Phân tích tác phẩm Chữ bầu lên nhà thơ | Văn mẫu lớp 10 Kết Nối Tri Thức

Văn mẫu lớp 10: Phân tích tác phẩm Chữ bầu lên nhà thơ của Lê Đạttuyển chọn 2 mẫu cực hay, giúp cho các em học sinh lớp 10 tự học để mở rộng, nâng cao kiến thức, rèn luyện kĩ năng về văn phân tích đánh giá tác phẩm ngày một tốt hơn.a

Phân tích bài Ch bu lên nhà thơ - Mu 1
Thơ một phương tiện th hiện cảm c ý ccủa con người. Làm thơ rất d,
nhưng để tr thành một nhà thơ lại không dễ. Bởi thơ một bn nhạc, người tấu lên
nó một cách hay nhất thì phải trải qua quá trình dài luyện tập. Thơ có th đưa chúng ta
thoát ra khỏi hin tại, đi đến niềm vui hạnh phúc. cũng có th th hiện được
nht nhng đang hin tại, nhng cm xúc bồn u ám của con người. Vn
đề nhng con ch biến ảo đó được Lê Đạt th hiện qua cái nhìn ca bản thân trong tác
phm “Ch bầu lên nhà thơ”.
Đạt một nhà thơ đặc biệt luôn đi tìm tòi những điều độc đáo trong văn chương,
trong tng con ch. Ông khát khao đi tìm hiểu hết ý nghĩa của thơ, sống thơ
cng hiến hết mình. Không chỉ những ch ghép lại, thơ theo định nghĩa của Đạt
một th “đạo”. Ông xác định c đời của mình đều dành cho thơ, đ gọt giũa những
vần thơ tạo nên nhng con ch tuyt m. Với Đạt, công việc “nghệ thuật” nhất
chính tạo ra những tác phẩm t nhng con ch giao tiếp hàng ngày. Trong công
vic, nhất liên quan đến thơ ông thường những yêu cu rất nghiêm khắc. Ông
quan điểm: “Nhà tkhông coi rẻ ch nnhững vật tri vô giác, những công cụ
quẳng đi khi đã hết tác dụng tôn trọng ch như những sinh vật hồn, lng nghe
tiếng nói của ch trò chuyn vi ch như những nhà ngoại cm lắng nghe trò
chuyn vi thế giới bên kia.”
Để khẳng định cho điều đó, từ ngay những dòng ban đầu ông đã đưa ra lp lun rt
thuyết phục. Ông coi trọng “ý tại ngôn toại” của văn thơ, một bài thơ phải làm cho
người đọc va hiểu đưc ni dung, vừa đắm chìm trong mạch cảm xúc đó. Không như
lời nói hàng ngày, theo Đạt, thơ một điều l lùng không cần nói ra những
người ta vn cm nhận được điều bn mun biểu đạt. Bởi riêng ngôn ngữ, thơ đã
một nơi cất cha cảm xúc tận, cht lc nhng tinh túy từ con ch tầm thường. Cái
một nhà thơ thực th hướng tới không phải chất “thương mại” tầm thường,
là âm điu, s gi cm ca tng vn, tng nhp.
Ông cũng bày tỏ thái độ “ghét” của mình vi nhng quan nim: “Các nhà thơ Việt
Nam thường chín sớm nên cũng tàn lụi sm”. Theo ông, chỉ đúng với nhng nhà
thơ được thiên phú, khi “thời” hết, thiên phú lụi tàn thì không sự c gng, h
s thc s phi dng lại. Tuy nhiên, những ngưi thc s rèn luyn, gắn vi con
ch thì sẽ mãi tràn đầy linh cm. Bi vậy, ông rất đề cao nhng con người này. Ông
cho rằng đây mới chân chính những người tạo ra dòng lch s mới cho thơ ca, vĩnh
vin tn ti theo thi gian ch không phải nht thi. Bởi trên con đường h đi không
có hoa hng tri sn, h phi đ m hôi, b thi gian ra đ nghiên cứu và luyện tp.
Đạt cho rằng “chữ Bầu lên nhà thơ”, ý nghĩa đ cao nhng con ch sự thu
hiểu nó của một nhà thơ đích thực. Mỗi người s một phong cách riêng, một không
gian riêng để “lưu trữ” những ý nghĩ táo bạo. Đó chính là sự khác biệt mà một nhà thơ
nên một bài thơ nên cần. tất c những hin hiện trong không gian đó đều
được tạo thành từ nhng ch cái bình thường nhưng lại cùng linh hoạt. Cũng
vậy, Lê Đạt khẳng định: “Người làm thơ tự trọng trên lĩnh vực ngôn ngữ phi bận tâm
đến vic m mang b cõi ngôn ngữ, ơng t một nhà bác học m rng b cõi của
khoa hc, đổi khác cách nhìn tự nhiên”.
S đặc sắc, thăng hoa của ngôn từ còn được gn vi s phận và con đường “không thể
quay đầu” họ chn. Bởi, hoàn cảnh tác đng rt nhiều đến phong cách vần thơ
ca một người, cũng khiến trở thành một “chất riêng” không b nhm lẫn. Ông thể
hiện quan đim của nh qua câu nói: “Những câu thơ hay đều k ngộ, nhưng kỳ
ng kết qu ca một thành tâm kiên trì, một đa mang đắm đuối làm động lòng quỉ thn,
ch không phải may rủi đơn thuần. Làm thơ không phải đánh quả, không ai trúng
s độc đc suốt đời”. Thứ đồi hi một nhà thơ thc th không chỉ cn s rèn luyện, mà
cũng cn nhiu s sáng tạo, linh cm ca từng người.
Đạt s dng nhiu t thun Vit, xoay chuyn linh hot gia nhng con ch
ông coi trọng. Các từ được dùng đều th hin rất rõ tính cách và quan điểm của ông về
câu chữ. Lp lun của ông cũng rt sắc bén logic, những dụ đều cùng chính
xác và dễ hiểu. Đó là một trong nhng thành công lớn nht ca một bài luận.
Lê Đạt là một người đam mê những con ch, không ai có th nghi ng được điều này.
Nhan đề nội dung của bài đều cùng hấp dẫn lôi cuốn người đọc. Qua đây, ta
thể nhn thấy đư rt nhiu vấn đ. Th nhất sự quan trng ca con ch trong
vic to ra những tác phm, th hai sự khẳng định tm quan trng của tác giả
cuối cùng, ta hiểu đưc nhng tinh hoa cht lc trong việc sáng tác thơ. Thơ không
đơn giản ch để đọc, nó còn là sợi dây chia s, cm nhn.
Phân tích Ch bầu lên nhà thơ - Mu 2
Tựa như con sóng ngoài khơi luôn đưa đẩy, níu giữ nhng chiếc thuyền lênh đênh trên
biển , thơ ca đi vào thế gii nội tâm của con người một cách nhẹ nhàng và thanh thoát,
t đó hướng h đến nhng v đẹp ca ca cuc sống muôn màu. Thơ tiếng đàn
muôn thuở gãy lên những giai điệu du dương đưa ta vào những chiều không gian khác,
khi thoát khỏi hin thc u tối để bay đến ngày mai tươi sáng hơn , khi đưa ta v
li vi nhng k niệm tươi đẹp trong quá khứ. Nhưng làm sao ta nghe đưc tiếng đàn
ấy, khi chỉ những nét mực tri in hằn lên tờ giy trắng, không, không ch
đơn thuần nét mực, con chữ, ngôn t ngh thuật. Nhà thơ Viên Mai đã
từng nói rằng : “Chỉ có lời thơ tinh vi đẹp đẽ mới có thể khiến cho người đc cảm kích
phấn chấn, còn như lời thơ qua ngay thẳng, thật thà, tầm thường, thì th
làm cho ai hứng thú được không”, một nhà thơ tầm hiu biết, Viên Mai đã hiểu
được tm quan trng của ngôn từ ngh thut trong bt c mt thi phẩm nào, bởi
không chỉ cách để nhà thơ truyền đạt nội dung, tư tưởng, tình cảm của mình đến vi
độc gi theo một cách lạ nào đó từ nhng con ch ấy người đọc lại thêm
những duy khác theo chính cảm xúc của mình. Hiểu được những điều diệu
con ch mang lại, nhà thơ Đạt đã có những cái nhìn chiêm nghiệm khách quan
nht v vấn đề qua văn bản “Chữ bầu lên nhà thơ”.
Lê Đạt (1929-2008), tên khai sinh là Đào Công Đạt, quê ở tnh Bc Giang. Ông là nhà
thơ luôn ý thức tìm tòi, cách tân, đề cao lao động ch nghĩa từng t nhận mình
“phu chữ”. Bao nhiêu nhà thơ trên đời y ao ưc mt ln hiểu được ý nghĩa ca
thơ, để tr lời cho câu hỏi : “Thơ là gì?”. Lê Đạt cũng như vậy, sut cuc đời ông sống
vì thơ, vì con chữ, ông đối thoi vi những dòng thơ thơ như đi thoi với chính mình.
Thơ hiện lên trong m thức ông không ch những câu thơ đa nghĩa như mt th
“bóng chữ” còn có c những ưu trăn trở của ông về nó. Với ông, thơ như một
th đạo, mt th n giáo, mt th duyên. Nói như Đng Tiến: “Người đời thi
nhân với kiếp tằm, Đt t xem nh như một dâu, còn lại trơ gân, xác thân
xác”. “Không người làm thơ nào không phi tri qua nhng cơn tuyt vng mun
quẳng bút đi làm nghề khác cho khỏe. Nhưng thơ một nghip, một tình yêu đắm
đuối” , đối với ông thơ một th nghip chướng cả đời ông không th dt ra
được, ông tự cho mình là kẻ phu ch, sut một đời này phải gn lin với cái công việc
gt ra tng con ch sao cho tr nên miều tuyt diu nhất có th để đưa vào làm
cht liu cho những tác phẩm sáng tạo ngh thut của mình. Đối với ông chữ không
ch đơn thuần một kí hiệu giao tiếp như một sinh th luôn cựa quậy, một th
mc khi đ thi nhân bộc l quan nim nhân sinh của nh. Sự linh diu của thơ bao
gi cũng hiển l ch. sự linh diu ca ch chính sự linh diu của thơ. Đạt
đặt ra một yêu cầu rất nghiêm khắc đối với nthơ: Nhà thơ không coi r ch như
nhng vật vô tri vô giác, những công cụ qung đi khi đã hết tác dụng mà tôn trọng ch
như những sinh vt hồn, lng nghe tiếng nói của ch trò chuyn vi ch như
những nhà ngoại cm lắng nghe và trò chuyn vi thế giới bên kia.”.
Ngay đầu những lẽ ban đu của văn bản, ông đã nêu ra đưc nhng lp lun ca
mình. Đối với văn xuôi, đó “Ý tại ngôn tại”, nhầm hay không khi từ “tại” được
lp lại, không, đó dụng ý của tác giả. Ông quan niệm rằng đối vi những tác phẩm
văn xuôi, truyện thơ, kí, chỉ cần ta đọc hết tác phẩm, đọc từng câu từng ch tiêu
hoá nó, ta sẽ hiu được nội dung, giá trị u bên trong mun truyn tải đến
người đọc. Còn đối vi th loại thơ thì khác, “Ý tại ngôn ngoại”, nghĩa
người đọc thơ ch đc hết tng câu thơ thì không thể nào tường tn hết được nhng gì
kẻ làm thơ muốn nói, một điều diu na ch nhng con ch ấy ngưi
thưng thc tn có th ng tạo ra nhiu tầng ý nghĩa thích hp vi cảm c của
họ, khác hoàn toàn vi những nhà thơ muốn truyn tải đến, Đạt đã cho ta
thy s diệu thần của ngôn từ ngh thuật trong thi ca. Thơ thường không bộc
l những điều được viết ra nhng ch trng, nhng khong trng, s im
lng giữa các chữ các lời. Ngôn ngữ tho là ngôn ngữ được chưng ct t cảm xúc, chắt
chiu và gn lc, đt đến độ tinh, nên có sự đa dạng v mặt ý nghĩa cũng như cách hiu.
Chính những điều đc bit y, s lắng nghe cảm th của người đọc quá trình
giải phát hiện ra nhng v đẹp bt ng, tinh tế của thơ ca, người đọc ngoài năng
lc rung cm, thẩm bình nhạy n trước ngôn ngữ thi ca thì sự đồng điệu với tác
gi cũng một con đường để đến với thơ. Đạt cho rằng. : “Nthơ làm chữ ch
yếu không phải “nghĩa tiêu dùng”, nghĩa vị của nó, din mạo, âm lượng, độ
vang vng, sc gi cm ca ch trong tương quan hữu cơ với câu, bài thơ” , không thể
ph nhận được ý kiến như vậy. Trong bài : “Mấy ý nghĩ về thơ”, Nguyễn Đình Thi nói:
“Trên trời có đám mây xanh
giữa mây trắng xung quanh mây vàng
Ước gì anh lấy được nàng…”
Thơ muốn lay động chiều sâu tâm hồn, đem cảm xúc đi thẳng vào sự suy nghĩ,
đúng là không ch nhìn vào con chữ, nhìn vào cái nghĩa tự v hay tiêu dùng của nó
hiểu được ý tình của tác giả trong câu thơ này, làm sao c mây trắng ri xanh ri
vàng, rồi làm sao lại liên quan đến ta nàng, y vậy trong lòng mỗi người đã
những câu tr lời riêng cho mình rồi, đó sức mạnh vang động ca thơ ca vào m
hồn người đọc, thật diệu ngộ. Đường đi của thơ con đường đưa thẳng vào tình
cảm, không quanh co, qua những chng, nhng trung gian, những cây số. Văn xuôi lôi
cuốn người như dòng nước, đưa ta đi lần t, t điểm này qua điểm khác. Thơ, trái
li, ch chn một ít điểm chín, bám o những điểm ấy thì toàn thể động lên theo”
Nguyễn Đình Thi. Nói như Trn Nhựt Tân: “ Ngôn ngữ thơ ca là một ngôn ngữ nội
dung phản ánh được dư vang nghệ thut”.
Đạt bày t thái đ “ghét” với cái quan niệm quái gở : Các nhà thơ Việt Nam
thường chín sớm nên cũng tàn li sớm”, ý y chỉ những nhà thơ được phú trời cho,
ban cho mình cái khả năng “thở cũng ra thơ”. Nhưng đã cho thì ng bủn xn lm, ri
một ngày nào đó cái phú ấy cũng lụi tàn đi, vậy những nhà thơ y s còn lại nếu
không thực s lao động ngh thut bng m hôi chính mình. Bởi vậy ông đề cao
những nhà thơ “một nng hai sương, lầm lũi, lực điện trên cánh đng giấy, đổi bát m
hôi lấy tng ht chữ”. Ông cho ra thiên h li ca ngi th loại thơ gắn lin vi nhng
cảm xúc bộc phát, “bốc đồng”, làm thơ không cần c gng, ca những nhà thơ thiên
phú, rồi cái phút bốc đng ấy tồn tại vĩnh viễn vi thi gian hay phải nhường ch
cho những nhà thơ chân chính đi m hôi lấy ch như ông đã từng nói, những th y
ch cái tạm thời, không th nào so sánh với những người như ông các nhà thơ
cùng chí hưng. Hoạt động sáng tạo thơ ca là một con đường dài và gian khổ, trên con
đường ấy không biết bao nhiêu mồ hôi c mt ca nhng k phu ch đã phải tri
dài, nơi đó không chỗ cho nhng th thơ tầm thường ch những giá trị tc thi,
r rúng. Xem chữ như một người bạn chân chính, người bn ấy không phải t đến
với chúng ta hay đưc ai gọi mang đến cho ta c ta phi t đi tìm nó. Phi biết lng
nghe trò chuyện vi ch, nghĩa ta đang nói chuyện vi mt tri k. Ch trong thơ
đã trở thành người bạn tri âm của thi sĩ, chọn la ch trong thơ cũng chính sự chn
la ca tình yêu và trách nhim với ngòi bút của mình. Theo Lê Đt:
“Vi đa s ch là tình nghĩa
Vi nhà thơ ch là tình yêu”.
Chính rất đề cao vai trò của ch trong tông đã xác quyết: “Một nhà thơ
kinh nghiệm nthơ biết im lặng để nghe ch phát biểu”. Ông cho rằng: “ch bu
lên nhà thơ” , nhà thơ bao giờ cũng người b hành cần mn dấn thân trên con
đường chn la “giữa nghĩa hàm nghĩa, gia ch bóng chữ”. Hiện hu của nhà
thơ chính hin hu ca ch trong thơ. Nhà thơ nếu không tạo ra được mt s riêng
v ngôn ngữ, nghĩa là đã t đánh mất s hin hu của mình. khi đó thơ chỉ một
“nm m lnh lẽo” trong nghĩa trang thơ. Ch trong thơ, thế một “nhãn hiệu cu
chứng” cho sự hin tn của thi nhân, một trong nhng yếu t quan trng nht nếu
không nói yếu t quyết định tạo nên phong cách nhà thơ. trụ ca mỗi nhà thơ
được tạo nên từ nhng tinh tú của ngôn ngữ thơ mà ngôn ngữ thơ bao giờ cũng là hiện
thân ca chữ. Vì vậy, trong quan nim ca Lê Đạt, đ khẳng định s tn sinh của mình
“Người làm thơ tự trng trên lĩnh vực ngôn ngữ phi bận m đến vic m mang b
cõi ngôn ngữ, tương tự một nhà bác hc m rng b cõi của khoa học, đổi khác cách
nhìn tự nhiên”.
Theo Đạt: “Con đường thơ gồm nhiều con đường riêng rất khác nhau ca tng
người. Không có đại l chung mt chiu cho tt cả. Ta có thể nói con đường thơ chính
số phn ca một nhà thơ”. Mỗi một nhà thơ đều một con đường riêng cho mình,
một khi đã chọn thì khó th quay đầu, hay còn gọi số phn của chính họ
trong thế gii ngh thut khc nghit. chọn cho mình đi theo hướng nào, lao động
ch việc không thể nào bỏ qua, đó một yếu t bản tiên quyết nên sự thành
công của những tác phẩm trong quá trình ng tạo ngh thut của chính họ. Bi vy
ông quan niệm rằng : “Những câu thơ hay đu k ngộ, nhưng k ng kết qu ca
một thành tâm kiên trì, một đa mang đắm đuối làm động lòng qu thn, ch không
phi may rủi đơn thuần. Làm thơ không phải đánh quả, không ai trúng số độc đắc
suốt đời”. Không có nhng s thăng hoa diệu k trong sáng tạo thì không thể
những câu thơ hay. ng tạo thơ bao giờ cũng sự ám nh của thức m linh.
Đi vào thế gii của thơ đi vào thế gii ca nhng o diu, ca mc khải để người
ngh thể hin nhng d phóng sáng tạo của mình. Theo ông: “Cái trẻ, cái già ca
nhà thơ quyết định không phải do tuổi đời, ni lc ch, Picasso nói một câu
rất thâm thuý : “Người ta cn rt nhiu thời gian để tr nên trẻ”. Nhà thơ phải không
ngng n lc, ci tiến lối duy thể héo mòn theo năm tháng, không ngng lao
động cn mẫn để tr đưc nhng c tri ch bu chn trong nhim k kế tiếp, đừng để
đánh mất đi cái tài năng của mình. Chính thế giới “ngôn ng riêngnày sẽ làm nên
mt h giá trị trong tr thơ của thi nhân. khẳng định s hin tn của nhà thơ
trong tâm thức người đọc cũng như định v cách nhà thơ trên thi đàn. Thơ luôn
“chng lại nguy sa mạc hoá của tâm cảnh”. khi nào nhà thơ không để cho tâm
cnh của mình b sa mạc hoá, lúc đó nhà thơ mới cái nhìn linh đng v cuc sng
và khi đó thế giới ngôn ngữ ca nhà thơ mới phong phú và linh động
Tại sao người ta ca ngi H Xuân Hương là “Bà chúa thơ Nôm”, hay “nhà thơ ca
ph nữ” , ta cùng tìm hiểu nét độc đáo trong cách sử dng con ch để gy dng lên
tên tui của mình.
“Đêm khuya văng vng trng canh dn,
Trơ cái hồng nhan với nước non.
Chén rượu hương đưa say lại tnh,
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn,
Xiên ngang mt đất, rêu từng đám.
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.
Ngán nỗi xuân đi xuân lại li,
Mảnh tình san sẻ tí con con!”
(T tình II )
Bạn cách sử dng các từ thun Việt giàu hình ảnh, màu sắc, đường nét vi sắc thái đặc
t mnh, những động t ch tình thái (dồn, trơ, xế, xiên ngang, đâm toạc ), những tính
t ch trạng thái (say, tnh, khuyết, tròn), phi hp với cách tổ chức ngôn ngữ mt
cách sáng to ngh thuật: đối, đảo ngữ, cách bắt nhp, H Xuân Hương đã bc l được
tâm trạng bất mãn vi cuộc đời s phận niềm khát khao hạnh phúc lứa đôi. Đó
cách chơi ch độc đáo ca bà, làm cho tên tui vang xa và đ li tiếng thơm muôn đời.
Bằng hàng loạt những luận sắc bén, Đạt đã th hin những quan điểm v công
cuc phu ch của nhà thơ một cáchcùng thuyết phục mang tính sáng to ca
riêng ông. Những l dn chứng ông viết trong văn bản thc s đã mang người
đọc hiểu hơn về quá trình lao động ngh thut ca những nhà thơ chân chính, từ đó đặt
ra những yêu cầu khắt khe đối vi họ. Bên cạnh đó t thấy được s hiu biết chiêm
nghim của ông trong thế gii ca ngh thut, một con người hết đời thơ ca con
chữ, đề cao những giá trị nhân văn mà nó đem lại.
Tác giả đã đưa ra nhận định hay thú vị Chữ bầu lên nthơ, đ làm nổi bt tm
quan trng ca ch đối với các nhà thơ trong quá trình sáng to ngh thut. Ch bu
lên nhà thơ khẳng định vai trò của ngôn ngữ đối với nhà thơ; ngôn ngữ yếu t
không thể thiếu trong văn học; khẳng định tài năng, phong cách của ngưi ngh sĩ.
Ngôn ngữ thơ tinh hoa tối cao của ngôn ngữ, kiến trúc ngôn t đặc bit; to lp
và tôn vinh vị thế nhà thơ. Khi nhà thơ cần mn vi ch thì sẽ có sự la chọn phù hợp
nhất để diễn đạt ý cần nói, để tiếng lòng của mình được vang lên, đưc hữu hình hóa
thành câu chữ, âm thanh, nhịp điệu. Làm thơ dùng lời những du hiu thay cho
lời nói, tức dùng ch để th hin trạng thái tâm đang rung chuyển khác thưng.
Làm thơ đang sống, không phi ch nhìn li s sống, làm sống dy một tình cảm,
mt ni niềm trong lòng người đọc. Bài thơ sợi dây tình cảm cho người đọc, cái
trạng thái tâm ấy người đọc t tạo cho mình, chính khi nhìn những ch, nghe
nhng li t đó tâm hồn rung n chm thy những ý nghĩ những tình cảm lời
và chữ của bài thơ kéo theo đằng sau như ngọn đuốc trong đêm.
| 1/9

Preview text:


Phân tích bài Chữ bầu lên nhà thơ - Mẫu 1
Thơ là một phương tiện thể hiện rõ cảm xúc và ý chí của con người. Làm thơ rất dễ,
nhưng để trở thành một nhà thơ lại không dễ. Bởi thơ là một bản nhạc, người tấu lên
nó một cách hay nhất thì phải trải qua quá trình dài luyện tập. Thơ có thể đưa chúng ta
thoát ra khỏi hiện tại, đi đến niềm vui và hạnh phúc. Nó cũng có thể thể hiện được rõ
nhất những gì đang có ở hiện tại, là những cảm xúc bồn bã u ám của con người. Vấn
đề những con chữ biến ảo đó được Lê Đạt thể hiện qua cái nhìn của bản thân trong tác
phẩm “Chữ bầu lên nhà thơ”.
Lê Đạt là một nhà thơ đặc biệt luôn đi tìm tòi những điều độc đáo trong văn chương,
trong từng con chữ. Ông có khát khao đi tìm hiểu hết ý nghĩa của thơ, sống vì thơ và
cống hiến hết mình. Không chỉ là những chữ ghép lại, thơ theo định nghĩa của Lê Đạt
là một thứ “đạo”. Ông xác định cả đời của mình đều dành cho thơ, để gọt giũa những
vần thơ và tạo nên những con chữ tuyệt mỹ. Với Lê Đạt, công việc “nghệ thuật” nhất
chính là tạo ra những tác phẩm từ những con chữ giao tiếp hàng ngày. Trong công
việc, nhất là liên quan đến thơ ông thường có những yêu cầu rất nghiêm khắc. Ông
quan điểm: “Nhà thơ không coi rẻ chữ như những vật vô tri vô giác, những công cụ
quẳng đi khi đã hết tác dụng mà tôn trọng chữ như những sinh vật có hồn, lắng nghe
tiếng nói của chữ và trò chuyện với chữ như những nhà ngoại cảm lắng nghe và trò
chuyện với thế giới bên kia.”
Để khẳng định cho điều đó, từ ngay những dòng ban đầu ông đã đưa ra lập luận rất
thuyết phục. Ông coi trọng “ý tại ngôn toại” của văn thơ, một bài thơ phải làm cho
người đọc vừa hiểu được nội dung, vừa đắm chìm trong mạch cảm xúc đó. Không như
lời nói hàng ngày, theo Lê Đạt, thơ là một điều lạ lùng mà không cần nói ra những
người ta vẫn cảm nhận được điều bạn muốn biểu đạt. Bởi riêng ngôn ngữ, thơ đã là
một nơi cất chứa cảm xúc vô tận, chắt lọc những tinh túy từ con chữ tầm thường. Cái
mà một nhà thơ thực thụ hướng tới không phải là chất “thương mại” tầm thường, mà
là âm điệu, sự gợi cảm của từng vần, từng nhịp.
Ông cũng bày tỏ thái độ “ghét” của mình với những quan niệm: “Các nhà thơ Việt
Nam thường chín sớm nên cũng tàn lụi sớm”. Theo ông, nó chỉ đúng với những nhà
thơ được thiên phú, vì có khi “thời” hết, thiên phú lụi tàn thì không có sự cố gắng, họ
sẽ thực sự phải dừng lại. Tuy nhiên, những người thực sự rèn luyện, gắn bó với con
chữ thì sẽ mãi tràn đầy linh cảm. Bởi vậy, ông rất đề cao những con người này. Ông
cho rằng đây mới chân chính là những người tạo ra dòng lịch sử mới cho thơ ca, vĩnh
viễn tồn tại theo thời gian chứ không phải nhất thời. Bởi trên con đường họ đi không
có hoa hồng trải sẵn, họ phải đổ mồ hôi, bỏ thời gian ra để nghiên cứu và luyện tập.
Lê Đạt cho rằng “chữ Bầu lên nhà thơ”, ý nghĩa là đề cao những con chữ và sự thấu
hiểu nó của một nhà thơ đích thực. Mỗi người sẽ có một phong cách riêng, một không
gian riêng để “lưu trữ” những ý nghĩ táo bạo. Đó chính là sự khác biệt mà một nhà thơ
nên có và một bài thơ nên cần. Và tất cả những gì hiển hiện trong không gian đó đều
được tạo thành từ những chữ cái bình thường nhưng lại vô cùng linh hoạt. Cũng vì
vậy, Lê Đạt khẳng định: “Người làm thơ tự trọng trên lĩnh vực ngôn ngữ phải bận tâm
đến việc mở mang bờ cõi ngôn ngữ, tương tự một nhà bác học mở rộng bờ cõi của
khoa học, đổi khác cách nhìn tự nhiên”.
Sự đặc sắc, thăng hoa của ngôn từ còn được gắn với số phận và con đường “không thể
quay đầu” mà họ chọn. Bởi, hoàn cảnh tác động rất nhiều đến phong cách và vần thơ
của một người, cũng khiến nó trở thành một “chất riêng” không bị nhầm lẫn. Ông thể
hiện quan điểm của mình qua câu nói: “Những câu thơ hay đều kỳ ngộ, nhưng là kỳ
ngộ kết quả của một thành tâm kiên trì, một đa mang đắm đuối làm động lòng quỉ thần,
chứ không phải may rủi đơn thuần. Làm thơ không phải đánh quả, và không ai trúng
số độc đắc suốt đời”. Thứ đồi hỏi một nhà thơ thực thụ không chỉ cần sự rèn luyện, mà
cũng cần nhiều sự sáng tạo, linh cảm của từng người.
Lê Đạt sử dụng nhiều từ thuần Việt, xoay chuyển linh hoạt giữa những con chữ mà
ông coi trọng. Các từ được dùng đều thể hiện rất rõ tính cách và quan điểm của ông về
câu chữ. Lập luận của ông cũng rất sắc bén và logic, những ví dụ đều vô cùng chính
xác và dễ hiểu. Đó là một trong những thành công lớn nhất của một bài luận.
Lê Đạt là một người đam mê những con chữ, không ai có thể nghi ngờ được điều này.
Nhan đề và nội dung của bài đều vô cùng hấp dẫn và lôi cuốn người đọc. Qua đây, ta
có thể nhận thấy đượ rất nhiều vấn đề. Thứ nhất là sự quan trọng của con chữ trong
việc tạo ra những tác phẩm, thứ hai là sự khẳng định tầm quan trọng của tác giả và
cuối cùng, ta hiểu được những tinh hoa chắt lọc trong việc sáng tác thơ. Thơ không
đơn giản chỉ để đọc, nó còn là sợi dây chia sẻ, cảm nhận.
Phân tích Chữ bầu lên nhà thơ - Mẫu 2
Tựa như con sóng ngoài khơi luôn đưa đẩy, níu giữ những chiếc thuyền lênh đênh trên
biển , thơ ca đi vào thế giới nội tâm của con người một cách nhẹ nhàng và thanh thoát,
từ đó hướng họ đến những vẻ đẹp của của cuộc sống muôn màu. Thơ là là tiếng đàn
muôn thuở gãy lên những giai điệu du dương đưa ta vào những chiều không gian khác,
khi là thoát khỏi hiện thực u tối để bay đến ngày mai tươi sáng hơn , khi là đưa ta về
lại với những kỉ niệm tươi đẹp trong quá khứ. Nhưng làm sao ta nghe được tiếng đàn
ấy, khi nó chỉ là những nét mực vô tri in hằn lên tờ giấy trắng, không, nó không chỉ
đơn thuần là nét mực, mà nó là con chữ, là ngôn từ nghệ thuật. Nhà thơ Viên Mai đã
từng nói rằng : “Chỉ có lời thơ tinh vi đẹp đẽ mới có thể khiến cho người đọc cảm kích
mà phấn chấn, còn như lời thơ qua ngay thẳng, thật thà, tầm thường, cũ kĩ thì có thể
làm cho ai hứng thú được không”, là một nhà thơ có tầm hiểu biết, Viên Mai đã hiểu
được tầm quan trọng của ngôn từ nghệ thuật trong bất cứ một thi phẩm nào, bởi nó
không chỉ là cách để nhà thơ truyền đạt nội dung, tư tưởng, tình cảm của mình đến với
độc giả mà theo một cách kì lạ nào đó từ những con chữ ấy người đọc lại có thêm
những tư duy khác theo chính cảm xúc của mình. Hiểu được những điều kì diệu mà
con chữ mang lại, nhà thơ Lê Đạt đã có những cái nhìn chiêm nghiệm khách quan
nhất về vấn đề qua văn bản “Chữ bầu lên nhà thơ”.
Lê Đạt (1929-2008), tên khai sinh là Đào Công Đạt, quê ở tỉnh Bắc Giang. Ông là nhà
thơ luôn có ý thức tìm tòi, cách tân, đề cao lao động chữ nghĩa và từng tự nhận mình
là “phu chữ”. Bao nhiêu nhà thơ trên đời này ao ước một lần hiểu được ý nghĩa của
thơ, để trả lời cho câu hỏi : “Thơ là gì?”. Lê Đạt cũng như vậy, suốt cuộc đời ông sống
vì thơ, vì con chữ, ông đối thoại với những dòng thơ thơ như đối thoại với chính mình.
Thơ hiện lên trong tâm thức ông không chỉ có những câu thơ đa nghĩa như một thứ
“bóng chữ” mà còn có cả những ưu tư trăn trở của ông về nó. Với ông, thơ như một
thứ đạo, một thứ tôn giáo, một thứ cơ duyên. Nói như Đặng Tiến: “Người đời ví thi
nhân với kiếp tằm, Lê Đạt tự xem mình như một lá dâu, còn lại trơ gân, xác xơ thân
xác”. “Không người làm thơ nào không phải trải qua những cơn tuyệt vọng muốn
quẳng bút đi làm nghề khác cho nó khỏe. Nhưng thơ là một nghiệp, một tình yêu đắm
đuối” , đối với ông thơ mà một thứ nghiệp chướng mà cả đời ông không thể dứt ra
được, ông tự cho mình là kẻ phu chữ, suốt một đời này phải gắn liền với cái công việc
gọt rửa từng con chữ sao cho trở nên mĩ miều tuyệt diệu nhất có thể để đưa vào làm
chất liệu cho những tác phẩm sáng tạo nghệ thuật của mình. Đối với ông chữ không
chỉ đơn thuần là một kí hiệu giao tiếp mà như một sinh thể luôn cựa quậy, là một thứ
mặc khải để thi nhân bộc lộ quan niệm nhân sinh của mình. Sự linh diệu của thơ bao
giờ cũng hiển lộ ở chữ. Và sự linh diệu của chữ chính là sự linh diệu của thơ. Lê Đạt
đặt ra một yêu cầu rất nghiêm khắc đối với nhà thơ: “ Nhà thơ không coi rẻ chữ như
những vật vô tri vô giác, những công cụ quẳng đi khi đã hết tác dụng mà tôn trọng chữ
như những sinh vật có hồn, lắng nghe tiếng nói của chữ và trò chuyện với chữ như
những nhà ngoại cảm lắng nghe và trò chuyện với thế giới bên kia.”.
Ngay đầu những lí lẽ ban đầu của văn bản, ông đã nêu ra được những lập luận của
mình. Đối với văn xuôi, đó là “Ý tại ngôn tại”, có nhầm hay không khi từ “tại” được
lặp lại, không, đó là dụng ý của tác giả. Ông quan niệm rằng đối với những tác phẩm
văn xuôi, truyện thơ, kí, … chỉ cần ta đọc hết tác phẩm, đọc từng câu từng chữ và tiêu
hoá nó, ta sẽ hiểu được nội dung, giá trị sâu bên trong mà nó muốn truyền tải đến
người đọc. Còn đối với thể loại thơ thì khác, nó là “Ý tại ngôn ngoại”, có nghĩa là
người đọc thơ chỉ đọc hết từng câu thơ thì không thể nào tường tận hết được những gì
mà kẻ làm thơ muốn nói, một điều kì diệu nữa ở chỗ những con chữ ấy mà người
thưởng thức thơ còn có thể sáng tạo ra nhiều tầng ý nghĩa thích hợp với cảm xúc của
họ, khác hoàn toàn với những gì mà nhà thơ muốn truyền tải đến, Lê Đạt đã cho ta
thấy sự kì diệu và thần kì của ngôn từ nghệ thuật trong thi ca. Thơ thường không bộc
lộ ở những điều được viết ra mà là ở những chỗ trống, những khoảng trắng, ở sự im
lặng giữa các chữ các lời. Ngôn ngữ tho là ngôn ngữ được chưng cất từ cảm xúc, chắt
chiu và gạn lọc, đạt đến độ tinh, nên có sự đa dạng về mặt ý nghĩa cũng như cách hiểu.
Chính vì những điều đặc biệt ấy, sự lắng nghe và cảm thụ của người đọc là quá trình
giải mã phát hiện ra những vẻ đẹp bất ngờ, tinh tế của thơ ca, người đọc ngoài năng
lực rung cảm, thẩm bình và nhạy bén trước ngôn ngữ thi ca thì sự đồng điệu với tác
giả cũng là một con đường để đến với thơ. Lê Đạt cho rằng. : “Nhà thơ làm chữ chủ
yếu không phải ở “nghĩa tiêu dùng”, nghĩa tư vị của nó, mà ở diện mạo, âm lượng, độ
vang vọng, sức gợi cảm của chữ trong tương quan hữu cơ với câu, bài thơ” , không thể
phủ nhận được ý kiến như vậy. Trong bài : “Mấy ý nghĩ về thơ”, Nguyễn Đình Thi nói:
“Trên trời có đám mây xanh
Ở giữa mây trắng xung quanh mây vàng
Ước gì anh lấy được nàng…”
Thơ muốn lay động chiều sâu tâm hồn, đem cảm xúc mà đi thẳng vào sự suy nghĩ,
đúng là không chỉ nhìn vào con chữ, nhìn vào cái nghĩa tự vị hay tiêu dùng của nó mà
hiểu được ý tình của tác giả trong câu thơ này, làm sao có cả mây trắng rồi xanh rồi
vàng, rồi làm sao lại liên quan đến ta và nàng, ấy vậy mà trong lòng mỗi người đã có
những câu trả lời riêng cho mình rồi, đó là sức mạnh vang động của thơ ca vào tâm
hồn người đọc, thật là diệu ngộ. “Đường đi của thơ là con đường đưa thẳng vào tình
cảm, không quanh co, qua những chặng, những trung gian, những cây số. Văn xuôi lôi
cuốn người như dòng nước, đưa ta đi lần lượt, từ điểm này qua điểm khác. Thơ, trái
lại, chỉ chọn một ít điểm chín, bám vào những điểm ấy thì toàn thể động lên theo” –
Nguyễn Đình Thi. Nói như Trần Nhựt Tân: “ Ngôn ngữ thơ ca là một ngôn ngữ có nội
dung phản ánh được dư vang nghệ thuật”.
Lê Đạt bày tỏ thái độ “ghét” với cái quan niệm quái gở : “Các nhà thơ Việt Nam
thường chín sớm nên cũng tàn lụi sớm”, ý này chỉ những nhà thơ được phú trời cho,
ban cho mình cái khả năng “thở cũng ra thơ”. Nhưng đã cho thì cũng bủn xỉn lắm, rồi
một ngày nào đó cái phú ấy cũng lụi tàn đi, vậy những nhà thơ ấy sẽ còn lại gì nếu
không thực sự lao động nghệ thuật bằng mồ hôi chính mình. Bởi vì vậy ông đề cao
những nhà thơ “một nắng hai sương, lầm lũi, lực điện trên cánh đồng giấy, đổi bát mồ
hôi lấy từng hạt chữ”. Ông cho ra thiên hạ lại ca ngợi thể loại thơ gắn liền với những
cảm xúc bộc phát, “bốc đồng”, làm thơ không cần cố gắng, của những nhà thơ thiên
phú, rồi cái phút bốc đồng ấy có tồn tại vĩnh viễn với thời gian hay phải nhường chỗ
cho những nhà thơ chân chính đổi mồ hôi lấy chữ như ông đã từng nói, những thứ ấy
chỉ là cái tạm thời, không thể nào so sánh với những người như ông và các nhà thơ
cùng chí hướng. Hoạt động sáng tạo thơ ca là một con đường dài và gian khổ, trên con
đường ấy không biết bao nhiêu mồ hôi nước mắt của những kẻ phu chữ đã phải trải
dài, nơi đó không có chỗ cho những thứ thơ tầm thường chỉ có những giá trị tức thời,
rẻ rúng. Xem chữ như là một người bạn chân chính, người bạn ấy không phải tự đến
với chúng ta hay được ai gọi mang đến cho ta cả ta phải tự đi tìm nó. Phải biết lắng
nghe và trò chuyện với chữ, nghĩa là ta đang nói chuyện với một tri kỉ. Chữ trong thơ
đã trở thành người bạn tri âm của thi sĩ, chọn lựa chữ trong thơ cũng chính là sự chọn
lựa của tình yêu và trách nhiệm với ngòi bút của mình. Theo Lê Đạt:
“Với đa số chữ là tình nghĩa
Với nhà thơ chữ là tình yêu”.
Chính vì rất đề cao vai trò của chữ trong thơ mà ông đã xác quyết: “Một nhà thơ có
kinh nghiệm là nhà thơ biết im lặng để nghe chữ phát biểu”. Ông cho rằng: “chữ bầu
lên nhà thơ” , và nhà thơ bao giờ cũng là người bộ hành cần mẫn dấn thân trên con
đường chọn lựa “giữa nghĩa và hàm nghĩa, giữa chữ và bóng chữ”. Hiện hữu của nhà
thơ chính là hiện hữu của chữ trong thơ. Nhà thơ nếu không tạo ra được một sự riêng
về ngôn ngữ, nghĩa là đã tự đánh mất sự hiện hữu của mình. Và khi đó thơ chỉ là một
“nấm mộ lạnh lẽo” trong nghĩa trang thơ. Chữ trong thơ, vì thế là một “nhãn hiệu cầu
chứng” cho sự hiện tồn của thi nhân, là một trong những yếu tố quan trọng nhất nếu
không nói là yếu tố quyết định tạo nên phong cách nhà thơ. Vũ trụ của mỗi nhà thơ
được tạo nên từ những tinh tú của ngôn ngữ thơ mà ngôn ngữ thơ bao giờ cũng là hiện
thân của chữ. Vì vậy, trong quan niệm của Lê Đạt, để khẳng định sự tồn sinh của mình
“Người làm thơ tự trọng trên lĩnh vực ngôn ngữ phải bận tâm đến việc mở mang bờ
cõi ngôn ngữ, tương tự một nhà bác học mở rộng bờ cõi của khoa học, đổi khác cách nhìn tự nhiên”.
Theo Lê Đạt: “Con đường thơ gồm nhiều con đường riêng rất khác nhau của từng
người. Không có đại lộ chung một chiều cho tất cả. Ta có thể nói con đường thơ chính
là số phận của một nhà thơ”. Mỗi một nhà thơ đều có một con đường riêng cho mình,
mà một khi đã chọn thì khó có thể quay đầu, hay còn gọi là số phận của chính họ
trong thế giới nghệ thuật khắc nghiệt. Dù chọn cho mình đi theo hướng nào, lao động
chữ là việc không thể nào bỏ qua, đó là một yếu tố cơ bản tiên quyết nên sự thành
công của những tác phẩm trong quá trình sáng tạo nghệ thuật của chính họ. Bởi vậy
ông quan niệm rằng : “Những câu thơ hay đều kỳ ngộ, nhưng là kỳ ngộ kết quả của
một thành tâm kiên trì, một đa mang đắm đuối làm động lòng quỉ thần, chứ không
phải may rủi đơn thuần. Làm thơ không phải đánh quả, và không ai trúng số độc đắc
suốt đời”. Không có những sự thăng hoa diệu kỳ trong sáng tạo thì không thể có
những câu thơ hay. Sáng tạo thơ bao giờ cũng là sự ám ảnh của vô thức và tâm linh.
Đi vào thế giới của thơ là đi vào thế giới của những ảo diệu, của mặc khải để người
nghệ sĩ thể hiện những dự phóng sáng tạo của mình. Theo ông: “Cái trẻ, cái già của
nhà thơ quyết định không phải do ở tuổi đời, mà ở nội lực chữ” , Picasso nói một câu
rất thâm thuý : “Người ta cần rất nhiều thời gian để trở nên trẻ”. Nhà thơ phải không
ngừng nỗ lực, cải tiến lối tư duy có thể héo mòn theo năm tháng, không ngừng lao
động cần mẫn để trở được những cử tri chữ bầu chọn trong nhiệm kỳ kế tiếp, đừng để
đánh mất đi cái tài năng của mình. Chính thế giới “ngôn ngữ riêng” này sẽ làm nên
một hệ giá trị trong vũ trụ thơ của thi nhân. Nó khẳng định sự hiện tồn của nhà thơ
trong tâm thức người đọc cũng như định vị tư cách nhà thơ trên thi đàn. Thơ luôn
“chống lại nguy cơ sa mạc hoá của tâm cảnh”. Và khi nào nhà thơ không để cho tâm
cảnh của mình bị sa mạc hoá, lúc đó nhà thơ mới có cái nhìn linh động về cuộc sống
và khi đó thế giới ngôn ngữ của nhà thơ mới phong phú và linh động
Tại sao người ta ca ngợi Hồ Xuân Hương là “Bà chúa thơ Nôm”, hay là “nhà thơ của
phụ nữ” , ta cùng tìm hiểu nét độc đáo trong cách sử dụng con chữ để gầy dựng lên tên tuổi của mình.
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,
Trơ cái hồng nhan với nước non.
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn,
Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám.
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con!” (Tự tình II )
Bạn cách sử dụng các từ thuần Việt giàu hình ảnh, màu sắc, đường nét với sắc thái đặc
tả mạnh, những động từ chỉ tình thái (dồn, trơ, xế, xiên ngang, đâm toạc ), những tính
từ chỉ trạng thái (say, tỉnh, khuyết, tròn), phối hợp với cách tổ chức ngôn ngữ một
cách sáng tạo nghệ thuật: đối, đảo ngữ, cách bắt nhịp, Hồ Xuân Hương đã bộc lộ được
tâm trạng bất mãn với cuộc đời số phận và niềm khát khao hạnh phúc lứa đôi. Đó là
cách chơi chữ độc đáo của bà, làm cho tên tuổi vang xa và để lại tiếng thơm muôn đời.
Bằng hàng loạt những lí luận sắc bén, Lê Đạt đã thể hiện những quan điểm về công
cuộc phu chữ của nhà thơ một cách vô cùng thuyết phục và mang cá tính sáng tạo của
riêng ông. Những lí lẽ dẫn chứng mà ông viết trong văn bản thực sự đã mang người
đọc hiểu hơn về quá trình lao động nghệ thuật của những nhà thơ chân chính, từ đó đặt
ra những yêu cầu khắt khe đối với họ. Bên cạnh đó t thấy được sự hiểu biết và chiêm
nghiệm của ông trong thế giới của nghệ thuật, một con người hết đời vì thơ ca vì con
chữ, đề cao những giá trị nhân văn mà nó đem lại.
Tác giả đã đưa ra nhận định hay và thú vị là Chữ bầu lên nhà thơ, để làm nổi bật tầm
quan trọng của chữ đối với các nhà thơ trong quá trình sáng tạo nghệ thuật. Chữ bầu
lên nhà thơ là khẳng định vai trò của ngôn ngữ đối với nhà thơ; ngôn ngữ là yếu tố
không thể thiếu trong văn học; nó khẳng định tài năng, phong cách của người nghệ sĩ.
Ngôn ngữ thơ là tinh hoa tối cao của ngôn ngữ, là kiến trúc ngôn từ đặc biệt; tạo lập
và tôn vinh vị thế nhà thơ. Khi nhà thơ cần mẫn với chữ thì sẽ có sự lựa chọn phù hợp
nhất để diễn đạt ý cần nói, để tiếng lòng của mình được vang lên, được hữu hình hóa
thành câu chữ, âm thanh, nhịp điệu. Làm thơ là dùng lời và những dấu hiệu thay cho
lời nói, tức là dùng chữ để thể hiện trạng thái tâm lý đang rung chuyển khác thường.
Làm thơ là đang sống, không phải chỉ nhìn lại sự sống, làm sống dậy một tình cảm,
một nỗi niềm trong lòng người đọc. Bài thơ là sợi dây tình cảm cho người đọc, cái
trạng thái tâm lý ấy là người đọc tự tạo cho mình, chính là khi nhìn những chữ, nghe
những lời từ đó tâm hồn rung lên vì chạm thấy những ý nghĩ những tình cảm mà lời
và chữ của bài thơ kéo theo đằng sau như ngọn đuốc trong đêm.