lOMoARcPSD| 47206521
Hà Nội, tháng 9 năm 2022
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA KHÁCH SẠN – DU LỊCH
----------
----------
:
Th.S Ngô Thị Minh Nguyệt
Lớp học phần : 2288HCMI0111
Nhóm
thực hiện
:
Nhóm 10
BÀI THẢO LUẬN NHÓM
T
Ư TƯỞNG HỒ
CHÍ MINH
Đề tài:
Phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về
con người và sự vận dụng của Đảng ta
trong giai đoạn hiện nay.
lOMoARcPSD| 47206521
MỤC LỤC
A, PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................... 1
B, PHẦN NỘI DUNG ............................................................................... 3
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN .................................................................... 3
1.1. Cơ sở lí luận hình thành tư tưởng HCM ............................................................. 3
1.2. Cơ sở thực tiễn hình thành tư tưởng HCM........................................................ 14
2. Nội dung Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người ...................................................... 18
2.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người ...................................................... 18
2.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của con người .................................... 19
2.3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng con người ...................................... 21
CHƯƠNG II: SỰ VẬN DỤNG TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON
NGƯỜI CỦA ĐẢNG TA HIỆN NAY .......................................................... 29
1. Quan điểm của Đảng trong vận dụng tưởng Hồ Chí Minh về con người (Đại hội
XIII và các Đại hội khác) ............................................................................................ 29
2. Thành công của Đảng trong việc vận dụng tưởng Hồ Chí Minh về con
người30 ........................................................................................................................ 31
3. Hạn chế và giải pháp khắc phục .............................................................................. 32
3.1. Hạn chế và yếu kém .......................................................................................... 32
3.2. Nguyên nhân tình hình ...................................................................................... 33
3.3. Những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả phát triển con người chiến
lược "trồng người" những năm tới theo tư tưởng Hồ Chí Minh .............................. 33
1. Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiến hình thành Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người4
lOMoARcPSD| 47206521
C, PHẦN KẾT
LUẬN.............................................................................33
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................34
lOMoARcPSD| 47206521
1
A, PHẦN MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây, khi bước vào thế kỉ mới, với những biến đổi lớn lao,
đặt ra nhiều thách thức con người phải đối mặt như: Cuộc cách mạng khoa học
công nghệ đang phát triển; vấn đề môi trường; dân số; vấn đề dân chủ, nhân quyền,
nhân sinh, an sinh hội; vấn đề dân tộc, tôn giáo, khủng bố các tệ nạn hội
mới phát sinh. Điều đó khiến con người đứng trước những mâu thuẫn to lớn hết
sức gay gắt, buộc con người phải tự hoàn thiện bản thân để theo kịp xu thế mới của
thời đại. Để làm được như vậy thì không chỉ là sự cố gắng phát triển của mỗi nhân
trong việc học tập làm theo tưởng Hồ Chí Minh vcon người còn sự
tham gia chỉ đạo và giúp đỡ của Đảng và nhà nước.
tưởng Hồ Chí Minh về con người được biểu hiện đa dạng và vô cùng phong
phú, thể hiện trong từng việc làm, cử chỉ và mối quan tâm của mỗi con người. Tất cả
đều toát lên tình yêu vô hạn, sự tôn trọng, thái độ bao dung và niềm tin tuyệt đối vào
con người. Trên cơ sở tiếp thu tư tưởng Hồ Chí Minh, trong suốt quá trình lãnh đạo
cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn coi con người là vốn quý nhất, mục tiêu,
động lực của cuộc cách mạng. Quan điểm này đươc thể hiện thông qua các kỳ đại
hội, đặc biệt tại Đại hội XII, Đảng đã bổ sung, phát triển nhiều quan điểm mới về
xây dựng, phát triển con người. Những quan điểm này được cụ thể hóa thành các
nhiệm vụ, giải pháp, định hướng cụ thể trong hoạt động thực tiễn và phát triển kinh
tế - xã hội.
Qua đây thể thấy được tầm quan trọng để hiểu hơn thì sau đây nhóm
10 chúng em xin trình bày về đề tài “Phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về con người
và sự vận dụng của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay”.
1. Lý do chọn đề tài
tưởng Hồ Chí Minh một hệ thống quan điểm toàn diện sâu sắc về
những vấn đề bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của svận dụng phát
triển sáng tạo của chủ nghĩa Mác- Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa
phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa
nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi
mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi. Trước lúc
lOMoARcPSD| 47206521
2
đi xa Người đã để lại cho dân tộc Việt Namnhân loại tiến bộ trên thế giới một di
sản lý luận cùng quan trọng để hướng tới sự nghiệp Độc lập dân tộc Chủ nghĩa
hội. Trong di sản tưởng của Người điều cốt lõi ý nghĩa xuyên suốt Độc
lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa hội. vậy tưởng giải phóng của Người
chính là lấy sự nghiệp giải phóng con người làm trung tâm.
Hiện nay đất nước Việt Nam đang trong tiến trình đổi mới, hội nhập kinh tế
quốc tế. Vấn đề về con người luôn được Đảng nhận thức khẳng định, Đảng
Cộng sản Việt Nam luôn nhấn mạnh đến nguồn lực con người, coi đó nguồn lực
nội sinh quan trọng nhất cho sphát triển nhanh và bền vững của đất nước. Kế thừa
các Đại hội trước Đại hội X nêu rõ “Xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con
người Việt Nam, bảo vệ phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong thời kì công
nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế. Bồi dưỡng các giá trị
văn hóa trong thanh niên, học sinh, sinh viên, đặc biệt là tưởng sống, lối sống,
năng lực trí tuệ, đạo đức bản lĩnh văn hóa con người Việt Nam”, Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ XI khẳng định: “Mở rộng dân chủ, phát huy tối đa nhân tố con
người; coi con người chủ thể, nguồn lực chủ yếu mục tiêu của sự phát
triển…Phát huy mạnh mẽ mọi khả năng sáng tạo và bảo đảm đồng thuận cao trong
hội, tạo động lực phát triển đất nước…Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực,
trọng dụng nhân tài, chăm lo lợi ích chính đáng và không ngừng nâng cao đời sống
vậy chất, tinh thần của mọi người dân, thực hiện công bằng xã hội”.
Trong tiến trình toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế trên phạm vi toàn cầu
như hiện nay, vấn đề con người đang vấn đề thời sự, vấn đề trung tâm được
nhiều nước trên thế giới đã đang tích cực đào tạo phát triển nguồn nhân lực
với nhiều mức độ khác nhau.
thế việc làm thêm tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề con người, trong
điều kiện đất nước đang trong tiến trình đổi mới hội nhập kinh tế quốc tế, việc
làm quan trọng và cần thiết.
Xuất phát từ những lý do trên nhóm em đã quyết định chọn đề tài Phân
tích tư tưởng Hồ Chí Minh vcon người svận dụng của Đảng ta trong giai đoạn
hiện nay” để làm đề tài thảo luận cho nhóm mình.
2. Mc đích nghiên cứu
lOMoARcPSD| 47206521
3
Tư tưởng Hồ C Minh nói chung và tư tưởng Hồ Chí Minh về việc xây dụng
con người Việt Nam trong giai đoạn mới nói riêng rất rộng lớn sâu sắc. Học tập
nghiên cứu Tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc nhìn nhận, đánh giá vai trò, vị trí
và khả năng to lớn của con người trong sự nghiệp đổi mới đất nước ngày nay.
3. Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu đề tài này, tác giả đứng trên lập trường của chủ nghĩa Mác
Lênin, lấy thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện chứng để xem xét những
vấn đề liên quan đến đề tài.
Kết hợp giữa phương pháp logic phương pháp lịch sử. Ngoài ra, để đạt được
kết quả nghiên cứu cao, tác giả còn sử dụng các phương pháp khác như:
Phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, điều tra xã hội học…
4. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận danh mục tài liệu tham khảo, bài thảo luận
gồm có 2 chương.
B, PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Cơ sở lý lun và cơ sở thực tiến hình tnh Tư tưởng H Chí Minh v
con người
1.1. Cơ sở lí luận hình thành tư tưởng HCM
1.1.1. Giá trị truyền thống dân tộc
- Chủ nghĩa yêu nước giá trị xuyên suốt trong những truyền thống tốt đẹp của
dân tộc Việt Nam. Đó động lực, sức mạnh giúp cho dân tộc Việt Nam tồn tại
vượt qua mọi khó khăn trong dựng nước giữ nước phát triển. Chủ nghĩa
yêu nước là giá trị xuyên suốt trong những truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt
Nam. Đó là tình yêu nước nồng nàn, là sức mạnh đoàn kết đại không “khí”
nào thể thay thế. Được hình thành trong quá trình dựng nước, trong đấu tranh
và bảo vệ nền độc lập, thoát khỏi sự đô h của ngoại bang, chủ nghĩa yêu nước
sáng ngời với những tấm gương kiên trung, bất khuất của chủ nghĩa anh hùng
cách mạng: Truyền thống yêu nước được những anh hùng dân tộc ở các thời kỳ
lịch sử khác nhau như Trần Hưng Đạo, Lợi, Nguyễn Trãi, Quang Trung,…đúc
lOMoARcPSD| 47206521
4
kết nâng lên thành phép đánh giặc giữ nước,“trên dưới đồng lòng, cả nước chung
sức”, “tướng một lòng phụ tử”,…Truyền thống ấy được tiếp nối trong tưởng
tập hợp lực lượng dân tộc của các nhà yêu nước trong cuộc đấu tranh chống thực
dân Pháp xâm lược các thế lực phong kiến tiếp tay cho ngoại bang, tiêu
biểu nhất cụ Phan Bội Châu cụ Phan Chu Trinh một phần từ đầu thế kỷ
XX.
Chính chủ nghĩa yêu nước là nền tảng tư tưởng, điểm xuất phát và động lực thúc
đẩy Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước năm 1911, và tìm thấy ở chủ nghĩa Mác-
Lênin con đường cứu nước, cứu dân. Cũng là cơ sở xuất phát, là động lực xuyên suốt
cuộc đời hoạt động cách mạng của Người. Người đặt cho mình cái tên Nguyễn Ái
Quốc - Nguyễn yêu nước để luôn nhắc nhở, cỗ vũ bản thân và cỗ vũ quốc dân đồng
bào.
Sinh ra trên mảnh đất xứ Nghệ, các thành viên trong gia đình từ ông bà ngoại, bố
mẹ, cháu, anh chị em đều gắn bó, đùm bọc, yêu thương nhau, hy sinh nhau và
rất gần gũi, thân tình, đoàn kết với bà con lối xóm, có thể nói gia đình chính là nhân
tố đầu tiên hình thành nhân cách cao thượng, tình yêu quê hương đất nước của Bác
sau này. Đây là nơi Bác đã gắn bó tuổi thơ của mình, là vùng đất địa linh nhân kiệt,
nơi đã sinh ra nhiều nhân vật yêu nước nổi tiếng trong lịch sử dân tộc Việt Nam như
Mai Thúc Loan, Nguyễn Biểu; Phan Bội Châu...., là mảnh đất giàu truyền thống yêu
nước, chống ngoại xâm nên Người đã thấu hiểu được thế nào là tình yêu quê hương
- nơi chôn nhau cắt rốn. Đó cũng là những điều kiện rất tốt sớm nuôi dưỡng, hun đúc
tình cảm và tư tưởng yêu nước, thương nòi của Người.
Yêu nước đối với Người là gắn liền với yêu nhân dân.
Nhìn lại lịch sử, Bác Hồ đã khẳng định: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước.
Đó một truyền thống qbáu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng
thì tinh thần ấy lại sôi nổi, kết thành một làn sóng cùng mạnh mẽ, to lớn,
lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nhấn chìm tất cả bán nước cướp
nước”, cũng chính là truyền thống yêu nước đã sớm truyền vào người thanh niên trẻ
lòng yêu nước và khát vọng giải phóng đất nước.
- Tinh thần đoàn kết, nhân ái, khoan dung trong cộng đồng, hòa hiếu với các dân
tộc lân bang. Dân tộc Việt Nam dân tộc truyền thống lạc quan, yêu đời,
lOMoARcPSD| 47206521
5
luôn cần cù, dũng cảm, thông minh, sáng tạo trong sản xuất chiến đấu, một
dân tộc ham học hỏi không ngừng mở rộng của đón nhận tinh hoa văn hóa
nhân loại. Trong muôn nguy ngàn khó, người lao động vẫn động viên nhau “Chớ
thấy sóng cả mà ngã tay chèo”. Tinh thần đó có cơ sở từ niềm tin vào sức mạnh
của bản thân, tin vào sự tấtthắng của chân lý, chính nghĩa. Hồ Chí Minh chính
là hiện thân của truyền thống đó.
Việt Nam, tính cộng đồng tinh thần đoàn kết một đặc trưng gốc rễ của
làng Việt Nam, Truyền thống này hình thành cùng với shình thành dân tộc, từ
hoàn cảnh nhu cầu đấu tranh quyết liệt với thiên nhiên và giặc ngoại xâm. Thấm
nhuần đại đoàn kết dân tộc vấn đề ý nghĩa chiến lược, quyết định đối với sự
nghiệp cách mạng của dân tộc, Người nhiều lần nhấn mạnh: “Đoàn kết một lực
lượng địch của chúng ta để khắc phục khó khăn, giành thắng lợi”, “Đoàn kết
sức mạnh, then chốt của thành công”. Hồ Chí Minh đã kế thừa, phát huy truyền
thống tốt đẹp này của nhân dân ta. Ngay từ rất sớm người thanh niên trẻ tuổi ấy đã
thể hiện lòng nhân ái, khoan dung đối với đồng bào. Cùng với đó, tưởng hòa bình,
hòa hiếu truyền thống nhân văn được hun đúc tngàn năm lịch sử của nhân dân
Việt Nam. Truyền thống đó xuyên suốt từ truyền thống tới hiện đại, là hòa bình, hòa
hiếu và chính nghĩa.
Tinh thần nhân ái, khoan dung, hòa hiếu với các nước lân bang của Người được
thể hiện trong chiến đấu. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn giáo dục nhân dân ta biết
phân biệt bọn thực dân xâm lược Pháp với nhân dân Pháp. Ngay trong hàng ngũ bọn
đi xâm lược, Người cũng sự phân biệt giữa bọn thực dân phản động Pháp với
những người còn lương tri trong hàng ngũ của họ nhằm chĩa mũi nhọn vào bọn
đầu sỏ hiếu chiến nhất. Người đã làm hết sức mình để tránh không gây ra mối hận
thù đối với dân tộc Pháp, một dân tộc Người luôn luôn yêu mến kính trọng.
Hòa hiếu luôn phương châm nhất quán của Hồ Chí Minh trong hoạt động đối
ngoại. Xuất phát từ tình yêu thương con người, quý trọng sinh mạng con người, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã tìm mọi cách ngăn chặn xung đột trang, tận dụng mọi khả
năng giải quyết xung đột bằng biện pháp hòa bình. Tính chính nghĩa và truyền thống
ngoại giao hòa hiếu với các nước lân bang, tôn trọng hòa bình; tiếp thu và tôn trọng
sự khác biệt giữa các nền văn hóa; phong cách ứng xử ngoại giao dung dị và nhân ái,
lOMoARcPSD| 47206521
6
uyên bác và tinh tế dễ đi vào lòng người. Như vậy, lập trường yêu chuộng hòa bình
của Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa ràng, nhất quán vừa thể hiện mối quan hệ giữa ý
chí quyết tâm bảo vệ hòa bình không chỉ cho đất nước mình còn góp phần giữ
nền hòa bình chung.
- Tinh thần cần cù, dũng cảm, sáng tạo, lạc quan
Cần cù, siêng năng, dũng cảm một trong những phẩm chất đáng quý của người
Việt Nam,
Bác Hồ - người con ưu của dân tộc Việt Nam đã kế thừa đức tính cần của
con người Việt Nam với sự ham học hỏi, sáng tạo, được thể hiện cụ thể qua cả học
tập, lao động. Trong học tập, Người luôn cố gắng tự học, tự tìm hiểu để làm phong
phú vốn kiến thức trí tuệ của mình, trong lao động Người luôn chăm chỉ cần
mẫn để tiền sống, tiền học tập tham gia hoạt động cách mạng khi còn hoạt động
nước ngoài; khi về nước đâu Bác cũng luôn cùng bộ đội, chiến tham gia sản
xuất để cải thiện đời sống.
Cùng với sự dũng cảm, lạc quan là một con dân của một dân tộc sau hàng ngàn
năm là nô lệ, bị cưỡng bức, đồng hóa về mặt thể chất và tinh thần - giết đàn ông, đốt
sách, nô dịch, đồng hóa về văn hóa, phong tục, tập quán, dù khó khăn, gian khổ,
phải hy sinh nhưng vẫn không khuất phục được người thanh niên Nguyễn Tất Thành,
kiên cường chịu đựng, nuôi dưỡng ý thức độc lập để rồi đứng lên giành lấy độc lập.
Tất cả những phẩm chất này đã ảnh hưởng quan trọng đến tưởng Hồ Chí Minh,
trong người thanh niên ấy đã sớm hình thành chí hướng lớn lao và quyết tâm đi tìm
con đường cứu nước cho riêng mình chứ không theo con đường của những tiền bối
trước đã đi.
- Tự hào về lịch sử, trân trọng nền văn hóa, ngôn ngữ, phong tục, tập quán
những giá trị tốt đẹp khác của dân tộc
Trong truyền thống dân tộc Việt Nam thường trực một niềm tự hào về lịch sử,
trân trọng nền văn hóa, ngôn ngữ, phong tục tập quán những giá trị tốt đẹp khác
của dân tộc. Đó chính là một cơ sở hình thành nên tư tưởng, phẩm chất của nhà văn
hóa kiệt xuất Hồ Chí Minh với chủ trương văn hóa là mục tiêu, động lực của cách
mạng; cần giữ gìn cốt cách văn hóa dân tộc đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân
loại, xây dựng nền văn hoá mới của Việt Nam. Chính Hồ Chí Minh một biểu tượng
cao đẹp của sự tích hợp tinh hoa văn hóa phương Đông và phương Tây.
lOMoARcPSD| 47206521
7
Ngay từ năm 1947, trong khi cuộc chiến chống thực dân Pháp đang diễn ra quyết
liệt, người đã nói đến đời sống mới của một người, một nhà, một làng khắp cả
nước. Xoay quanh hạt nhân của đời sống mới là cần, kiệm, liêm, chính. Hồ Chí Minh
đã nói đến thuần phong mỹ tục, không cờ bạc, hút xách, bợm bài, trộm cắp. Người
nhắc đến tục ngữ “lá lành đùm lá rách”, “đói cho sạch rách cho thơm”. Và, nếu một
mình no ấm mà nỡ để đồng bào xung quanh đói rét…, tgiàu cũng không hưởng
được. Người nói: Cách cư xử đối với đồng bào thì nên thành thực, thân ái, sẵn lòng
giúp đỡ…Nhiều lần, Người nhấn mạnh đến việc xây dựng phát triển thuần phong
mỹ tục, tức phát triển một trong những gtrị truyền thống. Mặt khác, khi trân
trọng giữ gìn thuần phong mỹ tục, Hồ Chí Minh luôn gắn với việc phê phán, bài trừ
đồi phong, bại tục. Người đã nói đến việc “khôi phục vốn cũ” với một tinh thần trân
trọng các giá trị của người xưa để lại như: tương thân tương ái, tận trung với nước,
tận hiếu với dân…Song, Người yêu cầu xóa bỏ cái xấu (tính lười biếng, tham lam…),
sửa đổi các phiền phức (cúng bái, cưới hỏi quá xa xỉ…).
Tóm lại, Nguyễn Ái Quốc qua những năm tháng sống ở quê nhà trong sự chăm
sóc đầy tình thương yêu của gia đình, lớn lên trong truyền thống tốt đẹp của quê
hương, hiếu học, cần trong lao động, tình nghĩa trong cuộc sống bất khuất
trước kẻ thù, thêm những năm tháng của tuổi trẻ bôn ba nhiều năm tìm đường
cứu nước. Tất cả những điều này giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt
Nam đã thấm sâu vào trí tuệ, tâm hồn, nhân cách của người, trở thành điểm xuất
phát, là nền tảng trong hình thành phẩm chất của vị lãnh tụ.
1.1.2. Tinh hoa văn hóa nhân loại
Tinh hoa văn hóa Phương Đông
Nho giáo
Hồ Chí Minh sinh ra trong một gia đình nghèo có truyền thống nho học, Hồ Chí
Minh có một quá trình tiếp biến Nho giáo rất căn bản và có hệ thống: Từ tiếp thu di
sản Nho học từ người cha, đến học tập các thầy đồ nổi tiếng một thời như Hoàng
Phan Quỳnh, Vương Thúc Quý, Trần Nhân,...; tviệc học tập qua trao đổi với các
nhà nho thế hệ cha chú như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, đến quá trình tự học
lâu dài, bền bỉ. thế, không khó để nhận ra những ảnh hưởng của giáo này đến
việc hình thành nên tưởng của Người. Ảnh hưởng của Nho giáo đối với Hồ Chí
Minh thể hiện rõ nhất trong nhiều bài viết của Người tính từ năm 1921 đến sau này
lOMoARcPSD| 47206521
8
mà có người đã tính được hơn 100 trường hợp, trong đó lời Khổng Tử, Mạnh Tử
chiếm nhiều nhất. Hồ Chí Minh đã đánh giá đúng đắn vai trò của Nho giáo và người
sáng lập ra nó là Khổng Tử và đã đặc biệt khai thác những mặt tích cực của tư tưởng
Nho giáo.
Hồ Chí Minh phân tích: "Tuy Khổng Tử phong kiến tuy trong học thuyết
của Khổng Tử có nhiều điều không đúng song những điều hay trong đó thì chúng ta
nên học. "Chỉ những người cách mạng chân chính mới thu hái được những điều
hiểu biết quý báu của các đời trước để lại”. Lênin dạy chúng ta như vậy.
Hơn ai hết, Hồ Chí Minh hiểu rõ những mặt bất cập, hạn chế của Nho giáo. Đó
trong Nho giáo những yếu tố duy tâm, lạc hậu, phản động như tưởng đẳng
cấp, khinh lao động chân tay, khinh phụ nữ, khinh thường thực nghiệm, doanh
lợi…Tuy nhiên, Hồ Chí Minh cũng thấy được những mặt tích cực của nó và khuyên
chúng ta “nên học”. Phương pháp tư duy triết học - chính trị của Nho giáo với các
nguyên tắc: Coi trọng tính chủ thể của con người; coi trọng giáo dục, đặc biệt là giáo
dục đạo đức, coi đức gốc; tự cải tạo con người đi đến cải tạo hội, v.v..cũng được
Hồ Chí Minh kế thừa, sử dụng một cách nhuần nhuyễn trong tư duy, trong thực tiễn
cách mạng. Theo Người, mặt tích cực của Nho giáo nó đề cao văn hóa, lễ giáo, tạo
ra truyền thống hiếu học. Theo Khổng Tử, “Thiên hạ sẽ thái bình khi thế giới đại
đồng. Người ta không sợ thiếu chỉ sợ có không đều”. Quan điểm "nước lấy dân làm
gốc" (quốc dân vi bản) của Nho giáo hơn hẳn các học thuyết cổ đại, bởi nhiều
học thuyết cổ đại chủ trương ngu dân để dễ cai trị.
Hồ Chí Minh chú ý kế thừa và đổi mới tưởng dùng nhân trị, đức trị để quản
hội. Kế thừa phát triển quan niệm của Nho giáo về việc xây dựng một hội
tưởng trong đó công bằng, bác ái, nhân, nghĩa, trí, dũng, tín, liêm được coi trọng
để thể đi đến một thế giới đại đồng với hòa bình, không chiến tranh, các dân
tộc có quan hệ hữu nghị hợp tác. Đặc biệt, Hồ Chí Minh chú ý kế thừa, đổi mới,
phát triển tinh thần trọng đạo đức của Nho giáo trong việc tu dưỡng, rèn luyện đạo
đức của con người; trong công tác xây dựng Đảng về đạo đức.
Phật giáo
Ta thấy được Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn biết cách tiếp thu chọn lọc tinh
hoa văn hóa nhân loại. Tiếp thu tưởng vị tha cùng với nếp sống giản dị, thanh liêm
lOMoARcPSD| 47206521
9
Phật giáo, Hồ Chí Minh hiện thân của lòng nhân ái, độ lượng, khoan dung
những nét đặc trưng của giáo đạo Phật. Phật giáo - một nguồn gốc tưởng, triết
lý, văn hóa phương Đông du nhập vào Việt Nam rất sớm thêm vào là chủ nghĩa yêu
nước, tinh thần đấu tranh bất khuất chống ngoại xâm của dân tộc ta, đã được Hồ Chí
Minh kết hợp, vận dụng sáng tạo đđoàn kết đồng o, đoàn kết toàn dân. Người
đánh giá rất cao tưởng bình đẳng của nhà Phật: “Ta Phật đã thành còn chúng
sinh Phật sẽ thành”. Từ năm 1957, Hồ Chí Minh đã được các vị cao tăng của Ấn
Độ phong tặng danh hiệu “vị Phật sống”. Bản thân Người, trong các thư gửi đến Giáo
hội Phật giáo Việt Nam Phật tín đồ Việt Nam, Người luôn coi Đức Phật tấm
gương “đại từ, đại bi, cứu khổ cứu nạn”. Sự ảnh hưởng của tưởng đạo đức Phật
giáo ở Hồ Chí Minh là rất tự nhiên.
Hồ Chí Minh chú ý kế thừa, phát triển tư tưởng từ bi, vị tha, yêu thương con
người, khuyến khích làm việc thiện, chống lại điều ác; đề cao quyền bình đẳng của
con người chân lý; khuyên con người sống hòa đồng, gắn với đất nước của
Đạo Phật.
Lão giáo
Hồ Chí Minh chú ý kế thừa, phát triển tưởng của Lão Tử, khuyên con người
nên sống gắn bó với thiên nhiên, hoà đồng với thiên nhiên, hơn nữa phải biết bảo vệ
môi trường sống. Hồ Chí Minh kêu gọi nhân dân ta trồng cây, tổ chức "Tết trồng
cây" để bảo vệ môi trường sinh thái cho chính cuộc sống của con người. Hồ Chí
Minh chú ý kế thừa phát triển tư tưởng thoát mọi ràng buộc của vòng danh lợi trong
Lão giáo. Người khuyên cán bộ, đảng viên ít lòng tham muốn về vật chất; thực hiện
cần kiệm liêm chính, chí công vô tư; hành động theo đạo với ý nghĩa là hành động
đúng với quy luật tự nhiên, xã hội
tưởng của Mặc Tử, Hàn Phi Tử, Quản Tử; những trào lưu tương tiến
bộ thời cận hiện đại ở Ấn Độ, Trung Quốc
Nguyễn Ái Quốc tìm hiểu thêm về Chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn
tìm thấy trong đó “những điều thích hợp với điều kiện nước ta”. Các tiêu chí của chủ
nghĩa Tam dân dân tộc – độc lập; dân quyền tdo; dân sinh hạnh phúc đã được
Hồ Chí Minh rút gọn trong quốc hiệu của Việt Nam “Độc lập Tự do – Hạnh phúc”.
Là người mác-xít tỉnh táo và sáng suốt, Hồ Chí Minh đã biết khai thác những yếu tố
lOMoARcPSD| 47206521
10
tích cực của tư tưởng và văn hóa phương Đông đphục vụ cho sự nghiệp cách mạng
nước ta.
Khác với các nhà yêu nước Việt Nam đầu thế kỷ XX, Hồ Chí Minh khi nghiên
cứu chủ nghĩa Tam dân đã nhìn thấy những hạn chế hết sức bản của học thuyết
này. Về cơ bản, tư tưởng của chủ nghĩa Tam dân vẫn chỉ là tư tưởng dân chủ tư sản,
nằm trong hệ thống tưởng sản. Tuy nhiên, Người cũng nhìn thấy chủ nghĩa
Tam dân và chính sách “thân Nga, liên cộng, ủng hộ công nông” của Tôn Trung Sơn
những điểm tiến bộ, tích cực thể vận dụng thích hợp vào điều kiện thực tế
của cách mạng Việt Nam. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm của nó là chính sách
thích hợp với điều kiện nước ta. Người đã tiếp thu một cách có chọn lọc và sáng tạo
những mặt tiến bộ của chủ nghĩa Tam dân áp dụng thành công chúng vào hoàn
cảnh cụ thể của Việt Nam, coi trọng vấn đề độc lập dân tộc, nhưng tùy theo từng
hoàn cảnh cụ thể nhấn mạnh và đặt lên vị trí hàng đầu. Tinh hoa văn hóa
Phương Tây
Trong ba mươi năm hoạt động cách mạng ở nước ngoài, Hồ Chí Minh sống chủ
yếu châu Âu nên cũng chịu ảnh hưởng rất sâu rộng của nền văn hóa dân chủ
cách mạng của phương Tây
Quan điểm nhân quyền, dân quyền trong bản Tuyên ngôn độc lập của Mỹ
(1776), Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền ca Pháp (1971)
Ngay từ khi còn học ở Trường tiểu học Pháp - bản xứ ở thành phố Vinh (1905),
Hồ Chí Minh đã quan tâm tới khẩu hiệu nổi tiếng của Đại Cách mạng Pháp năm
1789: Tự do - Bình đẳng - Bác ái. Hồ Chí Minh từng kể rằng: “Khi tôi độ mười ba
tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ Pháp: Tự do, bình đẳng, bác ái... Và từ thuở
ấy, tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn đằng
sau những chữ ấy”. Đi sang phương Tây, Người quan tâm tìm hiểu những khẩu hiệu
nổi tiếng đó trong các cuộc cách mạng sản Anh, Pháp, Mỹ. Người đã kế thừa,
phát triển những quan điểm nhân quyền trong bản tuyên ngôn độc lập của Mỹ (1776),
bản Tuyên ngôn nhân quyền dân quyền của Pháp (1791) đề xuất quan điểm,
nâng tầm thành quyền dân tộc.
5/6/1911 Hồ Chí Minh đặt chân lên con tàu Latouche-Tréville. Thời gian làm
công việc phụ bếp trên con tàu Pháp cho Người nhiều ấn tượng về văn hóa Tây
lOMoARcPSD| 47206521
11
phương. Người nhận ra ngoài bọn thực dân tàn ác, coi mạng người xứ thuộc địa
không đáng một xu, thì cũng những người Pháp tốt. Hồ Chí Minh đã hăng hái
tham gia vào các tổ chức chính trị như Đảng Cộng sản Pháp, Quốc tế thứ ba, và trở
thành người Cộng sản Việt Nam đầu tiên. Rồi tiếp tục tìm hiểu về cuộc Cách mạng
tháng Mười Nga, về bản Luận cương của -nin, Người cuối cùng đã tìm thấy ánh
sáng cho con đường giải phóng dân tộc sau bao nhiêu ngày tháng gian nan tìm kiếm.
thể tìm thấy dấu ấn ảnh hưởng các giá trị của nền Cộng hoà Pháp trong bản
Yêu sách của nhân dân An Nam, lời mở đầu bản Tuyên ngôn độc lập 1945, trong
Hiến pháp đầu tiên 1946, … Hồ Chí Minh tiếp thu nhưng có chọn lọc, phù hợp từng
điều kiện của đất nước.
Sang Mỹ, đến sống ở New York, làm thuê và thường đến thăm khu ở của người
da đen. Trong các bài viết sau này, Người thường nhắc đến ý chí đấu tranh cho tự do,
độc lập, cho quyền sống của con người được ghi lại trong Tuyên ngôn độc lập 1776
của nước Mỹ. Người đã tiếp thu giá trị của tưởng nhân quyền với nội dung
quyền tự do cá nhân thiêng liêng trong bản tuyên ngôn này.
Nghiên cứu văn hóa nhân loại tại những trung tâm chính trị kinh tế, văn hóa
lớn ở các cường quốc như Mỹ, Anh, Pháp, Nga,..
Hồ Chí Minh luôn tận dụng tất cả thời gian, sức trẻ và một số tiền ít ỏi để có cơ
hội đi tới những miền đất mới, những nền văn hóa và chính trị khác nhau. Ngoài vốn
tiếng Pháp, Người học thêm tiếng Anh, Đức, Ý, Nga, để thể hiểu được đời sống
xãhội nhiều đất nước. Đi tới đâu Người cũng tìm tòi, phân tích, đối chiếu đời
sống nhân dân và chế độ chính trị của các quốc gia. Quá trình đó đã hình thành vốn
kiến thức vừa bao quát, vừa uyên thâm về các dân tộc trên thế giới, vừa tạo nên tấm
lòng yêu thương, bác ái với nhân dân bị áp bức khắp năm châu bốn bể.
thủ đô của nước Pháp - Pa-ri cũng đồng thời trung tâm văn hóa nghệ thuật
của châu Âu. Các trào lưu triết học các trường phái nghệ thuật nổi tiếng thế giới
phần lớn đều được hình thành ra mắt tại đây. Sống giữa nơi hợp lưu của các
dòng văn hóa thế giới, Người đã điều kiện thuận lợi đnhanh chóng chiếm lĩnh
vốn tri thức của thời đại, đặc biệt truyền thống văn hóa dân chủ tiến bộ của
nước Pháp.
lOMoARcPSD| 47206521
12
Từ tháng 6/1923 đến tháng 10-1924, Người hoạt động tại Liên Xô. Đây thời
kỳ Người tiếp thu rất nhiều tri thức, đồng thời Người còn góp phần phát triển, làm
phong phú luận về cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng
sản. Tư tưởng của Người ngày một hoàn thiện, mở rộng mà uyên bác, trở thành nền
móng, kim chỉ nam cho sách lược của Đảng Cộng sản Việt Nam, cho cuộc đấu tranh
và xây dựng nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Trong 30 năm hoạt động nước ngoài, Hồ Chí Minh chủ yếu sống Châu Âu
nên Người chịu ảnh hưởng rất sâu rộng của nền văn hóa dân chủ các cuộc cách
mạng phương Tây, Người còn tiếp nhận được tưởng dân chủ hình thành phong
cách dân chủ từ hoạt động thực tiễn.
Hồ Chí Minh đã tiếp thu các tinh hoa văn hóa nhân loại một cách chọn lọc
rồi vận dụng tinh hoa đó một cách sát hợp vào những điều kiện cụ thể của đất nước,
của dân tộc mục đích không chỉ cho sự nghiệp giải phóng dân tộc mình còn
góp phần tích cực nhất vào sự nghiệp của các dân tộc khác trên thế giới.
1.1.3. Chủ nghĩa Mác – Lênin
Chủ nghĩa Mác - Lênin là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận trong nhận
thức và hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh.
Chủ nghĩa Mác Lenin nhân tố quyết định trực tiếp đến bản chất cách mạng
và khoa học tư tưởng của Hồ Chí Minh.
Triết học duy vật biện chứng của Mác đã đập tan mọi thứ triết học duy tâm, siêu
hình, coi thế giới do thần linh sáng tạo ra; vạch thế giới bao gồm số sự vật
và hiện tượng muôn hình muôn vẻ, vốn có một cách khách quan. Mác cũng đã sáng
lập ra chủ nghĩa duy vật lịch sử, vạch ra quy luật phát triển của hội loài người.
Ông khẳng định, lịch sử loài người trước hết là lịch sử phát triển của nền sản xuất xã
hội, phương thức sản xuất đời sống vật chất quyết định sinh hoạt chính trị, tinh thần
của xã hội nói chung. Quần chúng nhân dânđộng lực phát triển của lịch sử, là đội
quân chủ lực củacác cuộc cách mạng xã hội thay thế chế độ xã hội cũ, lỗi thời bằng
chế độ xã hội mới, tiến bộ hơn.
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 thời đại mới cũng như chủ nghĩa Mác
- Lênin sở luận quyết định bước phát triển mới về chất trong tưởng Hồ
Chí Minh, khiến Người vượt hẳn lên phía trước so với những người yêu nước cùng
thời. Ngay từ cuối nhưng năm 20 của thế kỷ XX, Hồ Chí Minh khẳng định rằng:
lOMoARcPSD| 47206521
13
“Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc
chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Lênin”. Trên cơ sở lập trường, quan điểm
phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã triệt để kế thừa, đổi mới,
phát triển những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, tinh hoa văn hóa
nhân loại kết hợp với thực tiễn cách mạng trong nước và thế giới hình thành lên một
hệ thống các quan điểm cơ bản, toàn diện về cách mạng Việt Nam.
Tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh trở thành người cộng sản với tầm
vóc trí tuệ lớn.
7/1920: Bác bắt gặp sơ thảo lần thứ nhất luận cương về những vấn đề dân tộc và
thuộc địa của Lênin được đăng trên báo nhân đạo đây bước ngoặt trong cuộc đời
hoạt động của Hồ Chí Minh khi Bác tìm ra con đường cứu nước giải phóng dân tộc:
Cách mạng vô sản. Đánh dấu bước phát triển trong tư tưởng của bác: Từ chủ nghĩa
yêu nước đến với chủ nghĩa cng sản, từ người yêu nước thành người cộng sản – sự
kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩ cộng sản.
Đặc trưng riêng của Hồ Chí Minh khi tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin (Nhân tố
chủ quan) sở luận quan trọng nhất giúp hình thành tưởng Hồ Chí Minh, sử
dụng chủ nghĩa Mác - Lênin như công cụ để phục vụ cuộc cách mạng giải phóng dân
tộc. Tiếp thu với tinh thần: độc lập, sáng tạo, xuất phát từ đặc điểm riêng của Việt
Nam, tiếp thu lấy cái cốt, cái tinh thần rồi diễn đạt lại theo lối diễn đạt của mình. Trên
sở lập trường, quan điểm phương pháp của chủ nghĩa Mác Lênin, Hồ Chí
Minh đã triệt để kế thừa, đổi mới, phát triển những giá trị truyền thống tốt đẹp của
dân tộc Việt Nam, tinh hoa văn hóa nhân loại kết hợp với thực tiễn cách mạng trong
nước thế giới hình thành lên một hệ thống các quan điểm bản, toàn diện về
cách mạng Việt Nam. Chủ nghĩa Mác Lênin là thế giới quan, phương pháp luận
trong nhận thức và hoạt động cách mạng Hồ Chí Minh. Chủ nghĩa Mác đã cung cấp
cho Hồ Chí Minh thế giới quan khoa học và phương pháp làm việc biện chứng.
thể nói, Hồ Chí Minh đã tiếp thu phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin ứng dụng
sáng tạo vào điều kiện cụ thể của đất nước, đưa cách mạng Việt Nam giành nhiều
thắng lợi đại cống hiến nhiều vào kho tàng luận mác-xít cũng như phương
pháp hoạt động sáng tạo của cuộc cách mạng vô sản.
Hồ Chí Minh không những đã vận dụng sáng tạo mà còn bổ sung, phát triển và
làm phong phú chủ nghĩa Mác – Lênin trong thời đại mới.
lOMoARcPSD| 47206521
14
Hồ Chí Minh đã không rập khuôn những tư tưởng bởi chúng chứa đựng
những yếu tố duy tâm, lạc hậu nhưng Người cũng không “phủ định sạch trơn”
những tư tưởng ấy còn cả những yếu tố duy vật, tích cực, như vậy Hồ Chí Minh
đã tiếp thu một cách có kế thừa và phát triển, theo đúng tinh thần của chủ nghĩa duy
vật biện chứng . Hồ Chí Minh đã tiếp nhận những bài học sâu sắc từ Lênin và Cách
mạng Tháng Mười Nga. Qua luận cương của Lênin, Hồ Chí Minh đã thấy được cái
cần thiết cho dân tộc Việt Nam con đường giải phóng dân tộc. Từ nhu cầu thực tiễn
của cách mạng Việt Nam, từ những hiểu biết sâu sắc văn hóa phương Đông, văn hóa
Pháp, Hồ Chí Minh đã vận dụng và phát triển Chủ nghĩa Mác Lênin, Người cho
rằng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc
cácthuộc địa không hoàn toàn phụ thuộc vào cách mạng chính quốc”, nhân dân
thuộc địa có thể đứng lên tự giải phóng chính mình, cuộc cách mạng ththắng lợi
trước ở một nước thuộc địa.
Trong các vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc; chủ nghĩa xã hội
xây dựng chủ nghĩa hội Việt Nam; các vấn đxây dựng Đảng, Nhà nước, văn
hóa, con người, đạo đức, v.v. Hồ Chí Minh đều những luận điểm bổ sung, phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin. Tư tưởng Hồ Chí Minh là một bước nhảy vọt
trong lịch sử tư tưởng Việt Nam.
1.2. Cơ sở thực tiễn hình thành tư tưởng HCM
tưởng Hồ Chí Minh không phải sản phẩm chủ quan , phản ánh tâm
nguyện vọng của Nhân dân Việt Nam đối với lãnh tụ kính yêu của mình . Tư tưởng
Hồ Chí Minh là sản phẩm tất yếu ca cách mạng Việt Nam, ra đời do yêu cầu khách
quan và là sự giải đáp những nhu cầu bức thiết do cách mạng Việt Nam đặt ra từ đầu
thế kỷ XX đến nay.
tưởng Hồ Chí Minh được hình thành dưới tác động ảnh hưởng của những
điều kiện lịch s- hội cụ thể trong nước thế giới lúc Người đang sống
hoạt động . Hồ Chí Minh đã nắm bắt chính xác xu hướng phát triển của thời đại để
tìm ra con đường cách mạng đúng đắn cho dân tộc Việt Nam .
1.2.1. Thực tiễn Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
lOMoARcPSD| 47206521
15
Từ năm 1858, đế quốc Pháp bắt đầu tiến hành xâm lược Việt Nam. Triều đình
nhà Nguyễn lần lượt ký kết các hiệp ước đầu hàng, từng bước trở thành tay sai của
thực dân Pháp.
Từ năm 1858 đến cuối thế kỷ XIX, các phong trào đấu tranh yêu nước chống
Pháp xâm lược liên tục nổ ra. Ở miền Nam, có các cuộc khởi nghĩa của Trương
Định, Nguyễn Trung Trực. miền Trung, các cuộc khởi nghĩa của Trần Tấn, Đặng
Như Mai, của Phan Đình Phùng . miền Bắc, các cuộc khởi nghĩa của Nguyễn
Thiện Thuật, Phạm Bành Đinh Công Tráng, Nguyễn Quang Bích, Hoàng Hoa
Thám, v.v ... Các cuộc khởi nghĩa, trong đó những cuộc dưới ngọn cờ "Cần
Vương” tức giúp vua cứu nước, tuy đều rất anh dũng, nhưng cuối cùng đều thất bại.
Điều đó chứng tỏ nhân dân ta rất yêu nước, song giai cấp phong kiến và hệ tư tưởng
của đã suy tàn, bất lực, lỗi thời trước nhiệm vụ lịch sử đó là bảo vệ độc lập dân
tộc.
Sau khi đã hoàn thành căn bản việc bình định Việt Nam về mặt quân sự, thực dân
Pháp bắt tay vào khai thác thuộc địa Việt Nam một cách mạnh mẽ và từng bước biển
nước ta từ một nước phong kiến thành nước “thuộc địa và phong kiến” dẫn tới có sự
biến đổi về cơ cấu giai cấp, tầng lớp trong xã hội .
Thực dân Pháp vẫn duy trì nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu với khoảng 95% dân
số nông dân; giai cấp địa chủ được bổ sung, củng cố, tăng cường thêm các điền
chủ người Pháp nước ngoài. Bên cạnh tầng lớp thợ thủ công, tiểu thương, trong
hội Việt Nam xuất hiện những giai tầng mới. Đó giai cấp công nhân, giai cấp
tư sản và tầng lớp tiểu tư sản ở thành thị. Từ đó, liền với mâu thuẫn cơ bản trong xã
hội phong kiến nông dân với địa chủ phong kiến, xuất hiện các mâu thuẫn mới:
Mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân Việt Nam với giai cấp sản, mâu thuẫn giữa
toàn thể nhân dân Việt Nam với chủ nghĩa đế quốc Pháp.
Cùng với những biến đổi trên, đến đầu thế kỷ XX, trước ảnh hưởng của các cuộc
vận động cải cách, của cách mạng dân chủ tư sản ở Trung Quốc và tấm gương Duy
Tân Nhật Bản, Việt Nam xuất hiện các phong trào yêu nước theo khuynh hướng
dân chủ sản với sự dẫn dắt của các phu yêu nước tinh thần cải cách: Phong
trào Đông Du do Phan Bội Châu khởi xướng (1905-1909), Phong trào Duy Tân do
Phan Châu Trinh phát động (1906-1908); Phong trào Đông Kinh nghĩa thục do
lOMoARcPSD| 47206521
16
Lương Văn Can, Nguyễn Quyền một số nhân khác phát động (từ tháng 3 đến
tháng 11/1907); Phong trào chống đi phu, chống sưu thuế Trung Kỳ năm
1908…
Các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ sản nói trên đều thất
bại. Nguyên nhân sâu xa là giai cấp tư sản Việt Nam còn non yếu. Nguyên nhân trực
tiếp các tchức người lãnh đạo của các phong trào đó chưa đường lối
phương pháp cách mạng đúng đắn. Tinh thần yêu nước vẫn sục sôi trong lòng nhân
dân. Song, cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước diễn ra sâu sắc. Xuất hiện câu
hỏi từ thực tiễn đặt ra là: Cứu nước bằng con đường nào để có thể đi đến thắng lợi?
Trong bối cảnh đó, sự ra đời giai cấp mới giai cấp công nhân phong trào
đấu tranh của giai cấp công nhân Việt Nam đã làm cho cuộc đấu tranh giải phóng
dân tộc ở Việt Nam xuất hiện dấu hiệu mới của mt thời đại mới sắp ra đời.
Cuối thế kỷ XIX, ở Việt Nam đã có công nhân, nhưng lúc đó mới chỉ là một lực
lượng ít ỏi, không ổn định. Đầu thế kỷ XX, công nhân phát triển hơn trở thành
một giai cấp ngay trước Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918).
Công nhân Việt Nam chịu ba tầng áp bức bóc lột: thực dân, tư bản, phong kiến.
Họ sớm vùng dậy đấu tranh chống lại giới chủ. Từ hình thức đấu tranh thô như
đốt lán trại, bỏ trốn tập thể, họ đã nhanh chóng tiến tới đình công, bãi công .
“Chỉ giai cấp công nhân là dũng cảm nhất, cách mạng nhất, luôn luôn gan góc
đương đầu với bọn đế quốc thực dân " .. Phong trào công nhân các phong trào yêu
nước Việt Nam đầu thế kỷ XX điều kiện thuận lợi để chủ nghĩa Mác Lênin xâm
nhập , truyền vào đất nước ta. Chinh Hồ Chí Minh một người đã dày công
truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước
Việt Nam, chuẩn bị về luận chính trị, tư tưởng và tổ chức, sáng lập Đảng Cộng sản
Việt Nam, chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối cách mạng Việt
Nam, đánh đấu bước hình thành bản tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng Việt
Nam. Sau đó, chính thực tiễn Đảng lãnh đạo cách mạng Tháng Tám thành công, lãnh
đạo cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi; lãnh đạo vừa xây dựng chủ nghĩa
hội, vừa kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là nhân tgóp phần bổ sung, phát triển tư
tưởng Hồ Chí Minh trên tất cả các phương diện.
1.2.2. Thực tiễn thế giới cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX

Preview text:

lOMoAR cPSD| 47206521 lOMoAR cPSD| 47206521
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA KHÁCH SẠN – DU LỊCH
---------- ----------
BÀI THẢO LUẬN NHÓM T Ư TƯỞNG HỒ CHÍ MINH Đề
tài: Phâ
n tích tư tưởng Hồ Chí Minh về
con người và sự vận dụng của Đảng ta
trong giai đoạn hiện nay.
Giảng viên hướng dẫn : Th.S Ngô Thị Minh Nguyệt
Lớp học phần : 2288HCMI0111
Nhóm thực hiện : Nhóm 10
Hà Nội, tháng 9 năm 2022 MỤC LỤC
A, PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................... 1
B, PHẦN NỘI DUNG ............................................................................... 3
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN .................................................................... 3
1.1. Cơ sở lí luận hình thành tư tưởng HCM ............................................................. 3
1.2. Cơ sở thực tiễn hình thành tư tưởng HCM........................................................ 14
2. Nội dung Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người ...................................................... 18
2.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người ...................................................... 18
2.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của con người .................................... 19
2.3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng con người ...................................... 21
CHƯƠNG II: SỰ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON
NGƯỜI CỦA ĐẢNG TA HIỆN NAY .......................................................... 29
1. Quan điểm của Đảng trong vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về con người (Đại hội
XIII và các Đại hội khác) ............................................................................................ 29
2. Thành công của Đảng trong việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về con
người30 ........................................................................................................................ 31
3. Hạn chế và giải pháp khắc phục .............................................................................. 32
3.1. Hạn chế và yếu kém .......................................................................................... 32
3.2. Nguyên nhân tình hình ...................................................................................... 33
3.3. Những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả phát triển con người và chiến
lược "trồng người" những năm tới theo tư tưởng Hồ Chí Minh .............................. 33
1. Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiến hình thành Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người4 lOMoAR cPSD| 47206521 C, PHẦN KẾT
LUẬN.............................................................................33
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................34 lOMoAR cPSD| 47206521 A, PHẦN MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây, khi bước vào thế kỉ mới, với những biến đổi lớn lao,
đặt ra nhiều thách thức mà con người phải đối mặt như: Cuộc cách mạng khoa học
và công nghệ đang phát triển; vấn đề môi trường; dân số; vấn đề dân chủ, nhân quyền,
nhân sinh, an sinh xã hội; vấn đề dân tộc, tôn giáo, khủng bố và các tệ nạn xã hội
mới phát sinh. Điều đó khiến con người đứng trước những mâu thuẫn to lớn và hết
sức gay gắt, buộc con người phải tự hoàn thiện bản thân để theo kịp xu thế mới của
thời đại. Để làm được như vậy thì không chỉ là sự cố gắng phát triển của mỗi cá nhân
trong việc học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh về con người mà còn có sự
tham gia chỉ đạo và giúp đỡ của Đảng và nhà nước.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người được biểu hiện đa dạng và vô cùng phong
phú, thể hiện trong từng việc làm, cử chỉ và mối quan tâm của mỗi con người. Tất cả
đều toát lên tình yêu vô hạn, sự tôn trọng, thái độ bao dung và niềm tin tuyệt đối vào
con người. Trên cơ sở tiếp thu tư tưởng Hồ Chí Minh, trong suốt quá trình lãnh đạo
cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn coi con người là vốn quý nhất, là mục tiêu, là
động lực của cuộc cách mạng. Quan điểm này đươc thể hiện thông qua các kỳ đại
hội, đặc biệt tại Đại hội XII, Đảng đã bổ sung, phát triển nhiều quan điểm mới về
xây dựng, phát triển con người. Những quan điểm này được cụ thể hóa thành các
nhiệm vụ, giải pháp, định hướng cụ thể trong hoạt động thực tiễn và phát triển kinh tế - xã hội.
Qua đây có thể thấy được tầm quan trọng và để hiểu rõ hơn thì sau đây nhóm
10 chúng em xin trình bày về đề tài “Phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về con người
và sự vận dụng của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay”.
1. Lý do chọn đề tài
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát
triển sáng tạo của chủ nghĩa Mác- Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa
và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa
nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi
mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi. Trước lúc 1 lOMoAR cPSD| 47206521
đi xa Người đã để lại cho dân tộc Việt Nam và nhân loại tiến bộ trên thế giới một di
sản lý luận vô cùng quan trọng để hướng tới sự nghiệp Độc lập dân tộc và Chủ nghĩa
xã hội. Trong di sản tư tưởng của Người điều cốt lõi có ý nghĩa xuyên suốt là Độc
lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội. Vì vậy tư tưởng giải phóng của Người
chính là lấy sự nghiệp giải phóng con người làm trung tâm.
Hiện nay đất nước Việt Nam đang trong tiến trình đổi mới, hội nhập kinh tế
quốc tế. Vấn đề về con người luôn được Đảng nhận thức rõ và khẳng định, Đảng
Cộng sản Việt Nam luôn nhấn mạnh đến nguồn lực con người, coi đó là nguồn lực
nội sinh quan trọng nhất cho sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước. Kế thừa
các Đại hội trước Đại hội X nêu rõ “Xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con
người Việt Nam, bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong thời kì công
nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế. Bồi dưỡng các giá trị
văn hóa trong thanh niên, học sinh, sinh viên, đặc biệt là lý tưởng sống, lối sống,
năng lực trí tuệ, đạo đức và bản lĩnh văn hóa con người Việt Nam”, và Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ XI khẳng định: “Mở rộng dân chủ, phát huy tối đa nhân tố con
người; coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát
triển…Phát huy mạnh mẽ mọi khả năng sáng tạo và bảo đảm đồng thuận cao trong
xã hội, tạo động lực phát triển đất nước…Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực,
trọng dụng nhân tài, chăm lo lợi ích chính đáng và không ngừng nâng cao đời sống
vậy chất, tinh thần của mọi người dân, thực hiện công bằng xã hội”.
Trong tiến trình toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế trên phạm vi toàn cầu
như hiện nay, vấn đề con người đang là vấn đề thời sự, là vấn đề trung tâm được
nhiều nước trên thế giới đã và đang tích cực đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
với nhiều mức độ khác nhau.
Vì thế việc làm rõ thêm tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề con người, trong
điều kiện đất nước đang trong tiến trình đổi mới hội nhập kinh tế quốc tế, là việc
làm quan trọng và cần thiết.
Xuất phát từ những lý do trên mà nhóm em đã quyết định chọn đề tài “ Phân
tích tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và sự vận dụng của Đảng ta trong giai đoạn
hiện nay” để làm đề tài thảo luận cho nhóm mình.
2. Mục đích nghiên cứu 2 lOMoAR cPSD| 47206521
Tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng Hồ Chí Minh về việc xây dụng
con người Việt Nam trong giai đoạn mới nói riêng rất rộng lớn và sâu sắc. Học tập
và nghiên cứu Tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc nhìn nhận, đánh giá vai trò, vị trí
và khả năng to lớn của con người trong sự nghiệp đổi mới đất nước ngày nay.
3. Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu đề tài này, tác giả đứng trên lập trường của chủ nghĩa Mác
Lênin, lấy thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện chứng để xem xét những
vấn đề liên quan đến đề tài.
Kết hợp giữa phương pháp logic và phương pháp lịch sử. Ngoài ra, để đạt được
kết quả nghiên cứu cao, tác giả còn sử dụng các phương pháp khác như:
Phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, điều tra xã hội học…
4. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, bài thảo luận gồm có 2 chương. B, PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiến hình thành Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người
1.1. Cơ sở lí luận hình thành tư tưởng HCM
1.1.1. Giá trị truyền thống dân tộc
- Chủ nghĩa yêu nước là giá trị xuyên suốt trong những truyền thống tốt đẹp của
dân tộc Việt Nam. Đó là động lực, sức mạnh giúp cho dân tộc Việt Nam tồn tại
vượt qua mọi khó khăn trong dựng nước và giữ nước mà phát triển. Chủ nghĩa
yêu nước là giá trị xuyên suốt trong những truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt
Nam. Đó là tình yêu nước nồng nàn, là sức mạnh đoàn kết vĩ đại không “vũ khí”
nào có thể thay thế. Được hình thành trong quá trình dựng nước, trong đấu tranh
và bảo vệ nền độc lập, thoát khỏi sự đô hộ của ngoại bang, chủ nghĩa yêu nước
sáng ngời với những tấm gương kiên trung, bất khuất của chủ nghĩa anh hùng
cách mạng: Truyền thống yêu nước được những anh hùng dân tộc ở các thời kỳ
lịch sử khác nhau như Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Quang Trung,…đúc 3 lOMoAR cPSD| 47206521
kết nâng lên thành phép đánh giặc giữ nước,“trên dưới đồng lòng, cả nước chung
sức”, “tướng sĩ một lòng phụ tử”,…Truyền thống ấy được tiếp nối trong tư tưởng
tập hợp lực lượng dân tộc của các nhà yêu nước trong cuộc đấu tranh chống thực
dân Pháp xâm lược và các thế lực phong kiến tiếp tay cho ngoại bang, mà tiêu
biểu nhất là cụ Phan Bội Châu và cụ Phan Chu Trinh ở một phần từ đầu thế kỷ XX.
Chính chủ nghĩa yêu nước là nền tảng tư tưởng, điểm xuất phát và động lực thúc
đẩy Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước năm 1911, và tìm thấy ở chủ nghĩa Mác-
Lênin con đường cứu nước, cứu dân. Cũng là cơ sở xuất phát, là động lực xuyên suốt
cuộc đời hoạt động cách mạng của Người. Người đặt cho mình cái tên Nguyễn Ái
Quốc - Nguyễn yêu nước để luôn nhắc nhở, cỗ vũ bản thân và cỗ vũ quốc dân đồng bào.
Sinh ra trên mảnh đất xứ Nghệ, các thành viên trong gia đình từ ông bà ngoại, bố
mẹ, gì cháu, anh chị em đều gắn bó, đùm bọc, yêu thương nhau, hy sinh vì nhau và
rất gần gũi, thân tình, đoàn kết với bà con lối xóm, có thể nói gia đình chính là nhân
tố đầu tiên hình thành nhân cách cao thượng, tình yêu quê hương đất nước của Bác
sau này. Đây là nơi Bác đã gắn bó tuổi thơ của mình, là vùng đất địa linh nhân kiệt,
nơi đã sinh ra nhiều nhân vật yêu nước nổi tiếng trong lịch sử dân tộc Việt Nam như
Mai Thúc Loan, Nguyễn Biểu; Phan Bội Châu...., là mảnh đất giàu truyền thống yêu
nước, chống ngoại xâm nên Người đã thấu hiểu được thế nào là tình yêu quê hương
- nơi chôn nhau cắt rốn. Đó cũng là những điều kiện rất tốt sớm nuôi dưỡng, hun đúc
tình cảm và tư tưởng yêu nước, thương nòi của Người.
Yêu nước đối với Người là gắn liền với yêu nhân dân.
Nhìn lại lịch sử, Bác Hồ đã khẳng định: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước.
Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng
thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó
lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp
nước”, cũng chính là truyền thống yêu nước đã sớm truyền vào người thanh niên trẻ
lòng yêu nước và khát vọng giải phóng đất nước.
- Tinh thần đoàn kết, nhân ái, khoan dung trong cộng đồng, hòa hiếu với các dân
tộc lân bang. Dân tộc Việt Nam là dân tộc có truyền thống lạc quan, yêu đời, 4 lOMoAR cPSD| 47206521
luôn cần cù, dũng cảm, thông minh, sáng tạo trong sản xuất và chiến đấu, là một
dân tộc ham học hỏi và không ngừng mở rộng của đón nhận tinh hoa văn hóa
nhân loại. Trong muôn nguy ngàn khó, người lao động vẫn động viên nhau “Chớ
thấy sóng cả mà ngã tay chèo”. Tinh thần đó có cơ sở từ niềm tin vào sức mạnh
của bản thân, tin vào sự tấtthắng của chân lý, chính nghĩa. Hồ Chí Minh chính
là hiện thân của truyền thống đó.
Ở Việt Nam, tính cộng đồng và tinh thần đoàn kết là một đặc trưng gốc rễ của
làng xã Việt Nam, Truyền thống này hình thành cùng với sự hình thành dân tộc, từ
hoàn cảnh và nhu cầu đấu tranh quyết liệt với thiên nhiên và giặc ngoại xâm. Thấm
nhuần đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định đối với sự
nghiệp cách mạng của dân tộc, Người nhiều lần nhấn mạnh: “Đoàn kết là một lực
lượng vô địch của chúng ta để khắc phục khó khăn, giành thắng lợi”, “Đoàn kết là
sức mạnh, là then chốt của thành công”. Hồ Chí Minh đã kế thừa, phát huy truyền
thống tốt đẹp này của nhân dân ta. Ngay từ rất sớm người thanh niên trẻ tuổi ấy đã
thể hiện lòng nhân ái, khoan dung đối với đồng bào. Cùng với đó, tư tưởng hòa bình,
hòa hiếu là truyền thống nhân văn được hun đúc từ ngàn năm lịch sử của nhân dân
Việt Nam. Truyền thống đó xuyên suốt từ truyền thống tới hiện đại, là hòa bình, hòa hiếu và chính nghĩa.
Tinh thần nhân ái, khoan dung, hòa hiếu với các nước lân bang của Người được
thể hiện trong chiến đấu. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn giáo dục nhân dân ta biết
phân biệt bọn thực dân xâm lược Pháp với nhân dân Pháp. Ngay trong hàng ngũ bọn
đi xâm lược, Người cũng có sự phân biệt giữa bọn thực dân phản động Pháp với
những người còn có lương tri trong hàng ngũ của họ nhằm chĩa mũi nhọn vào bọn
đầu sỏ hiếu chiến nhất. Người đã làm hết sức mình để tránh không gây ra mối hận
thù đối với dân tộc Pháp, một dân tộc mà Người luôn luôn yêu mến và kính trọng.
Hòa hiếu luôn là phương châm nhất quán của Hồ Chí Minh trong hoạt động đối
ngoại. Xuất phát từ tình yêu thương con người, quý trọng sinh mạng con người, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã tìm mọi cách ngăn chặn xung đột vũ trang, tận dụng mọi khả
năng giải quyết xung đột bằng biện pháp hòa bình. Tính chính nghĩa và truyền thống
ngoại giao hòa hiếu với các nước lân bang, tôn trọng hòa bình; tiếp thu và tôn trọng
sự khác biệt giữa các nền văn hóa; phong cách ứng xử ngoại giao dung dị và nhân ái, 5 lOMoAR cPSD| 47206521
uyên bác và tinh tế dễ đi vào lòng người. Như vậy, lập trường yêu chuộng hòa bình
của Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa rõ ràng, nhất quán vừa thể hiện mối quan hệ giữa ý
chí quyết tâm bảo vệ hòa bình không chỉ cho đất nước mình mà còn góp phần giữ nền hòa bình chung.
- Tinh thần cần cù, dũng cảm, sáng tạo, lạc quan
Cần cù, siêng năng, dũng cảm là một trong những phẩm chất đáng quý của người Việt Nam,
Bác Hồ - người con ưu tú của dân tộc Việt Nam đã kế thừa đức tính cần cù của
con người Việt Nam với sự ham học hỏi, sáng tạo, được thể hiện cụ thể qua cả học
tập, lao động. Trong học tập, Người luôn cố gắng tự học, tự tìm hiểu để làm phong
phú vốn kiến thức và trí tuệ của mình, trong lao động Người luôn chăm chỉ và cần
mẫn để có tiền sống, tiền học tập và tham gia hoạt động cách mạng khi còn hoạt động
ở nước ngoài; khi về nước dù ở đâu Bác cũng luôn cùng bộ đội, chiến sĩ tham gia sản
xuất để cải thiện đời sống.
Cùng với sự dũng cảm, lạc quan là một con dân của một dân tộc sau hàng ngàn
năm là nô lệ, bị cưỡng bức, đồng hóa về mặt thể chất và tinh thần - giết đàn ông, đốt
sách, nô dịch, đồng hóa về văn hóa, phong tục, tập quán, dù khó khăn, gian khổ, dù
phải hy sinh nhưng vẫn không khuất phục được người thanh niên Nguyễn Tất Thành,
kiên cường chịu đựng, nuôi dưỡng ý thức độc lập để rồi đứng lên giành lấy độc lập.
Tất cả những phẩm chất này đã ảnh hưởng quan trọng đến tư tưởng Hồ Chí Minh,
trong người thanh niên ấy đã sớm hình thành chí hướng lớn lao và quyết tâm đi tìm
con đường cứu nước cho riêng mình chứ không theo con đường của những tiền bối trước đã đi.
- Tự hào về lịch sử, trân trọng nền văn hóa, ngôn ngữ, phong tục, tập quán và
những giá trị tốt đẹp khác của dân tộc
Trong truyền thống dân tộc Việt Nam thường trực một niềm tự hào về lịch sử,
trân trọng nền văn hóa, ngôn ngữ, phong tục tập quán và những giá trị tốt đẹp khác
của dân tộc. Đó chính là một cơ sở hình thành nên tư tưởng, phẩm chất của nhà văn
hóa kiệt xuất Hồ Chí Minh với chủ trương văn hóa là mục tiêu, động lực của cách
mạng; cần giữ gìn cốt cách văn hóa dân tộc đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân
loại, xây dựng nền văn hoá mới của Việt Nam. Chính Hồ Chí Minh là một biểu tượng
cao đẹp của sự tích hợp tinh hoa văn hóa phương Đông và phương Tây. 6 lOMoAR cPSD| 47206521
Ngay từ năm 1947, trong khi cuộc chiến chống thực dân Pháp đang diễn ra quyết
liệt, người đã nói đến đời sống mới của một người, một nhà, một làng và khắp cả
nước. Xoay quanh hạt nhân của đời sống mới là cần, kiệm, liêm, chính. Hồ Chí Minh
đã nói đến thuần phong mỹ tục, không có cờ bạc, hút xách, bợm bài, trộm cắp. Người
nhắc đến tục ngữ “lá lành đùm lá rách”, “đói cho sạch rách cho thơm”. Và, nếu một
mình no ấm mà nỡ để đồng bào xung quanh đói rét…, thì dù giàu cũng không hưởng
được. Người nói: Cách cư xử đối với đồng bào thì nên thành thực, thân ái, sẵn lòng
giúp đỡ…Nhiều lần, Người nhấn mạnh đến việc xây dựng và phát triển thuần phong
mỹ tục, tức là phát triển một trong những giá trị truyền thống. Mặt khác, khi trân
trọng giữ gìn thuần phong mỹ tục, Hồ Chí Minh luôn gắn với việc phê phán, bài trừ
đồi phong, bại tục. Người đã nói đến việc “khôi phục vốn cũ” với một tinh thần trân
trọng các giá trị của người xưa để lại như: tương thân tương ái, tận trung với nước,
tận hiếu với dân…Song, Người yêu cầu xóa bỏ cái xấu (tính lười biếng, tham lam…),
sửa đổi các phiền phức (cúng bái, cưới hỏi quá xa xỉ…).
Tóm lại, Nguyễn Ái Quốc qua những năm tháng sống ở quê nhà trong sự chăm
sóc đầy tình thương yêu của gia đình, lớn lên trong truyền thống tốt đẹp của quê
hương, hiếu học, cần cù trong lao động, tình nghĩa trong cuộc sống và bất khuất
trước kẻ thù, và thêm những năm tháng của tuổi trẻ bôn ba nhiều năm tìm đường
cứu nước. Tất cả những điều này và giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt
Nam đã thấm sâu vào trí tuệ, tâm hồn, nhân cách của người, trở thành điểm xuất
phát, là nền tảng trong hình thành phẩm chất của vị lãnh tụ.

1.1.2. Tinh hoa văn hóa nhân loại
 Tinh hoa văn hóa Phương Đông  Nho giáo
Hồ Chí Minh sinh ra trong một gia đình nghèo có truyền thống nho học, Hồ Chí
Minh có một quá trình tiếp biến Nho giáo rất căn bản và có hệ thống: Từ tiếp thu di
sản Nho học từ người cha, đến học tập các thầy đồ nổi tiếng một thời như Hoàng
Phan Quỳnh, Vương Thúc Quý, Trần Nhân,...; từ việc học tập qua trao đổi với các
nhà nho thế hệ cha chú như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, đến quá trình tự học
lâu dài, bền bỉ. Vì thế, không khó để nhận ra những ảnh hưởng của giáo lí này đến
việc hình thành nên tư tưởng của Người. Ảnh hưởng của Nho giáo đối với Hồ Chí
Minh thể hiện rõ nhất trong nhiều bài viết của Người tính từ năm 1921 đến sau này 7 lOMoAR cPSD| 47206521
mà có người đã tính được là hơn 100 trường hợp, trong đó lời Khổng Tử, Mạnh Tử
chiếm nhiều nhất. Hồ Chí Minh đã đánh giá đúng đắn vai trò của Nho giáo và người
sáng lập ra nó là Khổng Tử và đã đặc biệt khai thác những mặt tích cực của tư tưởng Nho giáo.
Hồ Chí Minh phân tích: "Tuy Khổng Tử là phong kiến và tuy trong học thuyết
của Khổng Tử có nhiều điều không đúng song những điều hay trong đó thì chúng ta
nên học. "Chỉ có những người cách mạng chân chính mới thu hái được những điều
hiểu biết quý báu của các đời trước để lại”. Lênin dạy chúng ta như vậy.
Hơn ai hết, Hồ Chí Minh hiểu rõ những mặt bất cập, hạn chế của Nho giáo. Đó
là trong Nho giáo có những yếu tố duy tâm, lạc hậu, phản động như tư tưởng đẳng
cấp, khinh lao động chân tay, khinh phụ nữ, khinh thường thực nghiệm, doanh
lợi…Tuy nhiên, Hồ Chí Minh cũng thấy được những mặt tích cực của nó và khuyên
chúng ta “nên học”. Phương pháp tư duy triết học - chính trị của Nho giáo với các
nguyên tắc: Coi trọng tính chủ thể của con người; coi trọng giáo dục, đặc biệt là giáo
dục đạo đức, coi đức là gốc; tự cải tạo con người đi đến cải tạo xã hội, v.v..cũng được
Hồ Chí Minh kế thừa, sử dụng một cách nhuần nhuyễn trong tư duy, trong thực tiễn
cách mạng. Theo Người, mặt tích cực của Nho giáo là nó đề cao văn hóa, lễ giáo, tạo
ra truyền thống hiếu học. Theo Khổng Tử, “Thiên hạ sẽ thái bình khi thế giới đại
đồng. Người ta không sợ thiếu chỉ sợ có không đều”. Quan điểm "nước lấy dân làm
gốc" (quốc dĩ dân vi bản) là của Nho giáo hơn hẳn các học thuyết cổ đại, bởi vì nhiều
học thuyết cổ đại chủ trương ngu dân để dễ cai trị.
Hồ Chí Minh chú ý kế thừa và đổi mới tư tưởng dùng nhân trị, đức trị để quản lý
xã hội. Kế thừa và phát triển quan niệm của Nho giáo về việc xây dựng một xã hội
lý tưởng trong đó công bằng, bác ái, nhân, nghĩa, trí, dũng, tín, liêm được coi trọng
để có thể đi đến một thế giới đại đồng với hòa bình, không có chiến tranh, các dân
tộc có quan hệ hữu nghị và hợp tác. Đặc biệt, Hồ Chí Minh chú ý kế thừa, đổi mới,
phát triển tinh thần trọng đạo đức của Nho giáo trong việc tu dưỡng, rèn luyện đạo
đức của con người; trong công tác xây dựng Đảng về đạo đức.  Phật giáo
Ta thấy được ở Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn biết cách tiếp thu có chọn lọc tinh
hoa văn hóa nhân loại. Tiếp thu tư tưởng vị tha cùng với nếp sống giản dị, thanh liêm 8 lOMoAR cPSD| 47206521
ở Phật giáo, Hồ Chí Minh là hiện thân của lòng nhân ái, độ lượng, khoan dung –
những nét đặc trưng của giáo lý đạo Phật. Phật giáo - một nguồn gốc tư tưởng, triết
lý, văn hóa phương Đông du nhập vào Việt Nam rất sớm thêm vào là chủ nghĩa yêu
nước, tinh thần đấu tranh bất khuất chống ngoại xâm của dân tộc ta, đã được Hồ Chí
Minh kết hợp, vận dụng sáng tạo để đoàn kết đồng bào, đoàn kết toàn dân. Người
đánh giá rất cao tư tưởng bình đẳng của nhà Phật: “Ta là Phật đã thành còn chúng
sinh là Phật sẽ thành”. Từ năm 1957, Hồ Chí Minh đã được các vị cao tăng của Ấn
Độ phong tặng danh hiệu “vị Phật sống”. Bản thân Người, trong các thư gửi đến Giáo
hội Phật giáo Việt Nam và Phật tín đồ Việt Nam, Người luôn coi Đức Phật là tấm
gương “đại từ, đại bi, cứu khổ cứu nạn”. Sự ảnh hưởng của tư tưởng đạo đức Phật
giáo ở Hồ Chí Minh là rất tự nhiên.
Hồ Chí Minh chú ý kế thừa, phát triển tư tưởng từ bi, vị tha, yêu thương con
người, khuyến khích làm việc thiện, chống lại điều ác; đề cao quyền bình đẳng của
con người và chân lý; khuyên con người sống hòa đồng, gắn bó với đất nước của Đạo Phật.
Lão giáo
Hồ Chí Minh chú ý kế thừa, phát triển tư tưởng của Lão Tử, khuyên con người
nên sống gắn bó với thiên nhiên, hoà đồng với thiên nhiên, hơn nữa phải biết bảo vệ
môi trường sống. Hồ Chí Minh kêu gọi nhân dân ta trồng cây, tổ chức "Tết trồng
cây" để bảo vệ môi trường sinh thái cho chính cuộc sống của con người. Hồ Chí
Minh chú ý kế thừa phát triển tư tưởng thoát mọi ràng buộc của vòng danh lợi trong
Lão giáo. Người khuyên cán bộ, đảng viên ít lòng tham muốn về vật chất; thực hiện
cần kiệm liêm chính, chí công vô tư; hành động theo đạo lý với ý nghĩa là hành động
đúng với quy luật tự nhiên, xã hội
Tư tưởng của Mặc Tử, Hàn Phi Tử, Quản Tử; những trào lưu tư tương tiến
bộ thời cận hiện đại ở Ấn Độ, Trung Quốc
Nguyễn Ái Quốc tìm hiểu thêm về Chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn và
tìm thấy trong đó “những điều thích hợp với điều kiện nước ta”. Các tiêu chí của chủ
nghĩa Tam dân là dân tộc – độc lập; dân quyền – tự do; dân sinh – hạnh phúc đã được
Hồ Chí Minh rút gọn trong quốc hiệu của Việt Nam “Độc lập – Tự do – Hạnh phúc”.
Là người mác-xít tỉnh táo và sáng suốt, Hồ Chí Minh đã biết khai thác những yếu tố 9 lOMoAR cPSD| 47206521
tích cực của tư tưởng và văn hóa phương Đông để phục vụ cho sự nghiệp cách mạng nước ta.
Khác với các nhà yêu nước Việt Nam đầu thế kỷ XX, Hồ Chí Minh khi nghiên
cứu chủ nghĩa Tam dân đã nhìn thấy những hạn chế hết sức cơ bản của học thuyết
này. Về cơ bản, tư tưởng của chủ nghĩa Tam dân vẫn chỉ là tư tưởng dân chủ tư sản,
nằm trong hệ thống tư tưởng tư sản. Tuy nhiên, Người cũng nhìn thấy ở chủ nghĩa
Tam dân và chính sách “thân Nga, liên cộng, ủng hộ công nông” của Tôn Trung Sơn
có những điểm tiến bộ, tích cực và có thể vận dụng thích hợp vào điều kiện thực tế
của cách mạng Việt Nam. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm của nó là chính sách
thích hợp với điều kiện nước ta. Người đã tiếp thu một cách có chọn lọc và sáng tạo
những mặt tiến bộ của chủ nghĩa Tam dân và áp dụng thành công chúng vào hoàn
cảnh cụ thể của Việt Nam, coi trọng vấn đề độc lập dân tộc, nhưng tùy theo từng
hoàn cảnh cụ thể mà nhấn mạnh và đặt nó lên vị trí hàng đầu.  Tinh hoa văn hóa Phương Tây
Trong ba mươi năm hoạt động cách mạng ở nước ngoài, Hồ Chí Minh sống chủ
yếu ở châu Âu nên cũng chịu ảnh hưởng rất sâu rộng của nền văn hóa dân chủ và
cách mạng của phương Tây
Quan điểm nhân quyền, dân quyền trong bản Tuyên ngôn độc lập của Mỹ
(1776), Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp (1971)
Ngay từ khi còn học ở Trường tiểu học Pháp - bản xứ ở thành phố Vinh (1905),
Hồ Chí Minh đã quan tâm tới khẩu hiệu nổi tiếng của Đại Cách mạng Pháp năm
1789: Tự do - Bình đẳng - Bác ái. Hồ Chí Minh từng kể rằng: “Khi tôi độ mười ba
tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ Pháp: Tự do, bình đẳng, bác ái... Và từ thuở
ấy, tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn đằng
sau những chữ ấy”. Đi sang phương Tây, Người quan tâm tìm hiểu những khẩu hiệu
nổi tiếng đó trong các cuộc cách mạng tư sản ở Anh, Pháp, Mỹ. Người đã kế thừa,
phát triển những quan điểm nhân quyền trong bản tuyên ngôn độc lập của Mỹ (1776),
bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp (1791) và đề xuất quan điểm,
nâng tầm thành quyền dân tộc.
5/6/1911 Hồ Chí Minh đặt chân lên con tàu Latouche-Tréville. Thời gian làm
công việc phụ bếp trên con tàu Pháp cho Người nhiều ấn tượng về văn hóa Tây 10 lOMoAR cPSD| 47206521
phương. Người nhận ra ngoài bọn thực dân tàn ác, coi mạng người xứ thuộc địa
không đáng một xu, thì cũng có những người Pháp tốt. Hồ Chí Minh đã hăng hái
tham gia vào các tổ chức chính trị như Đảng Cộng sản Pháp, Quốc tế thứ ba, và trở
thành người Cộng sản Việt Nam đầu tiên. Rồi tiếp tục tìm hiểu về cuộc Cách mạng
tháng Mười Nga, về bản Luận cương của Lê-nin, Người cuối cùng đã tìm thấy ánh
sáng cho con đường giải phóng dân tộc sau bao nhiêu ngày tháng gian nan tìm kiếm.
Có thể tìm thấy dấu ấn ảnh hưởng các giá trị của nền Cộng hoà Pháp trong bản
Yêu sách của nhân dân An Nam, lời mở đầu bản Tuyên ngôn độc lập 1945, trong
Hiến pháp đầu tiên 1946, … Hồ Chí Minh tiếp thu nhưng có chọn lọc, phù hợp từng
điều kiện của đất nước.
Sang Mỹ, đến sống ở New York, làm thuê và thường đến thăm khu ở của người
da đen. Trong các bài viết sau này, Người thường nhắc đến ý chí đấu tranh cho tự do,
độc lập, cho quyền sống của con người được ghi lại trong Tuyên ngôn độc lập 1776
của nước Mỹ. Người đã tiếp thu giá trị của tư tưởng nhân quyền với nội dung là
quyền tự do cá nhân thiêng liêng trong bản tuyên ngôn này.
Nghiên cứu văn hóa nhân loại tại những trung tâm chính trị kinh tế, văn hóa
lớn ở các cường quốc như Mỹ, Anh, Pháp, Nga,..
Hồ Chí Minh luôn tận dụng tất cả thời gian, sức trẻ và một số tiền ít ỏi để có cơ
hội đi tới những miền đất mới, những nền văn hóa và chính trị khác nhau. Ngoài vốn
tiếng Pháp, Người học thêm tiếng Anh, Đức, Ý, Nga, … để có thể hiểu được đời sống
và xãhội ở nhiều đất nước. Đi tới đâu Người cũng tìm tòi, phân tích, đối chiếu đời
sống nhân dân và chế độ chính trị của các quốc gia. Quá trình đó đã hình thành vốn
kiến thức vừa bao quát, vừa uyên thâm về các dân tộc trên thế giới, vừa tạo nên tấm
lòng yêu thương, bác ái với nhân dân bị áp bức khắp năm châu bốn bể.
Là thủ đô của nước Pháp - Pa-ri cũng đồng thời là trung tâm văn hóa – nghệ thuật
của châu Âu. Các trào lưu triết học và các trường phái nghệ thuật nổi tiếng thế giới
phần lớn đều được hình thành và ra mắt tại đây. Sống ở giữa nơi hợp lưu của các
dòng văn hóa thế giới, Người đã có điều kiện thuận lợi để nhanh chóng chiếm lĩnh
vốn tri thức của thời đại, đặc biệt là truyền thống văn hóa dân chủ và tiến bộ của nước Pháp. 11 lOMoAR cPSD| 47206521
Từ tháng 6/1923 đến tháng 10-1924, Người hoạt động tại Liên Xô. Đây là thời
kỳ Người tiếp thu rất nhiều tri thức, đồng thời Người còn góp phần phát triển, làm
phong phú lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô
sản. Tư tưởng của Người ngày một hoàn thiện, mở rộng mà uyên bác, trở thành nền
móng, kim chỉ nam cho sách lược của Đảng Cộng sản Việt Nam, cho cuộc đấu tranh
và xây dựng nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Trong 30 năm hoạt động ở nước ngoài, Hồ Chí Minh chủ yếu sống ở Châu Âu
nên Người chịu ảnh hưởng rất sâu rộng của nền văn hóa dân chủ và các cuộc cách
mạng ở phương Tây, Người còn tiếp nhận được tư tưởng dân chủ và hình thành phong
cách dân chủ từ hoạt động thực tiễn.
Hồ Chí Minh đã tiếp thu các tinh hoa văn hóa nhân loại một cách có chọn lọc
rồi vận dụng tinh hoa đó một cách sát hợp vào những điều kiện cụ thể của đất nước,
của dân tộc vì mục đích không chỉ cho sự nghiệp giải phóng dân tộc mình mà còn
góp phần tích cực nhất vào sự nghiệp của các dân tộc khác trên thế giới.

1.1.3. Chủ nghĩa Mác – Lênin
Chủ nghĩa Mác - Lênin là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận trong nhận
thức và hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh.
Chủ nghĩa Mác – Lenin là nhân tố quyết định trực tiếp đến bản chất cách mạng
và khoa học tư tưởng của Hồ Chí Minh.
Triết học duy vật biện chứng của Mác đã đập tan mọi thứ triết học duy tâm, siêu
hình, coi thế giới là do thần linh sáng tạo ra; vạch rõ thế giới bao gồm vô số sự vật
và hiện tượng muôn hình muôn vẻ, vốn có một cách khách quan. Mác cũng đã sáng
lập ra chủ nghĩa duy vật lịch sử, vạch ra quy luật phát triển của xã hội loài người.
Ông khẳng định, lịch sử loài người trước hết là lịch sử phát triển của nền sản xuất xã
hội, phương thức sản xuất đời sống vật chất quyết định sinh hoạt chính trị, tinh thần
của xã hội nói chung. Quần chúng nhân dân là động lực phát triển của lịch sử, là đội
quân chủ lực củacác cuộc cách mạng xã hội thay thế chế độ xã hội cũ, lỗi thời bằng
chế độ xã hội mới, tiến bộ hơn.
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và thời đại mới cũng như chủ nghĩa Mác
- Lênin là cơ sở lý luận quyết định bước phát triển mới về chất trong tư tưởng Hồ
Chí Minh, khiến Người vượt hẳn lên phía trước so với những người yêu nước cùng
thời. Ngay từ cuối nhưng năm 20 của thế kỷ XX, Hồ Chí Minh khẳng định rằng: 12 lOMoAR cPSD| 47206521
“Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc
chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Lênin”. Trên cơ sở lập trường, quan điểm và
phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã triệt để kế thừa, đổi mới,
phát triển những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, tinh hoa văn hóa
nhân loại kết hợp với thực tiễn cách mạng trong nước và thế giới hình thành lên một
hệ thống các quan điểm cơ bản, toàn diện về cách mạng Việt Nam.
Tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh trở thành người cộng sản với tầm vóc trí tuệ lớn.
7/1920: Bác bắt gặp sơ thảo lần thứ nhất luận cương về những vấn đề dân tộc và
thuộc địa của Lênin được đăng trên báo nhân đạo đây là bước ngoặt trong cuộc đời
hoạt động của Hồ Chí Minh khi Bác tìm ra con đường cứu nước giải phóng dân tộc:
Cách mạng vô sản. Đánh dấu bước phát triển trong tư tưởng của bác: Từ chủ nghĩa
yêu nước đến với chủ nghĩa cộng sản, từ người yêu nước thành người cộng sản – sự
kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩ cộng sản.
Đặc trưng riêng của Hồ Chí Minh khi tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin (Nhân tố
chủ quan) cơ sở lý luận quan trọng nhất giúp hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh, sử
dụng chủ nghĩa Mác - Lênin như công cụ để phục vụ cuộc cách mạng giải phóng dân
tộc. Tiếp thu với tinh thần: độc lập, sáng tạo, xuất phát từ đặc điểm riêng của Việt
Nam, tiếp thu lấy cái cốt, cái tinh thần rồi diễn đạt lại theo lối diễn đạt của mình. Trên
cơ sở lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí
Minh đã triệt để kế thừa, đổi mới, phát triển những giá trị truyền thống tốt đẹp của
dân tộc Việt Nam, tinh hoa văn hóa nhân loại kết hợp với thực tiễn cách mạng trong
nước và thế giới hình thành lên một hệ thống các quan điểm cơ bản, toàn diện về
cách mạng Việt Nam. Chủ nghĩa Mác – Lênin là thế giới quan, phương pháp luận
trong nhận thức và hoạt động cách mạng Hồ Chí Minh. Chủ nghĩa Mác đã cung cấp
cho Hồ Chí Minh thế giới quan khoa học và phương pháp làm việc biện chứng.
Có thể nói, Hồ Chí Minh đã tiếp thu phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin và ứng dụng
sáng tạo vào điều kiện cụ thể của đất nước, đưa cách mạng Việt Nam giành nhiều
thắng lợi vĩ đại và cống hiến nhiều vào kho tàng lý luận mác-xít cũng như phương
pháp hoạt động sáng tạo của cuộc cách mạng vô sản.
Hồ Chí Minh không những đã vận dụng sáng tạo mà còn bổ sung, phát triển và
làm phong phú chủ nghĩa Mác – Lênin trong thời đại mới. 13 lOMoAR cPSD| 47206521
Hồ Chí Minh đã không rập khuôn những tư tưởng cũ bởi chúng có chứa đựng
những yếu tố duy tâm, lạc hậu nhưng Người cũng không “phủ định sạch trơn” vì
những tư tưởng ấy còn có cả những yếu tố duy vật, tích cực, như vậy Hồ Chí Minh
đã tiếp thu một cách có kế thừa và phát triển, theo đúng tinh thần của chủ nghĩa duy
vật biện chứng . Hồ Chí Minh đã tiếp nhận những bài học sâu sắc từ Lênin và Cách
mạng Tháng Mười Nga. Qua luận cương của Lênin, Hồ Chí Minh đã thấy được cái
cần thiết cho dân tộc Việt Nam – con đường giải phóng dân tộc. Từ nhu cầu thực tiễn
của cách mạng Việt Nam, từ những hiểu biết sâu sắc văn hóa phương Đông, văn hóa
Pháp, Hồ Chí Minh đã vận dụng và phát triển Chủ nghĩa Mác – Lênin, Người cho
rằng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc
ở cácthuộc địa không hoàn toàn phụ thuộc vào cách mạng ở chính quốc”, nhân dân
thuộc địa có thể đứng lên tự giải phóng chính mình, cuộc cách mạng có thể thắng lợi
trước ở một nước thuộc địa.
Trong các vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc; chủ nghĩa xã hội và
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; các vấn đề xây dựng Đảng, Nhà nước, văn
hóa, con người, đạo đức, v.v. Hồ Chí Minh đều có những luận điểm bổ sung, phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin. Tư tưởng Hồ Chí Minh là một bước nhảy vọt
trong lịch sử tư tưởng Việt Nam.
1.2. Cơ sở thực tiễn hình thành tư tưởng HCM
Tư tưởng Hồ Chí Minh không phải là sản phẩm chủ quan , phản ánh tâm lý
nguyện vọng của Nhân dân Việt Nam đối với lãnh tụ kính yêu của mình . Tư tưởng
Hồ Chí Minh là sản phẩm tất yếu của cách mạng Việt Nam, ra đời do yêu cầu khách
quan và là sự giải đáp những nhu cầu bức thiết do cách mạng Việt Nam đặt ra từ đầu thế kỷ XX đến nay.
Tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành dưới tác động ảnh hưởng của những
điều kiện lịch sử - xã hội cụ thể ở trong nước và thế giới lúc Người đang sống và
hoạt động . Hồ Chí Minh đã nắm bắt chính xác xu hướng phát triển của thời đại để
tìm ra con đường cách mạng đúng đắn cho dân tộc Việt Nam .
1.2.1. Thực tiễn Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX 14 lOMoAR cPSD| 47206521
Từ năm 1858, đế quốc Pháp bắt đầu tiến hành xâm lược Việt Nam. Triều đình
nhà Nguyễn lần lượt ký kết các hiệp ước đầu hàng, từng bước trở thành tay sai của thực dân Pháp.
Từ năm 1858 đến cuối thế kỷ XIX, các phong trào đấu tranh yêu nước chống
Pháp xâm lược liên tục nổ ra. Ở miền Nam, có các cuộc khởi nghĩa của Trương
Định, Nguyễn Trung Trực. Ở miền Trung, có các cuộc khởi nghĩa của Trần Tấn, Đặng
Như Mai, của Phan Đình Phùng . Ở miền Bắc, có các cuộc khởi nghĩa của Nguyễn
Thiện Thuật, Phạm Bành và Đinh Công Tráng, Nguyễn Quang Bích, Hoàng Hoa
Thám, v.v ... Các cuộc khởi nghĩa, trong đó có những cuộc dưới ngọn cờ "Cần
Vương” tức giúp vua cứu nước, tuy đều rất anh dũng, nhưng cuối cùng đều thất bại.
Điều đó chứng tỏ nhân dân ta rất yêu nước, song giai cấp phong kiến và hệ tư tưởng
của nó đã suy tàn, bất lực, lỗi thời trước nhiệm vụ lịch sử đó là bảo vệ độc lập dân tộc.
Sau khi đã hoàn thành căn bản việc bình định Việt Nam về mặt quân sự, thực dân
Pháp bắt tay vào khai thác thuộc địa Việt Nam một cách mạnh mẽ và từng bước biển
nước ta từ một nước phong kiến thành nước “thuộc địa và phong kiến” dẫn tới có sự
biến đổi về cơ cấu giai cấp, tầng lớp trong xã hội .
Thực dân Pháp vẫn duy trì nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu với khoảng 95% dân
số là nông dân; giai cấp địa chủ được bổ sung, củng cố, tăng cường thêm các điền
chủ người Pháp và nước ngoài. Bên cạnh tầng lớp thợ thủ công, tiểu thương, trong
xã hội Việt Nam xuất hiện những giai tầng mới. Đó là giai cấp công nhân, giai cấp
tư sản và tầng lớp tiểu tư sản ở thành thị. Từ đó, liền với mâu thuẫn cơ bản trong xã
hội phong kiến là nông dân với địa chủ phong kiến, xuất hiện các mâu thuẫn mới:
Mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân Việt Nam với giai cấp tư sản, mâu thuẫn giữa
toàn thể nhân dân Việt Nam với chủ nghĩa đế quốc Pháp.
Cùng với những biến đổi trên, đến đầu thế kỷ XX, trước ảnh hưởng của các cuộc
vận động cải cách, của cách mạng dân chủ tư sản ở Trung Quốc và tấm gương Duy
Tân Nhật Bản, ở Việt Nam xuất hiện các phong trào yêu nước theo khuynh hướng
dân chủ tư sản với sự dẫn dắt của các sĩ phu yêu nước có tinh thần cải cách: Phong
trào Đông Du do Phan Bội Châu khởi xướng (1905-1909), Phong trào Duy Tân do
Phan Châu Trinh phát động (1906-1908); Phong trào Đông Kinh nghĩa thục do 15 lOMoAR cPSD| 47206521
Lương Văn Can, Nguyễn Quyền và một số nhân sĩ khác phát động (từ tháng 3 đến
tháng 11/1907); Phong trào chống đi phu, chống sưu thuế ở Trung Kỳ năm 1908…
Các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản nói trên đều thất
bại. Nguyên nhân sâu xa là giai cấp tư sản Việt Nam còn non yếu. Nguyên nhân trực
tiếp là các tổ chức và người lãnh đạo của các phong trào đó chưa có đường lối và
phương pháp cách mạng đúng đắn. Tinh thần yêu nước vẫn sục sôi trong lòng nhân
dân. Song, cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước diễn ra sâu sắc. Xuất hiện câu
hỏi từ thực tiễn đặt ra là: Cứu nước bằng con đường nào để có thể đi đến thắng lợi?
Trong bối cảnh đó, sự ra đời giai cấp mới là giai cấp công nhân và phong trào
đấu tranh của giai cấp công nhân Việt Nam đã làm cho cuộc đấu tranh giải phóng
dân tộc ở Việt Nam xuất hiện dấu hiệu mới của một thời đại mới sắp ra đời.
Cuối thế kỷ XIX, ở Việt Nam đã có công nhân, nhưng lúc đó mới chỉ là một lực
lượng ít ỏi, không ổn định. Đầu thế kỷ XX, công nhân phát triển hơn và trở thành
một giai cấp ngay trước Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918).
Công nhân Việt Nam chịu ba tầng áp bức bóc lột: thực dân, tư bản, phong kiến.
Họ sớm vùng dậy đấu tranh chống lại giới chủ. Từ hình thức đấu tranh thô sơ như
đốt lán trại, bỏ trốn tập thể, họ đã nhanh chóng tiến tới đình công, bãi công .
“Chỉ có giai cấp công nhân là dũng cảm nhất, cách mạng nhất, luôn luôn gan góc
đương đầu với bọn đế quốc thực dân " .. Phong trào công nhân và các phong trào yêu
nước Việt Nam đầu thế kỷ XX là điều kiện thuận lợi để chủ nghĩa Mác Lênin xâm
nhập , truyền bá vào đất nước ta. Chinh Hồ Chí Minh là một người đã dày công
truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước
Việt Nam, chuẩn bị về lý luận chính trị, tư tưởng và tổ chức, sáng lập Đảng Cộng sản
Việt Nam, chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối cách mạng Việt
Nam, đánh đấu bước hình thành cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng Việt
Nam. Sau đó, chính thực tiễn Đảng lãnh đạo cách mạng Tháng Tám thành công, lãnh
đạo cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi; lãnh đạo vừa xây dựng chủ nghĩa xã
hội, vừa kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là nhân tố góp phần bổ sung, phát triển tư
tưởng Hồ Chí Minh trên tất cả các phương diện.
1.2.2. Thực tiễn thế giới cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX 16