vốn càng lớn. Thực chất của mối quan hệ này nằm
trong mối quan hệ nhân quả của các sự vật. Thứ nhất với năng lực tăng trưởng được
đảm bảo, năng lực tích lũy của nền kinh tế có khả năng gia tăng. Khi đó quy mô
nguồn vốn trong nước có thể huy động sẽ được cải thiện. Thứ hai triển vọng tăng
trưởng và phát triển càng cao cũng là tín hiệu tốt thu hút các nguồn vốn đầu tư nước
ngoài. Từ đó dẫn đến tích lũy được nhiều vốn cung cấp cho hoạt động đầu tư.
c, Tăng trưởng kinh tế góp phần xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật, năng lực
công nghệ, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư phát triển
Trong mô hình tiến bộ công nghệ của Solow: Tiến bộ công nghệ ở đây được
hiểu là bất kỳ biện pháp nào cho phép tạo ra nhiều sản lượng hơn. Nên có thể thấy ở
đây phát triển sẽ làm cho khoa học phát triển. Chính phủ sẽ có các chính sách nhằm
khuyến khích tiến bộ công nghệ như bao gồm miễn thuế cho hoạt động nghiên cứu
và triển khai, có thể chính phủ sẽ trực tiếp cung cấp vốn cho các nghiên cứu cơ bản.
II. Phân tích, nhận xét bảng số liệu về quy mô vốn đầu tư toàn XH giai đoạn
2016-2020 (Nguyễn Thị Lan Anh)
Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội giai đoạn 2016 - 2020 ước đạt gần 9,2
triệu tỷ đồng, bằng 33,6% GDP, đạt mục tiêu bình quân 5 năm (32 - 34%).
Dưới đây là bảng thống kê Vốn đầu tư toàn XH của Việt Nam giai đoạn 2016 2020: lOMoAR cPSD| 58933639
(Bảng tự thống kê dựa trên số liệu được công bố bới Tổng cục Thống kê Việt Nam)
Tổng vốn đầu tư toàn XH thực hiện năm 2016 theo giá hiện hành ước tính đạt
1.485,1 nghìn tỷ đồng, tăng 8,7% so với năm 2015 và bằng 33% GDP, bao gồm:
Vốn khu vực Nhà nước đạt 557,5 nghìn tỷ đồng, chiếm 37,6% tổng vốn và tăng
7,2%; vốn khu vực ngoài Nhà nước đạt 579,7 nghìn tỷ đồng, chiếm 39% và tăng
9,7%; vốn khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 347,9 nghìn tỷ đồng, chiếm 23,4% và tăng 9,4%.
Năm 2017, tổng vốn đầu tư toàn XH thực hiện theo giá hiện hành ước tính đạt
1.667,4 nghìn tỷ đồng, tăng 12,1% so với năm 2016 và bằng 33,3% GDP, bao gồm:
Vốn khu vực Nhà nước đạt 594,9 nghìn tỷ đồng, chiếm 35,7% tổng vốn và tăng 6,7%
so với năm trước; khu vực ngoài Nhà nước đạt 676,3 nghìn tỷ đồng, chiếm 40,5% và
tăng 16,8%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 396,2 nghìn tỷ đồng,
chiếm 23,8% và tăng 12,8%.
Vốn đầu tư toàn XH thực hiện năm 2018 theo giá hiện hành ước tính đạt
1.856,6 nghìn tỷ đồng, tăng 11,2% so với năm trước và bằng 33,5% GDP, bao gồm:
Vốn khu vực Nhà nước đạt 619,1 nghìn tỷ đồng, chiếm 33,3% tổng vốn và tăng 3,9%
so với năm trước; khu vực ngoài Nhà nước đạt 803,3 nghìn tỷ đồng, chiếm 43,3% và lOMoAR cPSD| 58933639
tăng 18,5%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 434,2 nghìn tỷ đồng, chiếm 23,4% và tăng 9,6%.
Năm 2019, vốn đầu tư toàn XH thực hiện theo giá hiện hành đạt 2.046,8 nghìn
tỷ đồng, tăng 10,2% so với năm trước và bằng 33,9% GDP, bao gồm: Vốn khu vực
Nhà nước đạt 634,9 nghìn tỷ đồng, chiếm 31% tổng vốn và tăng 2,6% so với năm
trước; khu vực ngoài Nhà nước đạt 942,5 nghìn tỷ đồng, chiếm 46% và tăng 17,3%;
khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 469,4 nghìn tỷ đồng, chiếm 23% và tăng 7,9%.
Vốn đầu tư toàn XH thực hiện theo giá hiện hành năm 2020 ước tính đạt 2.164,5
nghìn tỷ đồng, bằng 34,4% GDP, bao gồm: Vốn khu vực Nhà nước đạt 729 nghìn tỷ
đồng, chiếm 33,7% tổng vốn và tăng 14,5%; khu vực ngoài Nhà nước đạt 972,2
nghìn tỷ đồng, bằng 44,9% và tăng 3,1%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
đạt 463,3 nghìn tỷ đồng, bằng 21,4% và giảm 1,3%.
Vốn đầu tư toàn XH thực hiện năm 2020 tăng 5,7% so với năm 2019, mức thấp
nhất trong giai đoạn 2011-2020 do ảnh hưởng tiêu cực của dịch Covid-19 đến tất cả
các hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, tốc độ tăng vốn thực hiện từ nguồn
ngân sách Nhà nước năm 2020 đạt mức cao nhất trong giai đoạn 2011-2020, đây là
kết quả đẩy mạnh thực hiện và giải ngân vốn đầu tư công nhằm duy trì đà tăng trưởng
kinh tế trong bối cảnh dịch Covid-19 được kiểm soát tốt tại Việt Nam.
Huy động nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội gia tăng, hiệu quả sử dụng
dần được nâng cao, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng mạnh và đạt kỷ lục.
Cơ cấu đầu tư chuyển dịch vốn tích cực, tỷ trọng đầu tư của khu vực nhà nước
giảm, phù hợp với định hướng cơ cấu lại đầu tư công và giảm dần sở hữu nhà nước
tại các doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế, nhất là các lĩnh vực Nhà nước không cần nắm
giữ cổ phần chi phối. Tỷ trọng vốn đầu tư từ khu vực kinh tế ngoài nhà nước tăng
nhanh, từ 38,7% trong năm 2015 lên khoảng 44,9% trong năm 2020. Thu hút vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong 5 năm 2016-2020 vẫn có xu hướng tích cực
so với giai đoạn 2011-2015, với 15.139 dự án đầu tư được cấp phép với tổng số vốn lOMoAR cPSD| 58933639
đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và góp vốn mua cổ phần của nhà đầu tư
nước ngoài đạt 170,4 tỷ USD, trong đó năm 2016 đạt 26,9 tỷ USD, năm 2017 đạt
37,1 tỷ USD, năm 2018 đạt 36,4 tỷ USD; năm 2019 đạt 38,9 tỷ USD và ước tính năm
2020 đạt hơn 31 tỷ USD. Hiệu quả đầu tư đóng vai trò quyết định đối với tăng trưởng
kinh tế trong dài hạn. Để đánh giá về hiệu quả sử dụng vốn đầu tư, hệ số ICOR
(Incremental Capital Output Ratio) là chỉ tiêu được sử dụng. Hệ số ICOR càng cao
thì chất lượng đầu tư càng thấp. Hệ số ICOR giai đoạn 2016 - 2019 đạt 6,13 (thấp
hơn giai đoạn 2011 - 2015 là 6,25), hiệu quả sử dụng vốn đầu tư cải thiện. Tuy nhiên,
do tác động của đại dịch Covid-19, hệ số ICOR năm 2020 tăng thành 14,28 và trung
bình giai đoạn 2016 - 2020 ước khoảng 7,04. Dẫu vậy đây vẫn là một con số khá cao
so với trong khu vực và trên thế giới.
III. Phân tích, nhận xét bảng số liệu về quy mô GDP và tốc độ tăng GDP
của nền kinh tế giai đoạn 2016-2020 (Trần Xuân Hưng) 1. Khái quát
Xét hàm tổng cầu ta có: Y = C + I + G + NX
Trong đó: Y: Tổng sản phẩm quốc nội (GDP)
C: Tiêu dùng trong nền kinh tế I: Đầu tư toàn xã hội
G: Tổng chi tiêu chính phủ NX: Xuất khẩu ròng
Từ mối quan hệ trên, giả định các yếu tố C, G, NX không thay đổi thì đầu tư có
tác động trực tiếp, cùng chiều đến tăng trưởng kinh tế. Nếu đầu tư tăng thì tăng trưởng
sẽ tăng và ngược lại. lOMoAR cPSD| 58933639
2. Tác động của đầu tư phát triển đến tăng trưởng kinh tế thông qua tốc
độ tăng trưởng và quy mô GDP Việt Nam 2016-2020. a,Tình hình tăng
trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2016 2020
Trong giai đoạn 2016-2020, nền kinh tế của nước ta có nhiều biến động, từ
2016-2019, tăng trưởng kinh tế của nước ta duy trì ở mức khá. Năm 2016 đạt 6,21%
thấp hơn mức tăng trưởng của năm 2015 là 6,68% do tình trạng xâm nhập mặn
nghiêm trọng tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long thế nhưng trong ba năm tiếp
theo đạt những bứt phá, lần lượt đạt mức 6,81%, 7,08% (mức tăng cao nhất kể từ
năm 2008) và 7,02%. Tuy nhiên, vào năm 2020, tuy chịu ảnh hưởng của dịch bệnh
Covid-19 diễn ra trên toàn cầu, tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam vẫn tăng
trưởng dương cụ thể đạt 2,91%. Đây được đánh giá là một thành công lớn của nước
ta. Cho thấy tính đúng đắn trong chỉ đạo của Quốc Hội, Chính Phủ, các bộ ban ngành
và sự đồng lòng của người dân và doanh nghiệp. Đóng góp cho thành công này phải
kể đến một động lực quan trọng là tốc độ giải ngân nguồn vốn đầu tư công khiến các
dự án được đẩy nhanh tiến độ, tối đa hóa và thực hiện hiệu quả kế hoạch đầu tư, tác
động không nhỏ đến con số tăng trưởng dương trong năm 2020.
Tuy không đạt như chỉ tiêu đề ra nhưng tốc độ tăng trưởng GDP năm 2020 của Việt
Nam vẫn thuộc top cao nhất ASEAN. lOMoAR cPSD| 58933639
Về quy mô nền kinh tế (GDP) ngày càng được mở rộng. Năm 2016 đạt 205,3
tỷ USD, năm 2018 đạt 245,2 tỷ USD, năm 2020 đạt 343,24 tỷ USD. b, Tác động
Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội thực hiện giai đoạn 2016-2020 theo giá hiện
hành (nghìn tỷ đồng) (bảng 1.1): Năm
Tổng số (nghìn tỷ
Đóng góp vào GDP (%) đồng) 2016 1926,86 34 , 17 2017 2186,56 34 , 74 2018 2426,4 34 , 62 2019 2670,47 34 , 65 2020 2803,06 34 , 84 Trung bình 2402,66 34,604
Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội trong giai đoạn 2016-2020 có sự tăng
trưởng rõ rệt qua các năm. Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội giai đoạn này đạt
12013 nghìn tỷ đồng, bằng 34,6% GDP, đạt mục tiêu bình quân 5 năm và cao hơn lOMoAR cPSD| 58933639
giai đoạn 2011-2015(31,7% GDP). Tốc độ tăng trưởng trung bình đạt khoảng
8,03%/năm. Trong đó, tỉ trọng khu vực nhà nước giảm, tỉ trọng vốn đầu tư từ khu
vực kinh tế ngoài nhà nước tăng nhanh từ mức 38,3% năm 2015 lên 44,9% năm
2020. Đây là xu hướng phù hợp với định hướng cơ cấu đầu tư.
Hiệu quả đầu tư đóng vai trò quyết định đối với tăng trưởng kinh tế trong dài
hạn. Để đánh giá về hiệu quả đầu tư là hệ số tăng vốn – sản lượng ICOR (Incremental
Capital Output Ratio). Hệ số ICOR càng cao thì chất lượng đầu tư càng thấp. Hệ số
ICOR giai đoạn 2016-2019 là 6,13 thấp hơn so với mức 6,25 của giai đoạn 2011-
2015. Trong bối cảnh chịu ảnh hưởng nặng nề từ dịch Covid-19, hàng loạt công trình
đầu tư bị đình trệ, GDP năm 2020 giảm mạnh so với kế hoạch đề ra của Quốc Hội
dẫn đến hệ số ICOR năm 2020 tăng thành 14,28, từ đây, hệ số ICOR của cả giai đoạn
2016-2020 khoảng 7,04. Tuy nhiên đây vẫn là một con số cao trong khu vực và trên
thế giới. Đối với nguồn vốn ngân sách nhà nước là do vẫn còn tình trạng phân tán,
triển khai chậm, thi công chậm gây lãng phí nguồn vốn, trong khi lãi sẽ phải trả từng
ngày. Thêm vào đó là việc xây dựng kế hoạch đầu tư chưa được thích hợp. Tỷ lệ nợ
công, nợ chính phủ tuy chưa đến ngưỡng trần nhưng vẫn chiếm tỷ trọng cao trong
tổng chi ngân sách. Đối với nguồn vốn của doanh nghiệp thì hiệu quả đầu tư thấp là
do sức cạnh tranh còn thấp, bị rơi vào các kênh đầu tư rủi ro, quy mô doanh nghiệp còn nhỏ, siêu nhỏ. lOMoAR cPSD| 58933639
IV. Phân tích, nhận xét bảng số liệu về đóng góp của các yếu tố vốn, lao
động, TFP vào tăng trưởng kinh tế (Đỗ Thu Hương) 1.Đóng góp của yếu tố
vốn vào tốc độ tăng trưởng kinh tế
Nếu so sánh với giai đoạn trước, những năm đầu giai đoạn 2016 - 2020 hệ số
ICOR có xu hướng cao hơn, cụ thể: Chỉ số hiệu quả sử dụng vốn đầu tư năm 2016
là 6.42, giảm xuống còn 6,11 vào năm 2017; 5,97 năm 2018 và 6,07 năm 2019. Bình
quân giai đoạn 2016-2019, hệ số ICOR đạt 6,13 thấp hơn so với hệ số 6,25 của giai đoạn 2011-2015.
Riêng năm 2020, do ảnh hưởng tiêu cực của dịch Covid-19, hoạt động sản xuất
kinh doanh của nền kinh tế bị đình trệ, các dự án công trình hoàn thành đưa vào sử
dụng chưa phát huy được năng lực nên ICOR năm 2020 đạt 14,28; bình quân giai
đoạn 2016-2020 hệ số ICOR đạt 7,77.
Việc tham gia ký kết các FTA song phương và đa phương đã giúp nâng cao
khả năng thu hút vốn đầu tư, khắc phục khó khăn cho doanh nghiệp FDI và kiểm
soát có hiệu quả các hoạt động của doanh nghiệp này. Tuy vậy hệ số ICOR của nền
kinh tế nước ta khá cao, phản ánh vốn đầu tư thực hiện chưa thật sự hiệu quả; đầu tư lOMoAR cPSD| 58933639
còn dàn trải, manh mún, kéo dài; nước ta vẫn tăng trưởng nhờ vào vốn. Hiệu quả sử
dụng vốn đầu tư của Việt Nam gần như vẫn chưa có sự cải thiện, không ổn định.
2.Đóng góp của yếu tố lao động, TFP vào chất lượng tăng trưởng kinh tế:
Năng suất lao động
Theo giá hiện hành, năng suất lao
động của toàn nền kinh tế năm
2016 đạt 84,4 triệu đồng/lao động;
tăng lên 93,2 triệu đồng/lao động vào năm 2017; 102,1 triệu
đồng/lao động vào năm 2018;
110,5 triệu đồng/lao động vào năm
2019 và năm 2020 đạt con số ấn
tượng 117,4 triệu đồng/lao động. (Nguồn: cafef.vn)
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế và cạnh tranh gay gắt, cải thiện và thúc đẩy
tăng năng suất lao động là yếu tố quyết định tới năng lực cạnh tranh của nền kinh tế
và của từng doanh nghiệp; là vấn đề sống còn đối với các quốc gia đang phát triển như Việt Nam lOMoAR cPSD| 58933639
Qua biểu đồ trên, có thể thấy năng suất lao động của Việt Nam tiếp tục cải thiện
đáng kể theo hướng tăng đều qua các năm. Tính theo giá so sánh năm 2010, bình
quân giai đoạn 2016-2020, năng suất lao động tăng 5,79%/năm, cao hơn so với tốc
độ tăng bình quân 4,27%/năm của giai đoạn 2011-2015 và cao hơn mục tiêu tăng
trưởng bình quân 5%/năm trong giai đoạn 2016-2020.
Nguyên nhân là do trình độ của người lao động ngày càng được nâng cao (tỷ
lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ năm 2020 đạt 24,1%, cao hơn mức
22,8% của năm 2019). Tuy nhiên, thành tích tăng năng suất lao động của Việt Nam
thời gian qua chủ yếu theo chiều rộng, chưa theo chiều sâu, bởi do phần lớn vẫn dựa
vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ khu vực nông nghiệp sang lĩnh vực công nghiệp
và dịch vụ, chưa phải là cải thiện về năng suất lao động trong nội tại từng ngành kinh
tế. So với nhu cầu phát triển, giới chuyên gia nhận định, năng suất lao động của Việt
Nam hiện nay đang rất thấp. Năng suất tuyệt đối của khu vực chế biến chế tạo - cốt
lõi của khu vực công nghiệp lại không tăng theo thời gian mà lại “kẹt” lại trong suốt
20 năm từ năm 2000 đến nay. Không có sự tăng trưởng vượt bậc cùng với đó, tăng
trưởng năng suất của khu vực FDI cũng chững lại. Trong khi đó, tăng trưởng năng
suất lao động của khu vực tư nhân vẫn đều đặn. Điều này cho thấy Việt Nam cần phải
có nhiều nỗ lực mạnh mẽ hơn nữa trong việc cải thiện năng suất quốc gia.
Các nhân tố tổng hợp TFP (Nguồn: cafef.vn) Năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) lOMoAR cPSD| 58933639
đóng góp vào tăng trưởng kinh tế tăng trưởng không ổn định trong giai đoạn
2016-2020. Năm 2016, mức đóng góp TFP vào tăng trưởng GDP là 44,87 %; tăng
lên 46,09 % vào năm 2017; sau đó giảm xuống 44,76 % vào 2018; đạt lại đà tăng
trưởng 47,71 % vào năm 2019 và sau đó, lại giảm xuống mức thấp nhất 37,48 %
trong giai đoạn vào năm 2020.
Tính chung cả giai đoạn 2011-2015, đóng góp của TFP vào tăng trưởng GDP là
33,58%; giai đoạn 2016-2020, đóng góp của TFP vào tăng trưởng kinh tế tăng lên
đáng kể, ước đạt 45,21 % (vượt mục tiêu đặt ra là đóng góp của TFP vào tăng trưởng
5 năm giai đoạn 2016-2020 đạt khoảng 30%-35%). Đáng chú ý, trong giai đoạn
2016-2019, mức đóng góp của TFP đạt tới gần 46%, cao gấp rưỡi giai đoạn trước.
Năm 2020, khi dịch COVID-19 làm ảnh hưởng đến nền kinh tế toàn cầu, TFP trở
thành điểm sáng của Việt Nam, là yếu tố góp phần giữ được mức tăng dương.
Mức đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) trong tăng trưởng
kinh tế ngày một lớn. Mô hình tăng trưởng dần chuyển dịch từ chiều rộng sang chiều
sâu, giảm dần sự phụ thuộc vào khai thác tài nguyên, xuất khẩu thô, lao động giá rẻ,
mở rông tín dụng…, từng bước chuyển sang dựa vào ứng dụng khoa học,̣ công nghệ và đổi mới sáng tạo.
V. So sánh với một số quốc gia trong khu vực (Nguyễn Thị Thanh Tâm)
1. Quy mô GDP, tốc độ tăng GDP So với các nước trong khu vực qui mô GDP của Việt Nam ở mức trung bình luôn đứng thứ 6trong khu vực Asean giai đoạn 2016-2020 sau các lOMoAR cPSD| 58933639
nước Indonesia, Thái Lan, Singapore, Malaysia và Philipin. Nhưng qui mô GDP
của nước ta so với Lào, Campuchia lại lớn hơn nhiều lần. Và luôn giao động từ
200-300 tỷ USD giai đoạn này.
Tuy vậy tốc độ tăng GDP của nước ta trong giai đoạn 2016-2020 luôn duy trì ở
mức khá. Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam được xếp vào hàng cao nhất so với các
nước trong khu vực ASEAN Bình quân năm trong giai đoạn 2016-2019, tốc độ tăng
GDP của Việt Nam đạt 6,78%, cao hơn tốc độ tăng của Xin-ga-po (2,44%); Thái Lan
(3,42%); Ma-lai-xi-a (4,8%); Phi-li-pin (6,6%); In-đô-nê-xi-a (5,07%); chỉ thấp hơn
Cam-pu-chia (7,09%). Nếu xét cả giai đoạn 2016-2020, tốc độ tăng GDP của Việt
Nam(6.006%) cao hơn cả Cam-pu-chia(4.96%).
Đặc biệt năm 2020, kinh tế chịu ảnh hưởng nặng nề của đại dịch Covid-19,
thiên tai, bão lụt nghiêm trọng ở miền Trung tăng trưởng kinh tế Việt Nam đạt 2,91%,
tuy là mức tăng thấp nhất của các năm trong giai đoạn 2016-2020 nhưng cao hơn so
với các nước lân cận như Lào tăng 0.5%; Singapo, Thái Lan, Malaysia, Philipin...
còn có tăng trưởng kinh tế âm. Trong bối cảnh dịch Covid-19 diễn biến phức tạp,
ảnh hưởng tiêu cực tới mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội của các quốc gia trên thế giới thì
đây là thành công lớn của Việt Nam với mức tăng trưởng thuộc nhóm cao nhất khu vực thế giới.
2.Quy mô vốn đầu tư toàn xã hội
Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam dựa chủ yếu vào sự đóng góp của yếu tố số
lượng vốn đầu tư. Đầu tư vừa tác động tới qui mô, vừa tác động đến tốc độ tăng lOMoAR cPSD| 58933639
trưởng kinh tế ở Việt Nam. Tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP luôn giữ ở mức cao trung
bình trong giai đoạn 2016-2020 là 33.7%, vốn đầu tư phát triển toàn xã hội có tốc độ
tăng trưởng được duy trì và sử dụng vốn đầu tư hợp lý là những nhân tố quan trọng
để góp phần nâng cao hiệu quả đầu tư. Quốc gia Giai đoạn ICOR Việt Nam 2016-2020 7,04 Trung Quốc 2001-2006 4,0 Hàn Quốc 1961-1980 3,0 Đài Loan 1961-1980 2,7 Thái Lan 1981-1995 4,1
(Bảng hệ số ICOR của các nước)
Tuy hiệu quả đầu tư đã được cải thiện trong thời gian qua, hệ số ICOR của Việt
Nam 2016-2020 là 7,04 khá cao, cho thấy hiệu suất của nền kinh tế, hiệu quả quản
lý, sử dụng vốn đầu tư của nền kinh tế tương đối thấp. Để so sánh, chúng ta thấy rằng
trong cùng bối cảnh và cùng một trình độ phát triển kinh tế - xã hội, những năm 70
,80 ở Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan, chỉ số ICOR của họ chỉ dao động vào khoảng
2,5 đến 3, chỉ bằng nửa chúng ta hiện nay. So với các nước láng giềng như Thái Lan,
Trung Quốc, họ cũng ở trong khoảng là 3 đến 4. Do vậy, chỉ số ICOR của chúng ta
hiện nay vẫn ở mức quá cao so với các nước khác. Điều này có nghĩa là đầu tư của
Việt Nam kém hiệu quả nhất so với các nước này.
Nguyên nhân làm cho ICOR của Việt Nam cao một phần là do Việt Nam đang
trong giai đoạn tập trung đầu tư cho hạ tầng cơ sở, bao gồm cả hạ tầng cơ sở ở vùng
sâu, vùng xa và đầu tư cho xoá đói giảm nghèo, đảm bảo an sinh xã hội. Nhưng mặt
chủ quan vẫn là cơ chế quản lý đầu tư xây dựng lỏng lẻo, lãng phí nghiêm trọng, quy
hoạch đầu chưa hợp lý… Các dự án đầu tư công dù thời gian qua đã được cải thiện
đáng kể, song tình trạng đầu tư dàn trải, thất thoát, lãng phí cũng còn nhiều. Chính
vì vậy, so với các quốc gia khác đã trải qua giai đoạn phát triển tương đồng như Việt
Nam thì hệ số ICOR của Việt Nam hiện nay vẫn ở ngưỡng cao.