Phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, liên hệ tới vấn đề tu dưỡng đạo đức của sinh viên trường Đại học Thương Mại hiện nay.
Phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, liên hệ tới vấn đề tu dưỡng đạo đức của sinh viên trường Đại học Thương Mại hiện nay được trình bày khoa học, chi tiết giúp cho các bạn sinh viên chuẩn bị bài một cách nhanh chóng và đầy đủ. Các bạn xem, tải về ở bên dưới.
Môn: Tư tưởng Hồ Chí Minh (HCM01)
Trường: Đại học Thương Mại
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoARcPSD|40534848
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG
---------------------------------- BÀI THẢO LUẬN
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Đề tài: Phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, liên hệ tới vấn đề tu dưỡng
đạo đức của sinh viên trường Đại học Thương Mại hiện nay.
Giảng viên hướng dẫn: Ngô Thị Huyền Trang
Nhóm thực hiện: 09
Mã lớp học phần: 2237HCMI0111 NHÓM 9 1 lOMoARcPSD|40534848
Danh sách thành viên nhóm 9 STT Họ và tên Mã SV Nhiệm vụ đề tài 1 Nhiệm vụ đề tài 2 81 Đinh Thị Hương Quỳnh 20D180178 Phần A chương II Thuyết trình Mục 1+2 82 Hoàng Thị Quỳnh 20D180039 Phần A chương II Phần I Mục 1 + Mục 1 + chương III Kết luận mục 2 83 Lê Thị Quỳnh 20D290042 Phần A chương III Phần II Mục 1 Mục 1 84 Lê Thị Diễm Quỳnh 20D150039 Phần B chương Phần II Mục 3 III+IV 85 Nguyễn Đào Diễm Quỳnh 20D180109 Tổng hợp word Tổng hợp word (nhóm trưởng) 86 Nguyễn Thị Diễm Quỳnh 20D150040 Phần A chương IV Slide + Lời mở đầu 87 Nguyễn Thị Trúc Quỳnh 20D180179 Phần A chương V Phần II Mục 2 (thư kí) Mục 1+2 88 Phạm Thị Quỳnh 20D180040 Phần A chương I Phần I Mục 2.1+2.2 89 Phạm Thu Quỳnh 20D180110 Phần A chương V Phần I Mục Mục 3+4 2.3+2.4 90 Trần Thị Mai Quỳnh 20D180180 Phần B chương I+II Phần I Mục 3 NHÓM 9 2 lOMoARcPSD|40534848
Trường Đại học Thương Mại
Cộng hoà xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
Lớp học phần: 2237HCMI0111
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
BIÊN BẢN HỌP NHÓM (LẦN 1)
1. Thời gian: 20h - 19/02/2022
2. Thành phần tham gia: tất cả thành viên trong nhóm
3. Hình thức: phần mềm ứng dụng Meets
4. Nội dung cuộc họp: - Phân tích đề tài 1.
- Lập đề cương đề tài 1.
- Phân công nhiệm vụ đề tài 1.
- Tổng kết nội dung cần làm và gia hạn nộp bài
5. Đánh giá cuộc họp
Cuộc họp diễn ra một cách suôn sẻ, thuận lợi, các thành viên tích cực trao đổi đưa ra ý
kiến đóng góp cho bài thảo luận. Thư kí Nhóm trưởng Quỳnh Quỳnh Nguyễn Thị Trúc Quỳnh Nguyễn Đào Diễm Quỳnh NHÓM 9 3 lOMoARcPSD|40534848
Trường Đại học Thương Mại
Cộng hoà xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
Lớp học phần: 2237HCMI0111
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
BIÊN BẢN HỌP NHÓM (LẦN 2)
1. Thời gian: 20h - 15/03/2022
2. Thành phần tham gia: tất cả thành viên trong nhóm
3. Hình thức: phần mềm ứng dụng Meets
4. Nội dung cuộc họp: - Phân tích đề tài 2.
- Lập đề cương đề tài 2.
- Phân công nhiệm vụ đề tài 2.
- Tổng kết nội dung cần làm và gia hạn nộp bài.
5. Đánh giá cuộc họp
Cuộc họp diễn ra một cách suôn sẻ, thuận lợi, các thành viên tích cực trao đổi đưa ra ý
kiến đóng góp cho bài thảo luận. Thư kí Nhóm trưởng Quỳnh Quỳnh Nguyễn Thị Trúc Quỳnh Nguyễn Đào Diễm Quỳnh MỤC LỤ NHÓM 9 4 lOMoARcPSD|40534848
Đề tài 1: Phân tích các thời kỳ hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh, đâu là thời kỳ hình
thành những nội dung cơ bản về cách mạng Việt Nam, tại sao? ........................................ 7
A. Các thời kỳ hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh .......................................................... 7 I.
Thời kỳ trước năm 1911: Hình thành tư tưởng yêu nước và có chí hướng tìm
con đường cứu nước mới .................................................................................................... 7 II.
Thời kỳ 1911 - 1920: Hình thành tư tưởng cứu nước, giải phóng dân tộc Việt
Nam theo con đường cách mạng vô sản ............................................................................ 7 III.
Thời kỳ 1920 - 1930: Hình thành những nội dung cơ bản tư tưởng về cách
mạng Việt Nam .................................................................................................................... 8
IV. Thời kỳ 1930-1941: Vượt qua thử thách, giữ vững đường lối, phương pháp Cách
mạng Việt Nam đúng đắn, sáng tạo .................................................................................. 10
V. Thời kỳ 1941 – 1969: Tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp tục phát triển, soi đường cho sự
nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta ................................................................... 11
B - Thời kỳ hình thành những nội dung cơ bản về cách mạng Việt Nam là thời kỳ 1920
-1930................................................................................................................................. 12
I- Chủ nghĩa thực dân là kẻ thù chung của các dân tộc thuộc địa ................................. 12
II- Khẳng định mối quan hệ mật thiết giữa cách mạng thuộc địa và cách mạng vô sản
ở chính quốc ...................................................................................................................... 12
III. Cách mạng muốn thành công trước hết cần phải có Đảng lãnh đạo. ..................... 13 IV.
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân chứ không phải việc của
một vài người ..................................................................................................................... 13
Đề tài 2: Phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức. Liên hệ tới quá trình tu dưỡng
đạo đức của sinh viên trường Đại học Thương mại hiện nay ........................................... 14
A. Lời mở đầu .................................................................................................................. 14
B. Nội dung: .................................................................................................................... 15
I. Phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức ............................................................ 15 1.
Đạo đức là gốc, là nền tảng tinh thần của xã hội, của người cách mạng ......... 15
2. Quan điểm về những chuẩn mực đạo đức cách mạng ........................................ 17
2.1. Trung với nước, hiếu với dân ........................................................................ 18
2.2. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư: ........................................................ 19
2.4. Tinh thần quốc tế trong sáng: ....................................................................... 21 NHÓM 9 5 lOMoARcPSD|40534848
3. Quan điểm về những nguyên tắc xây dựng đạo đức cách mạng ........................... 22
3.1. Nói đi đôi với làm, nêu gương về đạo đức ........................................................ 22
3.2. Xây đi đôi với chống .......................................................................................... 24
3.3. Tu dưỡng đạo đức suốt đời ............................................................................... 25 II.
Liên hệ tới quá trình tu dưỡng đạo đức của sinh viên trường Đại học Thương
mại hiện nay ...................................................................................................................... 26
1. Thực trạng quá trình tu dưỡng đạo đức của sinh viên trường Đại học Thương
mại ............................................................................................................................... 26
1.1. Về mặt tích cực ............................................................................................... 26
1.2. Về mặt tiêu cực ............................................................................................... 28
2. Định hướng của của sinh viên trường Đại học Thương mại về việc nâng cao,
tu dưỡng đạo đức ......................................................................................................... 29
3. Đề xuất giải pháp về việc nâng cao, tu dưỡng đạo đức của sinh viên trường Đại
học Thương mại .......................................................................................................... 30
C. Kết luận ....................................................................................................................... 33
Tài liệu tham khảo ................................................................................................................ 34 NHÓM 9 6 lOMoARcPSD|40534848 Đề tài 1:
Phân tích các thời kỳ hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh, đâu là thời kỳ hình
thành những nội dung cơ bản về cách mạng Việt Nam, tại sao?
A. Các thời kỳ hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
I. Thời kỳ trước năm 1911: Hình thành tư tưởng yêu nước và có chí hướng tìm con
đường cứu nước mới. 1. Gia đình
a. Gia đình nhà Nho yêu nước với tư tưởng tiến bộ
b. Những tư tưởng thân dân, lấy dân làm gốc c. Chủ nghĩa yêu nước 2. Quê hương
Nghệ An cũng như Kim Liên là mảnh đất địa linh nhân kiệt, giàu truyền thống yêu nước
chống ngọai xâm. Đây còn là vùng đất nổi tiếng với sự hiếu học.
3. Nhận thức của Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh đã sớm nhận ra hạn chế của những người đi trước rằng không thể cứu nước
theo con đường của Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Hoàng Hoa Thám.
Hồ Chí Minh đã phát hiện ra mâu thuẫn giữa chế độ đàn áp bóc lột dã man của bọn thực
dân ở Việt Nam với cái lý tưởng cao đẹp của nước Pháp:“Tự do - Bình đẳng - Bác ái”. Hồ
Chí Minh muốn tìm hiểu những gì ẩn giấu sau sức mạnh của kẻ thù và học hỏi kinh nghiệm
cách mạng trên thế giới.
II. Thời kỳ 1911 - 1920: Hình thành tư tưởng cứu nước, giải phóng dân tộc Việt Nam
theo con đường cách mạng vô sản 1.
Giai đoạn 1911 – 1917:
1.1. Ngày 5/6/1911: Nguyễn Ái Quốc rời Tổ Quốc ra đi tìm đường cứu nước
1.2. Năm 1912, không dừng lại ở Pháp, Nguyễn Ái Quốc làm thuê cho một chiếc tàu và
có cơ hội đi qua nhiều nước
1.3. Khoảng đầu năm 1913, Nguyễn Tất Thành theo tàu rời Mỹ trở về Lơ Havơrơ, sau đó sang Anh.
1.4. Cuối năm 1917, Nguyễn Ái Quốc từ Anh trở lại Pháp. NHÓM 9 7 lOMoARcPSD|40534848
2. Giai đoạn 1917-1919:
2.1. Đầu năm 1919, Nguyễn Ái Quốc gia nhập Đảng Xã hội Pháp
2.2. Tháng 8/1919, Nguyễn Ái Quốc gửi đến Hội nghị Véc-xây bản Yêu sách của nhân dân An Nam
Ngày 18-6-1919, thay mặt Hội những người yêu nước Việt Nam tại Pháp, Nguyễn Tất Thành
cùng Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường thảo ra bản Yêu sách của nhân dân An Nam gửi tới Hội nghị Vécxây. 3. Giai đoạn 1920:
3.1. Tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về
vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I. Lênin
Hồ Chí Minh đã tìm thấy và xác định rõ phương hướng đấu tranh giải phóng dân tộc Việt
Nam theo con đường cách mạng vô sản qua nghiên cứu “Sơ thảo lần thứ nhất những luận
cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa”.
3.2. Ngày 30/12/1920, Nguyễn Ái Quốc biểu quyết tán thành quốc tế cộng sản, trở thành
người cộng sản đầu tiên của Việt Nam.
Sự kiện đánh dấu sự phát triển vượt bậc thế giới quan của Hồ Chí Minh từ giác ngộ chủ
nghĩa dân tộc đến giác ngộ chủ nghĩa Mác-Lênin, từ chiến sĩ chống thực dân trở thành chiến sĩ cộng sản Việt Nam. III.
Thời kỳ 1920 - 1930: Hình thành những nội dung cơ bản tư tưởng về cách mạng Việt Nam
1. Hoạt động thực tiễn:
1.1. Từ năm 1921-6/1923, Hồ Chí Minh tiếp tục ở Pháp và tham gia rất nhiều hoạt động tại Pháp.
Năm 1921, Hồ Chí Minh tham gia sáng lập lên Hội liên hiệp thuộc địa. Năm 1922, Người
được bầu là Trưởng Tiểu ban Nghiên cứu vấn đề dân tộc thuộc địa của Đảng Cộng sản Pháp,
sáng lập báo Le Paria bằng tiếng Pháp.
1.2. Từ tháng 7/1923-10/1924, Nguyễn Ái Quốc sang Liên Xô, tích cực hoạt động trong
phong trào cộng sản quốc tế.
Với sự hoạt động năng nổ Bác đã được bầu vào Hội đồng quốc tế Nông dân và Ban
Phương Đông của Quốc tế Cộng sản. NHÓM 9 8 lOMoARcPSD|40534848
1.3. Tháng 11/1924, Nguyễn Ái Quốc rời Liên Xô về Quảng Châu (Trung Quốc)
Người tiếp tục đẩy mạnh hoạt động lý luận chính trị, tổ chức chuẩn bị thành lập Đảng
cộng sản Việt Nam trên các phương diện về chính trị, tư tưởng, tổ chức. Ngoài ra, Bác còn
mở các lớp huấn luyện đào tạo cán bộ cách mạng.
1.4. Mùa hè năm 1927, Nguyễn Ái Quốc rời Trung Quốc, bí mật hoạt động ở nhiều nước.
1.5. Từ ngày 6/1-7/2/1930 tại Hương Cảng, Trung Quốc, Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội
nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Sự kiện này có ý nghĩa vô cùng to lớn, nó chấm dứt sự khủng hoảng đường lối và tổ chức lãnh đạo Việt Nam.
2. Những tác phẩm lý luận tiêu biểu:
2.1. Bản án chế độ thực dân Pháp (1925)
“Bản án chế độ thực dân Pháp” (Le Procès de la Colonisation Française) là tác phẩm
của Hồ Chủ tịch viết bằng tiếng Pháp trong khoảng những năm 1921-1925 tố cáo thực dân
Pháp đã gây được tiếng vang lớn ngay từ khi ra đời.
2.2. Đường Kách Mệnh (1927)
Cuốn sách “Đường Kách Mệnh” có ý nghĩa và vai trò như kim chỉ nam cho đường lối
của cách mạng Việt Nam. Tác phẩm là tư liệu tham khảo đặc biệt quan trọng và cơ sở lý luận
để Đảng ta xây dựng phương pháp cách mạng phù hợp với tình hình đất nước.
2.3. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam (1930)
Cương lĩnh đã xác định rõ về đường lối, nhiệm vụ, lực lượng và mối quan hệ của
cách mạng Việt Nam trong bối cảnh sau khi thành lập Đảng. Cương lĩnh chính trị đầu tiên
của Đảng là một cương lĩnh đúng đắn và sáng tạo theo con đường cách mạng Hồ Chí Minh,
phù hợp với xu thế phát triển của thời đại mới, đáp ứng yêu cầu khách quan của lịch sử,
nhuần nhuyễn quan điểm giai cấp và thấm nhuần tinh thần dân tộc.
2.4. Báo Người cùng khổ - Le Paria
Báo Người cùng khổ đã trở thành vũ khí chiến đấu, là diễn đàn để Nguyễn Ái Quốc
và Hội liên hiệp thuộc địa tuyên truyền, tổ chức nhân dân thuộc địa đấu tranh chống chủ
nghĩa đế quốc. Với vai trò là chủ bút kiêm chủ nhiệm, thủ quỹ, xuất bản và liên lạc, Nguyễn
Ái Quốc xứng đáng là linh hồn của báo và Hội liên hiệp thuộc địa.
2.5. Tác phẩm “Báo cáo về Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ” (1924) NHÓM 9 9 lOMoARcPSD|40534848
Tác phẩm Báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ thể hiện sự am hiểu sâu sắc của
Nguyễn Ái Quốc về lý luận và thực tiễn, cũng như khả năng vận dụng sáng tạo những
nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Mác vào thực tiễn Việt Nam. Tác phẩm đã đặt cơ sở cho
sự hình thành đường lối và phương pháp của cách mạng Việt Nam.
IV. Thời kỳ 1930-1941: Vượt qua thử thách, giữ vững đường lối, phương pháp Cách
mạng Việt Nam đúng đắn, sáng tạo.
1. Những khó khăn mà Nguyễn Ái Quốc gặp phải:
1.1. Từ phía quốc tế cộng sản:
- Một số người trong quốc tế cộng sản có những nhìn nhận sai lầm về Nguyễn Ái Quốc do
chịu do chịu ảnh hưởng của quan niệm giáo điều tả khuynh xuất hiện trong đại hội VI của
quốc tế cộng sản. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Nguyễn Ái Quốc không được hiểu và
chấp thuận mà còn bị phê phán bị coi là “hữu khuynh”, “dân tộc chủ nghĩa”. 1.2. Từ phía Đảng:
- Hội nghị Trung ương Đảng họp tháng 10/1930 ra quyết định “Thủ tiêu chánh cương, sách
lược và điều lệ Đảng”.
- Đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng cộng sản Đông Dương hoạt động theo chỉ
thị quốc tế cộng sản.
2. Nguyễn Ái Quốc tiếp tục giữ vững lập trường, kiên nhẫn chịu đựng.
2.1. Những năm 1934-1938, Nguyễn Ái Quốc rời Thượng Hải đi Liên Xô.
- Ngày 6/6/1938, Nguyễn Ái Quốc gửi thư cho một lãnh đạo quốc tế cộng sản, đề nghị cho
phép trở về nước hoạt động và được chấp thuận.
- Tháng 10/1938, Nguyễn Ái Quốc rời Liên Xô đi qua Trung Quốc để trở về VN.
2.2. Ngày 28/1/1941, Nguyễn Ái Quốc trở về tổ quốc trực tiếp chỉ đạo cách mạng Việt Nam
- Tháng 5-1941, tại Pác Bó (huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng), với tư cách cán bộ Quốc tế
Cộng sản, Người chủ trì Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
- Những quan điểm cơ bản nhất về đường lối cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam của
Hồ Chí Minh được Đảng khẳng định đưa vào thực tiễn tổ chức nhân dân biến thành các
phong trào cách mạng để dẫn tới thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945. NHÓM 9 10 lOMoARcPSD|40534848
V. Thời kỳ 1941 – 1969: Tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp tục phát triển, soi đường cho sự
nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta
1. Giai đoạn 1941 – 1945:
1.1. Hội nghị Trung ương 8 của Đảng Cộng sản Đông Dương (tháng 5 – 1941)
Hội nghị xác định: Nhiệm vụ giải phóng dân tộc là nhiệm vụ bức thiết nhất của cách
mạng Đông Dương. Nhiệm vụ trước hết của cách mạng Việt Nam lúc này là phải giành cho
được độc lập dân tộc và tự do, hạnh phúc cho đồng bào.
1.2. Năm 1942, Nguyễn Ái Quốc lấy tên mới là Hồ Chí Minh sang Trung Quốc.
1.3. Ngày 22-12-1944, theo Chỉ thị của đồng chí Hồ Chí Minh, Đội Việt Nam Tuyên truyền
giải phóng quân được thành lập.
Đây là đội quân chủ lực đầu tiên của lực lượng vũ trang cách mạng và là tiền thân của
Quân đội nhân dân Việt Nam ngày nay.
1.4. Ngày 18/8/1945 Hồ Chí Minh viết Thư kêu gọi Tổng khởi nghĩa gửi quốc dân, đồng
bào. Cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước thành công.
1.5. Ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
2. Giai đoạn 1945 – 1946:
2.1. Hồ Chí Minh lãnh đạo Đảng và chính quyền cách mạng non trẻ trải qua thử thách ngàn cân treo sợi tóc.
2.2. Giữ vững mục tiêu đấu tranh cho chủ quyền độc lập dân tộc, tự do, ấm no, hạnh phúc của nhân dân.
3. Giai đoạn 1946 – 1954:
3.1. Hồ Chí Minh là linh hồn của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
3.2. Hoàn thiện lý luận cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và hình thành tư tưởng về xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Xuất phát từ đặc điểm nước ta tạm thời bị chia cắt làm 2 miền, Chủ tịch Hồ Chí Minh và
Đảng ta đã chủ trương đưa miền Bắc chuyển sang giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa và
xác định đường lối cách mạng của cả nước trong tình hình mới: giương cao ngọn cờ độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
4. Giai đoạn 1954 – 1969: NHÓM 9 11 lOMoARcPSD|40534848
4.1. Xác định và lãnh đạo đường lối cùng một lúc thực hiện 2 nhiệm vụ chiến lược ở 2 miền.
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta tiếp tục tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân ở miền Nam và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, kết hợp chặt chẽ 2 nhiệm vụ đó
với nhau nhằm thực hiện một mục tiêu chung: hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân trong cả nước, thực hiện thống nhất nước nhà, mở đường đưa cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
4.2. Bổ sung, hoàn thiện hệ thống quan điểm cơ bản của cách mạng Việt Nam trên tất cả
các lĩnh vực chính trị, kinh tế, quân sự, văn hóa, đạo đức và đối ngoại.
⟶ Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm tất yếu của cách mạng Việt Nam trong thời đại
mới, là ngọn cờ thắng lợi của dân tộc Việt Nam trong đấu tranh vì độc lập tự do và giải
phóng dân tộc, đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
B - Thời kỳ hình thành những nội dung cơ bản về cách mạng Việt Nam là thời kỳ 1920 -1930
I- Chủ nghĩa thực dân là kẻ thù chung của các dân tộc thuộc địa.
Trong quá trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã đi nhiều nước thuộc địa cũng như
nhiều nước tư bản chủ nghĩa. Người đã đưa ra kết luận quan trọng: Ở đâu, dù ở các nước
thuộc địa, phụ thuộc hay chính quốc, những người lao động đều bị bóc lột, áp bức nặng nề, ở
đâu bọn đế quốc thực dân cũng tàn bạo độc ác. Từ kết luận trên, Người nêu lên: thực dân đế
quốc là kẻ thù chung của nhân dân thuộc địa và cũng là kẻ thù của nhân dân lao động chính
quốc. Bởi vậy, đòi hỏi sự đoàn kết liên minh nhân dân lao động ở thuộc địa và chính quốc để
chống lại kẻ thù chung.
II- Khẳng định mối quan hệ mật thiết giữa cách mạng thuộc địa và cách mạng vô sản ở chính quốc.
Theo Hồ Chí Minh, giữa cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa và CM vô sản ở chính
quốc có mối liên hệ mật thiết với nhau, có tác động qua lại lẫn nhau trong cuộc đấu tranh
chống kể thù chung là chủ nghĩa đế quốc. Đó là mối liên hệ bình đẳng chứ không phải là
mối liên hệ lệ thuộc. Người khẳng định: Cách mạng thuộc địa không những không phụ thuộc
vào cách mạng vô sản ở chính quốc mà có thể giành thắng lợi trước. NHÓM 9 12 lOMoARcPSD|40534848
Thực tiễn thắng lợi của cách mạng Việt Nam và sự sụp đổ của hệ thống thuộc địa của chủ
nghĩa đế quốc đã chứng minh quan điểm của Hồ Chí Minh là hoàn toàn đúng đắn.
III. Cách mạng muốn thành công trước hết cần phải có Đảng lãnh đạo.
1. Sự lãnh đạo của Đảng đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc
Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là nhân tố hàng đầu, quyết định mọi thắng lợi của cách
mạng xã hội chủ nghĩa. Nói cách khác, cuộc cách mạng của giai cấp vô sản thành công hay
thất bại, trước hết là phụ thuộc vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Với cương lĩnh, đường
lối và các nghị quyết của Đảng, mọi hoạt động của cách mạng diễn ra một cách thống nhất,
đồng bộ và có hiệu quả.
2. Sự lãnh đạo của Đảng đáp ứng yêu cầu bảo vệ độc lập dân tộc và phát triển đất nước.
Sau thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc, Đảng Cộng sản là lực lượng duy nhất có
thể tập hợp được đông đảo quần chúng nhân dân để bảo vệ thành quả cách mạng. Có được
khả năng đó là do Đảng gồm những người tiên tiến nhất của giai cấp và dân tộc trung thành,
kiên định với lợi ích của dân tộc, luôn đi đầu, sẵn sàng hy sinh vì nền độc lập dân tộc nên
được nhân dân tin và đi theo.
IV. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân chứ không phải việc của một vài người.
Kế thừa tư tưởng: “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân: quần chúng nhân
dân là chủ thể sáng tạo ra lịch sử” của chủ nghĩa Mác-Lênin. Hồ Chí Minh khẳng định:
“cách mệnh là việc chung của cả dân chúng chứ không phải việc một hai người”. Vậy nên
phải tập hợp đoàn kết thì cách mạng mới thành công.
Năm 1930, trong “ Sách lược vắn tắt của Đảng” Hồ Chí Minh xác định lực lượng cách
mạng bao gồm toàn dân. Cách mạng giải phóng dân tộc phải gắn liền với giải phóng nhân
dân lao động, giải phóng giai cấp công nhân, giải phóng con người. NHÓM 9 13 lOMoARcPSD|40534848 Đề tài 2:
Phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức. Liên hệ tới quá trình tu dưỡng đạo
đức của sinh viên trường Đại học Thương mại hiện nay. A. Lời mở đầu:
Lịch sử loài người đã khẳng định tầm quan trọng của đạo đức trong quá trình tổ chức thiết
lập, duy trì trật tự, ổn định và phát triển xã hội. Sự tác động của đạo đức đến cá nhân và xã
hội khác nhau tùy vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội. Vai trò của đạo đức là rất quan
trọng. Đạo đức là một trong những phương thức cơ bản để điều chỉnh hành vi con người,
một sự điều chỉnh hoàn toàn tự nguyện, tự giác, không vụ lợi trong một phạm vi rộng lớn.
Đạo đức góp phần nhân đạo hóa con người và xã hội loài người, giúp con người sống thiện,
sống có ích; đạo đức thể hiện bản sắc dân tộc, góp phần giữ vũng ổn định kinh tế - xã hội.
Nhận thấy tầm quan trọng của đạo đức đối với đời sống của nhân dân, Hồ Chí Minh - một vị
lãnh tụ tài ba, có cho mình những đức tính đẹp - đã đưa ra những tư tưởng về đạo đức dưới
cái nhìn đầy khách quan và tài tình của mình.
Với những lý lẽ trên, nhóm 9 thực hiện nghiên cứu đề tài: “Phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh
về đạo đức. Liên hệ với quá trình tu dưỡng đạo đức của sinh viên trường Đại học Thương Mại hiện nay”.
Trong quá trình nghiên cứu không tránh khỏi xảy ra thiếu sót, rất mong nhận được sự góp
ý từ cô và các bạn để nhóm có thể hoàn thiện hơn bài thảo luận của mình. NHÓM 9 14 lOMoARcPSD|40534848
B. Nội dung: I.
Phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức:
1. Đạo đức là gốc, là nền tảng tinh thần của xã hội, của người cách mạng
Hồ Chí Minh là người bàn nhiều về đạo đức, nhất là đạo đức cách mạng. "Đức là gốc"
là quan điểm cơ bản, xuyên suốt và nhất quán trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Theo
Hồ Chí Minh, đạo đức không chỉ là "gốc", là nền tảng, là nhân tố chủ chốt của người cách
mạng, mà còn là thước đo của lòng cao thượng của con người.
Vấn đề Đạo đức được Hồ Chí Minh đặt ra và xem xét một cách toàn diện trong tất cả
mọi lĩnh vực hoạt động của con người, từ việc tự đến việc công, từ lao động sản xuất ở hậu
phương đến chiến đấu ngoài mặt trận, từ học tập, công tác đến sinh hoạt hàng ngày. Hồ Chí
Minh cũng bàn đến đạo đức ở mọi phạm vi từ gia đình tới xã hội, từ giai cấp đến dân tộc, từ
quốc gia đến quốc tế. Việc Hồ Chí Minh xem xét vấn đề đạo đức một cách toàn diện là một
cách nhìn mang tính khách quan, phù hợp với hoạt động phong phú đa dạng của đời sống xã
hội và của mỗi con người. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh vừa là đạo đức Việt Nam vừa là
đạo đức cộng sản, vừa mang cốt cách của văn hóa đạo đức phương Đông vừa mang dáng
dấp của đạo đức phương Tây. Chính sự kết hợp độc đáo đó đã làm nên phong cách đạo đức
Hồ Chí Minh sáng ngời làm nền tảng tinh thần cho xây dựng nền đạo đức mới trong hiện tại
và tương lai ở Việt Nam.
Sinh gia trong gia đình có truyền thống Nho giáo Hồ Chí Minh đã sớm được tiếp thu tư
tưởng của Nho giáo thấu hiểu chữ đạo - đức, song Người cũng nhận biết được những điểm
tốt và hạn chế của Nho giáo để đưa ra những nhận định mới về đạo đức dựa trên quan điểm
của Nho giáo. Nếu như đạo đức trong Nho giáo bao gồm chữ Đạo trong đạo làm người đề
cập đến mối quan hệ: Vua-tôi, cha-con, chồng-vợ, anh - em, bè bạn dựa vào năm cái Đức
thông thường đó là: nhân, lễ, nghĩa, trí, tín. Quan niệm về đạo đức của Nho giáo phần nhiều
ảnh hưởng bởi tư tưởng trọng nam khinh nữ đa phần là nhắc về đạo làm người của bậc quân
tử và không đề cao đạo đức ứng xử với cá nhân. Tư tưởng Hồ Chí Minh lại mới ở chỗ người
kế thừa giá trị của chủ nghĩa yêu nước và hiểu nghĩa của Nho giáo và mở rộng ra thành tư
tưởng đạo đức mới đó là trung với Nước hiếu với dân. Hồ Chí Minh cũng tập trung bàn
nhiều về đạo đức theo nghĩa hẹn với 3 mối quan hệ cơ bản của con người: với mình, với
người và với việc. Như vậy, Hồ Chí Minh đã đề ra chuẩn mực đạo đức ứng xử với cá nhân NHÓM 9 15 lOMoARcPSD|40534848
mà mỗi người phải rèn luyện không phải là ngũ thường như Nho giáo xưa nữa mà là những
phẩm chất của người cách mạng nói riêng và nhân dân nói chung đó là cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.
Quan điểm “Đức là gốc” của con người đã xuất hiện từ xa xưa trong học thuyết “đức trị”
của Nho giáo. Rõ ràng, quan điểm “đức là gốc” của Nho giáo chứa đựng những yếu tố hợp
lý nhất định. “Đức là gốc” trong tư tưởng Hồ Chí Minh là đạo đức mới, đạo đức cách mạng
mang bản chất giai cấp công nhân, kết hợp truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc và
những tinh hoa của đạo đức nhân loại.
Quan điểm “Đức là gốc” của Hồ Chí Minh được xây dựng trên những nội dung cơ bản như sau:
Thứ nhất, Đạo đức là “gốc”, là nền tảng của người cách mạng, giống như cây phải có gốc,
sông, suối phải có nguồn, người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng thì mới
hoàn thành được sự nghiệp cách mạng cực kỳ gian khổ khó khăn. Không phải ngẫu nhiên
mà khi Lênin mất, Hồ Chí Minh đã viết những dòng đầy xúc động trước tấm gương đạo đức
trong sáng mẫu mực của người thầy vĩ đại :“...Không phải chỉ thiên tài của Người, mà chính
là tính coi khinh sự xa hoa, tinh thần yêu lao động, đời tư trong sáng, nếp sống giản dị, tóm
lại là đạo đức vĩ đại và cao đẹp của người thầy, đã ảnh hưởng lớn lao tới các dân tộc châu Á
và đã khiến cho trái tim của họ hướng về người, không gì ngăn cản nổi...”. Còn trong
“Đường Cách mệnh” tác phẩm “gối đầu giường” của những người cách mạng Việt Nam, Hồ
Chí Minh đã giành chương đầu tiên để bàn về tư cách người cách mạng, sau đó mới nói về
lý luận và đường lối cách mạng. Với Hồ Chí Minh, “Đức là gốc” cho nên, đạo đức cách
mạng không chỉ giúp cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới mà còn giúp người cách mạng
không ngừng cầu tiến bộ và hoàn thiện bản thân mình. Người có đạo đức cách mạng thì khi
gặp khó khăn gian khổ, thất bại tạm thời... cũng không rụt rè lùi bước, khi gặp thuận lợi và
thành công, vẫn giữ vững tinh thần gian khổ, khiêm tốn, chất phác, không công thần, địa vị,
kèn cựa hưởng thụ, thật sự trở thành người “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”. Vì “Đức là
gốc” cho nên đạo đức cách mạng là thước đo lòng cao thượng của con người. Theo quan
điểm của Hồ Chí Minh, trong đời sống xã hội cũng như trong hoạt động cách mạng, mỗi
người có công việc, tài năng, vị trí khác nhau, người làm việc to, người làm việc nhỏ, nhưng
bất cứ ai giữ được đạo đức cách mạng đều là người cao thượng. NHÓM 9 16 lOMoARcPSD|40534848
Thứ hai, Trong mối quan hệ giữa Đức và Tài thì “Đức là gốc” nhưng đức và tài phải đi đôi
với nhau, không thể có mặt này mà thiếu mặt kia được. Hồ Chí Minh yêu cầu: Tài lớn thì
Đức càng phải cao, vì khi đã có trí thì cái đức chính là cái đảm bảo cho người cách mạng giữ
vững được chủ nghĩa mà mình đã giác ngộ, đã chấp nhận và lựa chọn tin theo. Hồ Chí Minh
khẳng định: “Cũng như sống thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây
phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức
thì dù tài giỏi đến mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”. “Đức là gốc” vì trong đức đã
có tài, có cái đức sẽ đi đến cái trí. Bởi người thật sự có đức thì bao giờ cũng cố gắng học tập,
nâng cao trình độ, rèn luyện năng lực để hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao. Và khi đã thấy
sức không vươn lên được thì sẵn sàng nhường bước, học tập và ủng hộ người tài đức hơn
mình, để họ gánh vác việc nước việc dân. Như vậy, “Đức là gốc” ở đây phải là “Đức lớn” -
đức tận tâm, tận lực phấn đấu hy sinh vì cách mạng, vì nước vì dân, nó không đồng nhất với
những phẩm chất đạo đức thông thường cụ thể, như hiền lành, ngoan ngoãn, tốt bụng... trong đời sống hàng ngày.
Thứ ba: "Đức là gốc" trong xây dựng Đảng. Phát triển tư tưởng của Mác, Ăngghen, Lênin
về Đảng của giai cấp công nhân, trong bài phát biểu tại lễ kỷ niệm 30 năm ngày thành lập
Đảng, Hồ Chí Minh đã đưa ra một hình tượng về Đảng kiểu mới của giai cấp vô sản:
"...Đảng ta vĩ đại như biển rộng, như núi cao, Ba mươi năm phấn đấu và thắng lợi biết bao
nhiêu tình. Đảng ta là đạo đức, là văn minh. .. ". Như vậy, theo Hồ Chí Minh, Đảng phải "là
đạo đức, là văn minh" trong đó đạo đức là "gốc", vẫn là vấn đề được Hồ Chí Minh đặt lên
trên hết, trước hết. Bởi Đảng cộng sản muốn đóng được vai trò tiên phong thì trước hết phải
là một đảng tiêu biểu cho đạo đức cách mạng, tận tâm, tận lực phụng sự tổ quốc và nhân dân.
Đạo đức chính là nhân tố tạo nên sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội. Sức hấp dẫn đó nằm
ở những giá trị đạo đức cao đẹp, nhân văn, phẩm chất của những người cộng sản ưu tú, bằng
hành động của mình chiến đấu cho lý tưởng cộng sản. Hồ Chí Minh cho rằng, phong trào
cộng sản công nhân quốc tế trở thành lực lượng quyết định vận mệnh của loài người không
chỉ do chiến lược và sách lược thiên tài của cách mạng vô sản, mà còn do những phẩm chất
đạo đức cao quý làm chủ nghĩa cộng sản trở thành một sức mạnh vô địch.
2. Quan điểm về những chuẩn mực đạo đức cách mạng NHÓM 9 17 lOMoARcPSD|40534848
2.1. Trung với nước, hiếu với dân
Trung với nước, hiếu với dân trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh không phải là những
điều mới được đặt ra, mà đó là những phẩm chất đạo đức vốn có từ xa xưa trong tư tưởng
đạo đức truyền thống phương Ðông nói chung và đạo đức truyền thống Việt Nam nói riêng.
• Trung với nước:
Nghĩa là phải đặt lợi ích của Đảng, của tổ quốc của cách mạng lên trên hết.
Theo Người, trung là trung với nước, là trung thành với lợi ích của quốc gia, dân tộc, với
sự nghiệp đấu tranh cách mạng của Ðảng, với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa... Nước ở đây với ý nghĩa "Dân là con nước, nước là mẹ
chung", là nước của dân, của toàn dân tộc chứ không phải của riêng ai, và chính mỗi người
dân là những "chủ nhân ông" của đất nước. Mối quan hệ nước-dân, dân-nước mang ý nghĩa
nhân văn sâu sắc, hòa quyện với nhau trong một thể thống nhất về trách nhiệm, nghĩa vụ và
quyền lợi công dân với cộng đồng, quốc gia, dân tộc. • Hiếu với dân:
Hiếu với dân nghĩa là cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là “đày tớ trung thành của nhân dân”.
Về chữ hiếu, theo Hồ Chí Minh, là hiếu với dân. Hiếu với dân không phải chỉ là hiếu với
cha mẹ mình như người xưa vẫn nói, mà là hiếu với nhân dân, với toàn dân tộc, vì "nước lấy
dân làm gốc", dân là "gốc" của nước. Bác Hồ từng chỉ rõ: "Trong bầu trời không gì quý bằng
nhân dân... Trong xã hội không có gì tốt đẹp, vẻ vang bằng phục vụ cho lợi ích của nhân
dân"; "Nhân dân ta từ lâu đã sống với nhau có tình có nghĩa như thế. Từ khi có Ðảng ta lãnh
đạo và giáo dục, tình nghĩa ấy càng cao đẹp hơn, trở thành tình nghĩa đồng bào, đồng chí,
tình nghĩa năm châu bốn biển một nhà... đạo đức ngày nay cao rộng hơn: không phải chỉ có
hiếu với bố mẹ, mà trung với nước, hiếu với dân.
Trung với nước, hiếu với dân là phẩm chất hàng đầu của đạo đức cách mạng. Người dạy,
mỗi cán bộ, đảng viên phải “tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân”, phải “tận trung NHÓM 9 18 lOMoARcPSD|40534848
với nước, tận hiếu với dân”. Trung với nước, hiếu với dân là phải gắn bó với dân, gần dân,
dựa vào dân, lấy dân làm gốc. Phải nắm vững dân tình, hiểu rõ dân tâm, quan tâm cải thiện
dân sinh, nâng cao dân trí, làm cho dân hiểu rõ nghĩa vụ và quyền lợi của người làm chủ đất nước.
2.2. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư:
Hồ Chí Minh luôn nêu cao đạo đức cách mạng: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.
Trong việc giáo dục cán bộ, đảng viên, Hồ Chí Minh thường nhấn mạnh đến yếu tố năng
động chủ quan của con người, đến sức mạnh của lý tưởng, của ý chí, của tu dưỡng đạo đức cách mạng.
Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là nền tảng của đời sống mới, là phẩm chất trung
tâm của đạo đức cách mạng trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, là mối quan hệ “với tự
mình”. Hồ Chí Minh quan niệm cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là bốn đức tính của
con người, như trời có bốn mùa, đất có bốn phương, Bác viết:
“Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông
Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc
Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính
Thiếu một mùa thì không thành trời
Thiếu một phương thì không thành đất.
Thiếu một đức thì không thành người”
Và Người giải thích cặn kẽ, nội dung từng khái niệm:
- Cần là lao động cần cù, siêng năng; lao động có kế hoạch, sáng tạo, có năng suất cao;
lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biến, không ỷ lại, không dựa dẫm. Phải
thấy rõ “lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của mỗi chúng ta”. NHÓM 9 19 lOMoARcPSD|40534848
- Kiệm là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm của dân, của nước, của bản
thân mình, tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ; “không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi,
không phô trương, hình thức, …”. Cần, kiệm là phẩm chất của tất cả người lao động trong
đời sống, trong công tác.
- Liêm là trong sạch, là “luôn tôn trọng, giữ gìn của công và của dân”, “không xâm
phạm một đồng xu, hạt thóc của Nhà nước, của nhân dân; không tham địa vị, không tham
tiền tài, …”. Liêm là phẩm chất của người cán bộ trong thi hành công vụ.
- Chính là ngay thẳng, không tà, là đúng đắn, chính trực. Đối với mình không tự cao, tự
đại; đối với người không nịnh trên, khinh dưới, không dối trá, lừa lọc, luôn giữ thái độ chân
thành, khiêm tốn, đoàn kết. Đối với việc thì để việc công lên trên, lên trước việc tư, việc nhà.
Được giao nhiệm vụ gì quyết làm cho kỳ được, “việc thiện dù nhỏ mấy cũng làm; việc ác dù nhỏ mấy cũng tránh”.
- Chí công là rất mực công bằng, công tâm; vô tư là không được có lòng riêng, thiên tư,
thiên vị “tư ân, tư huệ, hoặc tư thù, tư oán”, đem lòng chí công, vô tư đối với người, với
việc. “Khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi
sau”, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”. Muốn “chí công vô tư” phải chiến thắng được chủ nghĩa cá nhân.
Đây là chuẩn mực của người lãnh đạo, người “giữ cán cân công lý”, không được vì lòng
riêng mà chà đạp lên pháp luật.
Cần, kiệm, liêm, chính có quan hệ chặt chẽ với nhau, với chí công vô tư. Cần, kiệm, liêm,
chính dẫn đến chí công vô tư. Ngược lại, đã chí công vô tư thì nhất định sẽ thực hiện được
cần, kiệm, liêm, chính. Tư tưởng và tấm gương đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm, chính,
chí công vô tư của Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn là những giá trị đạo đức cao đẹp của thời đại.
2.3. Thương yêu con người, sống có tình có nghĩa:
Kế thừa truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp với chủ nghĩa nhân đạo cộng sản,
tiếp thu tinh thần nhân văn của nhân loại qua nhiều thế kỷ, cùng với việc thể nghiệm của NHÓM 9 20 lOMoARcPSD|40534848
chính bản thân mình qua hoạt động cách mạng thực tiễn, Hồ Chí Minh đã xác định tình yêu
thương con người là một trong những phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất.
Tình yêu thương đó là tình cảm rộng lớn, trước hết dành cho những người cùng khổ,
những người lao động bị áp bức bóc lột. Tình yêu thương đó đã được thể hiện ở Hồ Chí
Minh bằng ham muốn tột bậc là làm cho nước được độc lập, dân được tự do, mọi người ai
cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Nếu không có tình yêu thương con người
như vậy thì không thể nói đến cách mạng, càng không thể nói đến chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa cộng sản. Tình yêu thương con người còn được thế hiện trong mối quan hệ bạn bè,
đồng chí, với mọi người bình thường trong quan hệ hàng ngày. Nó đòi hỏi mọi người phải
luôn luôn chặt chẽ nghiêm khắc với mình, rộng rãi, độ lượng với người khác. Nó đòi hỏi thái
độ tôn trọng con người, phải biết cách nâng con người lên, chứ không phải hạ thấp, càng
không phải vùi dập con người. Điều này đặc biệt quan trọng đối với những người ở cương vị
lãnh đạo, bất cứ ở cấp nào.
Tình yêu thương con người, theo Hồ Chí Minh, còn được thể hiện đối với những người có
sai lầm khuyết điểm, nhưng đã nhận rõ khuyết điểm sai lầm và cố gắng sửa chữa, kể cả đối
với những người lầm đường lạc loi đã hối cải kể cả đối với những kẻ thù đã bị thương, bị bắt
hoặc đã chịu quy hàng. Chính tình yêu thương đó đã đánh thức những gì tốt đẹp mà Hồ Chí
Minh tin rằng trong mỗi người đều có, tuy nhiều ít có khác nhau.
Trong Di chúc, Người căn dặn Đảng phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau. Đây chính
là điều nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải luôn luôn chú ý đến phẩm chất yêu thương con
người. Đây là tình thương yêu trên nguyên tắc tự phê bình và phê bình một cách chân thành,
nghiêm túc giữa những người cùng lý tưởng, cùng phấn đấu cho một sự nghiệp chung. Nó
hoàn toàn xa lạ với thái độ dĩ hòa vi quý bao che sai lầm khuyết điểm cho nhau, càng xa lạ
với thái độ yêu nên tốt, ghét nên xấu, bè cánh có thể đưa đến những tổn thất lớn cho Đảng, cho cách mạng.
2.4. Tinh thần quốc tế trong sáng:
Đó là tinh thần đoàn kết quốc tế vô sản, mà Hồ Chí Minh đã nêu lên bằng mệnh đề: "Bốn
phương vô sản đều là anh em". NHÓM 9 21 lOMoARcPSD|40534848
Đó là tinh thần đoàn kết với các dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao động các nước mà Hồ
Chí Minh đã dày công vun đắp bằng hoạt động cách mạng thực tiễn của bản thân mình và
bằng sự nghiệp cách mạng của cả dân tộc. Đó là tinh thần đoàn kết của nhân dân Việt Nam
với tất cả những người tiến bộ trên thế giới vì hòa bình, công lý và tiến bộ xã hội. Sự đoàn
kết ấy là nhằm những mục tiêu lớn của thời đại là hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến
bộ xã hội, là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, là hợp tác và hữu nghị với tất cả các nước,
các dân tộc. Tinh thần quốc tế ấy vẫn được gọi là chủ nghĩa quốc tế vô sản, hay chủ nghĩa
quốc tế của giai cấp công nhân.
Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa quốc tế vô sản gắn liền với chủ nghĩa yêu nước, hơn nữa
phải là chủ nghĩa yêu nước chân chính và chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng. Nếu tinh thần
yêu nước không chân chính và tinh thần quốc tế không trong sáng thì có thể dẫn đến chủ
nghĩa dân tộc hẹp hòi, sôvanh, biệt lập, kỳ thị chủng tộc, hoặc chủ nghĩa bành trướng bá
quyền, như thế giới thường nói hiện nay. Tất cả những khuynh hướng lệch lạc ấy có thể dẫn
đến chỗ phá vỡ cả một quốc gia dân tộc hay một liên bang đa quốc gia dân tộc, phá vỡ tình
đoàn kết quốc tế trong cuộc đấu tranh chung, thậm chí có thể đưa đến tình trạng đôi đầu, đối địch.
Tinh thần quốc tế trong sáng là phẩm đạo đức, là yêu cầu đạo đức nhằm vào mối quan hệ
rộng lớn, vượt qua khuôn khổ quốc gia dân tộc. Việc giáo dục của Đảng và việc rèn luyện
của cá nhân mỗi người về tinh thần quốc tế lại không thể coi nhẹ. Trong vấn đề này, đường
lối chính trị của Đảng lãnh đạo và những chủ trương, chính sách cụ thể của Nhà nước có ý
nghĩa định hướng đúng đắn cho việc bồi dưỡng tinh thần quốc tế ở mỗi người.
3. Quan điểm về những nguyên tắc xây dựng đạo đức cách mạng
3.1. Nói đi đôi với làm, nêu gương về đạo đức
Người coi đây là nguyên tắc quan trọng bậc nhất trong xây dựng nền đạo đức mới. Đây
không chỉ là nguyên tắc rèn luyện mà còn là sự phân biệt giữa đạo đức cách mạng và phi đạo
đức cách mạng. Là đặc trưng bản chất của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Chúng ta biết, nói
mà không làm là đặc tính của giai cấp bóc lột, cho nên, lời nói phải đi đôi với việc làm và
phải thực hiện việc làm gương - đó là đạo đức của người cách mạng. NHÓM 9 22 lOMoARcPSD|40534848
“Nói đi đôi với làm” là thể hiện sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, tư tưởng và hành
động, nhận thức và việc làm. Trong cả quãng đường hoạt động cách mạng của Người, “nói
đi đôi với làm” chính là nguyên tắc đạo đức, lẽ sống, phương châm hoạt động. Nguyên tắc
“Nói đi đôi với làm” được thể hiện qua:
Một là, nói phải đúng chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước, không được xuyên tạc, nói sai. Cán bộ, đảng viên phải nắm vững đường lối cách mạng
của Đảng trong toàn bộ tiến trình cách mạng và được cụ thể hóa trong từng giai đoạn. Phải
rèn luyện bản lĩnh vững vàng để có niềm tin vào mục tiêu lý tưởng cách mạng của Đảng, dù
trải qua những tình huống phức tạp, những bước ngoặt hiểm nghèo, trung thành với Đảng,
với sự nghiệp cách mạng, bảo vệ nền độc lập dân tộc và xây dựng xã hội tự do, ấm no, hạnh
phúc cho nhân dân. Để làm được điều đó, mỗi cán bộ, đảng viên phải nêu cao tinh thần tự
học, tự nghiên cứu, thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng. Đồng thời, khi đã nắm chắc chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước thì phải truyền đạt lại cho
nhân dân đúng nội dung, đúng tinh thần, không nói sai, không xuyên tạc.
Hai là, nói đi đôi với làm, không được “nói một đàng làm một nẻo”. Khi đề ra công việc,
phải tránh cách nói chung chung, đại khái và khó hiểu. Khi nói cần phải cụ thể, thiết thực, từ
nhỏ đến lớn, từ thấp đến cao, từ dễ đến khó. Cán bộ phải nói đi đôi với làm, nói trước làm
trước. Không được nói nhiều làm ít hoặc nói mà không làm. Nếu chính mình tham ô mà bảo
người khác liêm khiết, mình không làm việc nhưng hô hào người khác làm việc thì không
được. Để chống việc nói một đàng làm một nẻo, mỗi cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng cần
xác định rõ chức năng, nhiệm vụ và phải phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng tập thể và cá
nhân. Khi giao nhiệm vụ cần thật cụ thể, chi tiết, không chung chung, đại khái, ai hiểu thế
nào cũng được, như vậy rất khó thực hiện. Mỗi công việc đều phải xác định rõ mục đích, yêu
cầu, lộ trình, tiến độ, khối lượng và chất lượng.
Ba là, không được hứa mà không làm. Lời hứa chỉ có giá trị khi đi liền với việc làm cụ
thể. “Làm” ở đây chính là hành động, là hoạt động thực tiễn, là tổ chức thực hiện; đưa chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống, từ việc nhỏ
đến việc lớn mang ý nghĩa thiết thực. Cán bộ, đảng viên “cần phải óc nghĩ, mắt trông, tai NHÓM 9 23 lOMoARcPSD|40534848
nghe, chân đi, miệng nói, tay làm. Chứ không phải chỉ nói suông, chỉ ngồi viết mệnh lệnh...
phải thật thà nhúng tay vào việc”. Cán bộ lãnh đạo làm gương cho nhân viên; cấp trên làm
gương cho cấp dưới; cán bộ, đảng viên làm gương cho nhân dân. Nói đi đôi với làm còn là
biểu hiện của sự gương mẫu, trung thực, trong sáng của cán bộ, đảng viên, công chức, viên
chức nêu gương trước nhân dân.
Để đạo đức cách mạng thấm sâu, bám chắc vào đời sống xã hội và trở thành nền tảng tinh
thần của nhân dân, Hồ Chí Minh đòi hỏi cán bộ, đảng viên: “Trước hết, mình phải làm
gương, gắng làm gương trong anh em, và khi đi công tác, gắng làm gương cho dân. Bác từng
nói: "Một tấm gương sống còn có giá trị hơn 100 bài diễn văn tuyên truyền", "trước mắt
quần chúng, không phải cứ viết lên trán hai chữ cộng sản mà ta được họ yêu quý. Quần
chúng chỉ quý mến những người có tư cách đạo đức". Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải
làm mực thước cho người ta bắt chước. Hô hào dân tiết kiệm, mình phải tiết kiệm trước đã..”
Cho nên, đảng viên phải làm gương mọi mặt cho quần chúng noi theo. Thực hiện đúng lời
dạy của Bác “Đảng viên đi trước, làng nước theo sau”. Việc làm gương phải thực hiện ở mọi
nơi, mọi việc, phải quán triệt trong toàn Đảng và toàn hệ thống chính trị, từ cán bộ cấp
Trung ương đến tận cơ sở. Cán bộ, đảng viên, những người có chức có quyền, nhất là những
cán bộ chủ chốt, nếu nêu một tấm gương sáng thì sẽ tạo ra một đời sống văn hóa lành mạnh
cho xã hội, còn ngược lại thì hậu quả sẽ khôn lường.
3.2. Xây đi đôi với chống
Hồ Chí Minh cho rằng, nguyên tắc xây đi đôi với chống là đòi hỏi của nền đạo đức mới,
thể hiện tính nhân đạo chiến đấu vì mục tiêu của sự nghiệp cách mạng, xây tức là xây dựng
các giá trị, các chuẩn mực đạo đức mới, chống là chống các biểu hiện, các hành vi vô đạo
đức, suy thoái đạo đức. Hồ Chí Minh quan niệm, “Mỗi con người đều có thiện và ác ở trong
lòng. Ta phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa Xuân và
phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng”. Bản thân sự tự giác cũng là một
phẩm chất đạo đức cao quý đối với mỗi người và mỗi tổ chức, trước hết là đối với đảng viên, cán bộ. NHÓM 9 24 lOMoARcPSD|40534848
Việc xây dựng đạo đức mới trước hết phải được tiến hành bằng việc giáo dục những phẩm
chất, chuẩn mực đạo đức từ trong gia đình, nhà trường, xã hội nhất là trong những tập thể
gắn với hoạt động mỗi người. Vấn đề quan trọng trong việc giáo dục đạo đức là phải khơi
dậy ý thức đạo đức lành mạnh ở mọi người để mọi người tự giác nhận thức được trách
nhiệm đạo đức của mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói, cảm nhận thấy sâu sắc việc trau dồi
đạo đức cách mạng là việc làm “Sung sướng vẻ vang nhất trong đời này” tiếp nhận sự giáo
dục đạo đức là vấn đề nhất thiết không thể thiếu được, nhưng sự tự giáo dục, tự trau dồi đạo
đức ở mỗi người còn quan trọng hơn nhiều đó cũng chính là điều mà Hồ Chí Minh nói về
niềm vui của việc trau dồi đạo đức phải trở thành phổ biến trong xã hội.
Một vấn đề quan trọng thường được Hồ Chí Minh đề cập tới là chống chủ nghĩa cá nhân,
chống tham ô, lãng phí, quan liêu để xây dựng đạo đức mới. Trong bài Chống quan liêu,
tham ô, lãng phí (1952), Người viết: “Quan liêu, tham ô, lãng phí là tội ác. Phải tẩy sạch nó
để thực hiện cần kiệm liêm chính”. Người coi tham ô, lãng phí, quan liêu là kẻ thù khá nguy
hiểm của nhân dân, là “giặc nội xâm”, “giặc ở trong lòng”, phá từ trong phá ra. Đặc biệt là
chống chủ nghĩa cá nhân đang ẩn chứa trong mỗi con người, khi có điều kiện tác động nó sẽ
phát triển. Cho nên, Bác yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên "trước hết phải đánh thắng lòng tà là
kẻ thù trong mình". Và phải phê phán đấu tranh loại bỏ hàng trăm thứ bệnh do chủ nghĩa cá
nhân gây ra vì nó là vật cản nguy hiểm cho việc xây dựng đạo đức cách mạng. Cho nên,
chúng ta chống là nhằm để xây dựng, đi liền với xây và lấy xây làm chính, lấy gương tốt để
giáo dục và xây dựng đạo đức cách mạng cho mỗi người và đạo đức trong Đảng.
3.3. Tu dưỡng đạo đức suốt đời
Suốt đời tu dưỡng rèn luyện đạo đức để thấm nhuần và thực hành đạo đức cách mạng, đây
vừa là nguyên tắc, vừa là phương pháp quan trọng trong xây dựng đạo đức mới. Hồ Chí
Minh đã nói, tu dưỡng đạo đức như một cuộc cách mạng trường kỳ, gian khổ. Mỗi người cần
phải kiên trì rèn luyện, tu dưỡng suốt đời. Việc tu dưỡng đạo đức của mỗi người phải được
thể hiện qua hoạt động thực tiễn, thực hiện nhiệm vụ, công việc được giao.
Đạo đức tốt của một con người không phải cứ tự nhiên mà có, nói như Hồ Chí Minh là nó
không phải từ trên trời rơi xuống, mà do tu dưỡng bền bỉ hằng ngày để phát triển, củng cố, NHÓM 9 25 lOMoARcPSD|40534848
như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong. Người đã nhiều lần chỉ rõ: mỗi
người phải thường xuyên chăm lo tu dưỡng đạo đức như việc rửa mặt hàng ngày, đấy cũng
là công việc phải làm kiên trì bền bỉ suốt đời, không người nào có thể chủ quan tự mãn. Nếu
không thường xuyên rèn luyện thì lúc khó khăn có thể vượt qua, có công với cách mạng,
nhưng đến khi an nhàn lại xa vào chủ nghĩa cá nhân trở thành con người ngăn cản cách
mạng, cho dân, cho nước. Cũng chính vì lẽ đó mà tu dưỡng đạo đức phải gắn với thực tiễn
bền bỉ trong mọi lúc mọi nơi, mọi hoàn cảnh, có như vậy mới phân biệt được đạo đức mới
khác với đạo đức cũ.
Tự rèn luyện, tu dưỡng có vai trò rất quan trọng. Một nền đạo đức mới chỉ có thể xây dựng
trên cơ sở tự giác tu dưỡng đạo đức của mỗi người. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh thì
mỗi con người đều có cái tốt, cái xấu vấn đề là không tự lừa dối mình mà nhìn thẳng vào
mình thấy rõ cái tốt, cái thiện để phát huy, thấy cái xấu, cái ác để khắc phục. Vì vậy việc tu
dưỡng rèn luyện phải được thực hiện trong hoạt động thực tiễn. Hồ Chí Minh là một tấm
gương suốt đời tự rèn luyện và trở thành tấm gương tuyệt vời về con người mới. Những đức
tính quý báu của Người không phải là bẩm sinh có được mà do quá trình tu dưỡng rèn luyện
học tập, từng bước hấp thụ tinh hoa đạo đức dân tộc và nhân loại mà đã trở thành tư tưởng bất tử.
Hồ Chí Minh là một người trọn đời vì nước, vì dân, trọn đời có đạo đức trong sáng. Người
ta hay hư hỏng ở cái đoạn cuối đời. Còn đối với Hồ Chí Minh? Cuộc đời của Người là trọn
vẹn của cái chân, cái thiện, cái mỹ, không bị tha hoá, từ buổi thiếu niên cho đến phút cuối
cùng, từ lúc hàn vi với thân phận của một người dân nô lệ, luôn luôn bị mật thám đế quốc
theo dõi, bị tù, bị xử án tử hình vắng mặt đến lúc đứng ở đỉnh tháp của quyền lực mà không
bị quyền lực làm cho mờ mắt. Mọi sự cám dỗ thường thấy của một con người đều tác động
đến bản thân Hồ Chí Minh như quyền lực, của cải…nhưng Hồ Chí Minh không hề bị suy suyển. NHÓM 9 26 lOMoARcPSD|40534848
II. Liên hệ tới quá trình tu dưỡng đạo đức của sinh viên trường Đại học Thương mại hiện nay
1. Thực trạng quá trình tu dưỡng đạo đức của sinh viên trường Đại học Thương mại
1.1. Về mặt tích cực a.
Trong công tác, sinh hoạt, cuộc sống đời thường, hội viên, sinh viên.
● Dành thời gian tìm hiểu tư tưởng, đạo đức, phong cách và tấm gương Hồ Chí Minh
về tinh thần trách nhiệm, trung thực, nói đi đôi với làm. Tích cực tuyên truyền, làm cho
nhiều xung quanh mình có nhận thức đúng đắn, đầy đủ về vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng,
lợi ích to lớn của tinh thần trách nhiệm, trung thực, nói đi đôi với làm; chỉ rõ tác hại của
những hành vi vô trách nhiệm, sự giả dối, nói một đàng làm một nẻo, hoặc "nói thì hay mà
làm thì dở" đối với bản thân, gia đình và xã hội.
● Tự soi mình, sửa mình và rèn luyện, tạo được thói quen tốt cho bản thân làm theo
lời Bác dạy. Phấn đấu trở thành tấm gương sáng về nêu cao tinh thần trách nhiệm, tính trung
thực, luôn nói đi đôi với làm để cho người khác noi theo.
● Nỗ lực hết sức mình để hoàn thành nhiệm vụ, không tránh né, đùn đẩy nhiệm vụ
qua cho hoàn cảnh hay người khác. Sẵn sàng nhận lỗi và gánh chịu hậu quả xấu đến với
mình khi mình không hoàn thành nhiệm vụ, không đổ thừa cho hoàn cảnh hay người khác.
● Tham gia tích cực, hiệu quả các phong trào của Đoàn Thanh niên, Hội Sinh viên
của Đoàn trường, của thành phố, của TW. Phấn đấu tu dưỡng, rèn luyện đạt danh hiệu "Sinh
viên 5 tốt" với các tiêu chí: Đạo đức tốt, Học tập tốt, Thể lực tốt, Tình nguyện tốt, Hội nhập tốt.
● Chú ý phát hiện, tuyên dương, nhân rộng các gương điển hình thanh niên, sinh viên
hoặc các cơ sở Đoàn, Hội có những ý tưởng, sáng kiến, cách làm hiệu quả trong thực hành
theo tư tưởng, tấm gương của Bác về tinh thần trách nhiệm, trung thực nói đi đôi với làm.
● Chủ động học tập kiến thức, tích cực tu dưỡng đạo đức, rèn luyện sức khỏe, có lối
sống lành mạnh, không vướng vào tệ nạn xã hội, mê tín dị đoan không lành mạnh, không nói dối thầy cô, cha mẹ. NHÓM 9 27 lOMoARcPSD|40534848
● Chung tay bảo vệ, gìn giữ môi trường sống, cảnh quan trường lớp. Chấp hành tốt
nguyên tắc xếp hàng khi chờ thang máy.
● Nhặt được tài sản, của rơi trả lại người đánh mất thông qua đội truyền thông của
trường, thầy cô cán bộ quản lý. b.
Trong học tập, rèn luyện, thực hành, tu dưỡng đạo đức: nêu cao tinh thần trách
nhiệm, trung thực, nói đi đôi với làm.
● Nâng cao nhận thức về phẩm chất trung thực, trách nhiệm trong học tập, công việc
và trong cuộc sống, coi đó là đức tính cần thiết và quý báu, là phẩm giá của mỗi người.
● Sống ngay thẳng, thật thà, dũng cảm nhận lỗi khi mình mắc khuyết điểm. Trung
thực, trách nhiệm với chính mình, với gia đình, người thân, bạn bè, đồng chí, với Tổ quốc, nhân dân.
● Mỗi hội viên, sinh viên tự xây dựng lối sống trong sáng, giản dị, chân tình. Tự giác
phấn đấu, rèn luyện đạo đức, tự phê bình, cầu thị, sửa chữa khuyết điểm, khắc phục những
mặt hạn chế, tiêu cực, phát huy ưu điểm và mặt tích cực.
● Lên án, phê phán tình trạng thiếu trung thực, dối trá với mọi người. Chống lại thói
ích kỷ, tính tham lam; kiên quyết đấu tranh với thói vô cảm, "đục nước béo cò" khi người khác gặp hoạn nạn.
● Tích cực tham gia sáng tạo, thiết kế, nghiên cứu Khoa học của khoa, trường, thành phố, quốc gia.
● Vận dụng linh hoạt kiến thức học được từ nhà trường, lớp, bạn bè, thầy cô để áp
dụng vào cuộc sống hằng ngày, vào công việc.
● Châm chỉ tìm tòi, học hỏi những kiến thức mới lạ có chọn lọc từ sách báo, giáo
trình, tài liệu tham khảo trên thư viện hay các thư viện trường đại học đào tạo cùng khối ngành.
● Tích cực cải thiện những kỹ bản thân cảm thấy chưa tốt như kỹ năng mềm: Thuyết
trình trước đám đông, kỹ năng giao tiếp thông minh, kỹ năng tin học văn phòng,..có thể học từ bạn bè, thầy cô. NHÓM 9 28 lOMoARcPSD|40534848
● Đặt mục tiêu bản thân, xây dựng kế hoạch học tập phù hợp. Hăng hái, tích cực
tham gia các cuộc thi được tổ chức bởi khoa, nhà trường và doanh nghiệp đạt học bổng toàn
phần không chỉ ở quy mô nhà trường mà còn để giao lưu với các trường trong khối ngành.
1.2. Về mặt tiêu cực
a. Trong đời sống, sinh hoạt thường ngày.
● Vẫn còn tình trạng sinh viên đánh nhau, gây gổ. Bên cạnh đó, tình trạng sống thử
và quan hệ tình dục trước hôn nhân dễ dẫn đến tình trạng nạo phá thai vẫn diễn ra.
● Hình ảnh những bạn sinh viên tụ tập nhau đua xe, không tuân theo luật giao thông:
chở 3 người trở lên, không đội mũ bảo hiểm, đi ngược chiều, tổ chức đua xe trái phép…
● Tính ăn chơi trác tán, sa đà vào game, các trò cá độ hoặc lô đề để thua lỗ phải cầm
cố tài sản: điện thoại, xa máy, vật có giá trị,... Rồi sinh ra trộm cắp tiền, tài sản của người sơ hở để trả nợ.
● Bị ảnh hưởng quá nhiều từ phim ảnh, tranh ảnh sách báo không có chọn lọc, cách
sử dụng mạng xã hội không đúng cách nên cách ăn mặc, đầu tóc, cư xử, suy nghĩ đều thể
hiện một cách thái quá, lố lăng, không phù hợp với thuần phong mỹ tục, quy định của trường lớp.
● Tình trạng nói tục, chửi bậy vẫn diễn ra với tần suất khá nhiều. Nhiều lúc được
thầy cô nhắc nhở nhưng không biết rút kinh nghiệm.
● Tình trạng một số bạn sinh viên nữ bị tấn công mạng xã hội, bị đe dọa tinh thần do nhiều lý do khác nhau.
b. Trong học tập, rèn luyện, thực hành, tu dưỡng đạo đức.
● Vẫn còn xuất hiện đâu đây một số tình trạng quay cóp, học hộ, thi hộ, bằng giả,
mua bán tri thức, gian lận trong thi cử,…
● Học tập một cách chống chế, không nghiêm túc, mất tập trung khi dành quá nhiều
thời gian vào mạng xã hội một cách tiêu cực.
● Một số cá nhân có suy nghĩ sai lệch về việc học đại học, cho rằng cứ có bằng đại
học là hơn nhiều người không học, không cần học sau khi ra trường tự khác có việc.
● Nhút nhát, tự ti về bản thân, lười phát triển bản thân, ỷ lại, trông chờ người khác sẽ làm hộ mình. NHÓM 9 29 lOMoARcPSD|40534848
● Vẫn còn tình trạng mặc kệ trước công việc cho rằng sẽ không đem lại lợi ích gì cho
mình. Còn thờ ơ, không nhiệt tình đóng góp trước những nhiệm vụ nhóm.
2. Định hướng của của sinh viên trường Đại học Thương mại về việc nâng cao, tu
dưỡng đạo đức -
Đối với tầng lớp sinh viên, Hồ Chí Minh đã sớm xác định những phẩm chất đạo đức
cần thiết để họ có phương hướng phấn đấu, rèn luyện. Sinh viên Thương Mại cần kiên trì tu
dưỡng theo những phẩm chất được gói gọn trong 6 cái yêu dưới đây: -
Yêu Tổ quốc: Yêu là phải làm sao cho Tổ quốc ta giàu mạnh. Muốn cho Tổ quốc giàu
mạnh thì phải ra sức lao động, ra sức tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm. -
Yêu nhân dân: Phải hiểu rõ sinh hoạt của nhân dân biết nhân dân còn cực khổ như thế
nào, biết chia sẻ những lo lắng, những vui buồn, những công tác nặng nhọc với nhân dân. -
Yêu chủ nghĩa xã hội: Yêu Tổ quốc, yêu nhân dân phải gắn liền với yêu chủ nghĩa xã
hội, vì có tiến lên chủ nghĩa xã hội thì nhân dân mình mỗi ngày một no ấm thêm. Tổ quốc
mỗi ngày một giàu mạnh thêm. -
Yêu lao động: Muốn thật thà yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu chủ nghĩa xã hội thì
phải yêu lao động, vì không có lao động thì chỉ là nói suông. -
Yêu khoa học và kỷ luật: Bởi vì tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải có khoa học và kỷ luật. 3.
Đề xuất giải pháp về việc nâng cao, tu dưỡng đạo đức của sinh viên trường Đại
học Thương mại
Trong tình hình hiện nay, do tác động của toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và mặt trái của
kinh tế thị trường, còn một bộ phận thanh niên đang mải mê theo đuổi những giá trị vật chất
thấp kém, tầm thường mà quên đi trách nhiệm, nghĩa vụ lớn lao của mình đối với Tổ quốc,
với non sông đất nước. Thói quen đua đòi, hưởng thụ, chạy theo những thói hư tật xấu,
những tệ nạn xã hội và cả “những tấm gương xấu”; sa vào lối sống ảo, cuồng thần tượng;
sống thiếu lý tưởng, không có niềm tin, không có sự định hướng một cách đúng đắn. Vì vậy, NHÓM 9 30 lOMoARcPSD|40534848
việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức theo tư tưởng Hồ Chí Minh là hết sức cần thiết và quan trọng.
Dưới đây là một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức, lối sống cho
sinh viên đại học Thương mại:
- Một là, tạo môi trường giáo dục lành mạnh, thân thiện, nhân văn; mỗi thầy cô giáo là tấm
gương sáng về giáo dục đạo đức. Môi trường giáo dục là một trong những yếu tố ảnh hưởng
trực tiếp đến việc giáo dục hành vi đạo đức của học sinh. Môi trường giáo dục ở đây không
chỉ là môi trường vật chất, môi trường tự nhiên mà còn là môi trường tâm lý - xã hội. Nó
được thể hiện ở mối quan hệ thân thiện, tích cực giữa cán bộ với giáo viên, giữa cán bộ quản
lý với nhân viên, giữa giáo viên với giáo viên, giữa học sinh với học sinh. Trong môi trường
giáo dục như vậy, mỗi thầy cô giáo phải là tấm gương về lòng yêu nghề, trách nhiệm, nhiệt
huyết, say mê nghiên cứu và có thái độ quan tâm đến học sinh, đồng nghiệp và cộng đồng.
Những bài học về đạo đức chỉ thực sự có giá trị và sức thuyết phục khi người giảng là tấm
gương. Trong khi truyền thụ kiến thức, giáo viên phải khơi dậy, khơi dậy tinh thần, ý thức,
lòng hăng say học tập, nghiên cứu của học sinh; đồng thời định hướng, uốn nắn kịp thời
hành vi, thái độ của học sinh, tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh tự tu dưỡng, rèn luyện đạo
đức, duy trì và tiếp nối các truyền thống. Các giá trị văn hóa, tiếp thu liên tục và có chọn lọc
các giá trị văn hóa mới.
- Hai là, xây dựng, điều chỉnh chương trình đào tạo, giáo trình chi tiết, để một số môn học
có sự lồng ghép, tích hợp nội dung giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh. Để giáo dục
toàn diện cho học sinh, các nhà trường cần lồng ghép nội dung giáo dục đạo đức lối sống
vào một số môn học phù hợp. Mặt khác, cần đa dạng hóa các hình thức, phương pháp dạy
học, kích thích học sinh lĩnh hội kiến thức chuyên môn, cung cấp cho học sinh những nội
dung giáo dục đạo đức, lối sống.
- Ba là, đề cao việc học sinh tự giác tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống. Giáo dục nêu cao
vai trò tự học, tự tu dưỡng đạo đức, lối sống là biện pháp quan trọng giúp học sinh tiến bộ và
trưởng thành. Quá trình tự tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống sẽ hình thành ở học sinh
nhu cầu, động cơ, rèn luyện đúng đắn, năng lực làm chủ, ham học hỏi, tự khẳng định mình.
Các trường cao đẳng, đại học cần chú trọng tạo môi trường lành mạnh, thân thiện để học NHÓM 9 31 lOMoARcPSD|40534848
sinh nhận thức tự học, tự nghiên cứu, tự rèn luyện, hình thành và phát triển phẩm chất sống
theo hướng yêu thương, trách nhiệm, khát khao sáng tạo và cống hiến.
- Bốn là, phát huy hết vai trò của tổ chức Công đoàn do nhà trường tổ chức trong việc rèn
luyện giáo dục đạo đức, kỹ năng sống cho học sinh. Hội thanh niên, hội sinh viên, câu lạc bộ
và các tổ chức, đoàn thể khác… có vai trò quan trọng trong việc giáo dục đạo đức, rèn luyện
kỹ năng sống cho học sinh. Các tổ chức, công đoàn tổ chức văn nghệ, thể dục thể thao, hoạt
động tình nguyện và các cuộc thi khác dưới nhiều hình thức, thu hút sinh viên tham gia, giúp
sinh viên hiểu biết sâu sắc về đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; tiếp thu kiến
thức mới; trau dồi lý tưởng sống; hình thành và nâng cao trình độ cần thiết và cả kỹ năng sống.
- Năm là, giáo dục đạo đức cho sinh viên bằng cách nêu gương. Để học sinh không ngừng tu
dưỡng, rèn luyện, phát huy năng lực của bản thân, một mặt nhà trường cần coi trọng và tạo
môi trường học tập, rèn luyện tích cực, mặt khác thường xuyên biểu dương vai trò của sinh
viên. hình mẫu. Hội viên tiêu biểu có trách nhiệm với xã hội trong học tập, nghiên cứu và
thái độ. Bởi sự ảnh hưởng, lây lan từ những tấm gương người tốt, việc tốt đối với sinh viên
là rất quan trọng. Những thành tích học tập, rèn luyện tốt của sinh viên này sẽ là động lực để
sinh viên khác phấn đấu.
- Sáu là, tôn trọng và phát huy sự hợp tác chặt chẽ giữa nhà trường, gia đình và xã hội trong
việc hình thành và giáo dục nhân cách, lý tưởng sống của học sinh. Gia đình là cái nôi văn
hóa hình thành và nuôi dưỡng nhân cách của học sinh. Bởi gia đình là nơi truyền thụ những
giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc như lòng yêu nước, yêu đồng bào, tình cảm
gia đình. Những đạo đức tốt đẹp đó nuôi dưỡng và hun đúc những tình cảm cao quý cho các
thế hệ mai sau. Xã hội văn minh cũng là môi trường tốt để sinh viên phấn đấu, rèn luyện và
trưởng thành. Vì vậy, cần nhận thức rõ trách nhiệm của các cá nhân, cơ sở, tổ chức, đoàn thể
trong việc tạo môi trường thân thiện, nhân văn để học sinh rèn luyện, phát huy lý tưởng sống trong sáng, cao đẹp. NHÓM 9 32 lOMoARcPSD|40534848 C. Kết luận
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng là tấm gương soi sáng cho nhân dân Việt Nam
học tập và noi theo đặc biệt là trong xây dựng đất nước phát triển dân giàu nước mạnh. Đối
với sinh viên Đại học Thương mại chúng em, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh luôn được phát huy và gắn chặt với công cuộc xây dựng cuộc sống của chính bản
thân và xây dựng đất nước. Luôn trau dồi đạo đức kiến thức, khiêm tốn, biết giữ mình tránh
sa đọa vào các cám dỗ.
Trên đây là bài thảo luận của nhóm 9 chúng em. Trong quá trình làm bài còn nhiều thiếu sót
mong cô đọc, chỉnh sửa và góp ý để bài thảo luận được hoàn thiện hơn ạ. Chúng em cảm ơn cô! NHÓM 9 33 lOMoARcPSD|40534848
Tài liệu tham khảo
[1] Bộ Giáo dục và Đào tạo (2021): Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh – dành cho hệ không
chuyên lý luận chính trị, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội
[2] Hồ Chí Minh (2011): Toàn tập (15 tập), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[3] Võ Nguyên Giáp (2015): Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt nam, Nxb
Lý luận chính trị, Hà nội.
[4] Mạch Quang Thắng (2009): Hồ Chí Minh, nhà cách mạng sáng tạo, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[5] Song Thành (2005): Hồ Chí Minh, nhà tư tưởng lỗi lạc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội.
[6] Đặng Xuân Kỳ (2004): Phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
[7] Mạch Quang Thắng (Chủ Biên). (2019). Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh. NXB Bộ Giáo dục và Đào tạo.
[8] MẠCH QUANG THẮNG G. S. T. S. (n.d.). Chương 2: NHẬN THỨC LÀ MỘT QUÁ
TRÌNH/Sách “Hồ Chí Minh – con người của sự sống.”
[9] Sưu Tầm. (2021, June 7). Liên hệ bản thân về việc rèn luyện tu dưỡng đạo đức, lối sống
của Cán bộ, Đảng viên.
[10] Sưu Tầm. (2022, March 15). Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
2021, bài thu hoạch liên hệ bản thân học tập và làm theo tấm gương.
[11] Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân văn đạo đức – HoChiMinh’s Homepage – Cổng thông
tin tư liệu về Chủ tịch Hồ Chí Minh – Một góc nhìn để hiểu Việt Nam. (2021, January 21).
[12] Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức. (2021, August 12). VKSND tỉnh Quảng Nam.
[13] Nguyễn Bá Sơn. (n.d.). Tiểu luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh hình thành trong thời kỳ
1920 – 1930. HoChiMinh’s Homepage - Cổng thông tin tư liệu về Chủ tịch Hồ Chí Minh -
Một góc nhìn để hiểu Việt Nam. NHÓM 9 34