Phân tích thị trường lao động Việt Nam hiện nay | Kinh tế chính trị | Học viện Ngân Hàng

Phân tích thị trường lao động Việt Nam hiện nay với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả cao cũng như có thể vận dụng tốt những kiến thức mình đã học vào thực tiễn cuộc sống. Mời bạn đọc đón xem!

HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
KHOA TÀI CHÍNH
BÀI TẬP LỚN
Học phần: Kinh tế chính trị Mác-Lênin
ĐỀ TÀI: PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG LAO ĐỘNG VIỆT NAM
HIỆN NAY
NHÓM 5
Hà Nội, ngày 24 tháng 10 năm 2023
HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
KHOA TÀI CHÍNH
BÀI TẬP LỚN
Học phần: Kinh tế chính trị Mác-Lênin
ĐỀ TÀI: PHÂN TÍCH THỰC
TRẠNG LAO ĐỘNG VIỆT NAM HIỆN
NAY
Giảng viên hướng dẫn: Vũ Mai Phương
NHÓM 5
Trưởng nhóm: Trần Đình Khải – 26A4012405
Thành viên:
Nguyễn Đức Đạt - 26A4011924
Trần Vĩnh Lâm - 26A4012416
Trần Đức Long - 26A4012867
Nguyễn Phương Nhi - 26A4013263
Nguyễn Như Quỳnh - 26A4013284
Ngô Thanh Phương - 26A4013272
Hà Nội, ngày 24 tháng 10 năm 2023
Họ và tên Công việc Tỷ lệ % đóng góp
Trần Đình Khải
Tổng hợp thông tin, làm
Word, làm Powerpoint.
Mục:
1.1. Khái niệm về lao
động của con người
1.2. Thông tin cơ bản về
Thị trường Lao động ở Việt
Nam
1.3. Thách thức đối với
lực lượng lao động Việt
Nam
1.4. Diễn biến thị trường
lao động Việt Nam trong
Quý I năm 2023:
1.5. Kết luận
4.3. Tình hình di cư ở Việt
Nam
4.3.1. Đặc điểm chính
của người di cư tại Việt
Nam
4.3.2. Sự Thay Đổi Của
Luồng Di Cư Sau Đại
Dịch COVID-19
4.4. Kết Luận
17,5%
Nguyễn Đức Đạt Làm powerpoint
Mục:
4.1. So sánh nông thôn
thành thị Việt Nam
tổng quan tình hình di
trong nước
4.2. Sự khác biệt về thu
nhập và việc làm
4.3. Tình hình di cư ở Việt
Nam
10,3%
Trần Vĩnh Lâm Làm powerpoint
Mục:
14,5%
3.1. Quy mô và cơ cấu lao
động có việc làm phi chính
thức
3.2. Thu nhập của lao
động có việc làm phi
chính thức
3.3. Số giờ làm việc
3.4. Kết luận
5.1.Thị trường lao động
Việt Nam: Nhiều cơ hội
nhưng phụ nữ vẫn chịu
nhiều thiệt thòi
5.2. Bất bình đẳng, phân
biệt giới tính còn tồn tại
5.3. Kết luận
Trần Đức Long Làm powerpoint
Mục:
6.1.Thách thức với giáo
dục bậc đại học
6.1.1:Thất nghiệp theo
trình độ
6.1.2. Số bằng sáng chế
6.1.3 Chi phí công cho
giáo dục
6.2. Giải pháp
14,7%
Nguyễn Phương Nhi Làm powerpoint
Mục:
6.1.Thách thức với giáo
dục bậc đại học
6.1.1:Thất nghiệp theo
trình độ
6.1.2. Số bằng sáng chế
6.1.3 Chi phí công cho
giáo dục
6.2. Giải pháp
14.7%
Nguyễn Như Quỳnh Làm powerpoint
Mục:
15%
7.4.Lực lượng lao động
nước ngoài tại Việt Nam
7.4.1. Người lao động
nước ngoài tại Việt Nam.
7.4.2 Vai trò của người
lao động nước ngoài tại
Việt Nam
7.4.3. Giới tinh hoa, các
chuyên gia và nhà điều
hành nước ngoài làm việc
tại Việt Nam.
7.4.4.Việc di cư của giới
tinh hoa, các chuyên gia
7.5. Kết luận
Ngô Thanh Phương Làm powerpoint
Mục:
7.1.Tổng quan chủ
trương,chính sách,luật
pháp về người lao động
Việt Nam đi làm việc ở
nước ngoài.
7.1.1. Về chủ trương.
7.1.2. Về chính sách.
7.1.3Về luật pháp.
7.2.Thực trạng người lao
động Việt Nam đi làm việc
ở nước ngoài.
7.3.Một số vấn đề đặt ra
cho người lao động Việt
Nam đi làm việc nước
ngoài
14.3%
LỜI CẢM ƠN
Thay mặt nhóm 5, chúng em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến cô Vũ Mai Phương,
giảng viên phụ trách bộ môn Kinh tế Chính trị Mác-Lênin đã đồng hành cùng chúng em
trong suốt quá trình làm bài tập lớn.
Nhờ sự hướng dẫn của cô, chúng em đã có thể học hỏi được nhiều kiến thức và kinh
nghiệm quý báu. Và hoàn thành tốt bài tập được giao.
Tuy nhiên, do chúng em còn thiếu kinh nghiệm nên bài làm chắc chắn sẽ còn nhiều thiếu
sót. Chúng em rất mong nhận được những góp ý của cô để có thể hoàn thiện bài làm hơn
và rút kinh nghiệm cho những bài tiếp theo.
Một lần nữa, chúng em xin chân thành cảm ơn!
LỜI CAM ĐOAN
Thay mặt nhóm, chúng em xin cam đoan đề tài do nhóm chúng em nghiên cứu và thực
hiện là hoàn toàn trung thực và không sao chép từ bất kỳ bài làm của nhóm khác.
Chúng em đã kiểm tra dữ liệu theo quy định hiện hành và đảm bảo rằng các thông tin
trong bài làm là chính xác và đáng tin cậy.
Các tài liệu được sử dụng trong bài tập lớn đều có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng và được
trích dẫn đầy đủ theo quy định.
Chúng em xin chịu trách nhiệm trước giảng viên và nhà trường về những nội dung đã
cam đoan trên.
Nhóm 5
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN...............................................................................................................ii
LỜI CAM ĐOAN........................................................................................................iii
MỤC LỤC....................................................................................................................iv
MỞ ĐẦU.......................................................................................................................1
NỘI DUNG...................................................................................................................2
CHƯƠNG I - THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG Ở VIỆT NAM
1.1. Khái niệm về lao động của con người
1.2. Thông tin cơ bản về Thị trường Lao động ở Việt Nam
1.3. Thách thức đối với lực lượng lao động Việt Nam
1.4. Diễn biến thị trường lao động Việt Nam trong Quý I năm 2023:
1.5. Kết luận
CHƯƠNG II – THỰC TRẠNG LAO ĐỘNG KHU VỰC CHÍNH THỨC HIỆN
NAY
2.1. Khái niệm lao động khu vực chính thức
2.2. Những thách thức đối với lao động ở khu vực chính thức
2.3. Kết luận
CHƯƠNG III: THỰC TRẠNG LAO ĐỘNG KHU VỰC PHI CHÍNH THỨC TẠI
VIỆT NAM
3.1. Quy mô và cơ cấu lao động có việc làm phi chính thức
3.2. Thu nhập của lao động có việc làm phi chính thức
3.3. Số giờ làm việc
3.4. Kết luận
CHƯƠNG IV: VIỆC LÀM Ở NÔNG THÔN VÀ TÌNH TRẠNG DI CƯ RA THÀNH
THỊ
4.1. So sánh nông thôn và thành thị ở Việt Nam và tổng quan tình hình di cư trong nước
4.2. Sự khác biệt về thu nhập và việc làm
4.3. Tình hình di cư ở Việt Nam
4.3.1. Đặc điểm chính của người di cư tại Việt Nam
4.3.2. Sự Thay Đổi Của Luồng Di Cư Sau Đại Dịch COVID-19
4.4. Kết Luận
CHƯƠNG V: PHỤ NỮ TRONG THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG VIỆT NAM –
NHỮNG THÁCH THỨC VÀ KHÓ KHĂN
5.1.Thị trường lao động Việt Nam: Nhiều cơ hội nhưng phụ nữ vẫn chịu nhiều thiệt thòi
5.2. Bất bình đẳng, phân biệt giới tính còn tồn tại
5.3. Kết luận
CHƯƠNG VI: CHẤT LƯỢNG NGUỒN LAO ĐỘNG VÀ SỨC ÉP ĐỐI VỚI GIÁO
DỤC ĐẠI HỌC
6.1.Thách thức với giáo dục bậc đại học
6.1.1:Thất nghiệp theo trình độ
6.1.2. Số bằng sáng chế
6.1.3 Chi phí công cho giáo dục
6.2. Giải pháp
CHƯƠNG VII: NGƯỜI VIỆT NAM ĐI LÀM Ở NƯỚC NGOÀI VÀ NGƯỜI
NƯỚC NGOÀI LAO ĐỘNG TẠI VIỆT NAM
7.1.Tổng quan chủ trương,chính sách,luật pháp về người lao động Việt Nam đi làm việc
ở nước ngoài.
7.1.1. Về chủ trương.
7.1.2. Về chính sách.
7.1.3Về luật pháp.
7.2.Thực trạng người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài.
7.3.Một số vấn đề đặt ra cho người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài
7.4.Lực lượng lao động nước ngoài tại Việt Nam
7.4.1. Người lao động nước ngoài tại Việt Nam.
7.4.2 Vai trò của người lao động nước ngoài tại Việt Nam
7.4.3. Giới tinh hoa, các chuyên gia và nhà điều hành nước ngoài làm việc tại Việt
Nam.
7.4.4.Việc di cư của giới tinh hoa, các chuyên gia
7.5. Kết luận
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Những thập kỷ gần đây Việt Nam đã có những bước phát triển kinh tế toàn
diện. GDP tăng gấp bội, nhu cầu nội địa tăng mạnh, người dân giàu có hơn và
nhiều công ty nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. Với việc kinh tế nhà nước không
còn đóng vai trò chủ đạo như trước, kinh tế tư nhân đang ngày càng phát triển. Việt
Nam đã đạt được những tiến bộ đáng kể về sản xuất, năng suất và trong hội nhập
quốc tế.
Một trong những động lực quan trọng cho những thành công này là dân số
trẻ và lực lượng lao động dồi dào. Tính đến năm 2021, 51% dân số Việt Nam trong
độ tuổi lao động. Tuy nhiên, dân số Việt Nam đang già đi nhanh chóng. Theo ước
tính của Tổng cục Thống kê, cơ hội để Việt Nam hưởng lợi từ lực lượng lao động
trẻ sẽ đóng lại vào năm 2036.
Bên cạnh những thành tựu đáng kể, thị trường lao động Việt Nam vẫn tồn tại
nhiều thách thức. Theo ILO - Tổ chức Lao động Quốc tế (2022), chỉ có 44% lực
lượng lao động được hưởng các quyền lợi cơ bản như hợp đồng lao động, tiền
lương và bảo hiểm xã hội. Phần lớn lực lượng lao động làm việc phi chính thức,
chủ yếu ở khu vực nông thôn và lĩnh vực dịch vụ. Trình độ học vấn của người lao
động còn thấp, chỉ có 19% dân số có trình độ học vấn trên bậc trung học phổ
thông. Điều này khiến Việt Nam gặp khó khăn trong việc thu hút lao động có kỹ
năng cao, đặc biệt là trong các ngành công nghiệp cần nhiều lao động kỹ thuật như
sản xuất điện tử, cơ điện và tự động hóa.
Trong tương lai, Cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ tác động mạnh mẽ đến lực
lượng lao động Việt Nam. Quá trình tự động hóa và chuyển đổi số đòi hỏi người
lao động phải có trình độ kỹ thuật và khả năng thích ứng cao. Do đó, Để có thể tiếp
tục đi trên con đường đã dẫn đến thành công cho đến nay Việt Nam sẽ phải cải
cách thị trường lao động một cách toàn diện. Có nhiều vấn đề cần giải quyết trong
thị trường lao động Việt Nam, bao gồm sự biến động cao của lực lượng lao động,
nhiều người lao động quay lưng với công việc trong lĩnh vực công nghiệp thể hiện
rõ từ sau đại dịch Covid 19, cũng như điều kiện làm việc kém trong khu vực phi
chính thức. Các giải pháp cần được thực hiện bao gồm cải thiện môi trường làm
việc, tăng cường an sinh xã hội, nâng cao trình độ học vấn, và cải thiện điều kiện
làm việc của người lao động trong khu vực phi chính thức. Cần giảm bớt sự mất
cân bằng về giáo dục và việc làm giữa thành thị và nông thôn, và tạo ra nhiều cơ
hội việc làm mới cho phụ nữ. Phải tăng cường đầu tư vào đào tạo định hướng thực
hành cho tất cả các đối tượng liên quan, cũng như cần có những chính sách thu hút
và giữ chân lao động có trình độ cao trong lĩnh vực công nghệ. Đặc biệt để thu hút
nguồn lao động có trình độ cao trong lĩnh vực công nghệ, và ở lại Việt Nam làm
việc cần phải trở nên hấp dẫn hơn trước để họ không rời khỏi đất nước vì những lời
mời làm việc tốt hơn ở nước ngoài. Chính phủ cần có các chính sách phù hợp để
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng nhu cầu phát triển của thị trường lao
động trong thời kỳ mới. Đó cũng là một trong những lí do quan trọng nhất để
chúng tôi lựa chọn đề tài lần này.
2. Mục tiêu đề tài
Tổng hợp kiến thức, tài liệu nghiên cứu về lao động Việt Nam, giúp người đọc hiểu
biết về thực trạng lao động Việt Nam hiện nay.
Trau dồi kiến thức về lĩnh vực kinh tế - chính trị trên thực tiễn.
Cải thiện, học hỏi thêm các kỹ năng giao tiếp, làm việc nhóm, phản biện, thuyết
trình.
NỘI DUNG
CHƯƠNG I - THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG Ở VIỆT NAM
1.1. Khái niệm về lao động của con người
Công việc hoặc lao động là thứ phân biệt con người với các sinh vật khác. Các triết
gia như Karl Marx, Max Weber, Talcott Parsons và Hannah Arendt đã nghiên cứu về vấn
đề này và cho rằng lao động không chỉ đơn thuần để tạo thu nhập mà còn là quá trình con
người xác định giá trị bản thân và vị trí trong xã hội.
Lao động là một thuật ngữ phổ biến được sử dụng để chỉ các hoạt động sản xuất và
dịch vụ mà con người thực hiện để kiếm tiền qua một công việc được trả lương. Các hoạt
động lao động này có thể bao gồm nhiều ngành nghề khác nhau như sản xuất, xây dựng,
dịch vụ khách hàng và nhiều lĩnh vực khác. Một trong những mục đích chính của lao
động là sản xuất hàng hóa và dịch vụ để đáp ứng nhu cầu của thị trường.
Tuy nhiên định nghĩa mang tính kinh tế - chính trị này vẫn còn hạn chế một trong
những hạn chế được chỉ ra như sau: Lao động không chỉ đơn thuần là hoạt động mang lại
lợi ích hoặc được trả công mà còn liên quan đến các công việc trong gia đình. Thường thì
phụ nữ vẫn phải đảm nhận trách nhiệm này, ví dụ như việc nuôi dạy con cái cũng như
chăm sóc người già. Vì vậy, thuật ngữ công việc chăm sóc đã được giới thiệu để ghi nhận
sự đóng góp của những người phụ nữ này trong gia đình và xã hội (Abel/Nelson 1990).
Việc công nhận và đánh giá cao những công việc này là rất quan trọng để đảm bảo sự
công bằng cho phụ nữ trong lĩnh vực lao động và xã hội.
1.2. Thông tin cơ bản về Thị trường Lao động ở Việt Nam
Nguồn lao động ở Việt Nam:
Việt Nam đã thực hiện cải cách nguồn lao động từ những năm 1986. Những tác
động tích cực và đáng kể của chúng đã giúp đất nước khắc phục được những thiếu sót của
chính sách kế hoạch hóa tập trung và tự cô lập được đưa ra sau khi thống nhất đất nước
vào năm 1975. Việt Nam đã phục hồi từ bờ vực suy thoái kinh tế và hiện đang trên đà
phát triển thịnh vượng, ngày càng có uy tín quốc tế thông qua việc trở thành thành viên
của một số tổ chức khu vực và quốc tế bao gồm Tổ chức Thương mại Thế giới (Anh Tuấn
2009). Các doanh nghiệp thuộc mọi loại hình ngày càng quan tâm đến Việt Nam, bởi tầng
lớp người tiêu dùng ngày càng tăng và lực lượng lao động năng động của đất nước.
Việt Nam bước vào thời kỳ dân số vàng bắt đầu từ năm 2007, khi tỷ lệ người trong
độ tuổi lao động (15-64 tuổi) chiếm hơn 60% tổng dân số. Đây là một cơ hội thuận lợi
cho Việt Nam phát triển kinh tế và xã hội, bởi dân số vàng giúp tăng nguồn lực lao động,
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và giảm chi phí hưu trí và y tế. Theo dữ liệu của Ngân hàng
Thế giới, lực lượng lao động của Việt Nam đã nhanh chóng mở rộng kể từ năm 1986,
tăng từ hơn 32 triệu người vào năm 1990 lên 56,15 triệu người vào năm 2022 (Global
Economy 2021). Con số này giúp Việt Nam đứng thứ 12 trên bảng xếp hạng toàn cầu
(Global Economy 2021), đồng thời là quốc gia lớn thứ 67 về diện tích trên toàn thế giới
(World Data 2022).
Lực lượng lao động theo quý, giai đoạn 2020 – 2023
Đơn vị tính: Triệu người
Nguồn: Tổng cục thống kê
Lực lượng lao động Việt Nam có xu hướng tăng trưởng ổn định trong giai đoạn
2020-2023. Sự tăng trưởng này là kết quả của nhiều yếu tố, bao gồm tăng trưởng dân số,
tăng trưởng kinh tế và đổi mới giáo dục và đào tạo.Lực lượng lao động trong quý I năm
2023 tăng mạnh so với quý IV năm 2022, tương ứng với tốc độ tăng trưởng 2,1%.
Nguyên nhân là do Việt Nam đã kiểm soát tốt dịch COVID-19 và phục hồi kinh tế nhanh
chóng trong quý I năm 2023.
Biểu đồ 2: Số lao động có việc làm quý III và quý IV, giai đoạn 2019-2022
Đơn vị tính: Nghìn người
Nguồn: Tổng cục thống kê
Thị trường lao động Việt Nam trong quý IV năm 2022 có sự biến động đáng kể,
với tốc độ tăng lao động chỉ đạt 0,5%, thấp hơn nhiều so với mức tăng trung bình 2,2%
trong giai đoạn 2019-2021. Nguyên nhân chính là do tình trạng thiếu đơn hàng vào dịp
cuối năm do tác động của tình hình an ninh chính trị thế giới bất ổn, giá nguyên liệu,
nhiên liệu, khí đốt tăng cao.
Cơ cấu lao động trong quý IV năm 2022 cũng có sự thay đổi đáng kể, với lao động
có việc làm trong ngành dịch vụ và ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản đều tăng, trong
khi lao động có việc làm trong ngành công nghiệp và xây dựng giảm. Điều này cho thấy,
các doanh nghiệp đang chuyển hướng sang các ngành dịch vụ và nông nghiệp để giảm
thiểu rủi ro.
Tỷ lệ lao động có việc làm phi chính thức trong quý IV năm 2022 có xu hướng
tăng do tình trạng thiếu việc làm và thu nhập của người lao động giảm sút.
Biểu đồ 3: Tỉ lệ thất nghiệp hàng năm tại Việt Nam (%)
Nguồn: Cục thống kê tỉnh Cao Bằng
Đại dịch Covid-19 đã gây ra những ảnh hưởng đáng kể đối với thị trường lao động
ở Việt Nam, dẫn đến sự tăng lên của tỷ lệ thất nghiệp. Trong giai đoạn từ 2016 đến 2019,
tỷ lệ thất nghiệp không phân biệt giới tính. Tuy nhiên, vào năm 2020, tỷ lệ thất nghiệp
của phụ nữ tăng cao hơn và sự chênh lệch này trở nên rõ ràng. Xem xét trong vòng 5 năm
từ 2016 đến 2020, tỷ lệ thất nghiệp của phụ nữ tăng cao hơn so với nam giới. Các nghiên
cứu cho thấy rằng đại dịch đã gây ra những hậu quả nghiêm trọng hơn đối với việc làm
của phụ nữ so với nam giới, do đó làm tăng thêm vấn đề bất bình đẳng giới tại Việt Nam.
Mức lương trung bình ở Việt Nam
Tại Việt Nam, mức lương tối thiểu được quy định khác nhau cho 4 khu vực. Khu
vực I, bao gồm nội thành Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, có mức lương tối thiểu cao
nhất, là 4,2 triệu đồng (khoảng 190 đô la Mỹ). Khu vực IV, bao gồm các vùng nông thôn
và miền núi, có mức lương tối thiểu thấp nhất, là 3,07 triệu đồng (khoảng 132 đô la Mỹ).
Ngoài ra, người lao động đã qua đào tạo nghề phải được trả nhiều hơn ít nhất 7% so với
mức lương tối thiểu hiện hành.
Mức lương tháng trung bình ở Việt Nam đã tăng đáng kể kể từ năm 2014, từ 4 triệu
đồng lên khoảng 7 triệu đồng vào năm 2022. Sự gia tăng này chủ yếu là do nền kinh tế
Việt Nam đang phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, mức lương trung bình vẫn còn thấp so với
một số quốc gia khác trong khu vực.
Biểu đồ 4: Tiền lương trung bình hàng tháng ở Việt Nam, 2014–2022 (đơn vị: triệu
VND)
Nguồn: Trading Economics 2022
1.3. Thách thức đối với lực lượng lao động Việt Nam
Thị trường lao động Việt Nam đang đối mặt với những thách thức lớn, trong đó có
thiếu hụt nhân lực lành nghề và tác động của cách mạng công nghiệp 4.0.
Về thiếu hụt nhân lực lành nghề, trong quá khứ, lao động Việt Nam chủ yếu tập
trung ở các ngành sản xuất thâm dụng lao động, đòi hỏi kỹ năng thấp. Tuy nhiên, hiện
nay, tỷ lệ các ngành công nghiệp sử dụng công nghệ tiên tiến đang tăng lên nhanh chóng.
Điều này dẫn đến nhu cầu về nhân lực có kỹ năng cao ngày càng tăng. Tuy nhiên, cơ cấu
lao động đã qua đào tạo ở Việt Nam vẫn còn thiếu hụt, chưa đáp ứng được yêu cầu thực
tế.
Về tác động của cách mạng công nghiệp 4.0, cách mạng công nghiệp 4.0 đang làm
thay đổi sâu sắc phương thức sản xuất, kinh doanh và quản lý. Điều này dẫn đến nhu cầu
về nhân lực có kỹ năng mới, phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế số. Tuy nhiên, hệ thống
giáo dục và đào tạo ở Việt Nam vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu này.
Ngoài ra, thị trường lao động Việt Nam còn tồn tại một số vấn đề khác như dư thừa
lao động, chất lượng việc làm thấp, phát triển chưa đồng đều và mất cân đối giữa cung và
cầu lao động giữa các vùng, các ngành kinh tế. Các thể chế phúc lợi, bảo hiểm và trung
gian hỗ trợ thị trường lao động vẫn chưa hiệu quả, ít được bảo hiểm.
Để giải quyết những thách thức này, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan
quản lý nhà nước, doanh nghiệp và người lao động.Về phía cơ quan quản lý nhà nước,
cần có những chính sách và giải pháp phù hợp để nâng cao chất lượng đào tạo nghề, đáp
ứng nhu cầu của thị trường lao động. Về phía doanh nghiệp, cần đầu tư cho đào tạo và
phát triển nguồn nhân lực, tạo cơ hội cho người lao động nâng cao kỹ năng và trình độ.
Về phía người lao động, cần chủ động học hỏi, nâng cao kỹ năng và trình độ để đáp ứng
yêu cầu của thị trường lao động. Tăng cường hợp tác quốc tế về đào tạo nghề cũng là một
giải pháp quan trọng để giải quyết vấn đề thiếu hụt nhân lực lành nghề ở Việt Nam.
1.4. Diễn biến thị trường lao động Việt Nam trong Quý I năm 2023:
Thị trường lao động Việt Nam trong Quý I năm 2023 tiếp tục duy trì đà phục hồi,
với tỷ lệ thất nghiệp và tỷ lệ thiếu việc làm giảm so với cùng kỳ năm 2022. Mức lương
trung bình cũng tăng so với cùng kỳ năm 2022.
Tỷ lệ thất nghiệp trong Quý I năm 2023 là 2,28%, giảm 0,07 điểm phần trăm so
với cùng kỳ năm 2022. Đây là mức thất nghiệp thấp nhất trong 5 năm qua. Tỷ lệ thiếu
việc làm trong Quý I năm 2023 là 2,06%, giảm 0,12 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm
2022.
Mức lương trung bình trong Quý I năm 2023 là 7 triệu đồng, tăng 10,2% so với
cùng kỳ năm 2022. Mức lương trung bình của lao động nam là 7,4 triệu đồng, cao hơn
10,9% so với mức lương trung bình của lao động nữ.
Số lượng lao động có việc làm trong Quý I năm 2023 là 52,4 triệu người, tăng 1,6
triệu người so với cùng kỳ năm 2022. Số lượng lao động thất nghiệp trong Quý I năm
2023 là 1,07 triệu người, giảm 100 nghìn người so với cùng kỳ năm 2022. Số lượng lao
động thiếu việc làm trong Quý I năm 2023 là 1,04 triệu người, giảm 120 nghìn người so
với cùng kỳ năm 2022.
1.5.Kết luận
Kể từ khi thực hiện chính sách đổi mới vào năm 1986, Việt Nam đã chuyển đổi từ
nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Quá trình này đã dẫn đến sự mở rộng của khu vực kinh tế tư nhân và sự mở cửa
của nền kinh tế Việt Nam đối với thương mại quốc tế và đầu tư nước ngoài. Những thay
đổi này đã góp phần đáng kể vào tăng trưởng kinh tế.
Thị trường lao động của Việt Nam có một số lợi thế, bao gồm tỷ lệ tham gia cao, tỷ
lệ thất nghiệp thấp và mức lương trung bình tăng trưởng. Tuy nhiên, vẫn còn một số vấn
đề, bao gồm sự mất cân đối giữa cung và cầu lao động theo vùng địa lý, khu vực và
ngành kinh tế. Để giải quyết những vấn đề này, Việt Nam cần vượt qua nhiều trở ngại để
hoàn thành mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong thời đại công nghiệp 4.0.
Chính phủ Việt Nam đã triển khai một số biện pháp nhằm tái cơ cấu thị trường lao
động để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế quốc gia. Để đáp ứng nhu cầu thị trường, giáo
dục nghề nghiệp đã tập trung vào đào tạo kỹ thuật và đào tạo nghề. Kể từ năm 2018, số
lượng các trường cao đẳng, đại học và dạy nghề của Việt Nam đã tăng mạnh. Ngoài ra,
Chính phủ cũng đã ban hành các quyết định mới liên quan đến thị trường lao động, nhằm
xây dựng và phát triển yếu tố thị trường lao động, hỗ trợ huy động và phân bổ nguồn lực
hiệu quả. Điều này sẽ giúp lực lượng lao động Việt Nam có thể chia sẻ và đóng góp bình
đẳng vào thị trường ở mỗi vùng kinh tế xã hội. Cuối cùng, để đạt được sự phát triển bền
vững, Chính phủ đã tăng tuổi nghỉ hưu bắt đầu từ năm 2022 để đối phó với vấn đề già
hóa dân số.
CHƯƠNG II – THỰC TRẠNG LAO ĐỘNG KHU VỰC CHÍNH THỨC HIỆN
NAY
2.1. Khái niệm lao động khu vực chính thức
Lao động khu vực chính thức là một khái niệm không có định nghĩa nhất định, tùy
thuộc vào cách hiểu của từng người. Tuy nhiên, yhoong thường người ta thường coi lao
động khu vực chính thức là những người có hợp đồng lao động, được nhận lương hàng
tháng, đóng bảo hiểm xã hội và hưởng các quyền lợi an sinh xã hội.
Ở Việt Nam, lao động khu vực chính thức bao gồm những người làm việc trong các cơ
quan của Đảng, Nhà nước, các tổ chức xã hội, doanh nghiệp nhà nước, đơn vị sự nghiệp
công lập, quân đội, công an; cũng như những người có hợp đồng lao động hoặc làm việc
từ 3 tháng trở lên, có hợp đồng lao động, đóng bảo hiểm xã hội và hưởng an sinh xã hội
(Quốc hội 2019).
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, năm 2022 Việt Nam có 51,7 triệu người lao
động từ 15 tuổi trở lên (Tổng cục Thống kê 2022). Quý I năm 2023, con số này tăng lên
52,2 triệu người. Trong đó số người có việc làm là 51,1 triệu người (Tổng cục Thống kê
2023). Theo khảo sát của tổ chức: Chỉ số Nhân lực Toàn cầu (TWI) của Manpower Group
Solutions, Việt Nam có 38% là người lao động trong khu vực chính thức, làm việc lâu dài
và 62% lao động làm việc theo thời vụ (Lan Anh 2018). Vậy là đến đầu năm 2023, Việt
Nam có khoảng 19 triệu người lao động trong khu vực chính thức. Trong số đó có gần 2
triệu lao động thuộc cán bộ công chức, viên chức, người lao động trong khu vực công
được trả lương từ ngân sách nhà nước (Luân Dũng 2022). Đến hết tháng 9.2022, Việt
Nam có hơn 17 triệu người tham gia bảo hiểm xã hội (Anh Thư 2022). Những số liệu trên
cho thấy, phần lớn lao động tham gia bảo hiểm xã hội là lao động trong khu vực chính
thức.
Khu vực chính thức ở Việt Nam bao gồm những người làm việc trong các cơ quan
của Đảng, Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị xã hội, doanh nghiệp nhà
nước, đơn vị sự nghiệp công lập. Đây là khu vực lao động có đặc điểm riêng và luôn
được Đảng và Nhà nước quan tâm. Hội nghị lần thứ ba BCHTW Đảng (khoá VIII) đã
nhấn mạnh vai trò của cán bộ trong chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và
xây dựng Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh. Hội
nghị khẳng định: “Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với
vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng
Đảng” (Ban Chấp hành Trung ương 1997).
Do đó, khu vực lao động chính thức có phần lớn là những người có lập trường tư
tưởng vững vàng, giỏi chuyên môn, nghiệp vụ, có phẩm chất đạo đức, tư cách tốt. Họ có
tinh thần yêu nước sâu sắc, tận tụy phục vụ nhân dân, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội. Họ đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ, nghiệp vụ theo tiêu chuẩn. Trong số
đó, có một số người làm việc khoa học tâm huyết, say mê nghiên cứu, có nhiều đóng góp
tích cực cho cơ quan, đơn vị, hoàn thành tốt chức trách nhiệm vụ được giao.
2.2. Những thách thức đối với lao động ở khu vực chính thức
Hiện nay, mặc dù nền kinh tế Việt Nam đang phát triển mạnh mẽ, tuy nhiên, tỷ lệ
lao động khu vực chính thức vẫn còn thấp. Nguyên nhân chính là do trình độ dân trí và
kỹ năng của người lao động còn hạn chế, hệ thống giáo dục và đào tạo chưa đáp ứng
được yêu cầu của thị trường lao động và chính sách, pháp luật về lao động cũng còn chưa
đồng bộ và hiệu quả. Ngoài ra, trình độ quản lý của doanh nghiệp cũng còn yếu. Tác
động của tình trạng này là hạn chế nguồn lực lao động chất lượng cao cho phát triển kinh
tế-xã hội, tăng áp lực lên khu vực phi chính thức, tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh
và tăng nguy cơ bất ổn xã hội.
Ngoài ra, lao động khu vực chính thức chủ yếu tập trung ở khu vực thành thị, do
các doanh nghiệp, cơ quan, đơn vị ở khu vực này có điều kiện kinh tế-xã hội phát triển
hơn, thu hút nhiều lao động hơn. Trong khi đó, cơ hội việc làm ở khu vực nông thôn còn
hạn chế. Tác động của tình trạng này là tạo ra sự bất bình đẳng về cơ hội việc làm giữa
khu vực thành thị và khu vực nông thôn, gây áp lực lên thị trường lao động ở khu vực
thành thị.
Cuối cùng, cơ cấu lao động khu vực chính thức còn chưa hợp lý, thiếu lao động có
kỹ năng, trình độ cao. Nguyên nhân chính là trình độ đào tạo của người lao động chưa
đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động và chính sách, pháp luật về lao động chưa
khuyến khích doanh nghiệp đào tạo lao động. Tác động của tình trạng này là hạn chế
năng suất lao động, hiệu quả sản xuất, kinh doanh và tăng chi phí đào tạo, bồi dưỡng của
doanh nghiệp. Việc cải thiện tình trạng này là điều cần thiết để nâng cao chất lượng lao
động và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
2.3. Kết luận
Lao động khu vực chính thức là một phần quan trọng của lực lượng lao động Việt
Nam. Họ là những người có vai trò chủ chốt trong sự phát triển của đất nước và được
Đảng và Nhà nước coi trọng. Hầu hết lao động khu vực chính thức đều có tư tưởng ổn
định, có năng lực chuyên môn cao, có hợp đồng lao động, đóng bảo hiểm xã hội và
hưởng các quyền lợi an sinh xã hội. Tuy nhiên, lao động khu vực chính thức cũng đang
phải đối mặt với nhiều khó khăn và thử thách trong bối cảnh mới, bao gồm: chất lượng
lao động không phù hợp với nhu cầu, cơ cấu lao động không hợp lý; mức lương thấp và
cơ hội thăng tiến ít. Do đó, Chính phủ Việt Nam cần có những biện pháp cụ thể để giải
quyết các vấn đề này, như: hoàn thiện chính sách giáo dục, đào tạo; điều chỉnh cơ cấu tổ
chức, bộ máy; cải cách chính sách tiền lương và đãi ngộ cho nhân tài và lao động khu vực
chính thức.
CHƯƠNG III: THỰC TRẠNG LAO ĐỘNG KHU VỰC PHI CHÍNH THỨC TẠI
VIỆT NAM
Việt Nam đang ở trong thời kỳ dân số vàng khi mà dân số trong độ tuổi lao động cao gấp
2 lần dân số ngoài độ tuổi lao động. Hằng năm, dân số trong độ tuổi lao động tham gia thị
trường lao động chiếm tỷ trọng khá cao, khoảng trên 75%. Mặc dù vậy, phần đông người lao
động của Việt Nam vẫn còn phải đang chấp nhận làm các công việc dễ tổn thương, không được
đóng bảo hiểm xã hội, không có hợp đồng lao động. Đó là việc làm phi chính thức.
Đối với một quốc gia dân số đông và nền kinh tế phát triển thấp như Việt Nam, việc
làm phi chính thức một phần không thể thiếu góp phần quan trọng trong quá trình giải quyết
việc làm tạo thu nhập cho người lao động. Mặc dù tình trạng phi chính thức có tác động khá
tiêu cực đến
thu nhập, an toàn và sức khỏe của người lao động nhưng đôi khi họ vẫn buộc phải làm công việc
phi chính thức như một lựa chọn không thể khác để đảm bảo cuộc sống mưu sinh trong bối
cảnh các điều kiện phúc lợi hội còn hạn chế hoặc thu nhập từ công việc chính thức không
đảm bảo.
Nhiều năm qua, Chính phủ Việt Nam đã nỗ lực để phát triển kinh tế, giải bài toán chính
thức hóa lao động việc làm phi chính thức nhằm đảm bảo việc làm tử tế cho người lao động
nhưng tình trạng người lao động bị buộc phải làm các công việc phi chính thức, thiếu bền vững
nhiều năm qua vẫn chưa được cải thiện đáng kể, đặc biệt trong 2 năm vừa qua, 2020-2021, dưới
sự tác động mạnh của cơn bão đại dịch Covid 19.
3.1. QUY MÔ VÀ CƠ CẤU LAO ĐỘNG CÓ VIỆC LÀM PHI CHÍNH THỨC
Năm 2021, Việt Nam có 33,6 triệu lao động có việc làm phi chính thức (hay lao động phi
chính thức), chiếm tới gần 70% tổng số lao động có việc làm. So với một số nước trong khu vực
như Campuchia, In-đô-nê-xi-a, Mi-an-ma, tỷ lệ lao động phi chính thức của Việt Nam thấp hơn,
tuy nhiên so với nhiều nước trên thế giới tỷ lệ này của Việt Nam vẫn mức cao. Mặc dù, lao
động phi chính thức tồn tại như một tất yếu khách quan, là bệ đỡ của thị trường lao động khi nền
kinh tế gặp khủng hoảng, tuy nhiên muốn một nền kinh tế phát triển bền vững không thể
dựa vào thị trường lao động với tỷ lệ phi chính thức cao. Chính vì vậy, Việt Nam và các quốc gia
khác đã và đang tìm cách để giảm thiểu tỷ lệ này.
Hầu hết lao động phi chính thức đang làm việc ở khu vực phi chính thức (chiếm 81,8%).
Số lao động phi chính thức làm việc ở khu vực khác chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ, 17,8% ở khu vực
chính thức và 0,4% ở khu vực hộ gia đình.
Trong khu vực chính thức, mặc dù số lao động phi chính thức ở trong khu vực này chỉ chiếm
17,8% tống số lao động phi chính thức, thấp hơn rất nhiều so với khu vực phi chính thức, tuy
nhiên với số lượng là gần 6 nghìn lao động phi chính thức trong khu vực này, trong đó 47,8%
nằm trong hộ sản xuất kinh doanh cá thể và 36,9% là trong các doanh nghiệp tư nhân vẫn là vấn
đề cần phải được các cơ quan chức năng tiếp tục quan tâm và lưu ý.
Hình 1: Lao động phi chính thức làm việc tại các khu vực chính thức,phi chính thức và hộ gia
đình, năm 2021 (nghìn người)
Kết quả điều tra lao động việc làm năm 2021 cho thấy, toàn quốc có 24,4 triệu lao động phi
chính thức làm việc ở khu vực nông thôn, chiếm 72,5% tổng lao động phi chính thức. Con số
này ở khu vực thành thị thấp hơn rất nhiều, tương ứng 9,2 triệu người, chiếm 27,5%.(biểu đồ
tròn 1) Điều này một phần là do dân số ở nông thôn chiếm tỷ trọng cao hơn dân số thành thị làm
cho số người làm việc ở khu vực nông thôn cao hơn ở khu vực thành thị (63,7% so với 36,3%),
một phần khác là do tỷ lệ lao động có việc làm phi chính thức ở nông thôn cao hơn rất nhiều so
với ở khu vực thành thị. ( )(biểu đồ tròn 2) kèm hình 2
Hình 2: Cơ cấu và tỷ lệ lao động phi chính thức ở khu vực thành thị và nông thôn
Lao động phi chính thức phân bố chủ yếu tại 3 vùng kinh tế xã hội có quy mô dân số lớn
của cả nước là Vùng Đồng bằng sông Hồng, vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung,
Đồng bằng sông Cửu Long, chiếm 64,8% tổng lao động phi chính thức toàn quốc.
Đáng chú ý mặc dù quy mô lao động ở Vùng Tây Nguyên thấp nhất trong cả nước (với khoảng 3
triệu người) nhưng vùng này lại sử dụng lao động phi chính thức cao nhất trong cả nước. Tỷ lệ
lao động làm phi chính thức ở Tây Nguyên là hơn 85%, cao hơn vùng đứng thứ hai là Đồng
bằng sông Cửu Long đến 6 điểm phần trăm. Điều này có nghĩa là hầu hết lao động ở vùng Tây
Nguyên chưa được bảo vệ bởi các quy định của luật lao động, của các chính sách bảo hiểm và
phúc lợi xã hội dành cho người lao động. Trong 6 vùng kinh tế xã hội, Đông Nam Bộ là vùng có
tỷ lệ lao động phi chính thức thấp nhất, với 48,6%, thấp hơn nhiều so với vùng có thứ hạng liền
kề là vùng Đồng bằng sông Hồng, 60,5%. Sự phát triển kinh tế sôi động, tập trung nhiều khu
công nghiệp liên hợp, khu chế xuất của các doanh nghiệp lớn hoặc doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài tại Vùng Đông Nam bộ đã tạo điều kiện tốt hơn cho thị trường lao động nơi đây, góp
phần giảm việc làm phi chính thức của người lao động ở vùng này. (biểu 5)
Năm 2021, có đến 42 trong số 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có tỷ lệ lao động
phi chính thức trên 70%, thậm chí còn trên 80% (26 tỉnh). Theo báo cáo “Nền kinh tế phi chính
thức và việc làm bền vững: hướng dẫn nguồn chính sách hỗ trợ quá trình chuyển đổi sang phi
chính thức”, của ILO thì có sự trùng lặp thường xuyên giữa phi chính thức và nghèo đói. Thu
nhập thấp và tiếp cận hạn chế với các tổ chức công khiến người nghèo không đầu tư vào kỹ
năng có thể thúc đẩy khả năng có việc làm, năng suất của họ và đảm bảo bảo vệ họ khỏi những
cú sốc và rủi ro thu nhập. Thiếu giáo dục và công nhận về kỹ năng hạn chế trong khu vực kinh tế
phi chính thức cũng ngăn người dân nghèo tham gia vào khu vực kinh tế chính thức, trong khi
sự khan hiếm các cơ hội sinh kế ở các vùng nông thôn thường đẩy những người nhập cư vào làm
việc phi chính thức tại các khu vực đô thị và các nước phát triển. Sự phân biệt đối xử trên thị
trường lao động của các nhóm dễ bị tổn thương như phụ nữ nghèo, người tàn tật, người dân tộc,
người bị HIV/ AIDS thường đẩy các gia đình và cộng đồng vào đói nghèo và sinh tồn qua công
việc phi chính thức.
Điều này khá đúng với Việt Nam khi quan sát cho thấy, dường như có mối liên hệ thuận
chiều giữa tỷ lệ lao động phi chính thức với tỷ trọng lao động làm việc trong khu vực NLNTS và
tỷ lệ hộ nghèo của các tỉnh. Những tỉnh có tỷ lệ hộ nghèo cao với tỷ lệ lao động làm việc trong
khu vực NLNTS cao thường sẽ có tỷ lệ lao động phi chính thức cao. Ví dụ như Điện Biên có tỷ
lệ lao động phi chính thức là 85,4%, lao động trong NLNTS của tỉnh này chiếm tới 70,4% và tỷ
lệ hộ nghèo của tỉnh là 34,5%. Ngược lại, ở một số tỉnh phát triển năng động, tập trung nhiều
khu công nghiệp, khu chế xuất có tỷ trọng lao động trong nông nghiệp nhỏ thì số lao động có
việc làm phi chính thức cũng chiếm tỷ trọng thấp. Điển hình là Thành phố Hồ Chí Minh với tỷ
lệ lao động trong NLNTS chỉ thấp hơn 15% và tỷ lệ hộ nghèo chỉ chưa đến 0,3% thì tỷ lệ lao
động phi chính thức lần lượt là 48,0%.(Hình 3)
Hơn hai phần ba số lao động phi chính thức (70%) có độ tuổi từ 25-59, tương đương với
sự phân bố độ tuổi của lao động có việc làm chung. Nếu xét riêng theo từng nhóm 5 độ tuổi, ở
nhóm dân số từ 15 đến 19 tuổi, tỷ lệ lao động phi chính thức khá cao, hơn 80%. Tỷ lệ này giảm
mạnh ở nhóm tuổi 20 đến 24 với hơn 60% và bắt đáy ở nhóm tuổi 25-29, với gần 55%. Sau độ
tuổi 29, tỷ lệ phi chính thức của lao động bắt đầu tăng lên và tăng mạnh từ nhóm tuổi 45-49 trở
đi. Tỷ lệ này đặc biệt cao ở nhóm lao động từ 60 tuổi trở lên. Hơn 90% lao động ở độ tuổi từ 60
trở lên có việc làm phi chính thức. Rõ ràng, có mối tương quan khá chặt chẽ giữa độ tuổi và tình
trạng việc làm của người lao động. Người lao động ở độ tuổi quá trẻ (từ 15 – 19 tuổi) hoặc đã
qua độ tuổi lao động (60+) thường phải chấp nhận làm các công việc thiếu bền vững, dễ bị tổn
thương hơn lao động ở các nhóm tuổi khác. Điều đáng lưu tâm nhất chính là sự tăng mạnh về tỷ
lệ lao động phi chính thức ở nhóm tuổi từ 30 trở lên, nhóm tuổi trung niên vẫn được coi là có
đóng góp chủ yếu cho nền kinh tế. Xu hướng này cũng quan sát thấy qua nhiều năm. Có giả
thiết cho rằng tình trạng này là hệ lụy của việc sa thải lao động từ 30 tuổi trở lên của một số
doanh nghiệp. Tuy nhiên, các bằng chứng về vấn đề này vẫn chưa rõ và cần có thêm nhiều khảo
sát chuyên sâu để tìm hiểu kỹ hơn thực trạng đáng lưu tâm này.(hình 4)
Năm 2017, theo kết quả khảo sát tại 64 doanh nghiệp của Viện Công nhân - Công đoàn
(Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam), nhiều lao động chỉ làm việc 6-7 năm rồi nghỉ. Độ tuổi của
các lao động tại thời điểm nghỉ việc thường từ 31-32 và rất ít người làm đến năm 35 tuổi. Đối
tượng này chủ yếu là người lao động làm việc tại các doanh nghiệp thâm dụng lao động như dệt
may, da giày, có công việc giản đơn, không đòi hỏi cao về trình độ kỹ thuật. Kết quả khảo sát
cũng cho thấy có nơi, 80% phụ nữ trên 35 tuổi làm việc trong các KCN bị buộc phải nghỉ việc
với lý do chính là cơ cấu lại sản xuất hoặc tự nghỉ vì không chịu được điều kiện làm việc khắc
nghiệt. Sau khi bị buộc phải nghỉ việc, đa số người lđ chuyển sang làm công việc tự do, buôn
bán, nội trợ, làm ruộng, bán hàng rong. Nguồn: tạp chí Bảo hiểm Xã hội Việt Nam, kỳ 02 -
tháng 9/2017.
Người lao động được đào tạo chuyên môn kỹ thuật có nhiều ưu thế hơn và có nhiều cơ
hội được làm các công việc chính thức hơn so với người không được đào tạo hoặc đào tạo ở
trình độ thấp. Phần lớn (hơn 85%) lao động phi chính thức là những người không được đào tạo
chuyên môn kỹ thuật, cao gấp 2 lần tỷ trọng chưa qua đào tạo của lao động chính thức, gần 45%.
Trình độ càng cao thì tỷ lệ lao động phi chính thức càng giảm, xu hướng này quan sát được qua
nhiều năm và ở cả hai giới, nam và nữ. Điều này dễ lý giải bởi lao động không có trình độ
chuyên môn kỹ thuật sẽ khó có thể tiếp cận với các công việc yêu cầu có chuyên môn, tay nghề.
Họ buộc phải chấp nhận làm các công việc không đòi hỏi chuyên môn kỹ thuật, mang tính tạm
thời và không được bảo vệ.
Nông, lâm nghiệp và thủy sản; Công nghiệp chế biến chế tạo; Xây dựng và Bán buôn và
bán lẻ; sửa chữa ô tô, mô tô xe máy là các ngành thu hút hầu hết lao động phi chính thức của cả
nước. Đến hơn 80% lao động phi chính thức của Việt Nam đang làm việc ở các ngành này.
(hình 6) Có sự khác biệt trong phân bố lao động phi chính thức giữa khu vực thành thị và nông
thôn. Ở khu vực nông thôn, có đến hơn 50% lao động phi chính thức làm trong ngành NLNTS,
ngược lại ở khu vực thành thị, lao động phi chính thức tập trung chủ yếu ở khu vực dịch vụ, điều
này do sự khác biệt về cơ cấu lao động giữa hai khu vực này.
Quan sát riêng từng ngành có thể thấy, rất nhiều ngành có tỷ lệ lao động phi chính thức
cao như ngành NLNTS; Xây dựng; Hoạt động làm thuê các công việc trong các hộ gia đình.
Hầu hết (hơn 90%) lao động làm việc trong các ngành này đều là lao động phi chính thức. Riêng
ngành NLNTS, con số này còn đạt mức 99%. Nghĩa là người lao động nếu làm việc trong các
ngành này, sẽ phải làm các công việc dễ bị tổn thương và không được bảo trợ bởi các chính sách
pháp luật về lao động.(hình 7)
Lao động phi chính thức thường làm các công việc giản đơn, ít đòi hỏi trình độ kỹ năng
hoặc trình độ chuyên môn kỹ thuật. Khoảng hơn 35% lao động phi chính thức làm nghề giản
đơn, chiếm tỷ trọng cao nhất trong 9 nhóm nghề có sự tham gia của lao động phi chính thức. Số
lao động phi chính thức làm các công việc có trình độ cao (như Nhà chuyên môn kỹ thuật bậc
cao; nhà chuyên môn kỹ thuật bậc trung; nhân viên văn phòng) chỉ chiếm tỷ trọng rất thấp
khoảng gần 2%. Đặc điểm này hoàn toàn trái ngược với lao động chính thức. Đối với lao động
chính thức, công việc đòi hỏi trình độ quản lý, trình độ chuyên môn kỹ thuật cao nói trên thu hút
đến hơn 30% lao động nhóm này. (hình 8)
Có sự khác biệt đáng kể về khả năng ứng dụng công nghệ thông tin cho công việc của lao
động phi chính thức và chính thức. Tỷ lệ người lao động phi chính thức áp dụng công nghệ
thông tin khi làm việc chỉ chiếm 7,0%. Trong khi đó, tỷ lệ này của lao động chính thức lên đến
40% (gấp 5,7 lần so với lao động phi chính thức).
3.2. THU NHẬP CỦA LAO ĐỘNG CÓ VIỆC LÀM PHI CHÍNH THỨC
Thu nhập từ công việc chính của lao động phi chính thức trong năm 2021 là 4,4 triệu đồng, chỉ
bằng một nửa thu nhập của lao động chính thức (8,2 triệu đồng). Nam giới dù làm công việc
chính thức hay phi chính thức thì đều có thu nhập cao hơn nữ giới trong cùng nhóm khoảng 2
triệu đồng.
Gần một nửa (47,0%) số người lao động phi chính thức có mức thu nhập thấp hơn mức lương
tối thiểu vùng. Con số này ở lao động chính thức chỉ là 8,0%. Rõ ràng, so với lao động chính
thức, lao động phi chính thức không chỉ chịu nhiều thiệt thòi hơn do phải làm công việc bấp
bênh, tạm thời, không được bảo trợ xã hội mà còn khó có thể đảm bảo mức sống tối thiểu cho
bản thân và gia đình. Tình trạng này ở nữ giới còn đáng quan ngại hơn. Hơn 61% lao động nữ có
việc làm phi chính thức nhận mức thu nhập thấp hơn mức lương tối thiểu vùng cao gần gấp 2 lần
tỷ lệ này ở nam giới. Chủ trương chính thức hóa lao động phi chính thức có thể là một trong
những giải pháp tốt để giảm thiểu tỷ lệ lao động có mức thu nhập thấp.
MỘT SỐ Ý KIẾN CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG CÓ VIỆC LÀM PHI CHÍNH THỨC VỀ MỨC
LƯƠNG:
“ Công việc hiện tại của tôi chỉ đáp ứng được khoảng 50% nhu cầu cuộc sống”- Lê Văn Đô,
nam 47 tuổi, Bán đậu phụ tại Lĩnh Nam, Hà Nội.
“ Công việc hiện tại chỉ đáp ứng khoảng 50% - 60% cuộc sống, tôi đi chợ 1 buổi còn 1 buổi phải
làm nông, trồng rau, chăn nuôi.”- Lê Thị Hồng, nữ 48 tuổi, Bán rau tại chợ Điện Ngọc, Điện
Bàn, Quảng Nam.
Thu nhập bình quân của lao động phi chính thức làm việc trong khu vực NLNTS là thấp nhất,
với 3,3 triệu đồng/tháng, thấp hơn rất nhiều so với các ngành khác (dịch vụ: 5,1 triệu
đồng/tháng; công nghiệp: 5,2 triệu đồng/tháng và xây dựng: 5,9 triệu đồng/tháng). Thứ hạng về
thu nhập của lao động phi chính thức làm việc trong các ngành kinh tế không có sự khác biệt
giữa nam và nữ. Tuy nhiên, ở tất cả các ngành, thu nhập bình quân của lao động phi chính thức
nam luôn cao hơn nữ. Mức chênh lệch cao nhất ghi nhận được ở ngành NLNTS, thu nhập của
nam cao gấp 2,5 lần thu nhập của nữ. Ở các ngành khác, mức chênh lệch này chỉ xấp xỉ 1,5 lần.
(Hình 9)
3.3. SỐ GIỜ LÀM VIỆC
So với lao động chính thức, lao động phi chính thức có thời gian làm việc trung bình ít hơn.
Bình quân mỗi tuần, lao động phi chính thức giành 37,5 giờ để làm việc trong khi đó lao động
chính thức giành đến 42,8 giờ để làm việc. Số giờ làm việc trung bình của lao động phi chính
thức đều cao hơn từ 2 giờ chở lên đối với nhóm lao động là chủ cơ sở, lao động tự làm.
Số giờ làm việc thấp cộng với thu nhập không được đảm bảo (44,5% lao động phi chính thức
có mức thu nhập thấp hơn lương tối thiểu vùng) khiến tỷ lệ thiếu việc làm theo giờ của lao động
phi chính thức cao hơn rất nhiều so với lao động chính thức. Có 3,6% người lao động phi chính
thức làm việc dưới 35 giờ một tuần cho biết họ có nhu cầu làm thêm giờ để có thêm thu nhập.
Trong khi đó, tỷ lệ thiếu việc làm của lao động chính thức là 1,6%, thấp hơn 2 điểm phần trăm
so với tỷ lệ này ở lao động phi chính thức.
Có sự khác biệt lớn về số giờ làm việc bình quân của người lao động phi chính thức theo vị thế
việc làm. Chủ cơ sở và người làm công hưởng lương có số giờ làm việc bình quân trong tuần
cao nhất, khoảng gần 42 giờ/tuần, cao hơn 10 giờ/tuần so với người lao động tự làm, lao động
gia đình và xã viên hợp tác xã. Sự khác biệt này không phát hiện thấy ở nhóm lao động chính
thức.
Theo Bộ luật Lao động, số giờ làm việc tối đa của người lao động trong 1 tuần không quá 48
giờ, tuy nhiên tỷ lệ lao động làm quá số giờ theo luật này còn khá cao, đặc biệt ở nhóm lao động
làm công hưởng lương phí chính thức. Năm 2021, có 35,6% lao động làm công hưởng lương phi
chính thức làm việc vượt quá 48 giờ/tuần, cao hơn 10,1 điểm phần so với lao động làm công
hưởng lương chính thức (25,5%). Như vậy, mặc dù chúng ta đã có điều khoản xử phạt về vấn đề
này tuy nhiên tình trạng này dường như vẫn không được cải thiện.
CHƯƠNG IV: VIỆC LÀM Ở NÔNG THÔN VÀ TÌNH TRẠNG DI CƯ RA THÀNH
THỊ
Di hiện tượng di chuyển của con người từ nơi này đến nơi khác để tìm kiếm
cơ hội và cuộc sống tốt hơn. Có nhiều loại hình di cư như di cư trong nước, di cư quốc tế,
di cư định cư, di cư tạm trú và di cư tị nạn. Trong bối cảnh Việt Nam, di cư trong nước
đô thị hóa đang trở thành một vấn đề quan trọng.
Tỷ lệ di trong nước đang ngày càng tăng, chủ yếu từ nông thôn lên thành thị.
Điều này đồng nghĩa với việc tỷ lệ đô thị hóa đang cao các thành phố lớn đang phát
triển mạnh mẽ, trong khi các thành phố nhỏ trung bình cũng đang phát triển. Thiếu
việc làm và thu nhập thấp ở nông thôn là một trong những yếu tố đẩy người dân di cư lên
thành thị, trong khi cơ hội việc làm và thu nhập cao ở thành thị là yếu tố kéo.
Tuy nhiên, di cư cũng gây ra một số tác động tiêu cực như áp lực lên các thành phố
lớn, gây ra bất bình đẳng trong xã hội và ảnh hưởng đến môi trường. Vì vậy, để quản lý di
cư trong nước đô thị hóa Việt Nam, chúng ta cần đưa ra các giải pháp như tăng đầu
vào các vùng nông thôn, tạo ra các công ăn việc làm cho người dân, cải thiện môi
trường sống và giúp đỡ người dân tiếp cận các dịch vụ xã hội tốt hơn. Chúng ta cũng cần
xây dựng các chính sách hỗ trợ cho các thành phố nhỏ và trung bình phát triển, đồng thời
tạo ra các kế hoạch quản lý và phát triển đô thị hóa bền vững.
4.1. So sánh nông thôn thành thị Việt Nam tổng quan tình hình di trong
nước
Nguồn: Tổng cục Thống kê 2018 và Tổng điều tra dân số và nhà ở 2019
Từ khi Luật Giáo dục được ban hành vào năm 2005, các em nhỏ ở Việt Nam đều
hội tiếp cận giáo dục, đặc biệt là những em thuộc các dân tộc thiểu số và trẻ em khó khăn.
Nhà nước cũng đầu ngân sách quốc gia vào giáo dục cải cách hệ thống giáo dục
(theo Quốc hội Việt Nam 2005). Tỷ lệ biết chữ của trẻ em từ 15 tuổi trở lên đạt gần 100%
ở cả nông thôn và thành thị (theo Tổng cục Thống kê 2021). Tuy nhiên, tỷ lệ tiếp cận giáo
dục của trẻ em nam và trẻ em ở thành thị vẫn còn cao hơn. Ngoài ra, sự khác biệt về trình
độ học vấn giữa nông thôn thành thị còn được thể hiện qua Bảng 3. Dân số nông
thôn tốt nghiệp cao đẳng, đại học và trên đại học thấp hơn gần 4 lần so với dân số thành
thị.
Nguồn: VHLSS 2014
Chúng ta đều đồng ý rằng giáo dục đóng một vai trò quan trọng trong việc cung
cấp kiến thức và kỹ năng cần thiết để phát triển kinh tế - xã hội cho đất nước. Tuy nhiên,
khoảng cách về trình độ học vấn giữa người dân ở khu vực nông thôn và thành thị có thể
dẫn đến chênh lệch về thu nhập và việc làm của họ.
4.2. Sự khác biệt về thu nhập và việc làm
Nhiều đô thị ở Việt Nam được hưởng nhiều lợi thế về đặc điểm địa lý, cơ sở hạ
tầng và cụm công nghiệp, do đó đã trở thành trung tâm phát triển thu hút đầu tư nước
ngoài. Tuy nhiên, khu vực nông thôn thường kém phát triển hơn. Mặc dù dân số ở các đô
thị chỉ chiếm 25% dân số Việt Nam, nhưng lại đóng góp tới 70% vào sự phát triển kinh tế
quốc gia (Ngân hàng Thế giới 2004). Từ năm 2010, tỷ lệ dân số sống ở thành thị chỉ tăng
lên hơn 34%, trong khi phần lớn dân số vẫn sinh sống tại vùng nông thôn (UN Vietnam
2010). Sự tăng trưởng không đồng đều này tạo ra sự mất cân đối rõ rệt giữa thành thị và
nông thôn về thu nhập, cơ hội việc làm, giáo dục, y tế và cải thiện mức sống.
Theo Liên hợp quốc (UN Vietnam 2010), thu nhập bình quân của người dân thành
phố cao hơn gần gấp đôi so với người dân nông thôn. Dù cho thu nhập và điều kiện sống
của người dân khu vực nông thôn đã được cải thiện và thu nhập bình quân của họ tăng
đáng kể từ 75,8 triệu đồng lên gần 130 triệu đồng trong giai đoạn 2012-2017 (Đào Thế
Anh/Nguyễn Văn Bộ 2019), sự chênh lệch thu nhập giữa nông thôn và thành thị vẫn còn
tồn tại. Khảo sát cho thấy gần 8% người dân thành thị có thu nhập tối thiểu từ 30 triệu
đồng/tháng trở lên trong khi khoảng 2% người dân sống ở nông thôn có mức thu nhập
tương đương (Infocus Mekong 2020). Nói cách khác, vào năm 2020, những người sống ở
thành phố có thể kiếm được gấp đôi so với những người sống ở nông thôn.
Năm 2016-2019, nền kinh tế Việt Nam đạt tốc độ tăng trưởng bình quân
6.78%/năm. Thu nhập tăng từ 3.1 triệu đồng/tháng/người năm 2016 lên 4.2 triệu đồng
năm 2020, nhưng tốc độ tăng thu nhập của nhóm nghèo nhất luôn thấp hơn nhóm giàu
nhất. Giai đoạn này, lao động có việc làm trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp, thủy sản
giảm, nhưng tăng trong lĩnh vực công nghiệp, xây dựng và dịch vụ từ năm 2009 đến 2019
(Điều tra dân số năm 2019).
Tuy nhiên, tỷ lệ lao động qua đào tạo ở thành thị cao gấp 3 lần so với nông thôn
(Đặng Kim Khôi/Trần Công Thắng 2019). Năm 2016, lao động phi chính thức chiếm
59% ở khu vực thành thị và 35% ở khu vực nông thôn (Đặng Kim Khôi/Trần Công
Thắng 2019).
4.3. Tình hình di cư ở Việt Nam
Nền kinh tế Việt Nam đã có sự tăng trưởng đáng kể kể từ khi chính sách Đổi Mới được
triển khai vào những năm 1980. Việc cải cách các chính sách đã cho phép người dân Việt
Nam di chuyển đến các thành phố lớn, góp phần vào quá trình đô thị hóa. Hiện nay, dân
số đô thị đạt khoảng 39,4 triệu người, chiếm gần 40,9% tổng số dân trong cả nước (Tổng
điều tra dân số và nhà ở 2019). Theo Điều tra Di cư nội địa quốc gia năm 2015, tỷ lệ di
cư từ nông thôn đến thành thị chiếm gần một nửa số người di cư (49,8%). Ngược lại, di
cư từ thành thị đến nông thôn chỉ chiếm 2,9% tổng dòng di cư nội địa (TCTK/UNFPA
2016). Nghiên cứu cũng cho thấy rằng yếu tố hút của điểm đến là nguyên nhân chính dẫn
đến di cư từ nông thôn ra thành thị ở Việt Nam. Theo một nghiên cứu của Nguyen, Dang
và Liu năm 2019, quyết định di cư của người lao động được đưa ra để cải thiện cuộc sống
của họ.
Các thành phố như Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà Nẵng và một số tỉnh ở Đông
Nam Bộ đóng vai trò là trung tâm sản xuất (Bình Dương, Đồng Nai) đã và đang kéo
người dân ra khỏi các vùng nông thôn (Thanh/Sakata 2005; NguyễnHoàng/ McPeak
2010; Coxhead/Nguyễn/Vũ 2015). Theo Điều tra Di cư nội địa quốc gia năm 2015,
13,6% dân số Việt Nam di cư trong nước. Phần lớn trong số họ đến từ khu vực nông thôn
(79,1%) và các gia đình lớn với nhiều thành viên đi làm hơn có xu hướng di chuyển
thường xuyên hơn (Tổng cục Thống kê 2016). Do đó, tỷ lệ dân số thành thị (19,7%) cao
hơn so với nông thôn là 13,4% (Tổng cục Thống kê 2016).
Tổng cục Thống kê 2016 cũng chỉ ra rằng 36,2% di cư là nông thôn-thành thị, 31,6% là
thành thị-thành thị, 19,6% là nông thôn-nông thôn và 12,6% là thành thị-nông thôn trong
giai đoạn 2010-2015. Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019, lý do chính của việc
di cư là để có cơ hội việc làm (36,8%) và chuyển đến nơi ở hoặc đoàn tụ gia đình
(35,5%). Hầu hết người di cư tập trung ở vùng Đông Nam Bộ (20,3%), trong khi số lao
động di cư ở vùng Trung du và miền núi phía Bắc lại thấp nhất (Hình 4 và Hình 5).
4.3.1. Đặc điểm chính của người di cư tại Việt Nam
Phần lớn người di cư là người trẻ, trong độ tuổi từ 15 đến 39, chiếm 85% và tuổi
trung bình là 29,2. Tuy nhiên, phụ nữ thường nhập cư ở độ tuổi trẻ hơn. Người di cư
phổ biến nhất là dân tộc Kinh. Các dân tộc thiểu số thường sống ở vùng sâu, vùng xa
và miền núi, cách xa các thành phố lớn nên họ có xu hướng không thường xuyên di
chuyển do thiếu thông tin và chi phí di cư cao.
Tỷ lệ phụ nữ di cư trong độ tuổi 15–59 đã tăng lên, chiếm 52,4% tổng số.Các công
ty sản xuất hàng may mặc, giày dép, công nghiệp điện tử và chế biến thủy sản có xu
hướng tuyển dụng nhiều lao động nữ hơn nam. Khoảng 80% lao động sản xuất hàng
may mặc và điện tử là nữ.Người già thường bị bỏ lại phía sau vì hầu hết các thành
viên trong gia đình di cư để tìm kiếm cơ hội việc làm.
Để giảm tác động tiêu cực của đại dịch COVID-19, Chính phủ đã đưa ra nhiều
chương trình hỗ trợ, bao gồm gói tài khóa hỗ trợ doanh nghiệp, chương trình cho vay
lãi suất bằng 0 để doanh nghiệp trả lương cho người lao động, gói bảo trợ xã hội cho
các nhóm yếu thế, đồng thời hỗ trợ giảm giá điện, giảm lãi suất và gói tín dụng cho
các ngân hàng. Điều kiện sống và làm việc của người nhập cư trong nước khi chuyển
đến đô thị thường có nhiều thay đổi. Theo Tổng cục Thống kê năm 2016, 74,8%
người di cư trong độ tuổi từ 15–59 có việc làm. Hầu hết những người không làm việc
di cư với mục đích học tập. Nhiều lao động nữ di cư làm việc trong ngành may mặc
hoặc giúp việc gia đình hơn, và nam giới chủ yếu làm việc trong ngành xây dựng hoặc
lái xe taxi/xe ôm.
Hơn 30% người nhập cư gửi tiền về quê hàng năm, số tiền trung bình là 1.200 đô
la Mỹ và mức trung vị là 530 đô la Mỹ mỗi năm. Đông Nam Bộ, Đồng bằng sông
Hồng và Thành phố Hồ Chí Minh có tỷ lệ người nhập cư gửi tiền về cao nhất và là
những khu vực có tỷ lệ người nhập cư có việc làm cao nhất.
4.3.2. Sự Thay Đổi Của Luồng Di Cư Sau Đại Dịch COVID-19
Các thông tin và số liệu thống kê được thu thập trước đại dịch COVID-19 cho thấy
tình hình di cư. Tuy nhiên, dịch bệnh đã tác động đến luồng di cư, và một nghiên cứu kéo
dài 7 tháng từ tháng 3 đến tháng 9 năm 2022 đã được thực hiện để điều tra tác động của
COVID-19 đối với quyền lao động của người di cư trong nước làm việc trong các lĩnh
vực sản xuất như may mặc, giày dép và công nghiệp điện tử. Trong đại dịch COVID-19
lần thứ tư tại Việt Nam, lao động di cư trong nước bị ảnh hưởng nặng nề và nhiều người
phải trở về quê hương, gây ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế. Các chuyên gia dự đoán
rằng những người di cư sẽ dè dặt hơn với việc quay trở lại làm việc, đặc biệt là trong
những ngành sản xuất quan trọng, do họ đã trải qua những tác động về thể chất và tinh
thần trong thời gian bị phong tỏa nghiêm ngặt và cấm đi lại.
Để hạn chế tác động tiêu cực của đại dịch COVID-19, Chính phủ Việt Nam đã đưa
ra một số chương trình, bao gồm gói tài khóa hỗ trợ doanh nghiệp, chương trình cho vay
lãi suất bằng 0 để doanh nghiệp trả lương cho người lao động, gói bảo trợ xã hội cho các
nhóm yếu thế, đồng thời hỗ trợ giảm giá điện, giảm lãi suất và gói tín dụng cho các ngân
hàng. Các doanh nghiệp cần phối hợp chặt chẽ với chính phủ và các bên liên quan khác
để bảo vệ người lao động Việt Nam và đảm bảo lợi ích và hạnh phúc bền vững cho họ.
Trong bối cảnh đó, việc phục hồi kinh tế xã hội ở Việt Nam, đặc biệt là ở các khu vực đô
thị, sẽ diễn ra nhanh chóng để đóng góp cho GDP quốc gia và phát triển kinh tế xã hội.
4.4. Kết Luận
Tổng kết lại, có thể thấy rằng thiếu việc làm ở khu vực nông thôn là một trong
những nguyên nhân gây ra hiện tượng di cư đến thành thị. Việc người lao động nhập cư
tìm kiếm cơ hội việc làm tốt hơn, mong muốn cải thiện thu nhập và học vấn tại các thành
phố lớn đã đem lại cả thuận lợi và khó khăn cho quá trình đô thị hóa. Mặt khác, việc quản
lý sự di chuyển của con người tại Việt Nam đang phát triển là một trong những thách
thức lớn đối với các khu vực tiếp nhận, đặc biệt là ở các thành phố đông đúc như Hà Nội
và TP. Hồ Chí Minh. Điều này đặt ra nhiều thách thức cho chính quyền và các cơ quan
chức năng ở cấp địa phương và quốc gia, đặc biệt là trong việc cung cấp các dịch vụ và
cơ sở hạ tầng đô thị cần thiết để đáp ứng nhu cầu và mong đợi của người dân.
CHƯƠNG V: PHỤ NỮ TRONG THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG VIỆT NAM –
NHỮNG THÁCH THỨC VÀ KHÓ KHĂN
5.1.Thị trường lao động Việt Nam: Nhiều cơ hội nhưng phụ nữ vẫn chịu nhiều thiệt thòi
Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu trong phát triển kinh tế - xã hội, trong đó có
thị trường lao động. Tuy nhiên, phụ nữ Việt Nam vẫn phải đối mặt với nhiều rào cản và
khó khăn trong thị trường lao động.
Thời kỳ đổi mới, thị trường lao động Việt Nam có nhiều biến động, dẫn đến tình
trạng mất cân bằng và bất ổn. Phụ nữ là đối tượng chịu tác động tiêu cực đầu tiên, với tỷ
lệ thất nghiệp cao hơn nam giới và thu nhập thấp hơn.
Việt Nam cam kết bình đẳng giới, nhưng trong thực tế, việc thực thi các chính sách
bình đẳng giới vẫn còn nhiều hạn chế. Phụ nữ vẫn phải chịu phân biệt đối xử trong tuyển
dụng, thăng tiến và trả lương. Họ cũng phải dành nhiều thời gian hơn cho công việc gia
đình, khiến họ có ít thời gian và cơ hội tham gia thị trường lao động.Để giải quyết những
thách thức này, Việt Nam cần tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lý và chính sách, đồng
thời tăng cường tuyên truyền, nâng cao nhận thức về bình đẳng giới. Cần có các chính
sách hỗ trợ phụ nữ tham gia thị trường lao động, xóa bỏ phân biệt đối xử và tạo điều kiện
cho phụ nữ cân bằng giữa công việc và gia đình.
Thị trường lao động Việt Nam có nhiều tiềm năng và cơ hội cho phụ nữ. Tuy
nhiên, để phụ nữ có thể phát huy hết tiềm năng của mình, cần có sự nỗ lực của cả xã hội
trong việc thúc đẩy bình đẳng giới và tạo điều kiện thuận lợi cho phụ nữ tham gia thị
trường lao động.
5.2. Bất bình đẳng, phân biệt giới tính còn tồn tại
Năm 2019 có tới 70.9% phụ nữ Việt Nam trong độ tuổi lao động tham gia lực
lượng lao động, trong khi số liệu toàn cầu chỉ là 47.2%, và ở khu vực Châu-Thái Bình
Dương thậm chí còn thấp hơn, là 43.9% (Vietnam+ 2021).Có nhiều nguyên nhân dẫn đến
tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của phụ nữ Việt Nam cao hơn so với thế giới và khu
vực. Một số nguyên nhân chính bao gồm: Trong những năm gần đây, Việt Nam đã đạt
được nhiều thành tựu trong phát triển kinh tế - xã hội. Điều này đã tạo ra nhiều cơ hội
việc làm cho cả nam và nữ. Việt Nam đã có nhiều chính sách thúc đẩy bình đẳng giới,
trong đó có bình đẳng trong lao động. Các chính sách này đã góp phần nâng cao nhận
thức về bình đẳng giới và tạo điều kiện cho phụ nữ tham gia thị trường lao động. Xã hội
Việt Nam đang có những thay đổi tích cực về văn hóa và xã hội. Phụ nữ ngày càng được
trao quyền nhiều hơn và có nhiều cơ hội để phát triển. Tuy nhiên dù tỷ lệ tham gia lực
lượng lao động của phụ nữ Việt Nam cao hơn so với thế giới và khu vực, nhưng phụ nữ
Việt Nam vẫn phải đối mặt với một số thách thức trong thị trường lao động, như: Phụ nữ
vẫn phải đối mặt với phân biệt giới trong tuyển dụng, thăng tiến và trả lương. Phụ nữ
thường phải dành nhiều thời gian hơn cho công việc gia đình, khiến họ có ít thời gian và
cơ hội tham gia thị trường lao động. Phụ nữ vẫn chưa được tiếp cận đầy đủ với các cơ hội
việc làm chất lượng cao.
Trong ba năm gần đây, cơ cấu lao động Việt Nam đã có những bước tiến quan
trọng trong việc nâng cao tỷ lệ phụ nữ làm công hưởng lương, từ 37.9% năm 2017 lên
43.4% năm 2021. Đây là một kết quả khả quan cho việc thực hiện Chiến lược quốc gia về
bình đẳng giới giai đoạn 2021-2030, với mục tiêu đạt 50% vào năm 2025 và khoảng 60%
vào năm 2030. Đồng thời, tỷ trọng lao động nữ trong lĩnh vực nông nghiệp cũng đã giảm
từ 35.9% năm 2019 xuống còn 28.7% năm 2021, gần đạt chỉ tiêu của Chiến lược là dưới
30% vào năm 2025 và dưới 25% vào năm 2030. Những con số này cho thấy sự chuyển
dịch tích cực của cơ cấu lao động Việt Nam theo định hướng bình đẳng giới, nhưng vẫn
còn tồn tại những bất bình đẳng giữa hai giới trong thị trường lao động.
Một sự khác biệt giữa nam và nữ trong thị trường lao động là một vấn đề cần được
chú ý. Theo số liệu năm 2019, chỉ có 43% phụ nữ có việc làm là lao động làm công
hưởng lương, trong khi đó tỷ lệ này ở nam giới là 51.4%. Phụ nữ cũng chiếm đa số trong
những nhóm lao động/việc làm dễ bị tổn thương như hộ gia đình và lao động tự làm, với
tỷ lệ 65.4% so với 34.6% của nam giới. Ngoài ra, phụ nữ cũng có tỷ lệ cao hơn nam giới
trong nhóm lao động gia đình không được trả công, với 19.4% so với 9.2%. Phụ nữ
chiếm tới 2/3 lao động gia đình ở Việt Nam, và những việc làm này chiếm gần 1/4 việc
làm của phụ nữ nông thôn. Trong khi đó, chỉ có 2.7 triệu lao động gia đình là nam giới,
và những việc làm này chỉ chiếm 13% của tổng số việc làm của nam giới ở nông thôn
(Tổng cục Thống kê 2021).
Bất bình đẳng thu nhập giữa hai giới cũng là một thực tế không thể phủ nhận. Năm
2018, thu nhập từ việc làm bình quân hàng tháng của lao động làm công ăn lương khá
thấp (5.867 triệu đồng/tháng). Trong số đó, nam giới có thu nhập cao hơn nữ giới 12%
(6.183 so với 5.446 triệu đồng). Số liệu thống kê cho thấy trong 6 tháng đầu năm 2022,
thu nhập bình quân hàng tháng của người lao động làm công hưởng lương đã tăng lên 7.4
triệu đồng. Tuy nhiên, nam giới vẫn có thu nhập cao hơn nữ giới 1.13 lần (7.8 so với 6.9
triệu đồng/tháng) (Tổng cục Thống kê 2022).
Nguồn: Tự tổng hợp
Mức thu nhập của lao động nam và nữ Việt Nam có sự chênh lệch đáng kể. Theo
dữ liệu thống kê, tiền lương trung bình của nam giới luôn cao hơn so với nữ giới.
Mức chênh lệch này có xu hướng tăng dần từ 9,2% năm 2017 lên 11,3% năm 2023.
Nguyên nhân của tình trạng này là do phụ nữ thường làm việc trong các ngành
nghề có thu nhập thấp hơn, có trình độ học vấn thấp hơn và ít được thăng tiến hơn
nam giới.
Cụ thể, theo số liệu thống kê năm 2023, tỷ trọng lao động nữ trong các ngành nghề
có thu nhập thấp như nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản là 28,7%, trong khi tỷ
trọng lao động nam là 33,2%. Tỷ lệ lao động nữ có trình độ đại học trở lên là
21,1%, trong khi tỷ lệ lao động nam là 27,4%. Tỷ lệ lao động nữ ở vị trí quản lý là
23,8%, trong khi tỷ lệ lao động nam là 41,2%.
Những chênh lệch và bất bình đẳng đang được nhắc đến, ở một khía cạnh, cho thấy sự
hiện diện đồng bộ của bất bình đẳng giới trong thị trường lao động của Việt Nam. Nhiều
khía cạnh của vấn đề này đã được nhận thức từ khi Việt Nam bắt đầu cuộc Cải cách.
4. Kết luận
Thị trường lao động Việt Nam đang chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố trong và
ngoài nước, từ quy hoạch phát triển của chính phủ đến sự biến động của kinh tế toàn cầu.
Để đáp ứng được các cơ hội và thách thức trong bối cảnh mới, Việt Nam cần có một tiếp
cận toàn diện về các vấn đề kinh tế, xã hội, văn hóa và giới. Việt Nam đã có những bước
tiến quan trọng trong việc nâng cao chất lượng thị trường lao động, nhưng vẫn còn nhiều
hạn chế và thiếu sót cần khắc phục. Người lao động Việt Nam, đặc biệt là người lao động
nữ, vừa được hưởng lợi từ các chính sách hỗ trợ vừa phải đối phó với nhiều rủi ro và bất
bình đẳng do văn hóa truyền thống gây ra. Các số liệu và sự kiện từ thị trường lao động
Việt Nam không nên làm ta quá tự mãn, mà phải làm ta thấy rõ hơn những khó khăn và
giải pháp cho người lao động nữ Việt Nam.
Để tạo ra một thị trường lao động Việt Nam công bằng hơn về giới, không chỉ cần
có các chính sách và biện pháp dành riêng cho phụ nữ, mà còn cần phải coi trọng vai trò
của giới trong mọi hoạt động kinh tế và xã hội.
CHƯƠNG VI: CHẤT LƯỢNG NGUỒN LAO ĐỘNG VÀ SỨC ÉP ĐỐI VỚI GIÁO
DỤC ĐẠI HỌC
Hiện nay, Việt Nam ta có trên 49,2 trên tổng 85,79 triệu người đang trong độ tuổi
lao động chiếm 57,3% đang đứng thứ 3 Đông Nam Á, đứng thứ 13 trên thế giới về
quy dân số. Nước ta còn một đội ngũ nhân lực dồi dào so với một vàiớc trong
khu vực. Dù vậy, việc phát triển nguồn nhân lực cao vẫn cònnhững hạn chế. Tại đại
hội XIII, Đảng đã đánh giá “chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao
chưa đáp ứng yêu cầu phát triển”. Trong giai đoạn 2021-2030, Đại hội XIII của Đảng đã
đề ra định huớng tạo đột phá “phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, thu hút trọng
dụng nhân tài”. Về công tác phân luồng trong giáo dục nghề nghiệp vẫn còn những khó
khăn, hay tâm trọng bằng cấp, gắn kết các sở giáo dục nghề nghiệp với doanh
nghiệp. Do đó cần phải những đổi mới trong giáo dục nghề nghiệp để nâng cao chất
lượng đào tạo song đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động về nguồn nhân lực hiện
nay
6.1.Thách thức với giáo dục bậc đại học
6.1.1:Thất nghiệp theo trình độ
Hơn 1 triệu người trong độ tuổi lao động đang bị thất nghiệp, trong đó cử nhân, kỹ
sư, thạc sĩ và tiến sĩ thất nghiệp lên tới hơn 190.000 người. Tại Việt Nam hiện đang có
một xu hướng học càng cao thì nguy cơ thất nghiệp càng lớn.
Theo bản tin thị trường lao động quý 1/2016 của Bộ LĐ, TB&XH, nhóm đại học
trở lên có tỷ lệ thất nghiệp là 3,93%. Nhóm không có chuyên môn bằng cấp lại chỉ có tỷ
lệ thất nghiệp là 1,75%.
Nguyên nhân chủ yếu là do không phải trường đại học, cao đẳng nào cũng đủ nhân
lực để có thể xây dựng và triển khai chương trình đào tạo đáp ứng nhu cầu xã hội, cũng
như sự biến động không ngừng của nền kinh tế, dẫn đến nhu cầu nhân lực thay đổi.Trong
những năm gần đây, khi kỹ thuật công nghệ phát triển mạnh, nguồn nhân lực đã thay đổi
việc truyền tải nội dung hướng nghiệp chưa được quan tâm đúng mức,một số trường thì
chỉ lo quảng cáo mà quên mất trách nhiệm của mình là chuyên gia tư vấn, cần mang lại
sự hiểu biết đúng đắn, trung thực về ngành nghề và các bậc đào tạo.
6.1.2. Số bằng sáng chế
Tổng cộng 1.608.375 bằng sáng chế đã được cấp trong nhiều lĩnh vực. Trung Quốc
dẫn đầu 29/36 lĩnh vực, Mỹ đứng thứ hai với hơn 286.000 bằng sáng chế. Mỹ dẫn đầu
trong 4. lĩnh vực, Nhật Bản đứng thứ ba với gần 257.000 bằng sáng chế ở 3 lĩnh vực.
Tại Việt Nam, Theo Cục Sở hữu trí tuệ, từ năm 1981 đến hết năm 2022, có 10.240
sáng chế của chủ thể Việt Nam nộp đơn đăng tại Cục Sở hữu trí tuệ, 1.665 sáng chế
được cấp bằng độc quyền. Số lượng đơn đăng sáng chế của chủ thể Việt Nam tăng
trung bình 10-19% mỗi năm.
thể thấy, số lượng bằng sáng chế ở Việt Nam vẫn còn khiêm tốn so với các quốc gia
khác trên thế giới. Nguyên nhân dẫn đến số lượng bằng sáng chế của Việt Nam ít là do :
Công tác nghiên cứu phát triển còn hạn chế: Việt Nam một nước đang phát
triển, do đó, công tác vẫn còn nhiều hạn chế. Điều này dẫn đến việc thiếu hụt các
sáng kiến, phát minh mới, từ đó làm giảm số lượng bằng sáng chế được cấp.
Chính sách hỗ trợ cho hoạt động sáng tạo chưa hiệu quả:Chính sách hỗ trợ cho
hoạt động sáng tạo ở Việt Nam vẫn còn nhiều bất cập. Các doanh nghiệp, tổ chức,
nhân sáng tạo chưa được hưởng nhiều ưu đãi về tài chính, thuế, đất đai,... Điều
này khiến cho các doanh nghiệp, tổ chức,nhân sáng tạo chưa có nhiều động lực
để đầu tư cho hoạt động sáng tạo.
Nhận thức của doanh nghiệp, tổ chức, nhân về tầm quan trọng của bằng sáng
chế còn hạn chế: Nhiều doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân ở Việt Nam chưa nhận thức
được đầy đủ tầm quan trọng của bằng sáng chế. Họ chưa coi bằng sáng chếmột
tài sản quan trọng cần được bảo vệ. Điều này dẫn đến việc nhiều sáng chế không
được đăng ký bảo hộ bằng sáng chế.
Để tăng cường số lượng bằng sáng chế ở Việt Nam, cần sự nỗ lực của cả Chính phủ,
doanh nghiệp, tổ chức, nhân. Chính phủ cần tiếp tục hoàn thiện chính sách hỗ trợ cho
hoạt động sáng tạo, nâng cao nhận thức của doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân về tầm quan
trọng của bằng sáng chế. Doanh nghiệp, tổ chức, nhân cần đầu cho hoạt động
nghiên cứu và phát triển, coi bằng sáng chế là một tài sản quan trọng cần được bảo vệ.
Dưới đây là một số giải pháp cụ thể để tăng cường số lượng bằng sáng chế ở Việt Nam:
Tăng cường đầu cho công tác nghiên cứu phát triển: Chính phủ cần tăng
cường đầu tư cho công tác nghiên cứu và phát triển, đặc biệt là trong các lĩnh vực
khoa học công nghệ mũi nhọn. Các doanh nghiệp, tổ chức, nhân cũng cần
đầu tư cho hoạt động nghiên cứu và phát triển để tạo ra nhiều sáng kiến, phát minh
mới.
Hoàn thiện chính sách hỗ trợ cho hoạt động sáng tạo:Chính phủ cần tiếp tục hoàn
thiện chính sách hỗ trợ cho hoạt động sáng tạo, bao gồm các chính sách về tài
chính, thuế, đất đai,... Các doanh nghiệp, tổ chức, nhân sáng tạo cần được
hưởng nhiều ưu đãi hơn để có thêm động lực đầu tư cho hoạt động sáng tạo.
Nâng cao nhận thức của doanh nghiệp, tổ chức, nhân về tầm quan trọng của
bằng sáng chế:Các cơ quan truyền thông cần tăng cường tuyên truyền, phổ biến về
tầm quan trọng của bằng sáng chế. Các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân cần được
vấn, hỗ trợ để hiểu rõ hơn về bằng sáng chế và các lợi ích mà bằng sáng chế mang
lại.
6.1.3 Chi phí công cho giáo dục
Theo WB, Việt Nam phân bổ nguồn lực công khoảng 5% GDP cho giáo dục, tuy nhiên
trong đó, mức đầu cho giáo dục đại học của Việt Nam hiện rất thấp, chỉ chiếm 0,34%
(trong tổng số 6.1% Chính phủ đầu tư cho giáo dục và đào tạo). Trong khi đó, ở các nước,
tỷ lệ này cao hơn nhiều. Một số thách thức khi phân bổ nguồn lực trong tài chính giáo
dục đại học cũng được WB chỉ ra như:
Về kinh phí, việc phân bổ các quỹ công còn hạn chế, dựa trên các định mức truyền
thống, không dựa trên kết quả hoạt động hoặc vốn chủ sở hữu.
Hoạt động nghiên cứu của trường đại học nhìn chung còn ít tài trợ, quản lỏng lẻo,
chất lượng hợp tác còn hạn chế.
Các thủ tục chuẩn bị và giải ngân vốn đầu tư phức tạp, chưa đủ thu hút tài trợ ở cả khu
vực công lẫn thị trường tín dụng tư nhân.
Học bổng và các khoản vay dành cho sinh viên thấp, điều khoản vay – trả chưa đủ hấp
dẫn
Giải pháp:
- Phê duyệt tài trợ đầy đủ Chiến lược Phát triển giáo dục đại học chuyển đổi trong
giai đoạn 2021 - 2030, WB đề xuất tăng ngân sách công cho giáo dục đại học từ 0,23%
hiện tại lên 0,8% GDP trước năm 2030.
- Trao quyền cho các hội đồng trường để bổ nhiệm lãnh đạo phê duyệt các chiến
lược/ngân sách; Khuyến khích giáo dục đại học đổi mới, cải cách hành chính, bao gồm:
quản lý nhân sự/giảng viên, hợp tác quốc tế về nghiên cứu & phát triển.
- Đầu tư, nâng cao năng lực cho hoạch định chính sách; thiết kế chương trình; giám sát
đánh giá; Cập nhật các chính sách về quyền tự chủtrách nhiệm giải trình của giáo
dục đại học với nguồn tài trợ của nhà nước
6.2.Giải pháp
Đối với sinh viên
Sinh viên cần tích cực học tập rèn luyện, trau dồi kỹ năng mềm
Tìm hiểu lựa chọn ngành học kỹ càng sao cho phù hợp với năng lực, sở thích
của mình, phù hợp với nhu cầu hiện nay của xã hội
o Đối với cơ sở đào tạo, nhà trường
Tuyên truyền, nâng cao nhận thức về cách lựa chọn ngành nghề cho người học,
hội
Triển khai những định hướng giáo dục về ngành nghề cho học sinh cấp THCS
THPT
Đẩy mạnh hội nhập quốc tế trong giáo dục đại học, liên kết và hợp tác đào tạo với
các tổ chức quốc tế
Xây dựng cơ chế, chính sách cho vay vốn ưu đãi đối với SV có ý định vay vốn để
khởi nghiệp, nhằm tạo hội cũng như khuyến khích SV thể chủ động trong
việc tạo việc làm
Thực hiện các chính sách hỗ trợ việc làm hoặc bảo hiểm thất nghiệp.
CHƯƠNG VII: NGƯỜI VIỆT NAM ĐI LÀM Ở NƯỚC NGOÀI VÀ NGƯỜI NƯỚC
NGOÀI LAO ĐỘNG TẠI VIỆT NAM
Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài không chỉ mang lại lợi ích kinh
tế cho bản thân họ và gia đình của họ mà còn có tác động tích cực đến phát triển kinh tế
và xã hội của đất nước. Trước hết, người lao động đi làm việc ở nước ngoài thường có
nguồn thu nhập cao và ổn định nhờ thế họ có thể cải thiện điều kiện sống, trang trải các
chi phí gia đình, gửi tiền về quê hương và đầu tư vào các nguồn lực khác nhau. Người lao
động đi làm việc ở nước ngoài còn góp phần phát triển kinh tế của Việt Nam. Người lao
động ra nước ngoài làm việc giúp giảm tỉ lệ thất nghiệp và tăng cơ hội việc làm cho
người dân. Đồng thời, nguồn thu nhập từ việc làm ở nước ngoài của người lao động cũng
góp phần tăng cường dòng vốn ngoại tệ cho đất nước. Thêm nữa, những người lao động ở
nước ngoài khi trở về nước thường mang theo kiến thức, kỹ năng chuyên môn và kỹ năng
quản lý mà họ học hỏi được. Họ có thể chia sẻ những kiến thức, kỹ năng này với các lao
động khác và đóng góp vào việc nâng cao chất lượng lao động và sản xuất trong nước.
Ngoài ra, người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài còn giúp mở rộng mối quan
hệ đối tác và hợp tác kinh tế với các quốc gia khác. Qua quá trình làm việc và sinh sống
trong môi trường đa quốc gia, người lao động Việt Nam có cơ hội xây dựng mạng lưới
quan hệ và kết nối với các nhà đầu tư, doanh nghiệp, và chuyên gia quốc tế. Điều này
không chỉ tạo ra cơ hội mới cho các hoạt động thương mại và đầu tư, mà còn thúc đẩy sự
hợp tác song phương trong lĩnh vực giáo dục, khoa học, văn hóa và công nghệ.
7.1.Tổng quan chủ trương,chính sách,luật pháp về người lao động Việt Nam đi làm
việc ở nước ngoài.
7.1.1. Về chủ trương.
Đưa lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài là chiến lược dài hạn quan
trọng, giúp tạo ra lực lượng lao động xây dựng đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa; Đây là một phần của hợp tác quốc tế, tăng cường quan hệ hữu nghị và hợp
tác bền vững với các nước. Mở rộng hoạt động xuất khẩu lao động, lao động có tay nghề
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước và đa dạng hóa các hình thức, thị
trường xuất khẩu lao động nhằm đáp ứng nhu cầu nước ngoài về số lượng, chất lượng,
trình độ và chuyên môn. Một mặt, các doanh nghiệp xuất khẩu lao động, lao động có tay
nghề cần đảm bảo khả năng cạnh tranh bằng cách tăng cường đào tạo lao động kỹ thuật,
lao động có tay nghề và tăng dần tỷ trọng lao động xuất khẩu chất lượng cao trong tổng
số lao động xuất khẩu. của các đơn vị xuất khẩu lao động; Mặt khác, chúng ta phải tôn
trọng và bảo vệ quyền lợi chính đáng của người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo
quy định của pháp luật nước ta và quốc gia nơi người lao động sinh sống và làm việc.
Phát triển và đẩy mạnh đào tạo nghề phù hợp với nhu cầu thị trường lao động, đào tạo
ngoại ngữ, đào tạo nâng cao nhận thức pháp luật, làm rõ quyền và nghĩa vụ của công ty
và người lao động trong việc thực hiện hợp đồng, tôn trọng thuần phong mỹ tục, văn hóa,
hội nhập thị trường lao động quốc tế.
7.1.2. Về chính sách.
a) Đẩy mạnh nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ thuật của người lao động Việt Nam đi
làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; Phát huy và sử dụng hiệu quả nguồn lao động sau
khi từ nước ngoài về.
b) Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động Việt Nam, các công ty, tổ chức,
cá nhân trong lĩnh vực đưa người lao động Việt Nam đi làm việc theo hợp đồng ở nước
ngoài.
c) Mở rộng hợp tác quốc tế trong các hoạt động phát triển thị trường lao động, ngành,
nghề, công việc đặc thù mới, an toàn, thu nhập cao nhằm giúp nâng cao trình độ, kỹ năng
chuyên môn của người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.
d) Bảo đảm bình đẳng giới, cơ hội việc làm, không phân biệt đối xử trong tuyển chọn,
dạy nghề, dạy ngoại ngữ và giáo dục định hướng cho người lao động Việt Nam đi làm
việc ở nước ngoài theo hợp đồng đồng; Thực hiện các biện pháp hỗ trợ bảo vệ người lao
động Việt Nam nước ngoài theo đặc điểm giới tính.
e) Hỗ trợ hòa nhập xã hội và tham gia thị trường lao động sau khi về nước.
7.1.3Về luật pháp.
Quyền, nghĩa vụ của người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp
đồng
1. Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng có các quyền sau
đây:
a) Được cung cấp thông tin về chính sách, pháp luật của Việt Nam đối với người lao
động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài không theo hợp đồng;
b) Được tư vấn, hỗ trợ thực hiện các quyền, nghĩa vụ và lợi ích từ hợp đồng lao động,
hợp đồng đào tạo;
c) Được hưởng tiền lương, tiền công, khám bệnh, chữa bệnh, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm
tai nạn lao động và các chế độ, quyền lợi khác theo hợp đồng lao động;
d) Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng khi đi làm việc ở nước ngoài theo hợp
đồng phù hợp với pháp luật Việt Nam;
e) Được hưởng các phúc lợi về lao động, việc làm và xã hội từ Quỹ hỗ trợ việc làm nước
ngoài theo quy định của pháp luật;
g) Khiếu nại, tố cáo, khởi kiện về hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực người lao
động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài.
2. Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng có các nghĩa vụ sau
đây:
a) Tuân thủ pháp luật Việt Nam và pháp luật nước sở tại;
b) Bảo tồn và phát huy truyền thống văn hóa của dân tộc Việt Nam; Tôn trọng phong tục,
tập quán của nước tiếp nhận; đoàn kết với người lao động ở nước sở tại;
c) Hoàn thành chương trình đào tạo định hướng trước khi đi làm việc ở nước ngoài;
d) Nộp phí dịch vụ và đặt cọc theo quy định của Luật này;
d) Làm việc đúng nơi; duy trì kỷ luật lao động và tiêu chuẩn lao động; thực hiện sự
hướng dẫn, điều hành, giám sát của người sử dụng lao động nước ngoài theo hợp đồng
lao động;
e) Thiệt hại phát sinh do vi phạm hợp đồng đã ký kết theo quy định của pháp luật Việt
Nam và pháp luật của nước nơi bắt đầu công việc;
g) Về nước đúng thời hạn sau khi chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng đào tạo; Thông
báo cho cơ quan đăng ký nơi cư trú trước khi đi làm việc ở nước ngoài hoặc nơi cư trú
mới sau khi về nước theo quy định của Luật cư trú trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày
nhập cảnh;
h) Nộp thuế, tham gia bảo hiểm xã hội và các hình thức bảo hiểm khác theo quy định của
pháp luật Việt Nam và pháp luật của nước nơi thực hiện công việc;
i) Đóng góp vào quỹ hỗ trợ đi làm việc ở nước ngoài.
7.2.Thực trạng người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài.
Cục Quản lý lao động ngoài nước cho biết, theo số liệu của công ty, tổng số người
lao động đi làm việc ở nước ngoài trong 6 tháng đầu năm 2023 là 72.294 người, bằng
65,72% so với năm 2023. Trong đó có 25.093 lao động nữ, chiếm gần 35%. Nhật Bản
tiếp tục là thị trường thu hút nhiều lao động Việt Nam nhất trong 6 tháng qua với 34.508
người. Tiếp theo là thị trường Đài Loan (Trung Quốc): 31.538 lao động, Hàn Quốc: 1.608
lao động.
Công ty dịch vụ được thành lập chỉ riêng trong tháng 6 năm 2023 đã có 12 công ty.649
công nhân đi làm việc ở nước ngoài. Mục tiêu là đưa 110.000 lao động Việt Nam ra nước
ngoài theo hợp đồng vào năm 2023, qua đó góp phần tạo việc làm cho thị trường lao
động trong nước.
Những kết quả đạt được đã khẳng định chủ trương đưa người lao động Việt Nam đi
làm việc nước ngoài của Đảng Nhà nước ta đúng đắn mang lại nhiều lợi ích
thiết thực. Người lao động đã góp phần quảng hình ảnh, những giá trị tốt đẹp của đất
nước, văn hóa, con người Việt Nam trước cộng đồng quốc tế; Sau khi về nước, nhiều
người tiếp tục tham gia hiệu quả thị trường lao động trong nước tinh thần, tinh
thần trách nhiệm và năng lực, trình độ, năng lực cao để hỗ trợ quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Nó mang lại cho đất nước nguồn thu ngoại tệ lớn (hàng năm người lao động
Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài gửi về nước từ 2,5 tỷ đến 3 tỷ USD). Người lao động
không những thoát nghèo còn hội hỗ trợ người thân trong gia đình, tạo điều
kiện đầusản xuất, kinh doanh; Đặc biệt ở những địa phương nhiều người lao động
đi làm việc nước ngoài, diện mạo gia đình đã thay đổi đáng kể, với nhà cửa khang
trang, hiện đại và đảm bảo an sinh xã hội ngày càng tăng.
Tình trạng đi xuất khẩu lao động trái phép.
Ngày 23/10/2019, nhà chức trách Anh phát hiện 39 thi thể người Việt Nam trong
container đông lạnh đậu tại khu công nghiệp thị trấn Grays. Chiếc xe này được đưa
sang Anh bằng phà từ Bỉ. Vụ án này liên quan đến buôn bán người và vận chuyển người
trái phép qua biên giới. Theo kết quả điều tra, những người đi trên xe bị ngạt thở trong
quá trình vận chuyển nhiệt độ trong không gian kín tăng cao nguyên nhân trực tiếp
dẫn đến tử vong.
7.3.Một số vấn đề đặt ra liên quan đến người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước
ngoài.
Sau khi làm việc nước ngoài trong một thời gian dài, người lao động Việt Nam
đã tích lũy được nhiều tài sản vật chất, kinh nghiệm và phong cách làm việc. Tuy nhiên,
việc hỗ trợ, khai thác phát triển nguồn lực lao động này khi họ trở về quê hương vẫn
chưa đạt hiệu quả cao. Điều này đang làm đặt ra bài toán cho các tổ chức, bộ ngành
địa phương.
Tình trạng người lao động làm việc bất hợp pháp tại nước ngoài, vi phạm luật pháp
của quốc gia đó, không tuân thủ hợp đồng hoặc không trở về nước sau khi hết hạn hợp
đồng vẫn đang diễn ra và chưa được giải quyết kịp thời. Một số tổ chức doanh nghiệp vẫn
còn hạn chế năng lực trong việc đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, cạnh tranh
không lành mạnh và thiếu tính chuyên nghiệp.
Công tác đào tạo nghề, bồi dưỡng ngoại ngữ và giáo dục định hướng cho người lao
động chưa được triển khai một cách chặt chẽ. Hệ thống cácsở đào tạo nghề chưa kết
nối chặt chẽ với việc cung cấp nguồn nhân lực cho các công việc ở nước ngoài. Điều này
dẫn đến tình trạng người lao động tay nghề cao còn rất ít, làm giảm khả năng cạnh
tranh của họ tác động tiêu cực đến vị trí của người lao động Việt Nam trên thị trường
lao động quốc tế.
GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG
VIỆT NAM ĐI LÀM VIỆC Ở NƯỚC NGOÀI
1.Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về ý nghĩa, tầm quan
trọng, chính sách,mục đích của công tác đưa người lao động V žt Nam đi làm việc ở nước
ngoài.
2.Để thực hiện chủ trương đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo
hợp đồng, đảm bảo đúng chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta, đòi hỏi các
bộ, ngành và địa phương phải chú ý "mở rộng thị trường lao động, hướng đến việc làm
bền vững.
3. Về trợ giúp các tổ chức giáo dục nghề, Chính phủ cần chỉ đạo các bộ, ngành hữu quan
có văn bản quy phạm pháp luật cụ thể nhằm hỗ trợ công tác đào tạo, nâng cao trình độ, kĩ
năng nghề nghiệp, ngoại ngữ đối với người lao động Việt Nam sang làm việc tại nước
ngoài theo thoả thuận.
4. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội khẩn trương hoàn thiện dữ liệu nhằm cung cấp
giúp cho doanh nghiệp, đơn vị liên quan nắm bắt, quản lý kịp thời những người vi phạm
lao động, vi phạm kỷ luật, bỏ trốn.
5. Tăng cường hơn hoạt động của các cơ quan đại diện lao động Việt Nam tại Hàn Quốc
nhằm giúp doanh nghiệp chủ động cao hơn nữa đối với công tác xử lý các vụ việc có liên
quan đối với lực lượng lao động ở các quốc gia khác.
6. Đẩy mạnh các hoạt động đấu tranh phòng chống, ngăn ngừa và xử nghiêm minh các
hành vi phạm tội liên quan đến đưa người lao động Việt Nam sang làm việc tại nước
ngoài.
7.3.Lực lượng lao động nước ngoài tại Việt Nam
7.3.1. Người lao động nước ngoài tại Việt Nam.
Lao động nước ngoài công dân của một đất nước khác tới làm việc tại một quốc gia
không có quốc tịch.Có thể hiểu đơn giản hơn là, người nước ngoài đang sinh sống và làm
việc tại Việt Nam nhưng không có quốc tịch Việt Nam.
Hiện nay, số lượng người lao động nước ngoài tại Việt Nam đang tăng lên từng ngày.
Đây một xu hướng phổ biến do nhu cầu nhân lực đa dạng ngày càng cao của các
công ty trong quá trình phát triển kinh tế và công nghiệp của Việt Nam.
Theo thống của Bộ Lao động – Thương binh vàhội, số lượng lao động nước
ngoài tại Việt Nam trong những năm gần đây: Năm 2005, số lao động nước ngoài chỉ
12 nghìn người, đến năm 2010 lên tới 55,4 nghìn người, năm 2015 đạt 83,6 nghìn người
năm 2019 khoảng 117,8 nghìn người. Sau 15 năm, số lao động nước ngoài năm
2019 tăng gấp 10 lần năm 2005 và gấp 1,4 lần năm 2015, chiếm 0,21% trong tổng số lao
động trên toàn Việt Nam.
Đa số người lao động nước ngoài tại Việt Nam là nam giới, năm 2015 là gần 90%,
người lao động trên 30 tuổi chiếm 86%, 83,1%, 86,6% các tỉ lệ tương đương trong
tổng số LĐNN ở Việt Nam cho tới hết năm 2019.
Hiện nay khoảng 110 quốc gia và vùng lãnh thổ có người lao động tới làm việc
tại Việt Nam. Năm 2015, lao động đến từ châu Á chiếm hàng đầu trong tổng số 83,6
nghìn người LĐNN đến Việt Nam : Trung Quốc 31%, Hàn Quốc 18%, Nhật Bản
7%.....cho đến cuối năm 2019 thì có sự thay đổi tỉ lệ : Trung Quốc chỉ chiếm 19,8%, Hàn
quốc 18,3%, Đài Loan chiếm 12,9%, Nhật Bản 9,5%,.....Những lao động phổ thông
không nghề tới Việt Nam làm việc ngày càng nhiều theo các dự án trúng thầu tại Việt
Nam, điển hình nhất là Trung Quốc.
Cơ cấu lao động được phân chia làm 4 nhóm : nhóm chuyên gia, nhóm nhà quản lí,
giám đốc điều hành, nhóm lao động kĩ thuật và nhóm lao động khác. LĐNN có chuyên
môn, kĩ thuật, vị trí việc làm có sự thay đổi, cải thiện rõ rệt từ năm 2005 tới 2019. Năm
2015, tỉ lệ LĐNN có 54% có bằng ĐH và trên ĐH, 38,6% có chứng chỉ hành nghề, 7,4%
nghệ nhân ngành truyền thống. Có 35,5% LĐNN giữ vị trí quản lí , 46% là chuyên gia kĩ
thuật, còn lại là công việc khác. Đến năm 2019, tỉ lệ tương đương là 12%, 56%, 32%. Vị
trí quản lí giảm xuống rất nhiều do người Việt Nam đã dần thay thế, còn các chuyên gia
kĩ thuật tăng do được đào tạo theo hướng chuyên sâu, có kinh nghiệm, có kỹ năng thực
hành. Đồng thời, với sự hiểu biết và kỹ năng vượt trội so với đồng nghiệp nên họ đã và
đang có sự tác động tích cực trong chuyển giao công nghệ và kỹ năng quản lý, phong
cách lao động của nền sản xuất lớn và hiện đại cho lao động nội địa. 93% Lao dộng nước
ngoài làm việc tại Việt Nam đã xin được giấy phép, số còn lại không xin được giấy phép
vì không đáp ứng được các điều kiện theo quy định của pháp luật Việt Nam. Năm 2019,
số người có giấy phép lao động tăng lên 93,6%. Ngoài những trường hợp nhập cư hợp
pháp, còn có trường hợp người nước ngoài lưu trú, làm việc trái phép. Các trường hợp bị
bắt, cấm xuất nhập cảnh đều thông qua đường biển hoặc đường bộ.
7.3.2 Vai trò của người lao động nước ngoài tại Việt Nam
Lao động nước ngoài mang đến nhiều kỹ năng, kiến thức và kinh nghiệm làm việc
khác nhau trong các lĩnh vực chuyên môn. Đây là lý do tại sao họ thường được tuyển
dụng làm việc trong các lĩnh vực đòi hỏi nguồn nhân lực chất lượng cao như công nghệ
thông tin, tài chính, kỹ thuật, y tế, giáo dục và nhiều ngành nghề khác. Điều này giúp
tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, chuyển giao công nghệ mới,
phương pháp quản lý tiên tiến từ các nước phát triển sang người lao động Việt Nam, góp
phần phát triển lao động Việt Nam, phát triển lĩnh vực và phát triển nền kinh tế Việt Nam.
Sự có mặt của lao động nước ngoài cũng đồng nghĩa với việc Việt Nam có thêm cơ
hội tiếp thu kiến thức, kinh nghiệm mới từ các nước phát triển. Điều này góp phần nâng
cao trình độ chuyên môn của lực lượng lao động Việt Nam, giúp họ tiếp thu phương pháp
làm việc tiên tiến và nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường lao động toàn cầu.
Khi có lao động nước ngoài, Việt Nam có thể khai thác lực lượng lao động đa dạng từ
nhiều quốc gia khác nhau. Điều này giúp làm phong phú, đa dạng hóa nguồn lao động, từ
đó tạo điều kiện cho các công ty tìm được người phù hợp với yêu cầu công việc.
Việc mở cửa cho lao động nước ngoài đến làm việc tại Việt Nam đã tạo ra nhiều
cơ hội việc làm cho người dân Việt Nam. Hợp tác với người nước ngoài giúp nâng cao kỹ
năng và chất lượng lực lượng lao động Việt Nam.
Sự hiện diện của người lao động nước ngoài làm việc trong các công ty, tổ chức tại Việt
Nam giúp mở rộng mạng lưới quan hệ quốc tế của Việt Nam. Điều này giúp tăng cường
quan hệ hợp tác, đầu tư, trao đổi kinh tế và công nghệ đồng thời củng cố quan hệ ngoại
giao giữa Việt Nam và các nước.
Người lao động nước ngoài là cầu nối giao lưu văn hóa giữa Việt Nam và quốc tế.
Họ mang đến những nét văn hóa, tập quán và kinh nghiệm sống khác nhau, góp phần tạo
nên sự đa dạng cho nền văn hóa đất nước.
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng việc sử dụng và quản lí nguồn lao động nước ngoài cần
phải có sự quản lý và kiểm soát từ phía chính phủ, để đảm bảo quyền lợi của người lao
động Việt Nam và đảm bảo an ninh quốc gia.
Tóm lại, người lao động nước ngoài đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế
và giao lưu văn hóa của Việt Nam, mang lại cơ hội và tiềm năng phát triển cho cả quan
hệ lao động và hợp tác quản lí lao động.
7.3.3. Giới tinh hoa, các chuyên gia và nhà điều hành nước ngoài làm việc tại Việt
Nam.
Các chuyên gia và nhà điều hành nước ngoài thường làm việc trong các công ty,
tập đoàn đa quốc gia hoặc các tổ chức quốc tế tại các thành phố lớn như Hà Nội,
TP.HCM, Đà Nẵng. Môi trường làm việc thông thường tương đối chuyên nghiệp và hiện
đại, với các phòng làm việc, phòng họp, phòng thí nghiệm được trang bị tiện nghi và
công nghệ mới nhất.
Các khu đô thị cao cấp hoặc khu vực gần trung tâm thành phố là lựa chọn hàng đầu
để thuận tiện đi lại và tiếp cận dịch vụ tiện ích công cộng như điện, nước, internet và hạ
tầng giao thông đã được phát triển tốt trong các thành phố lớn
Mặc dù tiếng Anh được sử dụng phổ biến trong môi trường làm việc chuyên
nghiệp nhưng tiếng Việt vẫn là ngôn ngữ chính được sử dụng trong giao tiếp hàng ngày
tại Việt Nam. Các chuyên gia và nhà điều hành nước ngoài thường phải có khả năng giao
tiếp tiếng Việt để làm việc tốt hơn và tương tác với đồng nghiệp địa phương.
Việt Nam được coi là một quốc gia an toàn và ổn định. Tuy nhiên, như bất kỳ nơi nào
khác trên thế giới, việc tuân thủ các biện pháp an ninh và giữ gìn sự tự an toàn là rất quan
trọng.
Thời gian làm việc thông thường tại Việt Nam là từ thứ Hai đến thứ Sáu, từ 8h00
đến 17h00. Một số công ty có thể có chế độ làm việc linh hoạt hoặc theo yêu cầu công
việc. Việt Nam đang trở thành điểm đến hấp dẫn cho các chuyên gia và nhà điều hành
nước ngoài, với nhiều cơ hội nghề nghiệp trong các lĩnh vực như kỹ thuật, tài chính, quản
lý và công nghệ thông tin.Tuy nhiên, mỗi người có thể có trải nghiệm khác nhau tùy
thuộc vào công ty hoặc tổ chức mà họ làm việc. Điều quan trọng là hiểu và tôn trọng văn
hóa địa phương để tạo ra một môi trường làm việc tích cực và thành công tại Việt Nam.
Vì lao động nước ngoài có tay nghề cao nên mức lương của họ có xu hướng cao
hơn so với lao động Việt Nam. Ngoài mức lương cơ bản, các phúc lợi như bảo hiểm, nghỉ
lễ, thưởng rất quan trọng nhưng môi trường sống và làm việc của các chuyên gia, giám
đốc điều hành nước ngoài tại Việt Nam cũng rất quan trọng. Tuy nhiên, môi trường sống
và làm việc của các chuyên gia, nhà điều hành nước ngoài tại Việt Nam cũng có những
thách thức như sự khác biệt văn hóa, khó khăn trong giao tiếp và quản lý nhân viên địa
phương, hệ thống hành chính phức tạp, và một số vấn đề khác liên quan đến pháp luật và
chính trị.
7.3.1.Việc di cư của giới tinh hoa, các chuyên gia
Việt Nam sẽ được hưởng lợi rất nhiều nếu các chuyên gia và giới tinh hoa nhập cư có thể
chia sẻ kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm của họ. Điều này sẽ nâng cao năng lực sản
xuất, mở rộng nguồn nhân lực và thúc đẩy phát triển kinh tế
Di cư cũng mang lại sự trao đổi văn hóa và đa dạng xã hội cho Việt Nam. Giới
tinh hoa và chuyên gia từ nhiều quốc gia có thể mang đến những phong tục, văn hóa và
lối suy nghĩ mới, góp phần phát triển đất nước, tạo ra môi trường sống đa dạng và sôi
động.
Sự hiện diện của giới tinh hoa và chuyên gia có thể hút các loại hình đầu tư như
công ty đa quốc gia, viện nghiên cứu và tổ chức phi chính phủ. Điều này có thể tạo điều
kiện thuận lợi để thúc đẩy phát triển kinh tế, cải thiện chất lượng cuộc sống và mở rộng
nguồn việc làm cho người dân Việt Nam.
Sự hiện diện của giới tinh hoa và các nhà điều hành nước ngoài có thể tăng cường sự
cạnh tranh trong môi trường kinh doanh tại Việt Nam. Điều này đẩy mạnh sự đổi mới và
nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ, từ đó đem lại lợi ích cho người tiêu dùng.
Tuy nhiên, để nhận thức đầy đủ lợi ích của việc nhập cư ưu tú và chuyên nghiệp, cần có
chính sách nhập cư thông minh và bền vững. Tạo môi trường tốt, tạo cơ hội phát triển và
bảo vệ quyền lợi của người nhập cư để họ có thể đóng góp nhiều nhất cho sự phát triển
của Việt Nam.
7.4. Kết luận
Tóm lại, sự hiện diện của lao động nước ngoài tại Việt Nam đóng vai trò quan
trọng trong sự phát triển và tăng trưởng kinh tế của đất nước. Họ đóng góp cho nhiều
ngành công nghiệp khác nhau bao gồm sản xuất, xây dựng và dịch vụ. Lao động nước
ngoài mang đến những kỹ năng, công nghệ và đầu tư mới giúp nền kinh tế năng suất và
cạnh tranh hơn. Ngoài ra, sự xuất hiện của họ đã lấp đầy khoảng trống lao động và giải
quyết tình trạng thiếu lao động có tay nghề ở một số ngành, tuy nhiên, làn sóng lao động
nước ngoài tràn vào cũng mang lại một số thách thức. Cạnh tranh về việc làm và tiền
lương giữa người lao động trong nước và nước ngoài có thể dẫn đến căng thẳng và bất ổn
xã hội. Cũng có thể có các vấn đề về quyền lao động vì một số lao động nước ngoài có
thể bị bóc lột hoặc phải đối mặt với điều kiện làm việc không an toàn. Để giải quyết
những thách thức này, chính phủ Việt Nam đã thực hiện các chính sách quản lý việc làm
của người lao động.
| 1/49

Preview text:

HỌC VIỆN NGÂN HÀNG KHOA TÀI CHÍNH BÀI TẬP LỚN
Học phần: Kinh tế chính trị Mác-Lênin
ĐỀ TÀI: PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG LAO ĐỘNG VIỆT NAM HIỆN NAY NHÓM 5
Hà Nội, ngày 24 tháng 10 năm 2023
HỌC VIỆN NGÂN HÀNG KHOA TÀI CHÍNH BÀI TẬP LỚN Học phần: Kinh tế
chính trị Mác-Lênin ĐỀ TÀI: PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG LAO ĐỘNG VIỆT NAM HIỆN NAY
Giảng viên hướng dẫn: Vũ Mai Phương NHÓM 5
Trưởng nhóm: Trần Đình Khải – 26A4012405 Thành viên:
Nguyễn Đức Đạt - 26A4011924 Trần Vĩnh Lâm - 26A4012416
Trần Đức Long - 26A4012867
Nguyễn Phương Nhi - 26A4013263
Nguyễn Như Quỳnh - 26A4013284
Ngô Thanh Phương - 26A4013272
Hà Nội, ngày 24 tháng 10 năm 2023 Họ và tên Công việc Tỷ lệ % đóng góp
Tổng hợp thông tin, làm Word, làm Powerpoint. Mục: 1.1. Khái niệm về lao động của con người
1.2. Thông tin cơ bản về
Thị trường Lao động ở Việt Nam
1.3. Thách thức đối với
lực lượng lao động Việt Nam
1.4. Diễn biến thị trường Trần Đình Khải lao động Việt Nam trong 17,5% Quý I năm 2023: 1.5. Kết luận
4.3. Tình hình di cư ở Việt Nam 4.3.1. Đặc điểm chính
của người di cư tại Việt Nam 4.3.2. Sự Thay Đổi Của Luồng Di Cư Sau Đại Dịch COVID-19 4.4. Kết Luận
Nguyễn Đức Đạt Làm powerpoint Mục: 4.1. So sánh nông thôn và
thành thị ở Việt Nam và tổng quan tình hình di cư trong nước 10,3%
4.2. Sự khác biệt về thu nhập và việc làm
4.3. Tình hình di cư ở Việt Nam Trần Vĩnh Lâm Làm powerpoint 14,5% Mục:
3.1. Quy mô và cơ cấu lao
động có việc làm phi chính thức 3.2. Thu nhập của lao động có việc làm phi chính thức 3.3. Số giờ làm việc 3.4. Kết luận
5.1.Thị trường lao động Việt Nam: Nhiều cơ hội
nhưng phụ nữ vẫn chịu nhiều thiệt thòi
5.2. Bất bình đẳng, phân
biệt giới tính còn tồn tại 5.3. Kết luận
Trần Đức Long Làm powerpoint Mục:
6.1.Thách thức với giáo dục bậc đại học 6.1.1:Thất nghiệp theo trình độ 14,7%
6.1.2. Số bằng sáng chế 6.1.3 Chi phí công cho giáo dục 6.2. Giải pháp Nguyễn Phương Nhi Làm powerpoint Mục:
6.1.Thách thức với giáo dục bậc đại học 6.1.1:Thất nghiệp theo 14.7% trình độ
6.1.2. Số bằng sáng chế 6.1.3 Chi phí công cho giáo dục 6.2. Giải pháp Nguyễn Như Quỳnh Làm powerpoint 15% Mục:
7.4.Lực lượng lao động
nước ngoài tại Việt Nam 7.4.1. Người lao động
nước ngoài tại Việt Nam. 7.4.2 Vai trò của người
lao động nước ngoài tại Việt Nam 7.4.3. Giới tinh hoa, các chuyên gia và nhà điều
hành nước ngoài làm việc tại Việt Nam.
7.4.4.Việc di cư của giới tinh hoa, các chuyên gia 7.5. Kết luận
Ngô Thanh Phương Làm powerpoint Mục: 7.1.Tổng quan chủ trương,chính sách,luật
pháp về người lao động
Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài.

7.1.1. Về chủ trương. 7.1.2. Về chính sách. 14.3% 7.1.3Về luật pháp.
7.2.Thực trạng người lao
động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài.
7.3.Một số vấn đề đặt ra
cho người lao động Việt
Nam đi làm việc ở nước ngoài
LỜI CẢM ƠN
Thay mặt nhóm 5, chúng em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến cô Vũ Mai Phương,
giảng viên phụ trách bộ môn Kinh tế Chính trị Mác-Lênin đã đồng hành cùng chúng em
trong suốt quá trình làm bài tập lớn.
Nhờ sự hướng dẫn của cô, chúng em đã có thể học hỏi được nhiều kiến thức và kinh
nghiệm quý báu. Và hoàn thành tốt bài tập được giao.
Tuy nhiên, do chúng em còn thiếu kinh nghiệm nên bài làm chắc chắn sẽ còn nhiều thiếu
sót. Chúng em rất mong nhận được những góp ý của cô để có thể hoàn thiện bài làm hơn
và rút kinh nghiệm cho những bài tiếp theo.
Một lần nữa, chúng em xin chân thành cảm ơn! LỜI CAM ĐOAN
Thay mặt nhóm, chúng em xin cam đoan đề tài do nhóm chúng em nghiên cứu và thực
hiện là hoàn toàn trung thực và không sao chép từ bất kỳ bài làm của nhóm khác.
Chúng em đã kiểm tra dữ liệu theo quy định hiện hành và đảm bảo rằng các thông tin
trong bài làm là chính xác và đáng tin cậy.
Các tài liệu được sử dụng trong bài tập lớn đều có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng và được
trích dẫn đầy đủ theo quy định.
Chúng em xin chịu trách nhiệm trước giảng viên và nhà trường về những nội dung đã cam đoan trên. Nhóm 5 MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN...............................................................................................................ii
LỜI CAM ĐOAN........................................................................................................iii
MỤC LỤC....................................................................................................................iv
MỞ ĐẦU.......................................................................................................................1
NỘI DUNG...................................................................................................................2

CHƯƠNG I - THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG Ở VIỆT NAM
1.1. Khái niệm về lao động của con người
1.2. Thông tin cơ bản về Thị trường Lao động ở Việt Nam
1.3. Thách thức đối với lực lượng lao động Việt Nam
1.4. Diễn biến thị trường lao động Việt Nam trong Quý I năm 2023: 1.5. Kết luận
CHƯƠNG II – THỰC TRẠNG LAO ĐỘNG KHU VỰC CHÍNH THỨC HIỆN NAY
2.1. Khái niệm lao động khu vực chính thức
2.2. Những thách thức đối với lao động ở khu vực chính thức 2.3. Kết luận
CHƯƠNG III: THỰC TRẠNG LAO ĐỘNG KHU VỰC PHI CHÍNH THỨC TẠI VIỆT NAM
3.1. Quy mô và cơ cấu lao động có việc làm phi chính thức
3.2. Thu nhập của lao động có việc làm phi chính thức 3.3. Số giờ làm việc 3.4. Kết luận
CHƯƠNG IV: VIỆC LÀM Ở NÔNG THÔN VÀ TÌNH TRẠNG DI CƯ RA THÀNH THỊ
4.1. So sánh nông thôn và thành thị ở Việt Nam và tổng quan tình hình di cư trong nước
4.2. Sự khác biệt về thu nhập và việc làm
4.3. Tình hình di cư ở Việt Nam
4.3.1. Đặc điểm chính của người di cư tại Việt Nam
4.3.2. Sự Thay Đổi Của Luồng Di Cư Sau Đại Dịch COVID-19 4.4. Kết Luận
CHƯƠNG V: PHỤ NỮ TRONG THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG VIỆT NAM –
NHỮNG THÁCH THỨC VÀ KHÓ KHĂN
5.1.Thị trường lao động Việt Nam: Nhiều cơ hội nhưng phụ nữ vẫn chịu nhiều thiệt thòi
5.2. Bất bình đẳng, phân biệt giới tính còn tồn tại 5.3. Kết luận
CHƯƠNG VI: CHẤT LƯỢNG NGUỒN LAO ĐỘNG VÀ SỨC ÉP ĐỐI VỚI GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
6.1.Thách thức với giáo dục bậc đại học
6.1.1:Thất nghiệp theo trình độ
6.1.2. Số bằng sáng chế
6.1.3 Chi phí công cho giáo dục 6.2. Giải pháp
CHƯƠNG VII: NGƯỜI VIỆT NAM ĐI LÀM Ở NƯỚC NGOÀI VÀ NGƯỜI
NƯỚC NGOÀI LAO ĐỘNG TẠI VIỆT NAM
7.1.Tổng quan chủ trương,chính sách,luật pháp về người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài. 7.1.1. Về chủ trương. 7.1.2. Về chính sách. 7.1.3Về luật pháp.
7.2.Thực trạng người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài.
7.3.Một số vấn đề đặt ra cho người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài
7.4.Lực lượng lao động nước ngoài tại Việt Nam
7.4.1. Người lao động nước ngoài tại Việt Nam.
7.4.2 Vai trò của người lao động nước ngoài tại Việt Nam
7.4.3. Giới tinh hoa, các chuyên gia và nhà điều hành nước ngoài làm việc tại Việt Nam.
7.4.4.Việc di cư của giới tinh hoa, các chuyên gia 7.5. Kết luận MỞ ĐẦU 1.
Lý do chọn đề tài
Những thập kỷ gần đây Việt Nam đã có những bước phát triển kinh tế toàn
diện. GDP tăng gấp bội, nhu cầu nội địa tăng mạnh, người dân giàu có hơn và
nhiều công ty nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. Với việc kinh tế nhà nước không
còn đóng vai trò chủ đạo như trước, kinh tế tư nhân đang ngày càng phát triển. Việt
Nam đã đạt được những tiến bộ đáng kể về sản xuất, năng suất và trong hội nhập quốc tế.
Một trong những động lực quan trọng cho những thành công này là dân số
trẻ và lực lượng lao động dồi dào. Tính đến năm 2021, 51% dân số Việt Nam trong
độ tuổi lao động. Tuy nhiên, dân số Việt Nam đang già đi nhanh chóng. Theo ước
tính của Tổng cục Thống kê, cơ hội để Việt Nam hưởng lợi từ lực lượng lao động
trẻ sẽ đóng lại vào năm 2036.
Bên cạnh những thành tựu đáng kể, thị trường lao động Việt Nam vẫn tồn tại
nhiều thách thức. Theo ILO - Tổ chức Lao động Quốc tế (2022), chỉ có 44% lực
lượng lao động được hưởng các quyền lợi cơ bản như hợp đồng lao động, tiền
lương và bảo hiểm xã hội. Phần lớn lực lượng lao động làm việc phi chính thức,
chủ yếu ở khu vực nông thôn và lĩnh vực dịch vụ. Trình độ học vấn của người lao
động còn thấp, chỉ có 19% dân số có trình độ học vấn trên bậc trung học phổ
thông. Điều này khiến Việt Nam gặp khó khăn trong việc thu hút lao động có kỹ
năng cao, đặc biệt là trong các ngành công nghiệp cần nhiều lao động kỹ thuật như
sản xuất điện tử, cơ điện và tự động hóa.
Trong tương lai, Cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ tác động mạnh mẽ đến lực
lượng lao động Việt Nam. Quá trình tự động hóa và chuyển đổi số đòi hỏi người
lao động phải có trình độ kỹ thuật và khả năng thích ứng cao. Do đó, Để có thể tiếp
tục đi trên con đường đã dẫn đến thành công cho đến nay Việt Nam sẽ phải cải
cách thị trường lao động một cách toàn diện. Có nhiều vấn đề cần giải quyết trong
thị trường lao động Việt Nam, bao gồm sự biến động cao của lực lượng lao động,
nhiều người lao động quay lưng với công việc trong lĩnh vực công nghiệp thể hiện
rõ từ sau đại dịch Covid 19, cũng như điều kiện làm việc kém trong khu vực phi
chính thức. Các giải pháp cần được thực hiện bao gồm cải thiện môi trường làm
việc, tăng cường an sinh xã hội, nâng cao trình độ học vấn, và cải thiện điều kiện
làm việc của người lao động trong khu vực phi chính thức. Cần giảm bớt sự mất
cân bằng về giáo dục và việc làm giữa thành thị và nông thôn, và tạo ra nhiều cơ
hội việc làm mới cho phụ nữ. Phải tăng cường đầu tư vào đào tạo định hướng thực
hành cho tất cả các đối tượng liên quan, cũng như cần có những chính sách thu hút
và giữ chân lao động có trình độ cao trong lĩnh vực công nghệ. Đặc biệt để thu hút
nguồn lao động có trình độ cao trong lĩnh vực công nghệ, và ở lại Việt Nam làm
việc cần phải trở nên hấp dẫn hơn trước để họ không rời khỏi đất nước vì những lời
mời làm việc tốt hơn ở nước ngoài. Chính phủ cần có các chính sách phù hợp để
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng nhu cầu phát triển của thị trường lao
động trong thời kỳ mới. Đó cũng là một trong những lí do quan trọng nhất để
chúng tôi lựa chọn đề tài lần này.
2. Mục tiêu đề tài
➢ Tổng hợp kiến thức, tài liệu nghiên cứu về lao động Việt Nam, giúp người đọc hiểu
biết về thực trạng lao động Việt Nam hiện nay.
➢ Trau dồi kiến thức về lĩnh vực kinh tế - chính trị trên thực tiễn.
➢ Cải thiện, học hỏi thêm các kỹ năng giao tiếp, làm việc nhóm, phản biện, thuyết trình. NỘI DUNG
CHƯƠNG I - THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG Ở VIỆT NAM
1.1. Khái niệm về lao động của con người
Công việc hoặc lao động là thứ phân biệt con người với các sinh vật khác. Các triết
gia như Karl Marx, Max Weber, Talcott Parsons và Hannah Arendt đã nghiên cứu về vấn
đề này và cho rằng lao động không chỉ đơn thuần để tạo thu nhập mà còn là quá trình con
người xác định giá trị bản thân và vị trí trong xã hội.
Lao động là một thuật ngữ phổ biến được sử dụng để chỉ các hoạt động sản xuất và
dịch vụ mà con người thực hiện để kiếm tiền qua một công việc được trả lương. Các hoạt
động lao động này có thể bao gồm nhiều ngành nghề khác nhau như sản xuất, xây dựng,
dịch vụ khách hàng và nhiều lĩnh vực khác. Một trong những mục đích chính của lao
động là sản xuất hàng hóa và dịch vụ để đáp ứng nhu cầu của thị trường.
Tuy nhiên định nghĩa mang tính kinh tế - chính trị này vẫn còn hạn chế một trong
những hạn chế được chỉ ra như sau: Lao động không chỉ đơn thuần là hoạt động mang lại
lợi ích hoặc được trả công mà còn liên quan đến các công việc trong gia đình. Thường thì
phụ nữ vẫn phải đảm nhận trách nhiệm này, ví dụ như việc nuôi dạy con cái cũng như
chăm sóc người già. Vì vậy, thuật ngữ công việc chăm sóc đã được giới thiệu để ghi nhận
sự đóng góp của những người phụ nữ này trong gia đình và xã hội (Abel/Nelson 1990).
Việc công nhận và đánh giá cao những công việc này là rất quan trọng để đảm bảo sự
công bằng cho phụ nữ trong lĩnh vực lao động và xã hội.
1.2. Thông tin cơ bản về Thị trường Lao động ở Việt Nam
Nguồn lao động ở Việt Nam:
Việt Nam đã thực hiện cải cách nguồn lao động từ những năm 1986. Những tác
động tích cực và đáng kể của chúng đã giúp đất nước khắc phục được những thiếu sót của
chính sách kế hoạch hóa tập trung và tự cô lập được đưa ra sau khi thống nhất đất nước
vào năm 1975. Việt Nam đã phục hồi từ bờ vực suy thoái kinh tế và hiện đang trên đà
phát triển thịnh vượng, ngày càng có uy tín quốc tế thông qua việc trở thành thành viên
của một số tổ chức khu vực và quốc tế bao gồm Tổ chức Thương mại Thế giới (Anh Tuấn
2009). Các doanh nghiệp thuộc mọi loại hình ngày càng quan tâm đến Việt Nam, bởi tầng
lớp người tiêu dùng ngày càng tăng và lực lượng lao động năng động của đất nước.
Việt Nam bước vào thời kỳ dân số vàng bắt đầu từ năm 2007, khi tỷ lệ người trong
độ tuổi lao động (15-64 tuổi) chiếm hơn 60% tổng dân số. Đây là một cơ hội thuận lợi
cho Việt Nam phát triển kinh tế và xã hội, bởi dân số vàng giúp tăng nguồn lực lao động,
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và giảm chi phí hưu trí và y tế. Theo dữ liệu của Ngân hàng
Thế giới, lực lượng lao động của Việt Nam đã nhanh chóng mở rộng kể từ năm 1986,
tăng từ hơn 32 triệu người vào năm 1990 lên 56,15 triệu người vào năm 2022 (Global
Economy 2021). Con số này giúp Việt Nam đứng thứ 12 trên bảng xếp hạng toàn cầu
(Global Economy 2021), đồng thời là quốc gia lớn thứ 67 về diện tích trên toàn thế giới (World Data 2022).
Lực lượng lao động theo quý, giai đoạn 2020 – 2023
Đơn vị tính: Triệu người
Nguồn: Tổng cục thống kê
Lực lượng lao động Việt Nam có xu hướng tăng trưởng ổn định trong giai đoạn
2020-2023. Sự tăng trưởng này là kết quả của nhiều yếu tố, bao gồm tăng trưởng dân số,
tăng trưởng kinh tế và đổi mới giáo dục và đào tạo.Lực lượng lao động trong quý I năm
2023 tăng mạnh so với quý IV năm 2022, tương ứng với tốc độ tăng trưởng 2,1%.
Nguyên nhân là do Việt Nam đã kiểm soát tốt dịch COVID-19 và phục hồi kinh tế nhanh chóng trong quý I năm 2023.
Biểu đồ 2: Số lao động có việc làm quý III và quý IV, giai đoạn 2019-2022
Đơn vị tính: Nghìn người
Nguồn: Tổng cục thống kê
Thị trường lao động Việt Nam trong quý IV năm 2022 có sự biến động đáng kể,
với tốc độ tăng lao động chỉ đạt 0,5%, thấp hơn nhiều so với mức tăng trung bình 2,2%
trong giai đoạn 2019-2021. Nguyên nhân chính là do tình trạng thiếu đơn hàng vào dịp
cuối năm do tác động của tình hình an ninh chính trị thế giới bất ổn, giá nguyên liệu,
nhiên liệu, khí đốt tăng cao.
Cơ cấu lao động trong quý IV năm 2022 cũng có sự thay đổi đáng kể, với lao động
có việc làm trong ngành dịch vụ và ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản đều tăng, trong
khi lao động có việc làm trong ngành công nghiệp và xây dựng giảm. Điều này cho thấy,
các doanh nghiệp đang chuyển hướng sang các ngành dịch vụ và nông nghiệp để giảm thiểu rủi ro.
Tỷ lệ lao động có việc làm phi chính thức trong quý IV năm 2022 có xu hướng
tăng do tình trạng thiếu việc làm và thu nhập của người lao động giảm sút.
Biểu đồ 3: Tỉ lệ thất nghiệp hàng năm tại Việt Nam (%)
Nguồn: Cục thống kê tỉnh Cao Bằng
Đại dịch Covid-19 đã gây ra những ảnh hưởng đáng kể đối với thị trường lao động
ở Việt Nam, dẫn đến sự tăng lên của tỷ lệ thất nghiệp. Trong giai đoạn từ 2016 đến 2019,
tỷ lệ thất nghiệp không phân biệt giới tính. Tuy nhiên, vào năm 2020, tỷ lệ thất nghiệp
của phụ nữ tăng cao hơn và sự chênh lệch này trở nên rõ ràng. Xem xét trong vòng 5 năm
từ 2016 đến 2020, tỷ lệ thất nghiệp của phụ nữ tăng cao hơn so với nam giới. Các nghiên
cứu cho thấy rằng đại dịch đã gây ra những hậu quả nghiêm trọng hơn đối với việc làm
của phụ nữ so với nam giới, do đó làm tăng thêm vấn đề bất bình đẳng giới tại Việt Nam.
Mức lương trung bình ở Việt Nam
Tại Việt Nam, mức lương tối thiểu được quy định khác nhau cho 4 khu vực. Khu
vực I, bao gồm nội thành Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, có mức lương tối thiểu cao
nhất, là 4,2 triệu đồng (khoảng 190 đô la Mỹ). Khu vực IV, bao gồm các vùng nông thôn
và miền núi, có mức lương tối thiểu thấp nhất, là 3,07 triệu đồng (khoảng 132 đô la Mỹ).
Ngoài ra, người lao động đã qua đào tạo nghề phải được trả nhiều hơn ít nhất 7% so với
mức lương tối thiểu hiện hành.
Mức lương tháng trung bình ở Việt Nam đã tăng đáng kể kể từ năm 2014, từ 4 triệu
đồng lên khoảng 7 triệu đồng vào năm 2022. Sự gia tăng này chủ yếu là do nền kinh tế
Việt Nam đang phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, mức lương trung bình vẫn còn thấp so với
một số quốc gia khác trong khu vực.
Biểu đồ 4: Tiền lương trung bình hàng tháng ở Việt Nam, 2014–2022 (đơn vị: triệu VND)
Nguồn: Trading Economics 2022
1.3. Thách thức đối với lực lượng lao động Việt Nam
Thị trường lao động Việt Nam đang đối mặt với những thách thức lớn, trong đó có
thiếu hụt nhân lực lành nghề và tác động của cách mạng công nghiệp 4.0.
Về thiếu hụt nhân lực lành nghề, trong quá khứ, lao động Việt Nam chủ yếu tập
trung ở các ngành sản xuất thâm dụng lao động, đòi hỏi kỹ năng thấp. Tuy nhiên, hiện
nay, tỷ lệ các ngành công nghiệp sử dụng công nghệ tiên tiến đang tăng lên nhanh chóng.
Điều này dẫn đến nhu cầu về nhân lực có kỹ năng cao ngày càng tăng. Tuy nhiên, cơ cấu
lao động đã qua đào tạo ở Việt Nam vẫn còn thiếu hụt, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế.
Về tác động của cách mạng công nghiệp 4.0, cách mạng công nghiệp 4.0 đang làm
thay đổi sâu sắc phương thức sản xuất, kinh doanh và quản lý. Điều này dẫn đến nhu cầu
về nhân lực có kỹ năng mới, phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế số. Tuy nhiên, hệ thống
giáo dục và đào tạo ở Việt Nam vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu này.
Ngoài ra, thị trường lao động Việt Nam còn tồn tại một số vấn đề khác như dư thừa
lao động, chất lượng việc làm thấp, phát triển chưa đồng đều và mất cân đối giữa cung và
cầu lao động giữa các vùng, các ngành kinh tế. Các thể chế phúc lợi, bảo hiểm và trung
gian hỗ trợ thị trường lao động vẫn chưa hiệu quả, ít được bảo hiểm.
Để giải quyết những thách thức này, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan
quản lý nhà nước, doanh nghiệp và người lao động.Về phía cơ quan quản lý nhà nước,
cần có những chính sách và giải pháp phù hợp để nâng cao chất lượng đào tạo nghề, đáp
ứng nhu cầu của thị trường lao động. Về phía doanh nghi
ệp, cần đầu tư cho đào tạo và
phát triển nguồn nhân lực, tạo cơ hội cho người lao động nâng cao kỹ năng và trình độ.
Về phía người lao động, cần chủ động học hỏi, nâng cao kỹ năng và trình độ để đáp ứng
yêu cầu của thị trường lao động. Tăng cường hợp tác quốc tế về đào tạo nghề cũng là một
giải pháp quan trọng để giải quyết vấn đề thiếu hụt nhân lực lành nghề ở Việt Nam.
1.4. Diễn biến thị trường lao động Việt Nam trong Quý I năm 2023:
Thị trường lao động Việt Nam trong Quý I năm 2023 tiếp tục duy trì đà phục hồi,
với tỷ lệ thất nghiệp và tỷ lệ thiếu việc làm giảm so với cùng kỳ năm 2022. Mức lương
trung bình cũng tăng so với cùng kỳ năm 2022.
Tỷ lệ thất nghiệp trong Quý I năm 2023 là 2,28%, giảm 0,07 điểm phần trăm so
với cùng kỳ năm 2022. Đây là mức thất nghiệp thấp nhất trong 5 năm qua. Tỷ lệ thiếu
việc làm trong Quý I năm 2023 là 2,06%, giảm 0,12 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm 2022.
Mức lương trung bình trong Quý I năm 2023 là 7 triệu đồng, tăng 10,2% so với
cùng kỳ năm 2022. Mức lương trung bình của lao động nam là 7,4 triệu đồng, cao hơn
10,9% so với mức lương trung bình của lao động nữ.
Số lượng lao động có việc làm trong Quý I năm 2023 là 52,4 triệu người, tăng 1,6
triệu người so với cùng kỳ năm 2022. Số lượng lao động thất nghiệp trong Quý I năm
2023 là 1,07 triệu người, giảm 100 nghìn người so với cùng kỳ năm 2022. Số lượng lao
động thiếu việc làm trong Quý I năm 2023 là 1,04 triệu người, giảm 120 nghìn người so với cùng kỳ năm 2022. 1.5.Kết luận
Kể từ khi thực hiện chính sách đổi mới vào năm 1986, Việt Nam đã chuyển đổi từ
nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Quá trình này đã dẫn đến sự mở rộng của khu vực kinh tế tư nhân và sự mở cửa
của nền kinh tế Việt Nam đối với thương mại quốc tế và đầu tư nước ngoài. Những thay
đổi này đã góp phần đáng kể vào tăng trưởng kinh tế.
Thị trường lao động của Việt Nam có một số lợi thế, bao gồm tỷ lệ tham gia cao, tỷ
lệ thất nghiệp thấp và mức lương trung bình tăng trưởng. Tuy nhiên, vẫn còn một số vấn
đề, bao gồm sự mất cân đối giữa cung và cầu lao động theo vùng địa lý, khu vực và
ngành kinh tế. Để giải quyết những vấn đề này, Việt Nam cần vượt qua nhiều trở ngại để
hoàn thành mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong thời đại công nghiệp 4.0.
Chính phủ Việt Nam đã triển khai một số biện pháp nhằm tái cơ cấu thị trường lao
động để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế quốc gia. Để đáp ứng nhu cầu thị trường, giáo
dục nghề nghiệp đã tập trung vào đào tạo kỹ thuật và đào tạo nghề. Kể từ năm 2018, số
lượng các trường cao đẳng, đại học và dạy nghề của Việt Nam đã tăng mạnh. Ngoài ra,
Chính phủ cũng đã ban hành các quyết định mới liên quan đến thị trường lao động, nhằm
xây dựng và phát triển yếu tố thị trường lao động, hỗ trợ huy động và phân bổ nguồn lực
hiệu quả. Điều này sẽ giúp lực lượng lao động Việt Nam có thể chia sẻ và đóng góp bình
đẳng vào thị trường ở mỗi vùng kinh tế xã hội. Cuối cùng, để đạt được sự phát triển bền
vững, Chính phủ đã tăng tuổi nghỉ hưu bắt đầu từ năm 2022 để đối phó với vấn đề già hóa dân số.
CHƯƠNG II – THỰC TRẠNG LAO ĐỘNG KHU VỰC CHÍNH THỨC HIỆN NAY
2.1. Khái niệm lao động khu vực chính thức
Lao động khu vực chính thức là một khái niệm không có định nghĩa nhất định, tùy
thuộc vào cách hiểu của từng người. Tuy nhiên, yhoong thường người ta thường coi lao
động khu vực chính thức là những người có hợp đồng lao động, được nhận lương hàng
tháng, đóng bảo hiểm xã hội và hưởng các quyền lợi an sinh xã hội.
Ở Việt Nam, lao động khu vực chính thức bao gồm những người làm việc trong các cơ
quan của Đảng, Nhà nước, các tổ chức xã hội, doanh nghiệp nhà nước, đơn vị sự nghiệp
công lập, quân đội, công an; cũng như những người có hợp đồng lao động hoặc làm việc
từ 3 tháng trở lên, có hợp đồng lao động, đóng bảo hiểm xã hội và hưởng an sinh xã hội (Quốc hội 2019).
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, năm 2022 Việt Nam có 51,7 triệu người lao
động từ 15 tuổi trở lên (Tổng cục Thống kê 2022). Quý I năm 2023, con số này tăng lên
52,2 triệu người. Trong đó số người có việc làm là 51,1 triệu người (Tổng cục Thống kê
2023). Theo khảo sát của tổ chức: Chỉ số Nhân lực Toàn cầu (TWI) của Manpower Group
Solutions, Việt Nam có 38% là người lao động trong khu vực chính thức, làm việc lâu dài
và 62% lao động làm việc theo thời vụ (Lan Anh 2018). Vậy là đến đầu năm 2023, Việt
Nam có khoảng 19 triệu người lao động trong khu vực chính thức. Trong số đó có gần 2
triệu lao động thuộc cán bộ công chức, viên chức, người lao động trong khu vực công
được trả lương từ ngân sách nhà nước (Luân Dũng 2022). Đến hết tháng 9.2022, Việt
Nam có hơn 17 triệu người tham gia bảo hiểm xã hội (Anh Thư 2022). Những số liệu trên
cho thấy, phần lớn lao động tham gia bảo hiểm xã hội là lao động trong khu vực chính thức.
Khu vực chính thức ở Việt Nam bao gồm những người làm việc trong các cơ quan
của Đảng, Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị xã hội, doanh nghiệp nhà
nước, đơn vị sự nghiệp công lập. Đây là khu vực lao động có đặc điểm riêng và luôn
được Đảng và Nhà nước quan tâm. Hội nghị lần thứ ba BCHTW Đảng (khoá VIII) đã
nhấn mạnh vai trò của cán bộ trong chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và
xây dựng Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh. Hội
nghị khẳng định: “Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với
vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng
Đảng” (Ban Chấp hành Trung ương 1997).
Do đó, khu vực lao động chính thức có phần lớn là những người có lập trường tư
tưởng vững vàng, giỏi chuyên môn, nghiệp vụ, có phẩm chất đạo đức, tư cách tốt. Họ có
tinh thần yêu nước sâu sắc, tận tụy phục vụ nhân dân, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội. Họ đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ, nghiệp vụ theo tiêu chuẩn. Trong số
đó, có một số người làm việc khoa học tâm huyết, say mê nghiên cứu, có nhiều đóng góp
tích cực cho cơ quan, đơn vị, hoàn thành tốt chức trách nhiệm vụ được giao.
2.2. Những thách thức đối với lao động ở khu vực chính thức
Hiện nay, mặc dù nền kinh tế Việt Nam đang phát triển mạnh mẽ, tuy nhiên, tỷ lệ
lao động khu vực chính thức vẫn còn thấp. Nguyên nhân chính là do trình độ dân trí và
kỹ năng của người lao động còn hạn chế, hệ thống giáo dục và đào tạo chưa đáp ứng
được yêu cầu của thị trường lao động và chính sách, pháp luật về lao động cũng còn chưa
đồng bộ và hiệu quả. Ngoài ra, trình độ quản lý của doanh nghiệp cũng còn yếu. Tác
động của tình trạng này là hạn chế nguồn lực lao động chất lượng cao cho phát triển kinh
tế-xã hội, tăng áp lực lên khu vực phi chính thức, tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh
và tăng nguy cơ bất ổn xã hội.
Ngoài ra, lao động khu vực chính thức chủ yếu tập trung ở khu vực thành thị, do
các doanh nghiệp, cơ quan, đơn vị ở khu vực này có điều kiện kinh tế-xã hội phát triển
hơn, thu hút nhiều lao động hơn. Trong khi đó, cơ hội việc làm ở khu vực nông thôn còn
hạn chế. Tác động của tình trạng này là tạo ra sự bất bình đẳng về cơ hội việc làm giữa
khu vực thành thị và khu vực nông thôn, gây áp lực lên thị trường lao động ở khu vực thành thị.
Cuối cùng, cơ cấu lao động khu vực chính thức còn chưa hợp lý, thiếu lao động có
kỹ năng, trình độ cao. Nguyên nhân chính là trình độ đào tạo của người lao động chưa
đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động và chính sách, pháp luật về lao động chưa
khuyến khích doanh nghiệp đào tạo lao động. Tác động của tình trạng này là hạn chế
năng suất lao động, hiệu quả sản xuất, kinh doanh và tăng chi phí đào tạo, bồi dưỡng của
doanh nghiệp. Việc cải thiện tình trạng này là điều cần thiết để nâng cao chất lượng lao
động và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. 2.3. Kết luận
Lao động khu vực chính thức là một phần quan trọng của lực lượng lao động Việt
Nam. Họ là những người có vai trò chủ chốt trong sự phát triển của đất nước và được
Đảng và Nhà nước coi trọng. Hầu hết lao động khu vực chính thức đều có tư tưởng ổn
định, có năng lực chuyên môn cao, có hợp đồng lao động, đóng bảo hiểm xã hội và
hưởng các quyền lợi an sinh xã hội. Tuy nhiên, lao động khu vực chính thức cũng đang
phải đối mặt với nhiều khó khăn và thử thách trong bối cảnh mới, bao gồm: chất lượng
lao động không phù hợp với nhu cầu, cơ cấu lao động không hợp lý; mức lương thấp và
cơ hội thăng tiến ít. Do đó, Chính phủ Việt Nam cần có những biện pháp cụ thể để giải
quyết các vấn đề này, như: hoàn thiện chính sách giáo dục, đào tạo; điều chỉnh cơ cấu tổ
chức, bộ máy; cải cách chính sách tiền lương và đãi ngộ cho nhân tài và lao động khu vực chính thức.
CHƯƠNG III: THỰC TRẠNG LAO ĐỘNG KHU VỰC PHI CHÍNH THỨC TẠI VIỆT NAM
Việt Nam đang ở trong thời kỳ dân số vàng khi mà dân số trong độ tuổi lao động cao gấp
2 lần dân số ngoài độ tuổi lao động. Hằng năm, dân số trong độ tuổi lao động tham gia thị
trường lao động chiếm tỷ trọng khá cao, khoảng trên 75%. Mặc dù vậy, phần đông người lao
động của Việt Nam vẫn còn phải đang chấp nhận làm các công việc dễ tổn thương, không được
đóng bảo hiểm xã hội, không có hợp đồng lao động. Đó là việc làm phi chính thức.
Đối với một quốc gia có dân số đông và nền kinh tế phát triển thấp như Việt Nam, việc
làm phi chính thức là một phần không thể thiếu góp phần quan trọng trong quá trình giải quyết
việc làm và tạo thu nhập cho người lao động. Mặc dù tình trạng phi chính thức có tác động khá tiêu cực đến
thu nhập, an toàn và sức khỏe của người lao động nhưng đôi khi họ vẫn buộc phải làm công việc
phi chính thức như là một lựa chọn không thể khác để đảm bảo cuộc sống mưu sinh trong bối
cảnh các điều kiện phúc lợi xã hội còn hạn chế hoặc thu nhập từ công việc chính thức không đảm bảo.
Nhiều năm qua, Chính phủ Việt Nam đã nỗ lực để phát triển kinh tế, giải bài toán chính
thức hóa lao động có việc làm phi chính thức nhằm đảm bảo việc làm tử tế cho người lao động
nhưng tình trạng người lao động bị buộc phải làm các công việc phi chính thức, thiếu bền vững
nhiều năm qua vẫn chưa được cải thiện đáng kể, đặc biệt trong 2 năm vừa qua, 2020-2021, dưới
sự tác động mạnh của cơn bão đại dịch Covid 19.
3.1. QUY MÔ VÀ CƠ CẤU LAO ĐỘNG CÓ VIỆC LÀM PHI CHÍNH THỨC
Năm 2021, Việt Nam có 33,6 triệu lao động có việc làm phi chính thức (hay lao động phi
chính thức), chiếm tới gần 70% tổng số lao động có việc làm. So với một số nước trong khu vực
như Campuchia, In-đô-nê-xi-a, Mi-an-ma, tỷ lệ lao động phi chính thức của Việt Nam thấp hơn,
tuy nhiên so với nhiều nước trên thế giới tỷ lệ này của Việt Nam vẫn ở mức cao. Mặc dù, lao
động phi chính thức tồn tại như một tất yếu khách quan, là bệ đỡ của thị trường lao động khi nền
kinh tế gặp khủng hoảng, tuy nhiên muốn có một nền kinh tế phát triển và bền vững không thể
dựa vào thị trường lao động với tỷ lệ phi chính thức cao. Chính vì vậy, Việt Nam và các quốc gia
khác đã và đang tìm cách để giảm thiểu tỷ lệ này.
Hầu hết lao động phi chính thức đang làm việc ở khu vực phi chính thức (chiếm 81,8%).
Số lao động phi chính thức làm việc ở khu vực khác chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ, 17,8% ở khu vực
chính thức và 0,4% ở khu vực hộ gia đình.
Trong khu vực chính thức, mặc dù số lao động phi chính thức ở trong khu vực này chỉ chiếm
17,8% tống số lao động phi chính thức, thấp hơn rất nhiều so với khu vực phi chính thức, tuy
nhiên với số lượng là gần 6 nghìn lao động phi chính thức trong khu vực này, trong đó 47,8%
nằm trong hộ sản xuất kinh doanh cá thể và 36,9% là trong các doanh nghiệp tư nhân vẫn là vấn
đề cần phải được các cơ quan chức năng tiếp tục quan tâm và lưu ý.
Hình 1: Lao động phi chính thức làm việc tại các khu vực chính thức,phi chính thức và hộ gia
đình, năm 2021 (nghìn người)
Kết quả điều tra lao động việc làm năm 2021 cho thấy, toàn quốc có 24,4 triệu lao động phi
chính thức làm việc ở khu vực nông thôn, chiếm 72,5% tổng lao động phi chính thức. Con số
này ở khu vực thành thị thấp hơn rất nhiều, tương ứng 9,2 triệu người, chiếm 27,5%.(biểu đồ
tròn 1)
Điều này một phần là do dân số ở nông thôn chiếm tỷ trọng cao hơn dân số thành thị làm
cho số người làm việc ở khu vực nông thôn cao hơn ở khu vực thành thị (63,7% so với 36,3%),
một phần khác là do tỷ lệ lao động có việc làm phi chính thức ở nông thôn cao hơn rất nhiều so
với ở khu vực thành thị.(biểu đồ tròn 2) (kèm hình 2)
Hình 2: Cơ cấu và tỷ lệ lao động phi chính thức ở khu vực thành thị và nông thôn
Lao động phi chính thức phân bố chủ yếu tại 3 vùng kinh tế xã hội có quy mô dân số lớn
của cả nước là Vùng Đồng bằng sông Hồng, vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung,
Đồng bằng sông Cửu Long, chiếm 64,8% tổng lao động phi chính thức toàn quốc.
Đáng chú ý mặc dù quy mô lao động ở Vùng Tây Nguyên thấp nhất trong cả nước (với khoảng 3
triệu người) nhưng vùng này lại sử dụng lao động phi chính thức cao nhất trong cả nước. Tỷ lệ
lao động làm phi chính thức ở Tây Nguyên là hơn 85%, cao hơn vùng đứng thứ hai là Đồng
bằng sông Cửu Long đến 6 điểm phần trăm. Điều này có nghĩa là hầu hết lao động ở vùng Tây
Nguyên chưa được bảo vệ bởi các quy định của luật lao động, của các chính sách bảo hiểm và
phúc lợi xã hội dành cho người lao động. Trong 6 vùng kinh tế xã hội, Đông Nam Bộ là vùng có
tỷ lệ lao động phi chính thức thấp nhất, với 48,6%, thấp hơn nhiều so với vùng có thứ hạng liền
kề là vùng Đồng bằng sông Hồng, 60,5%. Sự phát triển kinh tế sôi động, tập trung nhiều khu
công nghiệp liên hợp, khu chế xuất của các doanh nghiệp lớn hoặc doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài tại Vùng Đông Nam bộ đã tạo điều kiện tốt hơn cho thị trường lao động nơi đây, góp
phần giảm việc làm phi chính thức của người lao động ở vùng này.(biểu 5)
Năm 2021, có đến 42 trong số 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có tỷ lệ lao động
phi chính thức trên 70%, thậm chí còn trên 80% (26 tỉnh). Theo báo cáo “Nền kinh tế phi chính
thức và việc làm bền vững: hướng dẫn nguồn chính sách hỗ trợ quá trình chuyển đổi sang phi
chính thức”, của ILO thì có sự trùng lặp thường xuyên giữa phi chính thức và nghèo đói. Thu
nhập thấp và tiếp cận hạn chế với các tổ chức công khiến người nghèo không đầu tư vào kỹ
năng có thể thúc đẩy khả năng có việc làm, năng suất của họ và đảm bảo bảo vệ họ khỏi những
cú sốc và rủi ro thu nhập. Thiếu giáo dục và công nhận về kỹ năng hạn chế trong khu vực kinh tế
phi chính thức cũng ngăn người dân nghèo tham gia vào khu vực kinh tế chính thức, trong khi
sự khan hiếm các cơ hội sinh kế ở các vùng nông thôn thường đẩy những người nhập cư vào làm
việc phi chính thức tại các khu vực đô thị và các nước phát triển. Sự phân biệt đối xử trên thị
trường lao động của các nhóm dễ bị tổn thương như phụ nữ nghèo, người tàn tật, người dân tộc,
người bị HIV/ AIDS thường đẩy các gia đình và cộng đồng vào đói nghèo và sinh tồn qua công việc phi chính thức.
Điều này khá đúng với Việt Nam khi quan sát cho thấy, dường như có mối liên hệ thuận
chiều giữa tỷ lệ lao động phi chính thức với tỷ trọng lao động làm việc trong khu vực NLNTS và
tỷ lệ hộ nghèo của các tỉnh. Những tỉnh có tỷ lệ hộ nghèo cao với tỷ lệ lao động làm việc trong
khu vực NLNTS cao thường sẽ có tỷ lệ lao động phi chính thức cao. Ví dụ như Điện Biên có tỷ
lệ lao động phi chính thức là 85,4%, lao động trong NLNTS của tỉnh này chiếm tới 70,4% và tỷ
lệ hộ nghèo của tỉnh là 34,5%. Ngược lại, ở một số tỉnh phát triển năng động, tập trung nhiều
khu công nghiệp, khu chế xuất có tỷ trọng lao động trong nông nghiệp nhỏ thì số lao động có
việc làm phi chính thức cũng chiếm tỷ trọng thấp. Điển hình là Thành phố Hồ Chí Minh với tỷ
lệ lao động trong NLNTS chỉ thấp hơn 15% và tỷ lệ hộ nghèo chỉ chưa đến 0,3% thì tỷ lệ lao
động phi chính thức lần lượt là 48,0%.(Hình 3)
Hơn hai phần ba số lao động phi chính thức (70%) có độ tuổi từ 25-59, tương đương với
sự phân bố độ tuổi của lao động có việc làm chung. Nếu xét riêng theo từng nhóm 5 độ tuổi, ở
nhóm dân số từ 15 đến 19 tuổi, tỷ lệ lao động phi chính thức khá cao, hơn 80%. Tỷ lệ này giảm
mạnh ở nhóm tuổi 20 đến 24 với hơn 60% và bắt đáy ở nhóm tuổi 25-29, với gần 55%. Sau độ
tuổi 29, tỷ lệ phi chính thức của lao động bắt đầu tăng lên và tăng mạnh từ nhóm tuổi 45-49 trở
đi. Tỷ lệ này đặc biệt cao ở nhóm lao động từ 60 tuổi trở lên. Hơn 90% lao động ở độ tuổi từ 60
trở lên có việc làm phi chính thức. Rõ ràng, có mối tương quan khá chặt chẽ giữa độ tuổi và tình
trạng việc làm của người lao động. Người lao động ở độ tuổi quá trẻ (từ 15 – 19 tuổi) hoặc đã
qua độ tuổi lao động (60+) thường phải chấp nhận làm các công việc thiếu bền vững, dễ bị tổn
thương hơn lao động ở các nhóm tuổi khác. Điều đáng lưu tâm nhất chính là sự tăng mạnh về tỷ
lệ lao động phi chính thức ở nhóm tuổi từ 30 trở lên, nhóm tuổi trung niên vẫn được coi là có
đóng góp chủ yếu cho nền kinh tế. Xu hướng này cũng quan sát thấy qua nhiều năm. Có giả
thiết cho rằng tình trạng này là hệ lụy của việc sa thải lao động từ 30 tuổi trở lên của một số
doanh nghiệp. Tuy nhiên, các bằng chứng về vấn đề này vẫn chưa rõ và cần có thêm nhiều khảo
sát chuyên sâu để tìm hiểu kỹ hơn thực trạng đáng lưu tâm này.(hình 4)
Năm 2017, theo kết quả khảo sát tại 64 doanh nghiệp của Viện Công nhân - Công đoàn
(Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam), nhiều lao động chỉ làm việc 6-7 năm rồi nghỉ. Độ tuổi của
các lao động tại thời điểm nghỉ việc thường từ 31-32 và rất ít người làm đến năm 35 tuổi. Đối
tượng này chủ yếu là người lao động làm việc tại các doanh nghiệp thâm dụng lao động như dệt
may, da giày, có công việc giản đơn, không đòi hỏi cao về trình độ kỹ thuật. Kết quả khảo sát
cũng cho thấy có nơi, 80% phụ nữ trên 35 tuổi làm việc trong các KCN bị buộc phải nghỉ việc
với lý do chính là cơ cấu lại sản xuất hoặc tự nghỉ vì không chịu được điều kiện làm việc khắc
nghiệt. Sau khi bị buộc phải nghỉ việc, đa số người lđ chuyển sang làm công việc tự do, buôn
bán, nội trợ, làm ruộng, bán hàng rong. Nguồn: tạp chí Bảo hiểm Xã hội Việt Nam, kỳ 02 - tháng 9/2017.
Người lao động được đào tạo chuyên môn kỹ thuật có nhiều ưu thế hơn và có nhiều cơ
hội được làm các công việc chính thức hơn so với người không được đào tạo hoặc đào tạo ở
trình độ thấp. Phần lớn (hơn 85%) lao động phi chính thức là những người không được đào tạo
chuyên môn kỹ thuật, cao gấp 2 lần tỷ trọng chưa qua đào tạo của lao động chính thức, gần 45%.
Trình độ càng cao thì tỷ lệ lao động phi chính thức càng giảm, xu hướng này quan sát được qua
nhiều năm và ở cả hai giới, nam và nữ. Điều này dễ lý giải bởi lao động không có trình độ
chuyên môn kỹ thuật sẽ khó có thể tiếp cận với các công việc yêu cầu có chuyên môn, tay nghề.
Họ buộc phải chấp nhận làm các công việc không đòi hỏi chuyên môn kỹ thuật, mang tính tạm
thời và không được bảo vệ.
Nông, lâm nghiệp và thủy sản; Công nghiệp chế biến chế tạo; Xây dựng và Bán buôn và
bán lẻ; sửa chữa ô tô, mô tô xe máy là các ngành thu hút hầu hết lao động phi chính thức của cả
nước. Đến hơn 80% lao động phi chính thức của Việt Nam đang làm việc ở các ngành này.
(hình 6) Có sự khác biệt trong phân bố lao động phi chính thức giữa khu vực thành thị và nông
thôn. Ở khu vực nông thôn, có đến hơn 50% lao động phi chính thức làm trong ngành NLNTS,
ngược lại ở khu vực thành thị, lao động phi chính thức tập trung chủ yếu ở khu vực dịch vụ, điều
này do sự khác biệt về cơ cấu lao động giữa hai khu vực này.
Quan sát riêng từng ngành có thể thấy, rất nhiều ngành có tỷ lệ lao động phi chính thức
cao như ngành NLNTS; Xây dựng; Hoạt động làm thuê các công việc trong các hộ gia đình.
Hầu hết (hơn 90%) lao động làm việc trong các ngành này đều là lao động phi chính thức. Riêng
ngành NLNTS, con số này còn đạt mức 99%. Nghĩa là người lao động nếu làm việc trong các
ngành này, sẽ phải làm các công việc dễ bị tổn thương và không được bảo trợ bởi các chính sách
pháp luật về lao động.(hình 7)
Lao động phi chính thức thường làm các công việc giản đơn, ít đòi hỏi trình độ kỹ năng
hoặc trình độ chuyên môn kỹ thuật. Khoảng hơn 35% lao động phi chính thức làm nghề giản
đơn, chiếm tỷ trọng cao nhất trong 9 nhóm nghề có sự tham gia của lao động phi chính thức. Số
lao động phi chính thức làm các công việc có trình độ cao (như Nhà chuyên môn kỹ thuật bậc
cao; nhà chuyên môn kỹ thuật bậc trung; nhân viên văn phòng) chỉ chiếm tỷ trọng rất thấp
khoảng gần 2%. Đặc điểm này hoàn toàn trái ngược với lao động chính thức. Đối với lao động
chính thức, công việc đòi hỏi trình độ quản lý, trình độ chuyên môn kỹ thuật cao nói trên thu hút
đến hơn 30% lao động nhóm này. (hình 8)
Có sự khác biệt đáng kể về khả năng ứng dụng công nghệ thông tin cho công việc của lao
động phi chính thức và chính thức. Tỷ lệ người lao động phi chính thức áp dụng công nghệ
thông tin khi làm việc chỉ chiếm 7,0%. Trong khi đó, tỷ lệ này của lao động chính thức lên đến
40% (gấp 5,7 lần so với lao động phi chính thức).
3.2. THU NHẬP CỦA LAO ĐỘNG CÓ VIỆC LÀM PHI CHÍNH THỨC
Thu nhập từ công việc chính của lao động phi chính thức trong năm 2021 là 4,4 triệu đồng, chỉ
bằng một nửa thu nhập của lao động chính thức (8,2 triệu đồng). Nam giới dù làm công việc
chính thức hay phi chính thức thì đều có thu nhập cao hơn nữ giới trong cùng nhóm khoảng 2 triệu đồng.
Gần một nửa (47,0%) số người lao động phi chính thức có mức thu nhập thấp hơn mức lương
tối thiểu vùng. Con số này ở lao động chính thức chỉ là 8,0%. Rõ ràng, so với lao động chính
thức, lao động phi chính thức không chỉ chịu nhiều thiệt thòi hơn do phải làm công việc bấp
bênh, tạm thời, không được bảo trợ xã hội mà còn khó có thể đảm bảo mức sống tối thiểu cho
bản thân và gia đình. Tình trạng này ở nữ giới còn đáng quan ngại hơn. Hơn 61% lao động nữ có
việc làm phi chính thức nhận mức thu nhập thấp hơn mức lương tối thiểu vùng cao gần gấp 2 lần
tỷ lệ này ở nam giới. Chủ trương chính thức hóa lao động phi chính thức có thể là một trong
những giải pháp tốt để giảm thiểu tỷ lệ lao động có mức thu nhập thấp.
MỘT SỐ Ý KIẾN CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG CÓ VIỆC LÀM PHI CHÍNH THỨC VỀ MỨC LƯƠNG:
“ Công việc hiện tại của tôi chỉ đáp ứng được khoảng 50% nhu cầu cuộc sống”- Lê Văn Đô,
nam 47 tuổi, Bán đậu phụ tại Lĩnh Nam, Hà Nội.
“ Công việc hiện tại chỉ đáp ứng khoảng 50% - 60% cuộc sống, tôi đi chợ 1 buổi còn 1 buổi phải
làm nông, trồng rau, chăn nuôi.”- Lê Thị Hồng, nữ 48 tuổi, Bán rau tại chợ Điện Ngọc, Điện Bàn, Quảng Nam.
Thu nhập bình quân của lao động phi chính thức làm việc trong khu vực NLNTS là thấp nhất,
với 3,3 triệu đồng/tháng, thấp hơn rất nhiều so với các ngành khác (dịch vụ: 5,1 triệu
đồng/tháng; công nghiệp: 5,2 triệu đồng/tháng và xây dựng: 5,9 triệu đồng/tháng). Thứ hạng về
thu nhập của lao động phi chính thức làm việc trong các ngành kinh tế không có sự khác biệt
giữa nam và nữ. Tuy nhiên, ở tất cả các ngành, thu nhập bình quân của lao động phi chính thức
nam luôn cao hơn nữ. Mức chênh lệch cao nhất ghi nhận được ở ngành NLNTS, thu nhập của
nam cao gấp 2,5 lần thu nhập của nữ. Ở các ngành khác, mức chênh lệch này chỉ xấp xỉ 1,5 lần. (Hình 9)
3.3. SỐ GIỜ LÀM VIỆC
So với lao động chính thức, lao động phi chính thức có thời gian làm việc trung bình ít hơn.
Bình quân mỗi tuần, lao động phi chính thức giành 37,5 giờ để làm việc trong khi đó lao động
chính thức giành đến 42,8 giờ để làm việc. Số giờ làm việc trung bình của lao động phi chính
thức đều cao hơn từ 2 giờ chở lên đối với nhóm lao động là chủ cơ sở, lao động tự làm.
Số giờ làm việc thấp cộng với thu nhập không được đảm bảo (44,5% lao động phi chính thức
có mức thu nhập thấp hơn lương tối thiểu vùng) khiến tỷ lệ thiếu việc làm theo giờ của lao động
phi chính thức cao hơn rất nhiều so với lao động chính thức. Có 3,6% người lao động phi chính
thức làm việc dưới 35 giờ một tuần cho biết họ có nhu cầu làm thêm giờ để có thêm thu nhập.
Trong khi đó, tỷ lệ thiếu việc làm của lao động chính thức là 1,6%, thấp hơn 2 điểm phần trăm
so với tỷ lệ này ở lao động phi chính thức.
Có sự khác biệt lớn về số giờ làm việc bình quân của người lao động phi chính thức theo vị thế
việc làm. Chủ cơ sở và người làm công hưởng lương có số giờ làm việc bình quân trong tuần
cao nhất, khoảng gần 42 giờ/tuần, cao hơn 10 giờ/tuần so với người lao động tự làm, lao động
gia đình và xã viên hợp tác xã. Sự khác biệt này không phát hiện thấy ở nhóm lao động chính thức.
Theo Bộ luật Lao động, số giờ làm việc tối đa của người lao động trong 1 tuần không quá 48
giờ, tuy nhiên tỷ lệ lao động làm quá số giờ theo luật này còn khá cao, đặc biệt ở nhóm lao động
làm công hưởng lương phí chính thức. Năm 2021, có 35,6% lao động làm công hưởng lương phi
chính thức làm việc vượt quá 48 giờ/tuần, cao hơn 10,1 điểm phần so với lao động làm công
hưởng lương chính thức (25,5%). Như vậy, mặc dù chúng ta đã có điều khoản xử phạt về vấn đề
này tuy nhiên tình trạng này dường như vẫn không được cải thiện.
CHƯƠNG IV: VIỆC LÀM Ở NÔNG THÔN VÀ TÌNH TRẠNG DI CƯ RA THÀNH THỊ
Di cư là hiện tượng di chuyển của con người từ nơi này đến nơi khác để tìm kiếm
cơ hội và cuộc sống tốt hơn. Có nhiều loại hình di cư như di cư trong nước, di cư quốc tế,
di cư định cư, di cư tạm trú và di cư tị nạn. Trong bối cảnh Việt Nam, di cư trong nước và
đô thị hóa đang trở thành một vấn đề quan trọng.
Tỷ lệ di cư trong nước đang ngày càng tăng, chủ yếu từ nông thôn lên thành thị.
Điều này đồng nghĩa với việc tỷ lệ đô thị hóa đang cao và các thành phố lớn đang phát
triển mạnh mẽ, trong khi các thành phố nhỏ và trung bình cũng đang phát triển. Thiếu
việc làm và thu nhập thấp ở nông thôn là một trong những yếu tố đẩy người dân di cư lên
thành thị, trong khi cơ hội việc làm và thu nhập cao ở thành thị là yếu tố kéo.
Tuy nhiên, di cư cũng gây ra một số tác động tiêu cực như áp lực lên các thành phố
lớn, gây ra bất bình đẳng trong xã hội và ảnh hưởng đến môi trường. Vì vậy, để quản lý di
cư trong nước và đô thị hóa ở Việt Nam, chúng ta cần đưa ra các giải pháp như tăng đầu
tư vào các vùng nông thôn, tạo ra các công ăn việc làm cho người dân, cải thiện môi
trường sống và giúp đỡ người dân tiếp cận các dịch vụ xã hội tốt hơn. Chúng ta cũng cần
xây dựng các chính sách hỗ trợ cho các thành phố nhỏ và trung bình phát triển, đồng thời
tạo ra các kế hoạch quản lý và phát triển đô thị hóa bền vững.
4.1. So sánh nông thôn và thành thị ở Việt Nam và tổng quan tình hình di cư trong nước
Nguồn: Tổng cục Thống kê 2018 và Tổng điều tra dân số và nhà ở 2019
Từ khi Luật Giáo dục được ban hành vào năm 2005, các em nhỏ ở Việt Nam đều có cơ
hội tiếp cận giáo dục, đặc biệt là những em thuộc các dân tộc thiểu số và trẻ em khó khăn.
Nhà nước cũng đầu tư ngân sách quốc gia vào giáo dục và cải cách hệ thống giáo dục
(theo Quốc hội Việt Nam 2005). Tỷ lệ biết chữ của trẻ em từ 15 tuổi trở lên đạt gần 100%
ở cả nông thôn và thành thị (theo Tổng cục Thống kê 2021). Tuy nhiên, tỷ lệ tiếp cận giáo
dục của trẻ em nam và trẻ em ở thành thị vẫn còn cao hơn. Ngoài ra, sự khác biệt về trình
độ học vấn giữa nông thôn và thành thị còn được thể hiện rõ qua Bảng 3. Dân số nông
thôn tốt nghiệp cao đẳng, đại học và trên đại học thấp hơn gần 4 lần so với dân số thành thị. Nguồn: VHLSS 2014
Chúng ta đều đồng ý rằng giáo dục đóng một vai trò quan trọng trong việc cung
cấp kiến thức và kỹ năng cần thiết để phát triển kinh tế - xã hội cho đất nước. Tuy nhiên,
khoảng cách về trình độ học vấn giữa người dân ở khu vực nông thôn và thành thị có thể
dẫn đến chênh lệch về thu nhập và việc làm của họ.
4.2. Sự khác biệt về thu nhập và việc làm
Nhiều đô thị ở Việt Nam được hưởng nhiều lợi thế về đặc điểm địa lý, cơ sở hạ
tầng và cụm công nghiệp, do đó đã trở thành trung tâm phát triển thu hút đầu tư nước
ngoài. Tuy nhiên, khu vực nông thôn thường kém phát triển hơn. Mặc dù dân số ở các đô
thị chỉ chiếm 25% dân số Việt Nam, nhưng lại đóng góp tới 70% vào sự phát triển kinh tế
quốc gia (Ngân hàng Thế giới 2004). Từ năm 2010, tỷ lệ dân số sống ở thành thị chỉ tăng
lên hơn 34%, trong khi phần lớn dân số vẫn sinh sống tại vùng nông thôn (UN Vietnam
2010). Sự tăng trưởng không đồng đều này tạo ra sự mất cân đối rõ rệt giữa thành thị và
nông thôn về thu nhập, cơ hội việc làm, giáo dục, y tế và cải thiện mức sống.
Theo Liên hợp quốc (UN Vietnam 2010), thu nhập bình quân của người dân thành
phố cao hơn gần gấp đôi so với người dân nông thôn. Dù cho thu nhập và điều kiện sống
của người dân khu vực nông thôn đã được cải thiện và thu nhập bình quân của họ tăng
đáng kể từ 75,8 triệu đồng lên gần 130 triệu đồng trong giai đoạn 2012-2017 (Đào Thế
Anh/Nguyễn Văn Bộ 2019), sự chênh lệch thu nhập giữa nông thôn và thành thị vẫn còn
tồn tại. Khảo sát cho thấy gần 8% người dân thành thị có thu nhập tối thiểu từ 30 triệu
đồng/tháng trở lên trong khi khoảng 2% người dân sống ở nông thôn có mức thu nhập
tương đương (Infocus Mekong 2020). Nói cách khác, vào năm 2020, những người sống ở
thành phố có thể kiếm được gấp đôi so với những người sống ở nông thôn.
Năm 2016-2019, nền kinh tế Việt Nam đạt tốc độ tăng trưởng bình quân
6.78%/năm. Thu nhập tăng từ 3.1 triệu đồng/tháng/người năm 2016 lên 4.2 triệu đồng
năm 2020, nhưng tốc độ tăng thu nhập của nhóm nghèo nhất luôn thấp hơn nhóm giàu
nhất. Giai đoạn này, lao động có việc làm trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp, thủy sản
giảm, nhưng tăng trong lĩnh vực công nghiệp, xây dựng và dịch vụ từ năm 2009 đến 2019
(Điều tra dân số năm 2019).
Tuy nhiên, tỷ lệ lao động qua đào tạo ở thành thị cao gấp 3 lần so với nông thôn
(Đặng Kim Khôi/Trần Công Thắng 2019). Năm 2016, lao động phi chính thức chiếm
59% ở khu vực thành thị và 35% ở khu vực nông thôn (Đặng Kim Khôi/Trần Công Thắng 2019).
4.3. Tình hình di cư ở Việt Nam
Nền kinh tế Việt Nam đã có sự tăng trưởng đáng kể kể từ khi chính sách Đổi Mới được
triển khai vào những năm 1980. Việc cải cách các chính sách đã cho phép người dân Việt
Nam di chuyển đến các thành phố lớn, góp phần vào quá trình đô thị hóa. Hiện nay, dân
số đô thị đạt khoảng 39,4 triệu người, chiếm gần 40,9% tổng số dân trong cả nước (Tổng
điều tra dân số và nhà ở 2019). Theo Điều tra Di cư nội địa quốc gia năm 2015, tỷ lệ di
cư từ nông thôn đến thành thị chiếm gần một nửa số người di cư (49,8%). Ngược lại, di
cư từ thành thị đến nông thôn chỉ chiếm 2,9% tổng dòng di cư nội địa (TCTK/UNFPA
2016). Nghiên cứu cũng cho thấy rằng yếu tố hút của điểm đến là nguyên nhân chính dẫn
đến di cư từ nông thôn ra thành thị ở Việt Nam. Theo một nghiên cứu của Nguyen, Dang
và Liu năm 2019, quyết định di cư của người lao động được đưa ra để cải thiện cuộc sống của họ.
Các thành phố như Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà Nẵng và một số tỉnh ở Đông
Nam Bộ đóng vai trò là trung tâm sản xuất (Bình Dương, Đồng Nai) đã và đang kéo
người dân ra khỏi các vùng nông thôn (Thanh/Sakata 2005; NguyễnHoàng/ McPeak
2010; Coxhead/Nguyễn/Vũ 2015). Theo Điều tra Di cư nội địa quốc gia năm 2015,
13,6% dân số Việt Nam di cư trong nước. Phần lớn trong số họ đến từ khu vực nông thôn
(79,1%) và các gia đình lớn với nhiều thành viên đi làm hơn có xu hướng di chuyển
thường xuyên hơn (Tổng cục Thống kê 2016). Do đó, tỷ lệ dân số thành thị (19,7%) cao
hơn so với nông thôn là 13,4% (Tổng cục Thống kê 2016).
Tổng cục Thống kê 2016 cũng chỉ ra rằng 36,2% di cư là nông thôn-thành thị, 31,6% là
thành thị-thành thị, 19,6% là nông thôn-nông thôn và 12,6% là thành thị-nông thôn trong
giai đoạn 2010-2015. Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019, lý do chính của việc
di cư là để có cơ hội việc làm (36,8%) và chuyển đến nơi ở hoặc đoàn tụ gia đình
(35,5%). Hầu hết người di cư tập trung ở vùng Đông Nam Bộ (20,3%), trong khi số lao
động di cư ở vùng Trung du và miền núi phía Bắc lại thấp nhất (Hình 4 và Hình 5).
4.3.1. Đặc điểm chính của người di cư tại Việt Nam
Phần lớn người di cư là người trẻ, trong độ tuổi từ 15 đến 39, chiếm 85% và tuổi
trung bình là 29,2. Tuy nhiên, phụ nữ thường nhập cư ở độ tuổi trẻ hơn. Người di cư
phổ biến nhất là dân tộc Kinh. Các dân tộc thiểu số thường sống ở vùng sâu, vùng xa
và miền núi, cách xa các thành phố lớn nên họ có xu hướng không thường xuyên di
chuyển do thiếu thông tin và chi phí di cư cao.
Tỷ lệ phụ nữ di cư trong độ tuổi 15–59 đã tăng lên, chiếm 52,4% tổng số.Các công
ty sản xuất hàng may mặc, giày dép, công nghiệp điện tử và chế biến thủy sản có xu
hướng tuyển dụng nhiều lao động nữ hơn nam. Khoảng 80% lao động sản xuất hàng
may mặc và điện tử là nữ.Người già thường bị bỏ lại phía sau vì hầu hết các thành
viên trong gia đình di cư để tìm kiếm cơ hội việc làm.
Để giảm tác động tiêu cực của đại dịch COVID-19, Chính phủ đã đưa ra nhiều
chương trình hỗ trợ, bao gồm gói tài khóa hỗ trợ doanh nghiệp, chương trình cho vay
lãi suất bằng 0 để doanh nghiệp trả lương cho người lao động, gói bảo trợ xã hội cho
các nhóm yếu thế, đồng thời hỗ trợ giảm giá điện, giảm lãi suất và gói tín dụng cho
các ngân hàng. Điều kiện sống và làm việc của người nhập cư trong nước khi chuyển
đến đô thị thường có nhiều thay đổi. Theo Tổng cục Thống kê năm 2016, 74,8%
người di cư trong độ tuổi từ 15–59 có việc làm. Hầu hết những người không làm việc
di cư với mục đích học tập. Nhiều lao động nữ di cư làm việc trong ngành may mặc
hoặc giúp việc gia đình hơn, và nam giới chủ yếu làm việc trong ngành xây dựng hoặc lái xe taxi/xe ôm.
Hơn 30% người nhập cư gửi tiền về quê hàng năm, số tiền trung bình là 1.200 đô
la Mỹ và mức trung vị là 530 đô la Mỹ mỗi năm. Đông Nam Bộ, Đồng bằng sông
Hồng và Thành phố Hồ Chí Minh có tỷ lệ người nhập cư gửi tiền về cao nhất và là
những khu vực có tỷ lệ người nhập cư có việc làm cao nhất.
4.3.2. Sự Thay Đổi Của Luồng Di Cư Sau Đại Dịch COVID-19
Các thông tin và số liệu thống kê được thu thập trước đại dịch COVID-19 cho thấy
tình hình di cư. Tuy nhiên, dịch bệnh đã tác động đến luồng di cư, và một nghiên cứu kéo
dài 7 tháng từ tháng 3 đến tháng 9 năm 2022 đã được thực hiện để điều tra tác động của
COVID-19 đối với quyền lao động của người di cư trong nước làm việc trong các lĩnh
vực sản xuất như may mặc, giày dép và công nghiệp điện tử. Trong đại dịch COVID-19
lần thứ tư tại Việt Nam, lao động di cư trong nước bị ảnh hưởng nặng nề và nhiều người
phải trở về quê hương, gây ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế. Các chuyên gia dự đoán
rằng những người di cư sẽ dè dặt hơn với việc quay trở lại làm việc, đặc biệt là trong
những ngành sản xuất quan trọng, do họ đã trải qua những tác động về thể chất và tinh
thần trong thời gian bị phong tỏa nghiêm ngặt và cấm đi lại.
Để hạn chế tác động tiêu cực của đại dịch COVID-19, Chính phủ Việt Nam đã đưa
ra một số chương trình, bao gồm gói tài khóa hỗ trợ doanh nghiệp, chương trình cho vay
lãi suất bằng 0 để doanh nghiệp trả lương cho người lao động, gói bảo trợ xã hội cho các
nhóm yếu thế, đồng thời hỗ trợ giảm giá điện, giảm lãi suất và gói tín dụng cho các ngân
hàng. Các doanh nghiệp cần phối hợp chặt chẽ với chính phủ và các bên liên quan khác
để bảo vệ người lao động Việt Nam và đảm bảo lợi ích và hạnh phúc bền vững cho họ.
Trong bối cảnh đó, việc phục hồi kinh tế xã hội ở Việt Nam, đặc biệt là ở các khu vực đô
thị, sẽ diễn ra nhanh chóng để đóng góp cho GDP quốc gia và phát triển kinh tế xã hội. 4.4. Kết Luận
Tổng kết lại, có thể thấy rằng thiếu việc làm ở khu vực nông thôn là một trong
những nguyên nhân gây ra hiện tượng di cư đến thành thị. Việc người lao động nhập cư
tìm kiếm cơ hội việc làm tốt hơn, mong muốn cải thiện thu nhập và học vấn tại các thành
phố lớn đã đem lại cả thuận lợi và khó khăn cho quá trình đô thị hóa. Mặt khác, việc quản
lý sự di chuyển của con người tại Việt Nam đang phát triển là một trong những thách
thức lớn đối với các khu vực tiếp nhận, đặc biệt là ở các thành phố đông đúc như Hà Nội
và TP. Hồ Chí Minh. Điều này đặt ra nhiều thách thức cho chính quyền và các cơ quan
chức năng ở cấp địa phương và quốc gia, đặc biệt là trong việc cung cấp các dịch vụ và
cơ sở hạ tầng đô thị cần thiết để đáp ứng nhu cầu và mong đợi của người dân.
CHƯƠNG V: PHỤ NỮ TRONG THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG VIỆT NAM –
NHỮNG THÁCH THỨC VÀ KHÓ KHĂN
5.1.Thị trường lao động Việt Nam: Nhiều cơ hội nhưng phụ nữ vẫn chịu nhiều thiệt thòi
Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu trong phát triển kinh tế - xã hội, trong đó có
thị trường lao động. Tuy nhiên, phụ nữ Việt Nam vẫn phải đối mặt với nhiều rào cản và
khó khăn trong thị trường lao động.
Thời kỳ đổi mới, thị trường lao động Việt Nam có nhiều biến động, dẫn đến tình
trạng mất cân bằng và bất ổn. Phụ nữ là đối tượng chịu tác động tiêu cực đầu tiên, với tỷ
lệ thất nghiệp cao hơn nam giới và thu nhập thấp hơn.
Việt Nam cam kết bình đẳng giới, nhưng trong thực tế, việc thực thi các chính sách
bình đẳng giới vẫn còn nhiều hạn chế. Phụ nữ vẫn phải chịu phân biệt đối xử trong tuyển
dụng, thăng tiến và trả lương. Họ cũng phải dành nhiều thời gian hơn cho công việc gia
đình, khiến họ có ít thời gian và cơ hội tham gia thị trường lao động.Để giải quyết những
thách thức này, Việt Nam cần tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lý và chính sách, đồng
thời tăng cường tuyên truyền, nâng cao nhận thức về bình đẳng giới. Cần có các chính
sách hỗ trợ phụ nữ tham gia thị trường lao động, xóa bỏ phân biệt đối xử và tạo điều kiện
cho phụ nữ cân bằng giữa công việc và gia đình.
Thị trường lao động Việt Nam có nhiều tiềm năng và cơ hội cho phụ nữ. Tuy
nhiên, để phụ nữ có thể phát huy hết tiềm năng của mình, cần có sự nỗ lực của cả xã hội
trong việc thúc đẩy bình đẳng giới và tạo điều kiện thuận lợi cho phụ nữ tham gia thị trường lao động.
5.2. Bất bình đẳng, phân biệt giới tính còn tồn tại
Năm 2019 có tới 70.9% phụ nữ Việt Nam trong độ tuổi lao động tham gia lực
lượng lao động, trong khi số liệu toàn cầu chỉ là 47.2%, và ở khu vực Châu-Thái Bình
Dương thậm chí còn thấp hơn, là 43.9% (Vietnam+ 2021).Có nhiều nguyên nhân dẫn đến
tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của phụ nữ Việt Nam cao hơn so với thế giới và khu
vực. Một số nguyên nhân chính bao gồm: Trong những năm gần đây, Việt Nam đã đạt
được nhiều thành tựu trong phát triển kinh tế - xã hội. Điều này đã tạo ra nhiều cơ hội
việc làm cho cả nam và nữ. Việt Nam đã có nhiều chính sách thúc đẩy bình đẳng giới,
trong đó có bình đẳng trong lao động. Các chính sách này đã góp phần nâng cao nhận
thức về bình đẳng giới và tạo điều kiện cho phụ nữ tham gia thị trường lao động. Xã hội
Việt Nam đang có những thay đổi tích cực về văn hóa và xã hội. Phụ nữ ngày càng được
trao quyền nhiều hơn và có nhiều cơ hội để phát triển. Tuy nhiên dù tỷ lệ tham gia lực
lượng lao động của phụ nữ Việt Nam cao hơn so với thế giới và khu vực, nhưng phụ nữ
Việt Nam vẫn phải đối mặt với một số thách thức trong thị trường lao động, như: Phụ nữ
vẫn phải đối mặt với phân biệt giới trong tuyển dụng, thăng tiến và trả lương. Phụ nữ
thường phải dành nhiều thời gian hơn cho công việc gia đình, khiến họ có ít thời gian và
cơ hội tham gia thị trường lao động. Phụ nữ vẫn chưa được tiếp cận đầy đủ với các cơ hội
việc làm chất lượng cao.
Trong ba năm gần đây, cơ cấu lao động Việt Nam đã có những bước tiến quan
trọng trong việc nâng cao tỷ lệ phụ nữ làm công hưởng lương, từ 37.9% năm 2017 lên
43.4% năm 2021. Đây là một kết quả khả quan cho việc thực hiện Chiến lược quốc gia về
bình đẳng giới giai đoạn 2021-2030, với mục tiêu đạt 50% vào năm 2025 và khoảng 60%
vào năm 2030. Đồng thời, tỷ trọng lao động nữ trong lĩnh vực nông nghiệp cũng đã giảm
từ 35.9% năm 2019 xuống còn 28.7% năm 2021, gần đạt chỉ tiêu của Chiến lược là dưới
30% vào năm 2025 và dưới 25% vào năm 2030. Những con số này cho thấy sự chuyển
dịch tích cực của cơ cấu lao động Việt Nam theo định hướng bình đẳng giới, nhưng vẫn
còn tồn tại những bất bình đẳng giữa hai giới trong thị trường lao động.
Một sự khác biệt giữa nam và nữ trong thị trường lao động là một vấn đề cần được
chú ý. Theo số liệu năm 2019, chỉ có 43% phụ nữ có việc làm là lao động làm công
hưởng lương, trong khi đó tỷ lệ này ở nam giới là 51.4%. Phụ nữ cũng chiếm đa số trong
những nhóm lao động/việc làm dễ bị tổn thương như hộ gia đình và lao động tự làm, với
tỷ lệ 65.4% so với 34.6% của nam giới. Ngoài ra, phụ nữ cũng có tỷ lệ cao hơn nam giới
trong nhóm lao động gia đình không được trả công, với 19.4% so với 9.2%. Phụ nữ
chiếm tới 2/3 lao động gia đình ở Việt Nam, và những việc làm này chiếm gần 1/4 việc
làm của phụ nữ nông thôn. Trong khi đó, chỉ có 2.7 triệu lao động gia đình là nam giới,
và những việc làm này chỉ chiếm 13% của tổng số việc làm của nam giới ở nông thôn
(Tổng cục Thống kê 2021).
Bất bình đẳng thu nhập giữa hai giới cũng là một thực tế không thể phủ nhận. Năm
2018, thu nhập từ việc làm bình quân hàng tháng của lao động làm công ăn lương khá
thấp (5.867 triệu đồng/tháng). Trong số đó, nam giới có thu nhập cao hơn nữ giới 12%
(6.183 so với 5.446 triệu đồng). Số liệu thống kê cho thấy trong 6 tháng đầu năm 2022,
thu nhập bình quân hàng tháng của người lao động làm công hưởng lương đã tăng lên 7.4
triệu đồng. Tuy nhiên, nam giới vẫn có thu nhập cao hơn nữ giới 1.13 lần (7.8 so với 6.9
triệu đồng/tháng) (Tổng cục Thống kê 2022).
Nguồn: Tự tổng hợp
 Mức thu nhập của lao động nam và nữ Việt Nam có sự chênh lệch đáng kể. Theo
dữ liệu thống kê, tiền lương trung bình của nam giới luôn cao hơn so với nữ giới.
Mức chênh lệch này có xu hướng tăng dần từ 9,2% năm 2017 lên 11,3% năm 2023.
 Nguyên nhân của tình trạng này là do phụ nữ thường làm việc trong các ngành
nghề có thu nhập thấp hơn, có trình độ học vấn thấp hơn và ít được thăng tiến hơn nam giới.
 Cụ thể, theo số liệu thống kê năm 2023, tỷ trọng lao động nữ trong các ngành nghề
có thu nhập thấp như nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản là 28,7%, trong khi tỷ
trọng lao động nam là 33,2%. Tỷ lệ lao động nữ có trình độ đại học trở lên là
21,1%, trong khi tỷ lệ lao động nam là 27,4%. Tỷ lệ lao động nữ ở vị trí quản lý là
23,8%, trong khi tỷ lệ lao động nam là 41,2%.
Những chênh lệch và bất bình đẳng đang được nhắc đến, ở một khía cạnh, cho thấy sự
hiện diện đồng bộ của bất bình đẳng giới trong thị trường lao động của Việt Nam. Nhiều
khía cạnh của vấn đề này đã được nhận thức từ khi Việt Nam bắt đầu cuộc Cải cách. 4. Kết luận
Thị trường lao động Việt Nam đang chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố trong và
ngoài nước, từ quy hoạch phát triển của chính phủ đến sự biến động của kinh tế toàn cầu.
Để đáp ứng được các cơ hội và thách thức trong bối cảnh mới, Việt Nam cần có một tiếp
cận toàn diện về các vấn đề kinh tế, xã hội, văn hóa và giới. Việt Nam đã có những bước
tiến quan trọng trong việc nâng cao chất lượng thị trường lao động, nhưng vẫn còn nhiều
hạn chế và thiếu sót cần khắc phục. Người lao động Việt Nam, đặc biệt là người lao động
nữ, vừa được hưởng lợi từ các chính sách hỗ trợ vừa phải đối phó với nhiều rủi ro và bất
bình đẳng do văn hóa truyền thống gây ra. Các số liệu và sự kiện từ thị trường lao động
Việt Nam không nên làm ta quá tự mãn, mà phải làm ta thấy rõ hơn những khó khăn và
giải pháp cho người lao động nữ Việt Nam.
Để tạo ra một thị trường lao động Việt Nam công bằng hơn về giới, không chỉ cần
có các chính sách và biện pháp dành riêng cho phụ nữ, mà còn cần phải coi trọng vai trò
của giới trong mọi hoạt động kinh tế và xã hội.
CHƯƠNG VI: CHẤT LƯỢNG NGUỒN LAO ĐỘNG VÀ SỨC ÉP ĐỐI VỚI GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
Hiện nay, Việt Nam ta có trên 49,2 trên tổng 85,79 triệu người đang trong độ tuổi
lao động chiếm 57,3% và đang đứng thứ 3 ở Đông Nam Á, đứng thứ 13 trên thế giới về
quy mô dân số. Nước ta còn có một đội ngũ nhân lực dồi dào so với một vài nước trong
khu vực. Dù vậy, việc phát triển nguồn nhân lực cao vẫn còn có những hạn chế. Tại đại
hội XIII, Đảng đã đánh giá “chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao
chưa đáp ứng yêu cầu phát triển”. Trong giai đoạn 2021-2030, Đại hội XIII của Đảng đã
đề ra định huớng tạo đột phá “phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, thu hút và trọng
dụng nhân tài”. Về công tác phân luồng trong giáo dục nghề nghiệp vẫn còn những khó
khăn, hay tâm lý trọng bằng cấp, gắn kết các cơ sở giáo dục nghề nghiệp với doanh
nghiệp. Do đó cần phải có những đổi mới trong giáo dục nghề nghiệp để nâng cao chất
lượng đào tạo song đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động về nguồn nhân lực hiện nay
6.1.Thách thức với giáo dục bậc đại học
6.1.1:Thất nghiệp theo trình độ

Hơn 1 triệu người trong độ tuổi lao động đang bị thất nghiệp, trong đó cử nhân, kỹ
sư, thạc sĩ và tiến sĩ thất nghiệp lên tới hơn 190.000 người. Tại Việt Nam hiện đang có
một xu hướng học càng cao thì nguy cơ thất nghiệp càng lớn.
Theo bản tin thị trường lao động quý 1/2016 của Bộ LĐ, TB&XH, nhóm đại học
trở lên có tỷ lệ thất nghiệp là 3,93%. Nhóm không có chuyên môn bằng cấp lại chỉ có tỷ
lệ thất nghiệp là 1,75%.
Nguyên nhân chủ yếu là do không phải trường đại học, cao đẳng nào cũng đủ nhân
lực để có thể xây dựng và triển khai chương trình đào tạo đáp ứng nhu cầu xã hội, cũng
như sự biến động không ngừng của nền kinh tế, dẫn đến nhu cầu nhân lực thay đổi.Trong
những năm gần đây, khi kỹ thuật công nghệ phát triển mạnh, nguồn nhân lực đã thay đổi
việc truyền tải nội dung hướng nghiệp chưa được quan tâm đúng mức,một số trường thì
chỉ lo quảng cáo mà quên mất trách nhiệm của mình là chuyên gia tư vấn, cần mang lại
sự hiểu biết đúng đắn, trung thực về ngành nghề và các bậc đào tạo.
6.1.2. Số bằng sáng chế
Tổng cộng 1.608.375 bằng sáng chế đã được cấp trong nhiều lĩnh vực. Trung Quốc
dẫn đầu ở 29/36 lĩnh vực, Mỹ đứng thứ hai với hơn 286.000 bằng sáng chế. Mỹ dẫn đầu
trong 4. lĩnh vực, Nhật Bản đứng thứ ba với gần 257.000 bằng sáng chế ở 3 lĩnh vực.
Tại Việt Nam, Theo Cục Sở hữu trí tuệ, từ năm 1981 đến hết năm 2022, có 10.240
sáng chế của chủ thể Việt Nam nộp đơn đăng ký tại Cục Sở hữu trí tuệ, 1.665 sáng chế
được cấp bằng độc quyền. Số lượng đơn đăng ký sáng chế của chủ thể Việt Nam tăng trung bình 10-19% mỗi năm.
Có thể thấy, số lượng bằng sáng chế ở Việt Nam vẫn còn khiêm tốn so với các quốc gia
khác trên thế giới. Nguyên nhân dẫn đến số lượng bằng sáng chế của Việt Nam ít là do :
 Công tác nghiên cứu và phát triển còn hạn chế: Việt Nam là một nước đang phát
triển, do đó, công tác vẫn còn nhiều hạn chế. Điều này dẫn đến việc thiếu hụt các
sáng kiến, phát minh mới, từ đó làm giảm số lượng bằng sáng chế được cấp.
 Chính sách hỗ trợ cho hoạt động sáng tạo chưa hiệu quả:Chính sách hỗ trợ cho
hoạt động sáng tạo ở Việt Nam vẫn còn nhiều bất cập. Các doanh nghiệp, tổ chức,
cá nhân sáng tạo chưa được hưởng nhiều ưu đãi về tài chính, thuế, đất đai,... Điều
này khiến cho các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân sáng tạo chưa có nhiều động lực
để đầu tư cho hoạt động sáng tạo.
 Nhận thức của doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân về tầm quan trọng của bằng sáng
chế còn hạn chế: Nhiều doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân ở Việt Nam chưa nhận thức
được đầy đủ tầm quan trọng của bằng sáng chế. Họ chưa coi bằng sáng chế là một
tài sản quan trọng cần được bảo vệ. Điều này dẫn đến việc nhiều sáng chế không
được đăng ký bảo hộ bằng sáng chế.
Để tăng cường số lượng bằng sáng chế ở Việt Nam, cần có sự nỗ lực của cả Chính phủ,
doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân. Chính phủ cần tiếp tục hoàn thiện chính sách hỗ trợ cho
hoạt động sáng tạo, nâng cao nhận thức của doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân về tầm quan
trọng của bằng sáng chế. Doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân cần đầu tư cho hoạt động
nghiên cứu và phát triển, coi bằng sáng chế là một tài sản quan trọng cần được bảo vệ.
Dưới đây là một số giải pháp cụ thể để tăng cường số lượng bằng sáng chế ở Việt Nam:
 Tăng cường đầu tư cho công tác nghiên cứu và phát triển: Chính phủ cần tăng
cường đầu tư cho công tác nghiên cứu và phát triển, đặc biệt là trong các lĩnh vực
khoa học và công nghệ mũi nhọn. Các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân cũng cần
đầu tư cho hoạt động nghiên cứu và phát triển để tạo ra nhiều sáng kiến, phát minh mới.
 Hoàn thiện chính sách hỗ trợ cho hoạt động sáng tạo:Chính phủ cần tiếp tục hoàn
thiện chính sách hỗ trợ cho hoạt động sáng tạo, bao gồm các chính sách về tài
chính, thuế, đất đai,... Các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân sáng tạo cần được
hưởng nhiều ưu đãi hơn để có thêm động lực đầu tư cho hoạt động sáng tạo.
 Nâng cao nhận thức của doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân về tầm quan trọng của
bằng sáng chế:Các cơ quan truyền thông cần tăng cường tuyên truyền, phổ biến về
tầm quan trọng của bằng sáng chế. Các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân cần được tư
vấn, hỗ trợ để hiểu rõ hơn về bằng sáng chế và các lợi ích mà bằng sáng chế mang lại.
6.1.3 Chi phí công cho giáo dục
Theo WB, Việt Nam phân bổ nguồn lực công khoảng 5% GDP cho giáo dục, tuy nhiên
trong đó, mức đầu tư cho giáo dục đại học của Việt Nam hiện rất thấp, chỉ chiếm 0,34%
(trong tổng số 6.1% Chính phủ đầu tư cho giáo dục và đào tạo). Trong khi đó, ở các nước,
tỷ lệ này cao hơn nhiều. Một số thách thức khi phân bổ nguồn lực trong tài chính giáo
dục đại học cũng được WB chỉ ra như:
Về kinh phí, việc phân bổ các quỹ công còn hạn chế, dựa trên các định mức truyền
thống, không dựa trên kết quả hoạt động hoặc vốn chủ sở hữu.
Hoạt động nghiên cứu của trường đại học nhìn chung còn ít tài trợ, quản lý lỏng lẻo,
chất lượng hợp tác còn hạn chế.
Các thủ tục chuẩn bị và giải ngân vốn đầu tư phức tạp, chưa đủ thu hút tài trợ ở cả khu
vực công lẫn thị trường tín dụng tư nhân.
Học bổng và các khoản vay dành cho sinh viên thấp, điều khoản vay – trả chưa đủ hấp dẫn Giải pháp:
- Phê duyệt và tài trợ đầy đủ Chiến lược Phát triển giáo dục đại học chuyển đổi trong
giai đoạn 2021 - 2030, WB đề xuất tăng ngân sách công cho giáo dục đại học từ 0,23%
hiện tại lên 0,8% GDP trước năm 2030.
- Trao quyền cho các hội đồng trường để bổ nhiệm lãnh đạo và phê duyệt các chiến
lược/ngân sách; Khuyến khích giáo dục đại học đổi mới, cải cách hành chính, bao gồm:
quản lý nhân sự/giảng viên, hợp tác quốc tế về nghiên cứu & phát triển.
- Đầu tư, nâng cao năng lực cho hoạch định chính sách; thiết kế chương trình; giám sát
và đánh giá; Cập nhật các chính sách về quyền tự chủ và trách nhiệm giải trình của giáo
dục đại học với nguồn tài trợ của nhà nước 6.2.Giải pháp Đối với sinh viên
 Sinh viên cần tích cực học tập rèn luyện, trau dồi kỹ năng mềm
 Tìm hiểu và lựa chọn ngành học kỹ càng sao cho phù hợp với năng lực, sở thích
của mình, phù hợp với nhu cầu hiện nay của xã hội o
Đối với cơ sở đào tạo, nhà trường
 Tuyên truyền, nâng cao nhận thức về cách lựa chọn ngành nghề cho người học, xã hội
 Triển khai những định hướng giáo dục về ngành nghề cho học sinh cấp THCS và THPT
 Đẩy mạnh hội nhập quốc tế trong giáo dục đại học, liên kết và hợp tác đào tạo với các tổ chức quốc tế
 Xây dựng cơ chế, chính sách cho vay vốn ưu đãi đối với SV có ý định vay vốn để
khởi nghiệp, nhằm tạo cơ hội cũng như là khuyến khích SV có thể chủ động trong việc tạo việc làm
 Thực hiện các chính sách hỗ trợ việc làm hoặc bảo hiểm thất nghiệp.
CHƯƠNG VII: NGƯỜI VIỆT NAM ĐI LÀM Ở NƯỚC NGOÀI VÀ NGƯỜI NƯỚC
NGOÀI LAO ĐỘNG TẠI VIỆT NAM
Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài không chỉ mang lại lợi ích kinh
tế cho bản thân họ và gia đình của họ mà còn có tác động tích cực đến phát triển kinh tế
và xã hội của đất nước. Trước hết, người lao động đi làm việc ở nước ngoài thường có
nguồn thu nhập cao và ổn định nhờ thế họ có thể cải thiện điều kiện sống, trang trải các
chi phí gia đình, gửi tiền về quê hương và đầu tư vào các nguồn lực khác nhau. Người lao
động đi làm việc ở nước ngoài còn góp phần phát triển kinh tế của Việt Nam. Người lao
động ra nước ngoài làm việc giúp giảm tỉ lệ thất nghiệp và tăng cơ hội việc làm cho
người dân. Đồng thời, nguồn thu nhập từ việc làm ở nước ngoài của người lao động cũng
góp phần tăng cường dòng vốn ngoại tệ cho đất nước. Thêm nữa, những người lao động ở
nước ngoài khi trở về nước thường mang theo kiến thức, kỹ năng chuyên môn và kỹ năng
quản lý mà họ học hỏi được. Họ có thể chia sẻ những kiến thức, kỹ năng này với các lao
động khác và đóng góp vào việc nâng cao chất lượng lao động và sản xuất trong nước.
Ngoài ra, người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài còn giúp mở rộng mối quan
hệ đối tác và hợp tác kinh tế với các quốc gia khác. Qua quá trình làm việc và sinh sống
trong môi trường đa quốc gia, người lao động Việt Nam có cơ hội xây dựng mạng lưới
quan hệ và kết nối với các nhà đầu tư, doanh nghiệp, và chuyên gia quốc tế. Điều này
không chỉ tạo ra cơ hội mới cho các hoạt động thương mại và đầu tư, mà còn thúc đẩy sự
hợp tác song phương trong lĩnh vực giáo dục, khoa học, văn hóa và công nghệ.
7.1.Tổng quan chủ trương,chính sách,luật pháp về người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài.
7.1.1. Về chủ trương.
Đưa lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài là chiến lược dài hạn quan
trọng, giúp tạo ra lực lượng lao động xây dựng đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa; Đây là một phần của hợp tác quốc tế, tăng cường quan hệ hữu nghị và hợp
tác bền vững với các nước. Mở rộng hoạt động xuất khẩu lao động, lao động có tay nghề
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước và đa dạng hóa các hình thức, thị
trường xuất khẩu lao động nhằm đáp ứng nhu cầu nước ngoài về số lượng, chất lượng,
trình độ và chuyên môn. Một mặt, các doanh nghiệp xuất khẩu lao động, lao động có tay
nghề cần đảm bảo khả năng cạnh tranh bằng cách tăng cường đào tạo lao động kỹ thuật,
lao động có tay nghề và tăng dần tỷ trọng lao động xuất khẩu chất lượng cao trong tổng
số lao động xuất khẩu. của các đơn vị xuất khẩu lao động; Mặt khác, chúng ta phải tôn
trọng và bảo vệ quyền lợi chính đáng của người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo
quy định của pháp luật nước ta và quốc gia nơi người lao động sinh sống và làm việc.
Phát triển và đẩy mạnh đào tạo nghề phù hợp với nhu cầu thị trường lao động, đào tạo
ngoại ngữ, đào tạo nâng cao nhận thức pháp luật, làm rõ quyền và nghĩa vụ của công ty
và người lao động trong việc thực hiện hợp đồng, tôn trọng thuần phong mỹ tục, văn hóa,
hội nhập thị trường lao động quốc tế. 7.1.2. Về chính sách.
a) Đẩy mạnh nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ thuật của người lao động Việt Nam đi
làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; Phát huy và sử dụng hiệu quả nguồn lao động sau khi từ nước ngoài về.
b) Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động Việt Nam, các công ty, tổ chức,
cá nhân trong lĩnh vực đưa người lao động Việt Nam đi làm việc theo hợp đồng ở nước ngoài.
c) Mở rộng hợp tác quốc tế trong các hoạt động phát triển thị trường lao động, ngành,
nghề, công việc đặc thù mới, an toàn, thu nhập cao nhằm giúp nâng cao trình độ, kỹ năng
chuyên môn của người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.
d) Bảo đảm bình đẳng giới, cơ hội việc làm, không phân biệt đối xử trong tuyển chọn,
dạy nghề, dạy ngoại ngữ và giáo dục định hướng cho người lao động Việt Nam đi làm
việc ở nước ngoài theo hợp đồng đồng; Thực hiện các biện pháp hỗ trợ bảo vệ người lao
động Việt Nam nước ngoài theo đặc điểm giới tính.
e) Hỗ trợ hòa nhập xã hội và tham gia thị trường lao động sau khi về nước. 7.1.3Về luật pháp.
Quyền, nghĩa vụ của người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng
1. Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng có các quyền sau đây:
a) Được cung cấp thông tin về chính sách, pháp luật của Việt Nam đối với người lao
động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài không theo hợp đồng;
b) Được tư vấn, hỗ trợ thực hiện các quyền, nghĩa vụ và lợi ích từ hợp đồng lao động, hợp đồng đào tạo;
c) Được hưởng tiền lương, tiền công, khám bệnh, chữa bệnh, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm
tai nạn lao động và các chế độ, quyền lợi khác theo hợp đồng lao động;
d) Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng khi đi làm việc ở nước ngoài theo hợp
đồng phù hợp với pháp luật Việt Nam;
e) Được hưởng các phúc lợi về lao động, việc làm và xã hội từ Quỹ hỗ trợ việc làm nước
ngoài theo quy định của pháp luật;
g) Khiếu nại, tố cáo, khởi kiện về hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực người lao
động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài.
2. Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng có các nghĩa vụ sau đây:
a) Tuân thủ pháp luật Việt Nam và pháp luật nước sở tại;
b) Bảo tồn và phát huy truyền thống văn hóa của dân tộc Việt Nam; Tôn trọng phong tục,
tập quán của nước tiếp nhận; đoàn kết với người lao động ở nước sở tại;
c) Hoàn thành chương trình đào tạo định hướng trước khi đi làm việc ở nước ngoài;
d) Nộp phí dịch vụ và đặt cọc theo quy định của Luật này;
d) Làm việc đúng nơi; duy trì kỷ luật lao động và tiêu chuẩn lao động; thực hiện sự
hướng dẫn, điều hành, giám sát của người sử dụng lao động nước ngoài theo hợp đồng lao động;
e) Thiệt hại phát sinh do vi phạm hợp đồng đã ký kết theo quy định của pháp luật Việt
Nam và pháp luật của nước nơi bắt đầu công việc;
g) Về nước đúng thời hạn sau khi chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng đào tạo; Thông
báo cho cơ quan đăng ký nơi cư trú trước khi đi làm việc ở nước ngoài hoặc nơi cư trú
mới sau khi về nước theo quy định của Luật cư trú trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhập cảnh;
h) Nộp thuế, tham gia bảo hiểm xã hội và các hình thức bảo hiểm khác theo quy định của
pháp luật Việt Nam và pháp luật của nước nơi thực hiện công việc;
i) Đóng góp vào quỹ hỗ trợ đi làm việc ở nước ngoài.
7.2.Thực trạng người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài.
Cục Quản lý lao động ngoài nước cho biết, theo số liệu của công ty, tổng số người
lao động đi làm việc ở nước ngoài trong 6 tháng đầu năm 2023 là 72.294 người, bằng
65,72% so với năm 2023. Trong đó có 25.093 lao động nữ, chiếm gần 35%. Nhật Bản
tiếp tục là thị trường thu hút nhiều lao động Việt Nam nhất trong 6 tháng qua với 34.508
người. Tiếp theo là thị trường Đài Loan (Trung Quốc): 31.538 lao động, Hàn Quốc: 1.608 lao động.
Công ty dịch vụ được thành lập chỉ riêng trong tháng 6 năm 2023 đã có 12 công ty.649
công nhân đi làm việc ở nước ngoài. Mục tiêu là đưa 110.000 lao động Việt Nam ra nước
ngoài theo hợp đồng vào năm 2023, qua đó góp phần tạo việc làm cho thị trường lao động trong nước.
Những kết quả đạt được đã khẳng định chủ trương đưa người lao động Việt Nam đi
làm việc ở nước ngoài của Đảng và Nhà nước ta là đúng đắn và mang lại nhiều lợi ích
thiết thực. Người lao động đã góp phần quảng bá hình ảnh, những giá trị tốt đẹp của đất
nước, văn hóa, con người Việt Nam trước cộng đồng quốc tế; Sau khi về nước, nhiều
người tiếp tục tham gia hiệu quả thị trường lao động trong nước và có tinh thần, tinh
thần trách nhiệm và năng lực, trình độ, năng lực cao để hỗ trợ quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Nó mang lại cho đất nước nguồn thu ngoại tệ lớn (hàng năm người lao động
Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài gửi về nước từ 2,5 tỷ đến 3 tỷ USD). Người lao động
không những thoát nghèo mà còn có cơ hội hỗ trợ người thân trong gia đình, tạo điều
kiện đầu tư sản xuất, kinh doanh; Đặc biệt ở những địa phương có nhiều người lao động
đi làm việc ở nước ngoài, diện mạo gia đình đã thay đổi đáng kể, với nhà cửa khang
trang, hiện đại và đảm bảo an sinh xã hội ngày càng tăng.
Tình trạng đi xuất khẩu lao động trái phép.
Ngày 23/10/2019, nhà chức trách Anh phát hiện 39 thi thể người Việt Nam trong
container đông lạnh đậu tại khu công nghiệp ở thị trấn Grays. Chiếc xe này được đưa
sang Anh bằng phà từ Bỉ. Vụ án này liên quan đến buôn bán người và vận chuyển người
trái phép qua biên giới. Theo kết quả điều tra, những người đi trên xe bị ngạt thở trong
quá trình vận chuyển và nhiệt độ trong không gian kín tăng cao là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến tử vong.
7.3.Một số vấn đề đặt ra liên quan đến người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài.
Sau khi làm việc ở nước ngoài trong một thời gian dài, người lao động Việt Nam
đã tích lũy được nhiều tài sản vật chất, kinh nghiệm và phong cách làm việc. Tuy nhiên,
việc hỗ trợ, khai thác và phát triển nguồn lực lao động này khi họ trở về quê hương vẫn
chưa đạt hiệu quả cao. Điều này đang làm đặt ra bài toán cho các tổ chức, bộ ngành và địa phương.
Tình trạng người lao động làm việc bất hợp pháp tại nước ngoài, vi phạm luật pháp
của quốc gia đó, không tuân thủ hợp đồng hoặc không trở về nước sau khi hết hạn hợp
đồng vẫn đang diễn ra và chưa được giải quyết kịp thời. Một số tổ chức doanh nghiệp vẫn
còn hạn chế năng lực trong việc đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, cạnh tranh
không lành mạnh và thiếu tính chuyên nghiệp.
Công tác đào tạo nghề, bồi dưỡng ngoại ngữ và giáo dục định hướng cho người lao
động chưa được triển khai một cách chặt chẽ. Hệ thống các cơ sở đào tạo nghề chưa kết
nối chặt chẽ với việc cung cấp nguồn nhân lực cho các công việc ở nước ngoài. Điều này
dẫn đến tình trạng người lao động có tay nghề cao còn rất ít, làm giảm khả năng cạnh
tranh của họ và tác động tiêu cực đến vị trí của người lao động Việt Nam trên thị trường lao động quốc tế.
GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG
VIỆT NAM ĐI LÀM VIỆC Ở NƯỚC NGOÀI
1.Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về ý nghĩa, tầm quan
trọng, chính sách,mục đích của công tác đưa người lao động Viê žt Nam đi làm việc ở nước ngoài.
2.Để thực hiện chủ trương đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo
hợp đồng, đảm bảo đúng chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta, đòi hỏi các
bộ, ngành và địa phương phải chú ý "mở rộng thị trường lao động, hướng đến việc làm bền vững.
3. Về trợ giúp các tổ chức giáo dục nghề, Chính phủ cần chỉ đạo các bộ, ngành hữu quan
có văn bản quy phạm pháp luật cụ thể nhằm hỗ trợ công tác đào tạo, nâng cao trình độ, kĩ
năng nghề nghiệp, ngoại ngữ đối với người lao động Việt Nam sang làm việc tại nước ngoài theo thoả thuận.
4. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội khẩn trương hoàn thiện dữ liệu nhằm cung cấp
giúp cho doanh nghiệp, đơn vị liên quan nắm bắt, quản lý kịp thời những người vi phạm
lao động, vi phạm kỷ luật, bỏ trốn.
5. Tăng cường hơn hoạt động của các cơ quan đại diện lao động Việt Nam tại Hàn Quốc
nhằm giúp doanh nghiệp chủ động cao hơn nữa đối với công tác xử lý các vụ việc có liên
quan đối với lực lượng lao động ở các quốc gia khác.
6. Đẩy mạnh các hoạt động đấu tranh phòng chống, ngăn ngừa và xử nghiêm minh các
hành vi phạm tội liên quan đến đưa người lao động Việt Nam sang làm việc tại nước ngoài.
7.3.Lực lượng lao động nước ngoài tại Việt Nam
7.3.1. Người lao động nước ngoài tại Việt Nam.
Lao động nước ngoài là công dân của một đất nước khác tới làm việc tại một quốc gia
không có quốc tịch.Có thể hiểu đơn giản hơn là, người nước ngoài đang sinh sống và làm
việc tại Việt Nam nhưng không có quốc tịch Việt Nam.
Hiện nay, số lượng người lao động nước ngoài tại Việt Nam đang tăng lên từng ngày.
Đây là một xu hướng phổ biến do nhu cầu nhân lực đa dạng và ngày càng cao của các
công ty trong quá trình phát triển kinh tế và công nghiệp của Việt Nam.
Theo thống kê của Bộ Lao động – Thương binh và xã hội, số lượng lao động nước
ngoài tại Việt Nam trong những năm gần đây: Năm 2005, số lao động nước ngoài chỉ có
12 nghìn người, đến năm 2010 lên tới 55,4 nghìn người, năm 2015 đạt 83,6 nghìn người
và năm 2019 có khoảng 117,8 nghìn người. Sau 15 năm, số lao động nước ngoài năm
2019 tăng gấp 10 lần năm 2005 và gấp 1,4 lần năm 2015, chiếm 0,21% trong tổng số lao
động trên toàn Việt Nam.
Đa số người lao động nước ngoài tại Việt Nam là nam giới, năm 2015 là gần 90%,
người lao động trên 30 tuổi chiếm 86%, và 83,1%, 86,6% là các tỉ lệ tương đương trong
tổng số LĐNN ở Việt Nam cho tới hết năm 2019.
Hiện nay có khoảng 110 quốc gia và vùng lãnh thổ có người lao động tới làm việc
tại Việt Nam. Năm 2015, lao động đến từ châu Á chiếm hàng đầu trong tổng số 83,6
nghìn người LĐNN đến Việt Nam : Trung Quốc 31%, Hàn Quốc 18%, Nhật Bản
7%.....cho đến cuối năm 2019 thì có sự thay đổi tỉ lệ : Trung Quốc chỉ chiếm 19,8%, Hàn
quốc 18,3%, Đài Loan chiếm 12,9%, Nhật Bản 9,5%,.....Những lao động phổ thông
không nghề tới Việt Nam làm việc ngày càng nhiều theo các dự án trúng thầu tại Việt
Nam, điển hình nhất là Trung Quốc.
Cơ cấu lao động được phân chia làm 4 nhóm : nhóm chuyên gia, nhóm nhà quản lí,
giám đốc điều hành, nhóm lao động kĩ thuật và nhóm lao động khác. LĐNN có chuyên
môn, kĩ thuật, vị trí việc làm có sự thay đổi, cải thiện rõ rệt từ năm 2005 tới 2019. Năm
2015, tỉ lệ LĐNN có 54% có bằng ĐH và trên ĐH, 38,6% có chứng chỉ hành nghề, 7,4%
nghệ nhân ngành truyền thống. Có 35,5% LĐNN giữ vị trí quản lí , 46% là chuyên gia kĩ
thuật, còn lại là công việc khác. Đến năm 2019, tỉ lệ tương đương là 12%, 56%, 32%. Vị
trí quản lí giảm xuống rất nhiều do người Việt Nam đã dần thay thế, còn các chuyên gia
kĩ thuật tăng do được đào tạo theo hướng chuyên sâu, có kinh nghiệm, có kỹ năng thực
hành. Đồng thời, với sự hiểu biết và kỹ năng vượt trội so với đồng nghiệp nên họ đã và
đang có sự tác động tích cực trong chuyển giao công nghệ và kỹ năng quản lý, phong
cách lao động của nền sản xuất lớn và hiện đại cho lao động nội địa. 93% Lao dộng nước
ngoài làm việc tại Việt Nam đã xin được giấy phép, số còn lại không xin được giấy phép
vì không đáp ứng được các điều kiện theo quy định của pháp luật Việt Nam. Năm 2019,
số người có giấy phép lao động tăng lên 93,6%. Ngoài những trường hợp nhập cư hợp
pháp, còn có trường hợp người nước ngoài lưu trú, làm việc trái phép. Các trường hợp bị
bắt, cấm xuất nhập cảnh đều thông qua đường biển hoặc đường bộ.
7.3.2 Vai trò của người lao động nước ngoài tại Việt Nam
Lao động nước ngoài mang đến nhiều kỹ năng, kiến thức và kinh nghiệm làm việc
khác nhau trong các lĩnh vực chuyên môn. Đây là lý do tại sao họ thường được tuyển
dụng làm việc trong các lĩnh vực đòi hỏi nguồn nhân lực chất lượng cao như công nghệ
thông tin, tài chính, kỹ thuật, y tế, giáo dục và nhiều ngành nghề khác. Điều này giúp
tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, chuyển giao công nghệ mới,
phương pháp quản lý tiên tiến từ các nước phát triển sang người lao động Việt Nam, góp
phần phát triển lao động Việt Nam, phát triển lĩnh vực và phát triển nền kinh tế Việt Nam.
Sự có mặt của lao động nước ngoài cũng đồng nghĩa với việc Việt Nam có thêm cơ
hội tiếp thu kiến thức, kinh nghiệm mới từ các nước phát triển. Điều này góp phần nâng
cao trình độ chuyên môn của lực lượng lao động Việt Nam, giúp họ tiếp thu phương pháp
làm việc tiên tiến và nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường lao động toàn cầu.
Khi có lao động nước ngoài, Việt Nam có thể khai thác lực lượng lao động đa dạng từ
nhiều quốc gia khác nhau. Điều này giúp làm phong phú, đa dạng hóa nguồn lao động, từ
đó tạo điều kiện cho các công ty tìm được người phù hợp với yêu cầu công việc.
Việc mở cửa cho lao động nước ngoài đến làm việc tại Việt Nam đã tạo ra nhiều
cơ hội việc làm cho người dân Việt Nam. Hợp tác với người nước ngoài giúp nâng cao kỹ
năng và chất lượng lực lượng lao động Việt Nam.
Sự hiện diện của người lao động nước ngoài làm việc trong các công ty, tổ chức tại Việt
Nam giúp mở rộng mạng lưới quan hệ quốc tế của Việt Nam. Điều này giúp tăng cường
quan hệ hợp tác, đầu tư, trao đổi kinh tế và công nghệ đồng thời củng cố quan hệ ngoại
giao giữa Việt Nam và các nước.
Người lao động nước ngoài là cầu nối giao lưu văn hóa giữa Việt Nam và quốc tế.
Họ mang đến những nét văn hóa, tập quán và kinh nghiệm sống khác nhau, góp phần tạo
nên sự đa dạng cho nền văn hóa đất nước.
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng việc sử dụng và quản lí nguồn lao động nước ngoài cần
phải có sự quản lý và kiểm soát từ phía chính phủ, để đảm bảo quyền lợi của người lao
động Việt Nam và đảm bảo an ninh quốc gia.
Tóm lại, người lao động nước ngoài đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế
và giao lưu văn hóa của Việt Nam, mang lại cơ hội và tiềm năng phát triển cho cả quan
hệ lao động và hợp tác quản lí lao động.
7.3.3. Giới tinh hoa, các chuyên gia và nhà điều hành nước ngoài làm việc tại Việt Nam.
Các chuyên gia và nhà điều hành nước ngoài thường làm việc trong các công ty,
tập đoàn đa quốc gia hoặc các tổ chức quốc tế tại các thành phố lớn như Hà Nội,
TP.HCM, Đà Nẵng. Môi trường làm việc thông thường tương đối chuyên nghiệp và hiện
đại, với các phòng làm việc, phòng họp, phòng thí nghiệm được trang bị tiện nghi và công nghệ mới nhất.
Các khu đô thị cao cấp hoặc khu vực gần trung tâm thành phố là lựa chọn hàng đầu
để thuận tiện đi lại và tiếp cận dịch vụ tiện ích công cộng như điện, nước, internet và hạ
tầng giao thông đã được phát triển tốt trong các thành phố lớn
Mặc dù tiếng Anh được sử dụng phổ biến trong môi trường làm việc chuyên
nghiệp nhưng tiếng Việt vẫn là ngôn ngữ chính được sử dụng trong giao tiếp hàng ngày
tại Việt Nam. Các chuyên gia và nhà điều hành nước ngoài thường phải có khả năng giao
tiếp tiếng Việt để làm việc tốt hơn và tương tác với đồng nghiệp địa phương.
Việt Nam được coi là một quốc gia an toàn và ổn định. Tuy nhiên, như bất kỳ nơi nào
khác trên thế giới, việc tuân thủ các biện pháp an ninh và giữ gìn sự tự an toàn là rất quan trọng.
Thời gian làm việc thông thường tại Việt Nam là từ thứ Hai đến thứ Sáu, từ 8h00
đến 17h00. Một số công ty có thể có chế độ làm việc linh hoạt hoặc theo yêu cầu công
việc. Việt Nam đang trở thành điểm đến hấp dẫn cho các chuyên gia và nhà điều hành
nước ngoài, với nhiều cơ hội nghề nghiệp trong các lĩnh vực như kỹ thuật, tài chính, quản
lý và công nghệ thông tin.Tuy nhiên, mỗi người có thể có trải nghiệm khác nhau tùy
thuộc vào công ty hoặc tổ chức mà họ làm việc. Điều quan trọng là hiểu và tôn trọng văn
hóa địa phương để tạo ra một môi trường làm việc tích cực và thành công tại Việt Nam.
Vì lao động nước ngoài có tay nghề cao nên mức lương của họ có xu hướng cao
hơn so với lao động Việt Nam. Ngoài mức lương cơ bản, các phúc lợi như bảo hiểm, nghỉ
lễ, thưởng rất quan trọng nhưng môi trường sống và làm việc của các chuyên gia, giám
đốc điều hành nước ngoài tại Việt Nam cũng rất quan trọng. Tuy nhiên, môi trường sống
và làm việc của các chuyên gia, nhà điều hành nước ngoài tại Việt Nam cũng có những
thách thức như sự khác biệt văn hóa, khó khăn trong giao tiếp và quản lý nhân viên địa
phương, hệ thống hành chính phức tạp, và một số vấn đề khác liên quan đến pháp luật và chính trị.
7.3.1.Việc di cư của giới tinh hoa, các chuyên gia
Việt Nam sẽ được hưởng lợi rất nhiều nếu các chuyên gia và giới tinh hoa nhập cư có thể
chia sẻ kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm của họ. Điều này sẽ nâng cao năng lực sản
xuất, mở rộng nguồn nhân lực và thúc đẩy phát triển kinh tế
Di cư cũng mang lại sự trao đổi văn hóa và đa dạng xã hội cho Việt Nam. Giới
tinh hoa và chuyên gia từ nhiều quốc gia có thể mang đến những phong tục, văn hóa và
lối suy nghĩ mới, góp phần phát triển đất nước, tạo ra môi trường sống đa dạng và sôi động.
Sự hiện diện của giới tinh hoa và chuyên gia có thể hút các loại hình đầu tư như
công ty đa quốc gia, viện nghiên cứu và tổ chức phi chính phủ. Điều này có thể tạo điều
kiện thuận lợi để thúc đẩy phát triển kinh tế, cải thiện chất lượng cuộc sống và mở rộng
nguồn việc làm cho người dân Việt Nam.
Sự hiện diện của giới tinh hoa và các nhà điều hành nước ngoài có thể tăng cường sự
cạnh tranh trong môi trường kinh doanh tại Việt Nam. Điều này đẩy mạnh sự đổi mới và
nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ, từ đó đem lại lợi ích cho người tiêu dùng.
Tuy nhiên, để nhận thức đầy đủ lợi ích của việc nhập cư ưu tú và chuyên nghiệp, cần có
chính sách nhập cư thông minh và bền vững. Tạo môi trường tốt, tạo cơ hội phát triển và
bảo vệ quyền lợi của người nhập cư để họ có thể đóng góp nhiều nhất cho sự phát triển của Việt Nam. 7.4. Kết luận
Tóm lại, sự hiện diện của lao động nước ngoài tại Việt Nam đóng vai trò quan
trọng trong sự phát triển và tăng trưởng kinh tế của đất nước. Họ đóng góp cho nhiều
ngành công nghiệp khác nhau bao gồm sản xuất, xây dựng và dịch vụ. Lao động nước
ngoài mang đến những kỹ năng, công nghệ và đầu tư mới giúp nền kinh tế năng suất và
cạnh tranh hơn. Ngoài ra, sự xuất hiện của họ đã lấp đầy khoảng trống lao động và giải
quyết tình trạng thiếu lao động có tay nghề ở một số ngành, tuy nhiên, làn sóng lao động
nước ngoài tràn vào cũng mang lại một số thách thức. Cạnh tranh về việc làm và tiền
lương giữa người lao động trong nước và nước ngoài có thể dẫn đến căng thẳng và bất ổn
xã hội. Cũng có thể có các vấn đề về quyền lao động vì một số lao động nước ngoài có
thể bị bóc lột hoặc phải đối mặt với điều kiện làm việc không an toàn. Để giải quyết
những thách thức này, chính phủ Việt Nam đã thực hiện các chính sách quản lý việc làm của người lao động.