-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Phân tích thực trạng, nguyên nhân lạm phát ở Việt Nam | Tiểu luận môn kinh tế vĩ mô
Tiểu luận môn kinh tế vĩ mô với đề tài: "Phân tích thực trạng, nguyên nhân lạm phát ở Việt Nam trong năm 2011 và các chính sách về tài khóa của nhà nước để khắc phục lạm phát" của sinh viên trường Đại học Công nghiệp TP Hồ Chí Minh giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao trong kỳ thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem!
Kinh tế vi vĩ mô 3 tài liệu
Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh 277 tài liệu
Phân tích thực trạng, nguyên nhân lạm phát ở Việt Nam | Tiểu luận môn kinh tế vĩ mô
Tiểu luận môn kinh tế vĩ mô với đề tài: "Phân tích thực trạng, nguyên nhân lạm phát ở Việt Nam trong năm 2011 và các chính sách về tài khóa của nhà nước để khắc phục lạm phát" của sinh viên trường Đại học Công nghiệp TP Hồ Chí Minh giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao trong kỳ thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Kinh tế vi vĩ mô 3 tài liệu
Trường: Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh 277 tài liệu
Thông tin:
Tác giả:
Tài liệu khác của Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh
Preview text:
BỘ CÔNG THƯƠNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP TP. HỒ CHÍ MINH ----™&˜----
MÔN: KINH TẾ VĨ MÔ
Tên tiểu luận: PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VỀ LẠM
PHÁT Ở VIỆT NAM TRONG NĂM 2011 VÀ CÁC CHÍNH SÁCH VỀ
TÀI KHÓA CỦA NHÀ NƯỚC ĐỂ KHẮC PHỤC LẠM PHÁT
Giảng viên hướng dẫn :
TS LÊ THỊ KIM HOA Lớp : DHQT18B Nhóm : 5
Thành viên trong nhóm:
1. Lê Bá Nhật An 22669711
2. Trương Khánh Nga 22722981
3. Nguyễn Minh Nhật 22676751
4. Nguyễn Đỗ Uyên Nhi 22724241
5. Lâm Gia Thành 22679751
6. Huỳnh Lê Mẫn Tiên 22667581
TP.HCM, ngày 15 tháng 4 năm 2023
I. MỞ ĐẦU: Trình bày lý do chọn đề tài và mục tiêu nghiên cứu: ........................ 3
II. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ TÀI KHÓA ................................................................ 4
1. Một số khái niệm liên quan đến chính sách tài khóa ........................................ 4
2. Ảnh hưởng của lạm phát đến sự phát triển kinh tế trên lí thuyết ..................... 9
III. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ........................................... 11
1. Thực trạng về vấn đề lạm phát năm 2011 ....................................................... 11
2. Tác động của lạm phát đến nền kinh tế thực tế năm 2011 ............................. 13
2. Những tồn tại của lạm phát tại Việt Nam năm 2011 và nguyên nhân ............ 15
IV. GIẢI PHÁP: Trình bày các chính sách tài khóa của nhà nước để khắc phục
vấn đề lạm phát năm 2011........................................................................................ 18
V. KẾT LUẬN ........................................................................................................23
VI. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................24 2
I. MỞ ĐẦU: Trình bày lý do chọn đề tài và mục tiêu nghiên cứu:
Trong thời gian qua, lạm phát gây ra rất nhiều vấn đề phát sinh, làm cho
nền kinh tế ngày càng bất ổn, vì vậy Chính phủ cần phải can thiệp vào để điều
chỉnh giảm lạm phát để giúp giữ vững nền kinh tế ổn định không bị suy thoái.
Chính phủ các nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam đã cố gắng sử dụng chính
sách tài khóa, chính sách tiền tệ và nhiều chính sách kinh tế khác nhằm chặn đà
suy giảm kinh tế thời kỳ 2011 và duy trì ổn định kinh tế vĩ mô thời kỳ hậu
khủng hoảng. Năm 2011, kinh tế Việt Nam có sự suy giảm mạnh về tăng trưởng và
sự biến động lớn của lạm phát.
Để đưa nền kinh tế vượt qua những khó khăn, Chính phủ đã rất nỗ lực trong
việc ban hành và thực thi nhiều chính sách có hiệu quả, nhằm hạn chế những rào
cản, kích thích tăng trưởng để đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, đặc
biệt trong đó có vai trò của chính sách tài khoá, chính sách tiền tệ của Việt
Nam... Nhằm tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế. Với việc đồng thời cùng
thực hiện và phục vụ cho triển khai thực hiện các nhiệm vụ trọng điểm nên quy mô
chi ngân sách trong thời gian qua tăng mạnh, trong khi đó nguồn thu chỉ có hạn và
do vậy đã làm cho quy mô thâm hụt ngân sách đang có xu hướng tăng cao. Ngoài
ra, chi ngân sách nhà nước hiện nay đang có diễn biến theo hướng giảm chi đầu tư
công và tăng chi thường xuyên. Tuy nhiên, với mô hình tăng trưởng kinh tế ở Việt
Nam hiện tại vẫn là tăng trưởng theo chiều rộng thì việc thu hẹp đầu tư công sẽ hạn
chế đáng kể tới thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế nhanh khi mà chi
tiêu chính phủ vẫn rất cần tạo cú huých cho quá trình phát triển nền kinh tế.
Với tốc độ tăng trưởng chóng mặt trong thời đại ngày nay, các nhà sản xuất
kinh doanh ra sức sản xuất, mở rộng đầu tư kinh tế nhằm sản xuất ra thật nhiều
hàng hóa phục vụ nhu cầu vô hạn của com người. Tuy nhiên, việc tạo ra thật nhiều
hàng hóa đã vô hình chung phản lại lợi nhuận của các nhà doanh nghiệp. Hàng hóa
tăng nhanh hơn nhu cầu com người dẫn đến việc cung vượt quá cầu và tình trạng
lạm phát xuất hiện. Lạm phát gây cho nền kinh tế nhiều bất ổn đòi hỏi chính phủ
phải vào cuộc để điều chỉnh lạm phát gây nên, việc thực hành chính sách tài khóa
có nhiều điều thiếu sót và điều khó tránh khỏi là kinh tế giảm sút, ngân sách thâm
hụt, gánh nặng nợ nần ngày càng cao. Việc chính phủ đã điều hành sách tài khoá,
chính sách tiền tệ giai đoạn 2011 như thế nào? Chính sách tài khoá và chính sách
tiền tệ ra sao, tác động của các chính sách đó với sự phát triển kinh tế như thế nào?
Tiểu luận với việc đánh giá khái quát kinh tế vĩ mô Việt Nam trong năm 2011.
Phân tích việc thực thi chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ của Việt
Nam giai đoạn 2011 để làm sáng rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chính
sách tài khoá, chính sách tiền tệ, sự phối hợp chính sách tài khoá và chính sách tiền 3
tệ, tác động tới phát triển kinh tế Việt Nam giai đoạn 2011. Đó cũng là lý do chính
để nhóm 5 chọn đề tài này.
II. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ TÀI KHÓA:
1. Một số khái niệm liên quan đến chính sách tài khóa:
a. CPI là gì?
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) là một chỉ tiêu thống kê phản ánh xu hướng và
mức độ biến động giá cả chung của một số lượng cố định các loại hàng hoá dịch vụ
(được gọi là “rổ” hàng hoá) đã được chọn đại diện cho tiêu dùng, phục vụ đời sống
bình thường của người dân, qua thời gian.
Quyền số để tính chỉ số giá tiêu dùng là tỷ trọng với mức tiêu dùng tương
ứng mỗi nhóm hàng hóa và dịch vụ đại diện trong tổng mức chi tiêu dùng cho đời
sống hàng ngày của người dân. Cơ cấu chi tiêu dùng thay đổi qua từng năm, điều
này đòi hỏi phải cập nhật danh mục đặt hàng đại diện và quyền số chi tiêu dùng
cuối cùng của người dân.
Mục đích của chỉ số giá tiêu dùng là phản ánh những thay đổi trong chi phí
sinh hoạt. Chỉ số giá tiêu dùng cố gắng phản ánh mức thu nhập cần tăng thêm
nhằm giữ cho mức sống không đổi. Tuy nhiên có ba vấn đề nảy sinh đối với chỉ số
này và rất khó để khắc phục.
Độ lệch thay thế: khi giá cả thay đổi thì không phải tất cả mọi giá cả đều
thay đổi theo cùng một tỷ lệ. Người tiêu dùng phản ứng lại bằng cách mua ít hàng
hóa khi giá tăng mạnh và mua nhiều khi giá giảm. Tuy nhiên, chỉ số giá tiêu dùng
lại được tính được tính với rổ hàng hóa cố định ở năm gốc. Do đó, chỉ số này ước
tính quá cao mức tăng chi phí sinh hoạt.
Là sự xuất hiện những hàng hóa mới: khi một hàng hóa mới xuất hiện, người
tiêu dùng sẽ có nhiều sự lựa chọn hơn. Điều này giúp cho đồng tiền có giá trị hơn.
Nhưng do chỉ số giá tiêu dùng dựa trên rổ hàng hóa và dịch vụ cố định nên nó
không phản ánh sự thay đổi này trong sức mua của đồng tiền.
Sự thay đổi chất lượng hàng hóa: chỉ số giá chỉ phản ảnh mặt thay đổi giá
mà không thể hiện được sự thay đổi về chất lượng vì đôi khi nó thổi phồng mức độ tăng giá.
b. Lạm phát là gì?
Lạm phát là tình trạng mức giá chung của nền kinh tế tăng liên tục trong một thời gian nhất định
Khi mức giá chung tăng cao, một đơn vị tiền tệ sẽ mua được ít hàng hóa và
dịch vụ hơn so với trước đây, do đó lạm phát phản ánh sự suy giảm sức mua trên 4
một đơn vị tiền tệ. Khi so sánh với các nước khác thì lạm phát là sự giảm giá trị
tiền tệ của một quốc gia này so với các loại tiền tệ của quốc gia khác. Theo nghĩa
đầu tiên thì người ta hiểu lạm phát của một loại tiền tệ tác động đến phạm vi nền
kinh tế một quốc gia, còn theo nghĩa thứ hai thì người ta hiểu lạm phát của một loại
tiền tệ tác động đến phạm vi nền kinh tế sử dụng loại tiền tệ đó.
Thuật ngữ "lạm phát" ban đầu được chỉ các gia tăng trong số lượng tiền
trong lưu thông, và một số nhà kinh tế vẫn sử dụng từ này theo cách này. Tuy
nhiên, hầu hết các nhà kinh tế hiện nay sử dụng thuật ngữ "lạm phát" để chỉ một sự
gia tăng trong mức giá. Sự gia tăng cung tiền có thể được gọi là lạm phát tiền tệ, để
phân biệt với sự tăng giá cả, mà cũng có thể được gọi cho rõ ràng là 'lạm phát giá
cả'. Các nhà kinh tế nói chung đều đồng ý rằng về lâu dài, lạm phát là do tăng cung tiền.
Nguyên nhân phổ biến gây nên tình trạng lạm phát qua các năm của nền
kinh tế cụ thể như sau:
• Tình trạng cầu kéo: Đây là tình trạng giá tăng của một loại hàng hóa, dịch vụ
nào đó và kéo theo giá cả của các mặt hàng khác cũng tăng theo. Nói cách
khác, lạm phát do cầu kéo cho thấy đồng tiền dần bị mất giá do nhu cầu tiêu
dùng tăng lên, từ đó các mặt hàng khác cũng lần lượt tăng theo.
• Xuất khẩu: Do các hàng hóa xuất khẩu tăng lên dẫn đến số lượng hàng hóa
tiêu thụ nhiều hơn số lượng hàng hóa cung cấp. Do đó, hàng hóa được được
tổng hợp thu gom lại để thực hiện mục đích xuất khẩu khiến lượng hàng
cung ứng trong nước giảm mạnh. Giá cả bị giảm khi thu gom sẽ tăng lên lại
và tình trạng lạm phát xảy ra.
• Nhập khẩu: Giá trị của hàng hóa nhập khẩu tăng do thuế nhập khẩu tăng và
giá cả trên thị trường thế giới tăng. Từ đó, giá bán ra trong nước tăng theo và
sẽ đạt đến mức lạm phát.
• Tiền tệ: Ngân hàng giao dịch mua ngoại tệ hoặc in nhiều tiền sẽ dẫn đến
lượng tiền có sẵn sẽ nhiều, từ đó nhu cầu, tiêu thụ hàng hóa dịch vụ cũng sẽ tăng cao.
Lạm phát ảnh hưởng đến các nền kinh tế theo nhiều cách tích cực và tiêu
cực khác nhau. Tác động tiêu cực của lạm phát bao gồm sự gia tăng chi phí cơ hội
của việc tích trữ tiền, và sự không chắc chắn về tình hình lạm phát trong tương lai
có thể ngăn cản quyết định đầu tư và tiết kiệm.
Nếu lạm phát tăng trưởng đủ nhanh, sự khan hiếm của hàng hóa sẽ khiến
người tiêu dùng bắt đầu lo lắng về việc giá cả sẽ tăng cao trong thời gian tới. Tác
động tích cực của lạm phát bao gồm việc giảm thiểu tỷ lệ thất nghiệp dựa trên giá cả cứng nhắc. 5
Dựa vào lạm phát, các nhà kinh tế thường chia làm 3 loại:
Lạm phát vừa phải: là loại lạm phát một số, tỷ lệ tăng giá thấp dưới 10% một năm.
Lạm phát phi mã: là loại lạm phát hai hay ba số, tức là trên 10%, 50%, 200%,..
• Siêu lạm phát: là loại lạm phát trên bốn số, tức là lên đến hàng ngàn phần
trăm. Tiền lúc này không thể thực hiện chức năng phương tiện trao đổi vì
không ai muốn bán hàng để lấy những đồng tiền vô giá trị.
c. Chính sách tài khóa:
Chính sách tài khóa là khi Chính phủ quyết định những khoản thu và chi sẽ
tác động đến các hoạt động kinh tế, làm thay đổi tổng cầu, từ đó sẽ tác động đến
sản lượng, công ăn việc làm và mức giá chung của nền kinh tế. Chính sách tài khóa
được điều khiển thông qua việc sự dụng hai công cụ là thuế khóa (T) và chi tiêu
của Chính phủ(G) nhằm ổn định các hoạt động của nền kinh tế.
Chính sách tài khóa chính là việc chính phủ sử dụng chi tiêu và nguồn thu
thuế để tác động lên nền kinh tế. Sự kết hợp và tác động qua lại giữa chi tiêu chính
phủ và nguồn thu ngân sách là một sự cân bằng dễ bị phá vỡ và đòi hỏi việc xác
định thời điểm chính xác và một chút may mắn để đạt hiệu quả. Tác động trực tiếp
và gián tiếp của chính sách tài khóa có thể ảnh hưởng đến chi tiêu cá nhân, đầu tư
của doanh nghiệp, tỷ giá hối đoái, mức thâm hụt ngân sách và thậm chí là cả lãi
suất, chỉ số thường được coi là liên quan đến chính sách tiền tệ nhiều hơn. Chính
sách tài khóa thường gắn liền với trường phái Keynes, theo tên nhà kinh tế học
người Anh John Maynard Keynes. Những nghiên cứu chính của ông như “Lý
thuyết tổng quát về việc làm, lãi suất và tiền tệ” đã ảnh hưởng đến những tư tưởng
mới lý giải về cách thức nền kinh tế hoạt động và vẫn được nghiên cứu cho đến
ngày nay. Hầu hết lý thuyết của ông được phát triển trong thời kỳ Đại khủng
hoảng. Đến nay lý thuyết của Keynes đã được dùng cũng như bị vận dụng sai
không ít lần, bởi nó khá phổ biến và chỉ áp dụng đặc thù để giảm ảnh hưởng trong
thời kỳ suy thoái. Một cách ngắn gọn, học thuyết kinh tế trường phái Keynes dựa
trên tư tưởng rằng sự chủ động từ chính phủ là cách duy nhất để chèo lái nền kinh
tế. Điều này ngụ ý rằng chính phủ nên sử dụng quyền hạn của mình để tăng tổng
cầu bằng cách tăng chi tiêu và tạo ra môi trường lưu thông tiền tệ dễ dàng, từ đó
kích thích nền kinh tế,tạo ra công ăn việc làm và cuối cùng tăng thêm của cải trong
xã hội. Phong trào dựa trên lý thuyết của Keynes cho rằng chính sách tiền tệ bản 6
thân nó có những hạn chế trong việc giải quyết khủng hoảng tài chính, vì vậy đã
tạo ra cuộc tranh luận giữa những nhà kinh tế theo trường phái Keynes và những
người ủng hộ chính sách tiền tệ.Chính sách tài khóa đã được vận dụng thành công
kể cả trong suốt và sau thời kỳ Đại khủng hoảng nhưng học thuyết của Keynes đã
bị hoài nghi vào những năm 80 sau một thời gian dài được ưa chuộng
Một ảnh hưởng gián tiếp khác của chính sách tài khóa thường bị bỏ qua đó
là khả năng các nhà đầu tư nước ngoài nỗ lực mua vào đồng đô la nội địa nhằm
đầu tư vào trái phiếu nội địa trên thị trường mở giờ đây có lợi tức cao hơn. Đồng
nội tệ mạnh lên có vẻ là một dấu hiệu tích cực về bề nổi, tùy thuộc vào mức độ
biến động tỷ giá, nhưng nó có thể làm cho hàng hóa của nội địa trở nên đắt đỏ hơn
khi xuất khẩu và các mặt hàng nhập khẩu nước ngoài thì rẻ hơn. Vì hầu hết người
tiêu dùng thường coi giá là yếu tố quyết định trong hoạt động mua sắm, sự dịch
chuyển từ tiêu dùng hàng ngoại thay vì hàng trong nước sẽ dẫn tới sự mất cân bằng
tạm thời trong cán cân thương mại. Các kịch bản này cần được cân nhắc và dự
đoán. Không dễ để dự đoán kết quả nào sẽ xảy ra và với mức độ ra sao bởi còn
nhiều yếu tố khác như thảm họa thiên nhiên, chiến tranh v.v… có thể làm thị trường biến động
• Chính sách tài khóa mở rộng:
Trường hợp tổng cầu giảm xuống thấp, làm cho sản lượng cân bằng quốc gia
nhỏ hơn sản lượng tiềm năng thì nền kinh tế rơi vào tình trạng suy thoái. Để giảm
suy thoái, Chính phủ sẽ tăng chi mua hàng hóa và dịch vụ hoặc giảm thuế ròng,
chính sách tài khóa mở rộng sẽ được thực hiện nhằm kích cầu kinh tế.
Chính sách tài khóa mở rộng (G > T) là chính sách tăng cường chi
tiêu.Chính phủ thông qua việc mở rộng chi tiêu hoặc giảm bớt nguồn thuế hoặc
kết hợp cả hai. Chính sách này thường được áp dụng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tạo việc làm.
• Chính sách tài khóa thu hẹp:
Trường hợp tổng cầu tăng cao, làm cho sản lượng cân bằng quốc gia lớn hơn
sản lượng tiềm năng thì nền kinh tế sẽ rơi vào trạng thái lạm phát. Để chống lạm
phát, Chính phủ sẽ giảm chi mua hàng hóa và dịch vụ hoặc tăng thuế ròng, trường
hợp này chính sách tài khóa thu hẹp đã được thực hiện.
Chính sách tài khóa thu hẹp (G < T) là chính sách thắt chặt chi tiêu của
Chính phủ thông qua việc giảm bớt chi tiêu hoặc tăng nguồn thu của Chính phủ
hoặc kết hợp cả hai. Chính sách này thường được áp dụng kìm hãm sự phát triển
quá nóng của nền kinh tế và kiềm chế lạm phát.
• Chính sách tài khóa tự động: 7
Chính sách tài khóa ổn định tự động là một loại chính sách tài khóa được
thiết kế để bù đắp những biến động trong hoạt động kinh tế của một quốc gia thông
qua hoạt động bình thường của họ mà không cần chính phủ hoặc các nhà hoạch
định chính sách cho phép bổ sung, kịp thời.
Chính sách tài khóa ổn định tự động là các chính sách của chính phủ đang
thực hiện nhằm tự động điều chỉnh thuế suất và chuyển các khoản thanh toán nhằm
mục đích ổn định thu nhập, tiêu dùng và chi tiêu kinh doanh trong chu kỳ kinh
doanh. Các chính sách tài khóa ổn định tự động là một loại chính sách tài khóa,
được kinh tế học Keynes ưa chuộng như một công cụ để chống lại sự sụt giảm và
suy thoái kinh tế. Trong trường hợp suy thoái kinh tế cấp tính hoặc kéo dài, các
chính phủ thường hỗ trợ các chính sách tài khóa ổn định tự động bằng các chính
sách kích thích một lần hoặc tạm thời để cố gắng khởi động nền kinh tế.
Một số nhà kinh tế thừa nhận rằng về mặt lý thuyết, chính sách tài khóa có
thể ổn định nền kinh tế nhưng họ nghi ngờ tác dụng của chúng trong thực tế. Trên
thực tế các nhà chính sách đã tìm ra các nhân tố ổn định tự khắc phục độ trễ chính
sách cũng như tìm ra hiệu quả của các công cụ tài khóa định lượng đó là các nhân
tố ổn định tự động.
2. Tác động của lạm phát đến nền kinh tế về lý thuyết.
Lạm phát được sinh ra do một số điều kiện cụ thể và mang tính liên tục với những đặc điểm như:
+ Lạm phát không phải một sự kiện ngẫu nhiên, sự tăng giá cả của hiện
tượng này bắt đầu và tăng liên tục, đột ngột. Tuy nhiên cũng có một vài trường hợp
sự tăng giá đột ngột không phải là lạm phát mà là sự biến động giá tương đối. Hiện
tượng này chỉ xảy ra khi vấn đề cung, cầu không ổn định trong một thời gian ngắn.
Tình trạng giá cả sẽ ổn định hơn khi cung tăng để đáp ứng được cầu. Còn lạm phát
thì là sự tăng giá liên tục và không dừng lại ở mức độ ổn định.
+ Lạm phát là sự ảnh hưởng chung của tất cả các hàng hóa và dịch vụ của
một nền kinh tế chứ không phải riêng một mặt hàng nào cả. Biến động giá tương
đối chỉ là một hoặc hai hàng hóa cố định.
+ Lạm phát là hiện tượng lâu dài, ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế
của một quốc gia hoặc khu vực trong vài năm liền. Các quốc gia hiện đại đều tiến
hành các vấn đề đo lường hàng năm để có thể hạn chế khả năng lạm phát thấp nhất có thể.
Phân loại lạm phát
Dựa trên mức độ lạm phát, lạm phát được chia thành 3 mức độ bao gồm: 8
• Lạm phát tự nhiên (0 – 10%): Tỷ lệ lạm phát dưới 10%/năm. Khi lạm phát ở
mức độ này, nền kinh tế vẫn được hoạt động một cách bình thường, ít rủi ro
và đời sống của người dẫn vẫn ổn định.
• Lạm phát phi mã (10 – < 1000%): Tỷ lệ lạm phát từ 10% đến dưới 1000%.
Khi lạm phát ở mức độ này sẽ làm cho giá cả chung tăng lên nhanh chóng và
gây biến động lớn về kinh tế. Lúc này, người dân có xu hướng tích trữ hàng
hoá, vàng bạc, bất động sản và hạn chế cho vay tiền ở mức lãi suất bình thường.
• Siêu lạm phát (> 1000%): Tỷ lệ lạm phát trên 1000%. Xảy ra khi mức độ
lạm phát đột biến tăng lên với tốc độ cao và vượt xa so với lạm phát phi mã.
Tình trạng siêu lạm phát sẽ để lại hậu quả vô cùng lớn. Khi xảy đó, quốc gia
sẽ khó phục hồi nền kinh tế trở lại về tình trạng như lúc ban đầu. Tuy nhiên,
siêu lạm phát gần như rất ít khi xảy ra.
Dựa trên tính chất lạm phát, phân làm 2 loại:
+ Lạm phát dự kiến (expected inflation): loại lạm phát này xuất hiện do yếu tố
tâm lý, dự đoán của các cá nhân về tốc độ tăng giá trong tương lai và lạm phát
trong quá khứ. Lạm phát dự kiến ảnh hưởng không lớn và chỉ tác động điều chỉnh chi phí sản xuất.
+ Lạm phát không dự kiến (unexpected inflation): loại lạm phát này xuất hiện
do các cú sốc từ bên ngoài và các tác nhân trong nền kinh tế không dự kiến được
dẫn đến bị bất ngờ.
2. Ảnh hưởng của lạm phát đến sự phát triển kinh tế trên lí thuyết
Đối với lĩnh vực sản xuất
Đối với nhà sản xuất, tỷ lệ lạm phát cao làm cho giá đầu vào và đầu ra biến
động không ngừng, gây ra sự ổn định giả tạo của quá trình sản xuất. Sự mất giá của
đồng tiền làm vô hiệu hóa hoạt động hạch toán kinh doanh. Hiệu quả kinh doanh –
sản xuất ở một vài doanh nghiệp có thể thay đổi, gây ra những xáo động về kinh tế.
Nếu một doanh nghiệp nào đó có tỷ suất lợi nhuận thấp hơn lạm phát sẽ có nguy cơ phá sản rất lớn.
Đối với lĩnh vực lưu thông
Lạm phát thúc đẩy quá trình đầu cơ tích trữ dẫn đến khan hiếm hàng hóa.
Các nhà doanh nghiệp thấy rằng việc đầu tư vốn vào lĩnh vực lưu thông. Thậm chí
khi lạm phát trở nên khó phán đoán thì việc đầu tư vốn vào lĩnh vực sản xuất sẽ
gặp phải rủi ro cao.Do đó nhiều người tham gia vào lĩnh vực lưu thông nên lĩnh
vực này trở nên hỗn loạn. Tiền ở trong tay những người vừa mới bán hàng xong lại
nhanh chóng bị đẩy vào kênh lưu thông, tốc độ lưu thông tiền tệ tăng vọt và điều
này làm thúc đẩy lạm phát gia tăng. 9
Đối với lĩnh vực tiền tệ, tín dụng
Lạm phát làm cho quan hệ tín dụng, thương mại và ngân hàng bị thu hẹp. Số
người gửi tiền vào ngân hàng giảm đi rất nhiều. Về phía hệ thống ngân hàng, do
lượng tiền gửi vào giảm mạnh nên không đáp ứng được nhu cầu của người đi vay,
cộng với việc sụt giá của đồng tiền quá nhanh, sự điều chỉnh lãi suất tiền gửi không
làm an tâm những người hiện có lượng tiền mặt nhàn rỗi trong tay. Về phía người
đi vay, họ là những người có lợi lớn nhờ sự mất giá đồng tiền một cách nhanh
chóng. Do vậy, hoạt động của hệ thống ngân hàng không còn bình thường nữa.
Chức năng kinh doanh tiền tệ bị hạn chế, các chức năng của tiền tệ không còn
nguyên vẹn bởi khi có lạm phát thì chẳng có ai tích trữ của cải hình thức tiền mặt.
Đối với chính sách kinh tế, tài chính của Nhà Nước
Lạm phát gây ra sự biến động lớn trong giá cả và sản lượng hàng hoá. Khi
lạm phát xảy ra những thông tin trong xã hội bị phá huỷ do biến động của giá cả
làm cho thị trường bị rối loạn. Người ta khó phân biệt được những doanh nghiệp
làm ăn tốt và kém. Đồng thời lạm phát làm cho nhà nước thiếu vốn, do đó nhà
nước không còn đủ sức cung cấp tiền cho các khoản dành cho phúc lợi xã hội bị
cắt giảm… các ngành, các lĩnh vực dự định được Chính phủ đầu tư và hỗ trợ vốn
bị thu hẹp lại hoặc không có gì. Một khi ngân sách nhà nước bị thâm hụt thì các
mục tiêu cải thiện và nâng cao đời sống kinh tế xã hội sẽ không có điều kiện thực hiện được.
Đối với thực tế cuộc sống, xã hội
Qua thực tế của lạm phát ta thấy rằng hậu quả của nó để lại cho nền kinh tế
là rất trầm trọng, nó thể hiện về mọi mặt của nền kinh tế, đặc biệt là một số hậu quả sau:
Xã hội không thể tính toán hiệu quả hay điều chỉnh các hoạt động kinh
doanh của mình một cách bình thường được do tiền tệ không còn giữ được chức
năng thước đo giá trị hay nói đúng hơn là thước đo này bị co giãn thất thường.
Tiền tệ và thuế là hai công cụ quan trọng nhất để nhà nước điều tiết nền kinh tế
đã bị vô hiệu hoá, vì tiền mất giá nên không ai tin vào đồng tiền nữa, các biểu thuế
không thể điều chỉnh kịp với mức độ tăng bất ngờ của lạm phát và do vậy tác dụng
điều chỉnh của thuế bị hạn chế, ngay cả trường hợp nhà nước có thể chỉ số hoá luật
thuế thích hợp với mức lạm phát, thì tác dụng điều chỉnh của thuế cũng bị hạn chế.
Phân phối lại thu nhập làm cho một số người nắm giữ các hàng hoá có giá cả
tăng đột biến giàu lên nhanh chóng và những người có các hàng hoá mà giá cả của
chúng không tăng hoặc tăng chậm và người giữ tiền bị nghèo đi.
Kích thích tâm lý đầu cơ tích trữ hàng hoá, bất động sản, vàng bạc... gây ra
tình trạng khan hiếm hàng hoá không bình thường và lãng phí. 10
Xuyên tạc, bóp méo các yếu tố của thị trường làm cho các điều kiện của thị
trường bị biến dạng. hầu hết các thông tin kinh tế đều thể hiện trên giá cả hàng hoá,
giá cả tiền tệ, giá cả lao động... một khi những giá cả này tăng hay giảm đột biến
và liên tục , thì các yếu tố của thị trường không thể tránh khỏi bị thổi phồng hoặc bóp méo.
Sản xuất phát triển không đều, vốn chạy vào những ngành nào có lợi nhuận cao.
Ngân sách bội chi ngày càng tăng trong khi các khoản thu ngày càng giảm về mặt giá trị.
Đối với ngân hàng, lạm phát làm cho hoạt động bình thường của ngân hàng bị
phá vỡ, ngân hàng không thu hút được các khoản tiền nhàn rỗi trong xã hội.
Đối với tiêu dùng: làm giảm sức mua thực tế của nhân dân về hàng hoá tiêu
dùng và buộc nhân dân phải giảm khối lượng về hàng hoá tiêu dùng, đặc biệt là đời
sống cán bộ công nhân viên ngày càng khó khăn. mặt khác lạm phát cũng làm thay
đổi nhu cầu tiêu dùng, khi lạm phát gay gắt sẽ gây nên hiện tượng mọi người tìm
cách tháo chạy khỏi đồng tiền tức là không muốn giữ và cất giữ đồng tiền mất giá
bằng cách họ sẽ tìm mua bất kỳ hàng hoá dù không có nhu cầu để cất trữ từ đó làm
giàu cho những người đầu cơ tích trữ. Chính vì các tác hại trên của lạm phát nên
việc kiểm soát lạm phát và giữ lạm phát ở mức độ vừa phải đã trở thành một trong
những mục tiêu lớn của mọi nền kinh tế hàng hoá. Tuy nhiên, mục tiêu kiềm chế
lạm phát không có nghĩa là phải đưa lạm phát ở mức bằng không tức là nền kinh tế
không có lạm phát mà phải duy trì mức lạm phát ở một mức độ nào đó phù hợp với
nền kinh tế bởi vì lạm phát không phải hoàn toàn là tiêu cực, nếu như một quốc gia
nào đó có thể duy trì được mức lạm phát vừa phải và kiềm chế, có lợi cho sự phát
triển kinh tế thì ở quốc gia đó lạm phát không còn là mối nguy hại cho nền kinh tế
nữa mà nó đã trở thành một công cụ đắc lực giúp điều tiết và phát triển kinh tế một cách hiệu quả.
III. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1. Thực trạng về vấn đề lạm phát năm 2011
Tiếp theo năm 2010, năm 2011 cũng được đánh giá là năm có nền kinh tế
khó khăn. Nền kinh tế thế giới có những diễn biến bất ngờ, giá vàng, nhiên liệu
tăng, Nhật Bản bị thảm họa động đất sóng thần, tình hình khủng hoảng nợ công
Châu Âu,…đã có tác động đến nền kinh tế toàn cầu. Nhiều nước trên thế giới phái
đối mặt với sự kiềm chế lạm phát nhưng vẫn phải đảm bảo phục hồi tăng trưởng
kinh tế. Trong khi đó diễn biến lạm phát ở Việt Nam năm 2011 gia tăng nhanh có
nguy cơ lặp lại kịch bản năm 2008 khiến cho các hoạt động sản xuất, kinh doanh
của các doanh nghiệp gặp khó khăn, giá cả nhiều mặt hàng thiết yếu gia tăng…. 11
Lạm phát của Việt Nam năm 2011 ở mức 18,12%, vượt qua mức 7% Quốc
hội đề ra, cao nhất kể từ năm 2008. Đây cũng là mức cao nhất so với các nước
trong khu vực ASEAN, cao gấp 2,4 lần của Lào, nước có mức lạm phát cao thứ 2.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tính đến tháng 4/2011, chỉ số giá tiêu dùng
(CPI) của Việt Nam đã tăng tới 9,64% trong đó (tháng 1: 1,84%, tháng 2: 2,1%,
tháng 3:2,19%, tháng 4: 3,42%). Lạm phát cơ bản tháng 6 tăng 14,88% so với cùng
kỳ 2010 và tăng 9,1 % so với tháng 12 năm 2010. Chỉ số giá tiêu dùng CPI tháng 7
năm 2011 tăng 22, 16 % so với cùng kỳ 2010, cao gấp 3 lần so với mức tăng tương
đương của năm 2010 (8,19%) cũng là mức tăng cao nhất so với nhiều năm gần đây.
Trong rổ hàng hóa tính CPI, cấu phần có ảnh hưởng lớn nhất đến CPI
chung là hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 21,2% và chiếm tỉ trọng 59,1% (lương
thực tăng 9,8% và chiếm tỉ trọng 5,6%; thực phẩm tăng 26,12% và chiếm tỉ trọng
44,5%); tiếp đến nhóm phương tiện đi lại, bưu điện tăng 19,05% (chiếm tỉ trọng
11,8%); nhóm nhà ở,vật liệu xây dựng tăng 14,15% (chiếm tỉ trọng 10,6%);
nhóm đồ dùng và dịch vụ khác tăng 8,51% (chiếm tỉ trọng 1,99%); nhóm may
mặc, giày dép, mũ, nón tăng 8,65% (chiếm tỉ trọng 4,4%); nhóm thiết bị và đồ
dùng gia đình tăng 6,48% (chiếm tỉ trọng 3,92%); còn các nhóm hàng còn lại giao
động từ mức 4,32% đến 6,36%; trừ mặt hàng bưu chính viễn thông đạt mức - 1,74%.
Lạm phát tăng cao và tình hình thiên tai, dịch bệnh diễn biến phức tạp đã tác
động xấu đến kinh tế và đời sống của nhân dân, ảnh hưởng trực tiếp đến việc bảo
đảm an sinh xã hội, nhất là khu vực nông thôn Lạm phát tăng cao ảnh hưởng đến
đời sống của người dân cũng như xã hội. Lạm phát tăng cao khiến cho người dân
mệt mỏi, cạn kiệt tài chính bởi lẽ giá tăng vào các mặt hàng thiết yếu càng làm cho
đời sống thêm khó khăn. Đối với các doanh nghiệp, chi phí sẽ tăng lên nếu phải chi
thêm để trả lãi vay, đầu vào tăng, lợi nhuận giảm, thậm chí lỗ… Các dự án đầu tư
công, dự toán một đằng, nay giá tăng, phải dừng lại để điều chỉnh, phải dở dang,
kéo dài, vốn đầu tư tăng.
Trong 6 tháng đầu năm, lạm phát tăng 13,29% so với đầu năm và tăng 20%
so cùng kỳ năm trước, gây khó khăn cho nỗ lực kiềm chế lạm phát dưới 17% theo
mục tiêu đề ra, thị trường bất động sản và chứng khoán sụt giảm mạnh. Vào nửa
cuối năm 2011, thanh khoản của hệ thống TCTD thiếu hụt nghiêm trọng, lãi suất
liên ngân hàng tăng cao, có thời điểm lên đến 30%/năm, nguy cơ đổ vỡ hệ thống
hiện hữu có tình trạng các ngân hàng hạn chế cho vay lẫn nhau. Tuy nhiên trong
năm 2011 xuất khẩu tăng cao, nhập khẩu được kiểm soát. Tổng kim ngạch xuất
nhập khẩu của Việt Nam năm 2011 đạt con số kỉ lục là 202 tỷ USD, bằng 170%
GDP. Trong đó, tổng kim ngạch xuất khẩu ước tính đạt 96 tỷ USD, tăng 33% so
với năm 2010, tổng kim ngạch nhập khẩu đạt 106 tỷ USD, tăng 25%. Nhập siêu 12
giảm mạnh, cả năm tăng dự kiến khoảng 10 tỷ USD, bằng 10,5% tổng kim ngạch
xuất khẩu, thấp hơn mục tiêu đề ra (không quá 18%).
Mặc dù CPI có xu hướng giảm tốc từ tháng 5 (tháng 5:2,21%) nhưng trong
cả giai đoạn, CPI hàng tháng đều có tốc độ tăng cao hơn so với tháng trước. Tiếp
theo đà của những tháng cuối năm 2010, CPI tăng mạnh trong 4 tháng đầu năm
nay, cá biệt CPI tháng 4 tăng đột biến 3,32% so với tháng trước và là mức tăng cao
nhất so với cùng thời điểm trong vòng 3 năm qua. Sau đó CPI đã đổi hướng giảm
dần trong 2 tháng tiếp theo và CPI tháng 6 dừng ở con số 1,09% mức thấp nhất
trong vòng 6 tháng đầu năm.
Diễn biến lạm phát năm 2011 khá phức tạp, thể hiện ở việc tăng cao những
tháng đầu năm và giảm dần từ quý II. Trong 4 tháng cuối năm, lạm phát có dấu
hiệu giảm tốc, chỉ tăng dưới 1% mỗi tháng (tháng 8:0,93%, tháng 9:0,82%, tháng
10:0,36%, tháng 11:0,36%). Nhưng lạm phát tháng 12 lại có dấu hiệu nhích lên so
với 2 tháng trước đó cụ thể là lạm phát tháng 12 tăng 0,53%. Chỉ số tiêu dùng
tháng 12/2011 so với cùng kỳ ước tăng khoảng 18%. Nợ công được giữ ở mức an
toàn, cuối năm 2011 ước khoảng 54,6% GDP.
Phó thủ tướng Vũ Văn Ninh nhận định năm 2011, tất cả các quốc gia trên thế
giới đều có lạm phát, riêng Việt Nam có điểm khác biệt là lạm phát rất cao, có lúc
xấp xỉ ở vị trí quán quân. Tuy nhiên, trong phiên họp Quốc hội tháng 6-2011,
Chính phủ đề nghị nới lỏng chỉ tiêu CPI cả năm lên không quá 17%. Nhưng chỉ
tiêu này cuối cùng cũng không đạt được khi CPI cả năm 2011 tăng 18,12%. Vậy
nên Chính phủ đã không hoàn thành một trong các chỉ tiêu quan trọng mà Quốc hội giao.
2. Tác động của lạm phát đến nền kinh tế thực tế năm 2011
Lạm phát có nhiều loại, cho nên có nhiều mức độ ảnh hưởng đến nền kinh
tế, xét trên góc độ tương quan, trong một nền kinh tế lạm phát là nỗi lo của toàn xã
hội và ta thấy được ác tác động của nó.
Đối với sản lượng và việc làm: Trong thời kỳ ngắn hạn, lạm phát do chi phí
đẩy có thể dẫn đến việc tăng sản lượng, tỉ lệ thất nghiệp giảm. Trong dài hạn do
sản lượng đạt mức tiềm năng nên lạm phát không có hoặc có rất ít, tỉ lệ thất nghiệp
bằng tỉ lệ thất nghiệp tự nhiên. Theo lí thuyết của J.M.Keynes với luận điểm lấy
lạm phát và bội chi ngân sách để xóa khủng hoảng và thất nghiệp đã được nhiều
nước tư bản ứng dụng thành công sau thập kỷ 1933. nhưng tiếp đó, từ nhưng năm
1960, lạm phát tràn lan mà vẫn không loại trừ được thất nghiệp. Trong khi đó thời
kỳ 2001-2011, các nước lạm phát thấp cũng có tỉ lệ thất nghiệp thấp nhất. Lạm
phát xảy ra thì người làm công ăn lương, những người cho vay bị thiệt hại, còn
những người có tài sản, những người đang đi vay là có lợi. Điều này tạo nên sự 13
phân phối thu nhập không bình đẳng giữa những người đi vay và những người cho
vay, giữa công nhân và nhà tư bản.
Tăng giá mạnh nhất trong tháng là các mặt hàng may mặc - mũ nón - giày
dép (0,86%) chủ yếu do nhu cầu tiêu thụ tại miền Bắc vào mùa đông. Các mặt
hàng khác như nhà ở - vật liệu xây dựng (tăng 0,51%), thiết bị - đồ dùng gia đình
(0,68%) và hàng hóa - dịch vụ khác (0,6%) cũng tăng giá tương đối mạnh theo quy
luật tiêu dùng cuối năm.
Bên cạnh đó, các cử tri cũng lo lắng trước dự kiến tăng giá điện của EVN.
Họ cũng kiến nghị Chính phủ có giải pháp quản lý, điều hành giá xăng dầu, giá
điện một cách hiệu quả, vừa đảm bảo vận hành từng bước theo cơ chế thị trường,
vừa đảm bảo thúc đẩy sản xuất phát triển; không vì lợi ích cục bộ của doanh
nghiệp mà ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống của nhân dân.
Tỷ lệ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam chỉ đạt 5,9%, thấp hơn so với mức
6,8% của năm 2010, tổng sản phẩm nội địa GDP của Việt Nam năm nay sụt giảm
cũng một phần là do các biện pháp của chính phủ nhằm giảm đầu tư công và thâm
hụt ngân sách. Thâm thủng mậu dịch của Việt Nam năm 2011 đã giảm mạnh,
xuống còn 9,5 tỷ đôla, mức thấp nhất từ một thập niên qua
Sự biến động của lạm phát gây khó khăn cho việc xác định mức sinh lợi
chính xác của các khoản đầu tư, khiến cho nhà đầu tư ngần ngại khi tiến hành đầu
tư, nhất là đầu tư dự án dài hạn, làm ảnh hưởng đến sự tăng trưởng kinh tế. Chất
lượng tín dụng chưa cao, xử lý nợ xấu còn gặp nhiều khó khăn. Thị trường vốn,
chứng khoán, bất động sản phát triển chưa đồng bộ, phục hồi chậm và còn tiềm năng rủi ro.
Cân đối ngân sách nhà nước còn khó khăn; cơ cấu thu, chi ngân sách chưa
phù hợp, chi thường xuyên tăng nhanh; bội chi ngân sách còn cao, chưa đạt mục
tiêu giảm xuống còn 4,5%. Đóng góp của khu vực kinh tế trong nước vào tăng
trưởng xuất khẩu thấp.
Chất lượng tăng trưởng một số mặt còn thấp, cải thiện còn chậm; công nghệ
sản xuất phần lớn còn lạc hậu. Đóng góp của yếu tố năng suất tổng hợp (TFP) vào
tăng trưởng còn hạn chế, hệ số sử dụng vốn (ICOR) còn cao. Năng lực cạnh tranh
quốc gia chưa được cải thiện nhiều, nhất là về thể chế kinh tế, kết cấu hạ tầng và đối mới công nghệ.
Như chúng ta đã biết, lạm phát cao và bất ổn kinh tế vĩ mô là bất lợi lớn đối
với khuyến khích và thu hút đầu tư; làm cho môi trường kinh doanh ở nước ta kém
cạnh tranh hơn so với các nước khác. Lạm phát cao, biến động liên tục đã làm gia 14
tăng chi phí sản xuất, giảm lợi nhuận; làm cho kế hoạch đầu tư chung và dài hạn
rủi ro hơn và không dự tính được một cách chắc chắn. Hệ quả là các doanh nghiệp
nói chung không những phải cắt giảm đầu tư phát triển mà có thể cắt giảm cả quy
mô sản xuất hiện để đối phó với lạm phát cao.
Nợ công của Việt Nam vẫn còn nằm trong tầm kiểm soát, nhưng nhìn lại
những năm gần đây, món nợ công này đã tăng nhanh một cách đáng ngại, khoảng
25% tính từ năm 2007 đến cuối năm 2011, tức là trung bình tăng 5% mỗi năm. ( Số
liệu Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia: nợ công 2007:33,8% GDP, 2008: 36,2%
GDP, 2009: 41,9%, 2010: 56,7% GDP và 2011 dự báo 58,7% GDP ). Nợ công tăng
nhanh trong bối cảnh mà ngân sách của Việt Nam luôn bị thâm hụt, buộc chính phủ
phải vay nợ thêm, cho nên nợ nần sẽ chồng chất, lãi mẹ đẻ lãi con.
Thực tế cho thấy, lượng vốn FDI đăng ký bốn tháng đầu năm 2011 chỉ bằng
52% của cùng kỳ năm ngoái. Lần đầu tiên trong hơn 10 năm qua, số doanh nghiệp
đăng ký mới và số vốn đăng ký đã giảm xuống, chỉ bằng khoảng 75% của cùng kỳ
năm ngoái. Điều tra của Hiệp hội doanh nghiệp châu Âu cũng cho thấy chỉ số lạc
quan kinh doanh của các doanh nghiệp thành viên ở Việt Nam năm 2011 đã giảm
đáng kể. Lạm phát cao (nhưng tiền lương và thu nhập bằng tiền khác của người lao
động không tăng lên tương ứng) đã làm cho thu nhập thực tế của họ giảm xuống.
Ví dụ, trong hai năm qua, lạm phát đã làm cho thu nhập thực tế của người lao động
mất hơn 20%, từ đó, đời sống của đa số dân cư đã trở nên khó khăn hơn nhiều so
với trước đây. Lạm phát cao làm giảm giá trị thực của đồng tiền nội tệ, làm xói
mòn giá trị số tiền tiết kiệm của dân chúng; làm giảm lòng tin và mức độ ưa
chuộng của người dân trong việc nắm giữ và sử dụng đồng nội tệ. Điều đó vừa gây
áp lực thêm đối với lạm phát, bất ổn kinh tế vĩ mô trước mắt vừa làm xói mòn nền
tảng phát triển lâu dài trong trung và dài hạn.
Lạm phát với nội hàm cố hữu của nó luôn gây những cú sốc tấn công vào
mọi mặt của đời sống kinh tế - chính trị – xã hội của quốc gia, buộc Chính phủ
phải ra tay đối phó. Thông thường phải dùng đến các “bài thuốc” đắt giá như phản
ứng mạnh bằng chính sách tiền tệ và chính sách tài khoá. Đương nhiên các vấn đề
nổi cộm sẽ xuất hiện qua các hiện tượng mang tính qui luật như: thanh khoản trong
các ngân hàng bị thắt chặt, lãi suất phải dâng cao, các kỳ vọng về tăng trưởng xấu
đi, giá cả vốn đã cao lại bị khuyếch đại bởi các yếu tố tâm lý, tiền trong lưu thông
luôn có xu hướng tìm nơi trú ẩn vào các vật mang giá trị có tính truyền thống là
vàng, bạc, ngoại tệ, bất động sản, nguyên, nhiên vật liệu quí… làm cho khắp các
nẻo hàng hoá, dịch vụ đều tăng giá. Nghĩa là chỉ có sức mua của đồng nội tệ bị xuống giá. 15
2. Những tồn tại của lạm phát tại Việt Nam năm 2011 và nguyên nhân
a. Nguyên nhân tích tụ từ giai đoạn trước
Thứ nhất, giai đoạn 2009 - 2010 chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ
nhanh chóng được nới lỏng trở lại để khôi phục tăng trưởng kinh tế trong khi
những bất ổn nội tại của nền kinh tế chưa được giải quyết triệt để. Sau giai đoạn
khủng hoảng tài chính thế giới và suy thoái kinh tế, chính phủ đã thực thi chính
sách kích cầu cũng như gia tăng vốn đầu từ từ khu vực nhà nước để phục hồi tăng
trưởng với mục tiêu đưa tốc độ tăng trưởng GDP trở lại mức trước khủng hoảng,
trong khi đó hiệu quả đầu tư công vẫn còn thấp. Mặc dù lạm phát năm 2010 đã
quay trở lại mức 2 con số nhưng đầu năm 2011, quốc hội vẫn đề ra mục tiêu tăng
trưởng kinh tế từ 7 - 7,5% trong khi mục tiêu kiểm soát lạm phát chỉ ở mức 7% vì
vậy có thể nói các chính sách kinh tế bị động trước tình trạng lạm phát tăng cao trong năm nay.
Thứ hai, hiệu quả đầu tư của Việt Nam còn ở mức thấp, tăng trưởng kinh tế
vẫn chủ yếu do mở rộng đầu tư thay vì chú trọng đến hiệu quả đầu tư, vốn đầu tư
cũng chưa được phân bổ một cách hiệu quả. Theo số liệu từ trung tâm nghiên cứu
chính sách và phát triển bền vững (CSDP), giai đoạn 2006 - 2010 chỉ số ICOR của
khu vực nhà nước vào khoảng 10,2 trong khi của khu vực chỉ là hơn 5. Hơn nữa,
lĩnh vực thu hút đầu tư lại là lĩnh vực phí sản xuất như bất động sản. Trong khi đó,
những ngành nghề cần được đẩy mạnh đầu tư để gia tăng năng lực sản xuất thực sự
cho đất nước như các ngành nông lâm nghiệp, công nghiệp giáo dục và đào tạo...
lại chưa được đầu tư đúng mức. Việc phát triển nền kinh tế không bền vững, lệ
thuộc nhiều vào dòng vốn đầu tư từ nước ngoài được coi là nguyên nhân sâu xa
dẫn tới tình trạng lạm phát cao của Việt Nam trong những năm vừa qua.
Thứ ba, giá lương thực thực phẩm tăng cao: biến đổi khí hậu toàn cầu trên
thế giới đã có tác động nặng nề đến các nước, trong đó có Việt Nam. Tính bình
quân trong vòng 10 năm qua giá lương thực thực phẩm đã tăng 2,6 lần trong khi
các hàng hóa khác tăng 1,7 lần. Đây cũng là nhân tố lạm phát ở Việt Nam tăng
mạnh do nhóm các hàng hóa này chiếm hơn 40% khi tính CPI tại Việt Nam.
b. Nguyên nhân xuất hiện trong năm 2011
Gía cả các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu tăng cao
Mở đầu cho việc tăng giá mặt hàng thiết yếu là ngày 24/2 năm 2011, giá
xăng trên thị trường nội địa Việt Nam tăng lên mức 19.300 đồng/lít và đến ngày
26/7/2011 là 21.300 đồng/lít. Sau chuỗi tăng giá xăng thì thị trường Việt Nam còn
phải chịu thêm gánh nặng của ngành điện quyết định tăng giá trong tháng 3 năm
2011. Theo đánh giá của giới chuyên môn là tăng giá này là cần thiết và hợp lí vì 16
lâu nay ngành điện luôn phải bù lỗ để có mức giá ưu đãi cho nhân dân. Tuy nhiên
trong tình trạng giá cả leo thang, các công trình thủy điện đang xây dựng gian dở
cần huy động thêm vốn thì việc tiếp tục bù lỗ trở thành điều kiện không thể đối với
ngành điện. Với việc 2 nguồn nhiên liệu chủ yếu của xã hội là xăng và điện cùng
tăng gía thì việc các loại hàng hóa trong xã hội cũng dần dần tăng giá theo là một điều khó tránh khỏi
Lạm phát tăng cao và nhanh ở 3 nhóm mặt hàng lương thực, thực phẩm;
thuốc tân dược và vật liệu xây dựng. Cả 3 mặt hàng này đều liên quan trực tiếp và
thường xuyên đến đời sống của đông đảo quần chúng, đặc biệt là những người
hưởng lương, những người dân có hoàn cảnh khó khăn và không có nguồn thu
nhập. Sự tăng cao của giá cả tiêu dùng có rất nhiều lý do nhưng các lý do sau đây cần phải quan tâm
1. Về tình hình sản xuất: Một số các doanh nghiệp sản xuất trong nước phải thu
hẹp sản xuất vì thiếu vốn do lãi suất vay ngân hàng cao có khi phải vay 25-
26%, hiện nay tuy có giảm cũng đang nằm ở mức 21-23%, sản phẩm sản
xuất giảm trong khi nhu cầu thiết yếu của người dân cần sử dụng đã đẩy giá
lên cao. Một số doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài có nguồn vốn dồi dào
thì thực hiện khép kín từ khâu mua nguyên liệu vật liệu sản xuất để sản xuất
ra nhiều sản phẩm với giá thành sản phẩm thấp, lại tìm cách chiễm Anh thị
phần có thể khống chế mặt hàng, nâng giá cả lên cao thu lợi lớn.
2. Về khâu phân phối: Các kênh phân phối hoàn toàn khó kiểm soát cũng là lý
do đẩy giá lên cao. Nạn đầu cơ, buôn lậu khó kiểm soát tạo thế lực trong
phân phối, quyết định giá cả các mặt hàng đặc biệt các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu.
3. Ngoài ra nguyên nhân tác động kinh tế thế giới, thiên tai, dịch bệnh...
Tác động tâm lý:
Sức mua của đồng Việt Nam giảm sút nhanh càng khiến cho người dẫn
hướng tới vàng và ngoại tệ như một phương tiện cất trữ tài sản. Tâm lý tích trữ
vàng và ngoại tệ nhất là đô la Mỹ của một bộ phận lớn dân cư đã góp phần đẩy
giá vàng và đô la lên cao, đồng thời ngày càng làm mất giá trị của tiền đồng.
Vòng luẩn quẩn ấy đã khiến cho tình hình lạm phát ở Việt Nam diễn biến ngày
càng phức tạp. Chỉ trong 3 tháng đầu năm 2011 tiền đồng của Việt Nam đã mất
giá 8,5%. Đặc biệt NHNN Việt Nam đã phải quyết định tỉ giá 1 đô la Mỹ từ
18.643 VND lên đến 20.900 VND theo tỉ giá hối đoái chính thức (giá chợ đen
lên đến khoảng 21.500 VND) hiện nay giá vàng lên rất cao đạt 40,05 triệu
đồng/lượng trong ngày 27/7/2011. – Nguyên nhân từ sự thiếu hụt thanh khoản
của các ngân hàng thương mại, điều này đã đẩy lãi suất cho vay của NHTM tăng
cao và làm tăng chi phí đầu vào của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Sự 17
thiếu hụt thanh khoản của các NHTM từ nhiều nguyên nhân nhưng một số khía
cạnh đáng chú ý như: Hoạt động của thị trường liên ngân hàng: Theo NHNN lãi
suất cho vay trên thị trường liên ngân hàng từ giữa tháng 5 đến tháng 7 có xu
hướng giảm so với thời gian trước, hiện nay lãi suất cho vay qua đêm ở mức
13%/năm, lãi suất cho vay 1 tuần ở mức 15% /năm lãi suất cho vay 2 tuần đến 1
tháng ở mức 18%/năm . Tuy nhiên, thời gian trước, hiện nay lãi suất cho vay qua
đêm ở mức 13%/năm, lãi suất cho vay 1 tuần ở mức 15%/năm lãi suất cho vay 2
tuần đến 1 tháng ở mức 18%/năm. Tuy nhiên, thời gian trước, lãi suất thị trường
liên ngân hàng liên tục tăng cao, có thời điểm lãi suất lên đến 25-27%. Nguyên
nhân do việc thắt chặt tiền tệ để kiềm chế lạm phát của NHNN đã khiến một số
ngân hàng nhỏ gặp khó khăn về thanh khoản. Trong khi đó, các NH này bị hạn
chế về thương hiệu, mạng lưới khiến khó có thể cạnh tranh được với các ngân
hàng lớn trong việc huy động vốn, nhất là khi NHNN ấn định trần lãi suất huy
động tối đa chỉ là 14%/năm. Các NH này cũng gặp khó khăn trong việc đi vay từ
NHNN trên thị trường mở do thiếu giấy tờ có giá để giao dịch NHNN cũng đang
hạn chế lượng tiền cung ứng để kiềm chế lạm phát. Khó khăn về thanh khoản
khiến các NHTMCP nhỏ thường xuyên phải vay trên thị trường liên ngân hàng.
Các ngân hàng dư vốn đã tận dụng tình trạng này để cho vay các NHTM thiếu
vốn với lãi suất cao có lúc lên đến 20-21%/năm. Thực trạng này làm mất đi ý
nghĩa vốn có của thị trường liên ngân hàng là nơi đi vay và cho vay ngắn hạn
giữa các ngân hàng với nhau, là nơi “bấu víu” của các NH tạm thời thiếu thanh
khoản. Không những vậy, việc làm này còn khiến đồng vốn chỉ chạy lòng vòng
trong các ngân hàng mà không đi vào vùng kinh tế để phục vụ phát triển sản xuất
kinh doanh. Thậm chí nhiều NHTM nhỏ không chấp nhận kiểu đi vay này đã
quay trở lại thị trường 1 để huy động vốn bằng mọi giá. Và khi các NHTM nhỏ
khởi động cuộc đua, để giữ chân khách hàng và duy trì nguồn vốn ổn định, các
NHTM lớn cũng buộc phải đẩy lãi suất huy động lên cao khiến cuộc đua lãi suất
bùng phát. Thiếu sự hỗ trợ thanh khoản đối với các ngân hàng TM từ công ty
Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam: Việt Nam đã có nhiều văn bản đề cập đến việc chi
trả tiền gửi cho người gửi tiền khi NH bị phá sản, song đây không phải là nhiệm
vụ chính yếu của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam. Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam là
một kênh rất quan trọng hỗ trợ cho các NHTM khi họ gặp khó khăn về thanh
khoản nhưng đến nay vẫn chưa có luật bảo hiểm tiền gửi để làm minh bạch cho
nhiệm vụ và quyền lợi của NHTM, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, người gửi tiền.
Sự hỗ trợ thiếu hụt thanh khoản từ số dư tiền gửi bắt buộc từ NHNN: NHNN có
thể tăng, giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc để tác động đến mở rộng, thu hẹp hoạt động
kinh doanh của NHTM khi ác NHTM chấp hành thực hiện chuyển tiền vào tài
khoản tiền gửi dự trữ bắt buộc tại NHNN. Nếu các NH chấp hành tốt thì thực sự
làm mạnh hệ thống thanh khoản đối với hệ thống NH. NHNN có thể sử dụng số
tiền này để hỗ trợ sự thiếu hụt thanh khoản của một số NH đảm bảo an toàn hệ 18
thống NHTM. Hiện nay điều này chưa được đề cập chức năng này của NHNN
trong việc hỗ trợ thanh khoản từ kênh tiền dự trữ bắt buộc.
IV. GIẢI PHÁP: Trình bày các chính sách tài khóa của nhà nước để khắc
phục vấn đề lạm phát năm 2011
Lần đầu tiên, tuyên bố mục tiêu vĩ mô và cam kết thực hiện mục tiêu kiểm
soát lạm phát thể hiện sự nhất quán cao trong tư tưởng chỉ đạo của Chính phủ theo
Nghị quyết 11/NQ-CP/2011 tháng 2/2011.
Nguyên nhân có thể nhìn một phần ở thực trạng thực hiện chính sách tài khoá
thắt chặt năm 2011. Các giải pháp cắt giảm chi tiêu công được đưa ra khá quyết liệt:
Không kéo dài thời gian giải ngân, không ứng trước kế hoạch năm 2012 vốn ngân
sách và trái phiếu chính phủ, giảm 32% vốn trái phiếu chính phủ, giảm 10% tín
dụng đầu tư của nhà nước. Yêu cầu cắt giảm đầu tư công theo tinh thần Nghị quyết
11 được coi là giải pháp quyết liệt và cần thiết để kiềm chế lạm phát. Mục tiêu của
chủ trương này gắn liền với chiến lược tái cấu trúc đầu tư công, thúc đẩy tiến độ,
đầu tư trọng điểm vào các dự án cần thiết và phân bổ lại tổng nguồn vốn đầu tư xã
hội nhằm đảm bảo tính hiệu quả của vốn đầu tư.
Theo Báo cáo về tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và
ngân sách nhà nước 6 tháng đầu năm 2011, tổng thu ngân sách nhà nước 6 tháng
đầu năm 2011 ước đạt 327,8 nghìn tỷ đồng, bằng 55,1% dự toán năm, tăng 22,8%
so với cùng kỳ năm 2010. Tổng chi ngân sách nhà nước ước đạt 355,6 nghìn tỷ
đồng, bằng 49% dự toán năm. Bội chi ngân sách nhà nước 6 tháng đầu năm 2011
ước 27,7 nghìn tỷ đồng, bằng 23% mức bội chi ngân sách nhà nước cả năm. Mức
tăng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) trong các tháng gần đây có xu hướng giảm, từ
3,32% vào tháng Tư, giảm xuống 2,21% vào tháng Năm và 1,09% vào tháng Sáu,
cũng là mức thấp nhất kể từ đầu năm. Tốc độ tăng GDP 6 tháng đầu năm 2011 ước
đạt 5,57%, thấp hơn tốc độ tăng 6 tháng đầu năm 2010 (6,16%).
Tuy nhiên, theo số liệu đến tháng 8/2011, tổng số dự án ngừng khởi công mới,
cắt giảm và điều chuyển là 2.103 dự án với tổng số vốn là 6.532,7 tỷ đồng, trong
đó ngừng khởi công mới 1.206 dự án với số vốn cắt giảm 3.768,5 tỷ đồng; cắt
giảm, điều chuyển vốn của 897 dự án với số vốn 2.764,2 tỷ đồng. Bên cạnh đó,
một số lượng không nhỏ các dự án mới không thuộc đối tượng đầu tư của vốn trái
phiếu chính phủ hoặc không phải dự án được đầu tư năm 2011 lại được đưa thêm
vào danh mục đầu tư năm 2011. Có thể nhận thấy, kết quả ròng của chủ trương
giảm đầu tư công năm 2011 là rất khiêm tốn, không đem lại hiệu ứng mong muốn.
Tuy vậy, mức thu ngân sách tăng 20% so với năm 2010 và bội chi giảm nhẹ ở mức
4,9% thấp so với mức mục tiêu 5,3%. 19
Về chính sách tài khoá, tiếp tục thực hiện nhất quán chính sách tài khoá thắt
chặt phối hợp hài hoà với việc thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng để
thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát; tập trung vốn đầu tư công cho các dự án
trọng điểm về cơ sở hạ tầng để nâng cao năng lực, hiệu quả và sức cạnh tranh của
nền kinh tế. Các ngành, các cấp tiếp tục tập trung thực hiện các giải pháp tăng thu,
phấn đấu hoàn thành vượt 7 - 8% dự toán thu năm 2011; tiết kiệm chi để giảm bội
chi ngân sách nhà nước xuống dưới 5% GDP, thấp hơn mức Quốc hội quyết định
(5,3% GDP); tăng cường rà soát, tập trung vốn, cắt giảm đầu tư công, kiểm soát
chặt đầu tư của doanh nghiệp nhà nước; kiên quyết cắt giảm nguồn đầu tư vào
những công trình, dự án không hiệu quả, chưa thật sự cần thiết, tiến độ chậm, kéo
dài; ưu tiên và tập trung vốn cho các công trình đã đầu tư dở dang và sắp hoàn
thành, đưa vào sử dụng trong năm 2011.
Báo cáo về tình hình thực hiện ngân sách nhà nước 6 tháng đầu năm cho
thấy đến hết tháng 6/2011, tổng thu ngân sách nhà nước ước đạt 327.820 tỷ đồng,
bằng 55,1% dự toán; Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu 6 tháng đầu năm 2011 ước
tăng 27,8% so với thực hiện cùng kỳ năm 2010, trong đó: kim ngạch xuất khẩu
tăng 30,3%, kim ngạch nhập khẩu tăng 25,8% so với cùng kỳ.
Theo Báo cáo về tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và
ngân sách nhà nước 6 tháng đầu năm 2011, tổng thu ngân sách nhà nước 6 tháng
đầu năm 2011 ước đạt 327,8 nghìn tỷ đồng, bằng 55,1% dự toán năm, tăng 22,8%
so với cùng kỳ năm 2010. Tổng chi ngân sách nhà nước ước đạt 355,6 nghìn tỷ
đồng, bằng 49% dự toán năm. Bội chi ngân sách nhà nước 6 tháng đầu năm 2011
ước 27,7 nghìn tỷ đồng, bằng 23% mức bội chi ngân sách nhà nước cả năm. Mức
tăng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) trong các tháng gần đây có xu hướng giảm, từ
3,32% vào tháng Tư, giảm xuống 2,21% vào tháng Năm và 1,09% vào tháng Sáu,
cũng là mức thấp nhất kể từ đầu năm. Tốc độ tăng GDP 6 tháng đầu năm 2011 ước
đạt 5,57%, thấp hơn tốc độ tăng 6 tháng đầu năm 2010 (6,16%).
Tổng chi ngân sách nhà nước 6 tháng đầu năm ước 355.600 tỷ đồng, đạt
49,0% dự toán; bội chi ngân sách nhà nước 6 tháng đầu năm ước 27.780 tỷ đồng,
bằng 23% dự toán, đây là mức bội chi thấp nhất so với mức cùng kỳ một số năm
gần đây (năm 2010 là 25% dự toán, năm 2009 là 32% dự toán), cho thấy chủ
trương thắt chặt tài khoá đã được thực hiện nghiêm túc.
Tuy nhiên, do bối cảnh thị trường không thuận lợi, lãi suất tín dụng ở mức
cao, công tác phát hành trái phiếu Chính phủ cho bù đắp bội chi ngân sách nhà
nước và cho đầu tư phát triển cũng gặp nhiều khó khăn, 6 tháng đầu năm mới huy
động được khoảng 34%. Các giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ
ngân sách nhà nước năm 2011 được đề xuất, khẳng định tiếp tục thực hiện chính
sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng, linh hoạt, bảo đảm tốc độ tăng trưởng tín dụng 20
năm 2011 dưới 20%, tăng tổng phương tiện thanh toán khoảng 15-16%; tiếp tục
thực hiện nhất quán chính sách tài khoá thắt chặt phối hợp hài hoà với việc thực
hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng để thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát.
Đối với chi đầu tư phát triển, tiếp tục hướng dẫn và giám sát chặt chẽ việc
thực hiện cắt giảm, bằng cách đó mà kiểm soát tính hiệu quả của nguồn vốn đầu tư,
giảm áp lực lên mặt bằng giá cả, điều chuyển vốn đầu tư sử dụng nguồn ngân sách
nhà nước và trái phiếu Chính phủ đến hết ngày 30/6/2011(dự kiến trong năm 2011,
số vốn cắt giảm chiếm khoảng 10% GDP (tương đương 97.000 tỷ đồng), trong đó
tới 50.000 tỷ đồng giảm do khâu kế hoạch chi đầu tư công 2011 giảm so với thực
hiện năm 2010). Sau thời hạn này, thu hồi toàn bộ về ngân sách trung ương đối với
số vốn mà các Bộ, cơ quan và địa phương đã bố trí không đúng quy định để điều
chuyển cho các công trình, dự án thực sự cấp bách, cần ưu tiên xử lý ngay về vốn
thuộc lĩnh vực quốc phòng, an ninh, chương trình hỗ trợ huyện nghèo. Số vốn cắt
giảm do thực hiện các giải pháp quy định tại Nghị quyết số 11 là 46.888,3 tỷ đồng,
trong đó riêng vốn ngân sách nhà nước cắt giảm là 5.128 tỷ đồng, vốn trái phiếu
chính phủ là 2.547,5 tỷ đồng; các tập đoàn kinh tế, Tổng Công ty nhà nước cắt giảm 39.212,2 tỷ đồng.
Thu, chi và bội chi ngân sách Nhà nước 2001-2011 (%/GDP)
Nguồn: Bộ Tài chính, Ủy ban giám sát tài chính quốc gia
Đối với chi thường xuyên, các bộ, cơ quan trung ương và địa phương quán
triệt việc quản lý chi tiêu chặt chẽ, tiết kiệm, không bố trí kinh phí cho các công
việc chưa thực sự cấp bách. Quản lý, sử dụng nguồn dự phòng ngân sách nhà nước
theo đúng quy định; nguồn vượt thu ngân sách nhà nước năm 2011 tập trung để
giảm bội chi ngân sách nhà nước, tăng chi trả nợ và xử lý một số nhu cầu chi cấp
thiết phát sinh (khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh; đảm bảo quốc phòng, an
ninh và an sinh xã hội...). 21
Thảo luận tại phiên họp, các ý kiến tập trung về những kết quả đạt được
trong 6 tháng đầu năm; khó khăn, thách thức và những vấn đề cần quan tâm trong
chỉ đạo, điều hành; các nhóm giải pháp 6 tháng cuối năm cần tập trung thực hiện.
Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Hà Văn Hiền cho rằng chủ trương cắt giảm đầu tư công
là chủ chương đúng đắn nhưng cần lưu ý trong khâu tổ chức thực hiện. Theo ông
Hiền, Chính phủ nên giao định mức yêu cầu cắt giảm đầu tư công cho từng ngành,
địa phương, trên cơ sở đó để địa phương hoặc ngành quyết định cắt giảm. Đại biểu
đề nghị báo cáo của Chính phủ cần phân tích sâu thêm về cả những mặt làm được
và chưa được để qua đó thấy được những điểm cần lưu ý trong quá trình triển khai
thực hiện. Chủ nhiệm Ủy ban về các vấn đề xã hội Trương Thị Mai cho rằng triển
khai đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp theo Kết luận số 02 của Bộ Chính trị, các
Nghị quyết của Quốc hội, Nghị quyết số 11 của Chính phủ đã mang lại những kết quả tích cực.
Tuy nhiên, những kết quả mới chỉ là bước đầu, thách thức, khó khăn những
tháng cuối năm còn rất nặng nề, cần có những giải pháp kiên quyết và kịp thời tháo
gỡ những khó khăn phát sinh và khắc phục tồn tại cũ nhằm thực hiện mục tiêu
kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, đồng thời giải
quyết một số vấn đề phức tạp về trật tự xã hội, quốc phòng an ninh.
Điều chỉnh linh hoạt chính sách thuế, chính sách chi khác hạn chế nhập
khẩu, khuyến khích xuất khẩu, kết hợp chính sách tài khoá, chính sách tiền tệ trong
việc rà soát, điều chỉnh tạo điều kiện thúc đẩy tái cơ cấu kinh tế, hỗ trợ phát triển
các ngành công nghiệp phụ trợ, hạn chế nhập khẩu nguyên vật liệu. Tiết kiệm thêm
10% chi thường xuyên ngoài lương của 9 tháng còn lại; không cấp kinh phí cho
những việc chưa thật sự cấp bách. Rà soát toàn bộ công trình, dự án đầu tư từ ngân
sách nhà nước và trái phiếu Chính Phủ đã được bố trí năm 2011, xác định cụ thể
các công trình cần ngừng, đình hoãn, giãn tiến độ thực hiện trong năm 2011; thu
hồi hoặc điều chuyển các khoản bố trí nhưng chưa cấp bách và không đúng mục
tiêu. Giảm bội chi ngân sách nhà nước năm 2011 xuống dưới 5%GDP; kiểm tra, rà
soát lại đầu tư của các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước, DNNN, loại bỏ
những dự án đầu tư kém hiệu quả, dàn trải; không được ứng trước vốn ngân sách,
trái phiếu Chính Phủ của năm 2012; không kéo dài thực hiện các khoản vốn đầu tư
từ ngân sách, trái phiếu Chính Phủ kế hoạch năm 2011, thu hồi toàn bộ số vốn bố
trí không đúng quy định Đến cuối tháng 6/2011, ngành tài khoá đã cắt giảm tổng
số tiền chi thường xuyên là 3857,7 tỷ đồng, cắt giảm tổng số vốn đầu tư của các
bộ, ngành, địa phương và các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước là 80.550
nghìn tỷ đồng, bằng 9% tổng đầu ra xã hội năm 2011. Giảm tỷ trọng đầu tư Nhà
nước trong tổng đầu tư xã hội xuống 34%, thực hiện an sinh xã hội thông qua tăng
lương 100.000 đồng trong doanh nghiệp từ 1/5/2011, cắt 140 dự án, giảm tiến độ 22
133 dự án, chỉ tập trung vào dự án trọng điểm, có hiệu quả, nhất là về xây dựng cơ bản…
Các đợt giảm và hoãn thuế cũng được sử dụng từ 2011, tiếp tục được sử
dụng cho hỗ trợ doanh nghiệp trong năm 2012 với quy mô khoảng 29.000 tỷ đồng nhằm:
i/ Gia hạn nộp thuế giá trị gia tăng (VAT), thuế thu nhập doanh nghiệp
(TNDN) đối với một số doanh nghiệp;
ii/ Giảm tiền thuê đất, miễn thuế môn bài năm 2012 đối với hộ đánh bắt hải
sản và hộ sản xuất muối…
Tuy vậy, hiệu ứng hỗ trợ của chính sách thuế sẽ rất khiêm tốn bởi:
i/ Một số doanh nghiệp đang ở trong diện gia hạn nộp thuế từ đợt gia hạn
năm 2011, kỳ gia hạn này chỉ kéo dài hơn thời hạn chứ không tạo nên sự hỗ trợ vật chất thực sự;
ii/ Một bộ phận doanh nghiệp không nhỏ đang trong giai đoạn cầm cự và tồn
tại. Với tỷ lệ tồn kho cho đến tháng 5/2012 khoảng 30 - 40% bình quân thì khả
năng có nguồn nộp thuế để hưởng chính sách giảm thuế là không khả thi trong một vài tháng tới;
iii/ Gói hỗ trợ được dự tính ảnh hưởng khoảng 9% thu ngân sách sẽ gây áp lực
lên mức bội chi ngân sách vốn đã rất nặng nề có thể sẽ có những hệ luỵ khác.
Tuy vậy, nếu nhìn nhận một cách khách quan thì dường như nỗ lực của
chính phủ trong cuộc chiến chống lạm phát hiện nay chưa thật sự quyết liệt và
quyết tâm như ngành ngân hàng. Một trong những nguyên nhân lạm phát của năm
2011 là do việc theo đuổi mục tiêu tăng trưởng kinh tế trong thời gian qua, hiệu
quả đầu tư thì thấp, khi mà còn tồn đọng hậu quả của chính sách kích cầu với 10%
GDP vào năm 2009 (1 tỷ USD). Nhà nước thực hiện chính sách hỗ trợ kinh tế này
thông qua đầu tư công, chi ngân sách (6 tháng đầu năm 2011, bội chi ngân sách là
cao nhất so với năm 2009 và 2010). Bên cạnh đó, công tác tuyên truyền, phổ biến
thông tin của Bộ tài khoá đối với công chúng dường như chưa kịp thời và công
khai. Chỉ số ICOR được công bố là rất cao, khoảng 8%, nhưng thực sự phân tích
và nhìn kỹ sự kém hiệu quả này là chưa đầy đủ và rõ ràng. Theo các chuyên gia thì
ICOR 6 tháng đầu năm 2011 vào khoảng 6,9 (năm 2010 con số đó là 7,38), khu
vực kém hiệu quả nhất là khu vực nhà nước (lúc nào cũng vậy) chiếm khoảng 33%
GDP và FDI. Các chính sách về giá xăng dầu, lương thực, thực phẩm, điện, nguyên
liệu... chưa có sự giải trình rốt ráo, minh bạch và kịp thời trong bối cảnh lạm phát
cao. Ngành tài chính có 16 đơn vị báo chí, song việc quan tâm tới truyền thông
chưa đầy đủ, chưa dễ hiểu, trong khi đó, công luận chỉ trích nhiều về quản lý đầu
tư công trong thời gian qua là quá lớn, lãng phí và kém hiệu quả. Vì vậy, dường 23
như chính sách tài khoá tỏ ra “lép” hơn chính sách tiền tệ vào giai đoạn này, mặc
dù năm 2011 được coi năm thử lửa đối với chính sách tài khoá!
Có thể thấy việc cắt giảm đầu tư công vẫn chưa được thực hiện như mong
đợi, giữa con số được công bố và con số thực tế vẫn có một khoảng cách khá xa.
Để chia sẻ trách nhiệm với chính sách tiền tệ trong việc chữa căn bệnh “lạm phát”,
thì chính sách tài khóa thắt chặt cần phải thực hiện nghiêm túc, quyết liệt hơn và
minh bạch hơn. Nếu việc thắt chặt tài khoá được thực hiện tốt hơn sẽ giảm gánh
nặng cho chính sách tiền tệ trong việc làm giảm kỳ vọng lạm phát và từ đó giúp
giảm mặt bằng lãi suất, giúp các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh “dễ thở” hơn,
đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nếu không thực hiện được, lãi suất vẫn ở mức cao! V. KẾT LUẬN
Chúng ta nhận thức rằng quá trình đấu tranh chống lạm phát không đơn giản
ngày một ngày hai. Nó là bệnh kinh niên nhưng việc xoá bỏ hoàn toàn lạm phát thì
cái giá phải trả không tương xứng với lợi ích đem lại.
Tình hình diễn biến lạm phát và khắc phục nó tại Việt Nam rất phức tạp.
Lạm phát đã hoành hành công khai khi Việt Nam tiến hành cải cách kinh tế xã hội,
xoá bỏ cơ chế quan liêu bao cấp. Sự cải cách không đồng bộ giữa giá cả và quản lý
kinh tế dẫn đến khủng hoảng trầm trọng. Thành công trong công cuộc chống lạm
phát năm 1989 đưa đất nước vượt lên chính là sự đổi mới trong nhận thức quản lý
kinh tế của Đảng và nhà nước ta. Kinh tế ổn định làm tiền đề cho sự thành công
của các thành tựu trong lĩnh vực giáo dục, khoa học, chính trị... Nó còn là một yếu
tố vĩ mô quan trọng, để quản lý tài chính cá nhân thật tốt thì mỗi người không thể
không quan tâm đến lạm phát. Tuy nhiên, hãy nhìn lạm phát như những cơ hội đến
với bạn. Nếu lạm phát thấp, có thể tăng mua hàng hóa khi giá cả rẻ vừa giúp tăng
trưởng kinh tế, lại vừa tiết kiệm tiền. Nếu lạm phát cao, hãy nghĩ tới các tài sản có
giá trị hoặc nhân đôi số tiền nhanh chóng trong ngân hàng.
Tuy nhiên, lạm phát luôn rình rập và đe doạ chúng ta bất cứ lúc nào. Chính
vì vậy Đảng và nhà nước phải luôn thận trọng trong mỗi bước đi của mình để đảm
bảo cho nền kinh tế nước nhà phát triển vững mạnh, làm nền tảng để phát triển
khoa học, giáo dục, đuổi kịp sự phát triển của các nước trong khu vực nói riêng và
các nước trên thế giới nói chung. Điều này không chỉ của riêng ai mà của tất cả các
cá nhân, doanh nghiệp đặc biệt là các nhà doanh nghiệp trẻ và của toàn xã hội. 24 VI.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
https://nld.com.vn/thoi-su-trong-nuoc/lam-phat-ca-nam-2011-la-18-12- 2011122210001146.htm
https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/nghien-cu/-/2018/12067/lam-phat--sau-4-
thang-dau-nam-2011--van-de-noi-com%2C-can-nguyen-va-doi-pho.aspx
https://123docz.net/document/2760053-tieu-luan-lam-phat-o-viet-nam-nam-2011-
nguyen-nhan-va-khuyen-nghi-chinh-sach.htm
https://www.studocu.com/vn/document/truong-dai-hoc-thuong-mai/tai-chinh-tien-
te/lam-phat-2011-2015-tom-tat-lam-phat-cua-viet-nam-trong-giai-doan-2011- 2015/25410829
https://wiki.tino.org/lam-phat-la-gi/
https://dangcongsan.vn/tai-chinh-va-chung-khoan/nhung-van-de-tai-chinh-chung-
khoan/tiep-tuc-thuc-hien-chinh-sach-tai-khoa-chat-che-gop-phan-on-dinh-kinh-te- vi-mo-351164.html
https://www.slideshare.net/shopsosinh/de-tai-tieu-luan-chinh-sach-tai-khoa-giai- phap-va-ung-dung
https://www.academia.edu/41380564/Phan_tich_chinh_sach_tai_khoa_viet_nam_g iai_doan 25