-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Phân tích và chứng minh sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam | Bài tập lớn môn Lịch sử đảng cộng sản Việt Nam
Phân tích và chứng minh sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam | Tiểu luận môn Lịch sử đảng cộng sản Việt Nam được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!
Môn: Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam(LLLSD1101)
Trường: Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoAR cPSD| 45474828 lOMoAR cPSD| 45474828
Hà Nội, 2022 Mục lục: 1 lOMoAR cPSD| 45474828 I. LỜI MỞ ĐẦU: II. NỘI DUNG:
1. Sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam là một tất yếu của lịch sử. 1.1.
Tình hình thế giới tác động đến sự ra đời của Đảng Cộng Sản VN.
Cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, các nước tư bản Âu – Mỹ có những chuyển biến
mạnh mẽ trong đời sống kinh tế - xã hội. Chủ nghĩa tư bản phương Tây chuyển nhanh
từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, tăng cường bóc lột
nhân dân lao động trong nước. Chính bước chuyển biến này đã làm mâu thuẫn trong
thế giới tư bản chủ nghĩa ngày càng trở nên gay gắt, tạo ra tính tất yếu của cách mạng
vô sản, phạm trù cách mạng thế giới chuyển sang phạm trù cách mạng vô sản, cách
mạng xã hội chủ nghĩa. Các nước tư bản cũng đẩy mạnh quá trình xâm chiếm và nô
dịch, thuộc địa hóa các nước nhỏ, yếu ở châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ - Latinh. Sự
thống trị tàn bạo của chủ nghĩa đế quốc làm đời sống nhân dân lao động ở các nước
này trở nên cùng cực, khiến cho mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa
đế quốc ngày càng gay gắt. Trước bối cảnh đó, nhân dân các dân tộc bị áp bức với tiêu
biểu là châu Á đã đứng lên đấu tranh tự giải phóng bản thân khỏi ách thực dân, đế
quốc, tạo thành phong trào giải phóng dân tộc mạnh mẽ, rộng khắp. Cùng với phong
trào đấu tranh của giai cấp vô sản trong nội tại các nước tư bản, phong trào dân tộc ở
các nước thuộc địa trở thành một bộ phận quan trọng trong cuộc đấu tranh chung
chống chủ nghĩa đế quốc, thực dân. Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các
nước châu Á đầu thế kỷ XX phát triển mạnh mẽ, rộng khắp đã có những tác động to
lớn đến phong trào yêu nước Việt Nam.
Trong bối cảnh đó, với thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, chủ
nghĩa Mác – Lênin từ lý luận trở thành hiện thực, làm biến đổi sâu sắc tình hình thế
giới, mở ra một thời đại mới của cách mạng giải phóng dân tộc. Cách mạng Tháng Mười
Nga thắng lợi đã nêu lên tấm gương sáng trong việc giải phóng dân tộc bị áp bức, cổ
vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản trên thế giới, đặc biệt là nhân
dân các nước thuộc địa, dẫn tới sự ra đời của hàng loạt các đảng cộng sản. Quốc thế
Cộng sản, do V.I.Lênin đứng đầu, được thành lập vào tháng 3 – 1919 với khẩu hiệu "Vô
sản thế giới và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại" đã trở thành bộ tham mưu chiến
đấu, tổ chức lãnh đạo phong trào cách mạng vô sản thế giới. Với việc nghiên cứu và
hoàn thiện chiến lược về giải phóng dân tộc và thuộc địa, Quốc tế Cộng sản đã vạch
đường chiến lược, truyền bá tư tưởng cách mạng vô sản, đồng thời chỉ đạo, thúc đẩy
các phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc theo khuynh hướng cách mạng vô sản.
Cách mạng Tháng Mười Nga và những hoạt động cách mạng của Quốc tế Cộng sản đã
có những ảnh hưởng mạnh mẽ, có vai trò quan trọng trong việc truyền bá chủ nghĩa
Mác – Lênin trong phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa, trong đó có
Đông Dương và Việt Nam, qua đó tạo động lực cho sự thành lập của Đảng Cộng sản Việt Nam. 1.2.
Bối cảnh lịch sử trong nước: 2 lOMoAR cPSD| 45474828
a.Thất bại của các phong trào yêu nước ở Việt Nam vào cuối thế kỉ XIX, đầu XX.
Vào ngày mùng 1 tháng 9 năm 1858, liên minh Pháp - Tây Ban Nha có khoảng
3000 binh lính cùng sĩ quan, 14 chiến thuyền tấn công vào cảng Đà Nẵng. Bước đầu,
thực dân Pháp chọn Đà Nẵng làm mục tiêu tấn công đầu tiên vì nơi đây có một vị trí
chiến lược đặc biệt quan trọng, địa thế thuận lợi và người dân ở đây theo đạo Thiên
Chúa giáo rất đông. Pháp muốn đánh chiếm một căn cứ quan trọng để làm bàn đạp
tấn công kinh thành Huế, buộc triều Nguyễn phải đầu hàng, kết thúc nhanh cuộc chiến
tranh xâm lược của chúng đối với nước ta. Tuy nhiên, sau 5 tháng Pháp buộc phải rút
vào Gia Định để chiếm đóng miền Nam. Đến tháng 6 năm 1862 vua Tự Đức ký hiệp ước
nhượng ba tỉnh miền Đông cho Pháp, sau đó Pháp chuyển sang thôn tính miền Tây.
Đến cuối những năm 60 của thế kỷ XIX thì Pháp thôn tính xong Nam Kì.
Sau khi Pháp củng cố vững chắc vị thế ở Nam Kì, Pháp bắt đầu tiến hành xâm
lược, đánh chiếm Bắc Kì lần thứ nhất vào năm 1873 và lần thứ 2 vào năm 1882. Cuối
cùng vào năm 1883, triều đình nhà Nguyễn kí hiệp ước Hác – măng và vào năm 1884
đã kí hiệp định Patơ-nốt chính thức chấp nhận sự đô hộ của thực dân Pháp trên toàn cõi Việt Nam.
Vào thời kì Pháp thuộc, mặc dù triều đình nhà Nguyễn đã ký Hiệp ước Hác – măng
và Hiệp ước Pa-tơ-nốt nhưng phong trào yêu nước, đấu tranh lật đổ chế độ thực dân
Pháp vẫn diễn ra; tiêu biểu một số phong trào như:
Phong trào Cần Vương (1885-1896) do vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết phát
động đã mở cuộc tiến công trại lính Pháp ở cạnh kinh thành Huế. Tuy không thành,
nhưng phong trào Cần Vương vẫn phát triển nhất là ở Bắc Kì và Bắc Trung Kì với nhiều
cuộc khởi nghĩa lớn như: Hương Khê, Ba Đình, Bãi Sậy,…. Mặc dù các cuộc khởi nghĩa
đều thất bại nhưng chúng đã tiếp nối truyền thống yêu nước của dân tộc, chứng tỏ sự
phá sản của con đường cứu nước theo ngọn cờ phong kiến và tạo tiền đề cho phong
trào kháng Pháp ở giai đoạn sau.
Phong trào Đông Du (1906-1908) do Phan Bội Châu để xướng và lãnh đạo với mục
đích chủ yếu là đưa thanh niên sang Nhật đào tạo để chuẩn bị lực lượng đánh Pháp.
Tuy nhiên do sự cấu kết giữa Pháp với Nhật nên chính phủ Nhật đã trục xuất các nhà
cách mạng Việt Nam về nước và dẫn đến phong trào thất bại. Mặc dù chỉ tồn tại trong
một khoảng thời gian ngắn, song được coi là một trong những phong trào yêu nước
mạnh mẽ nhất của nhân dân ta đầu thế kỷ 20. Nhiều thanh niên du học của phong trào
Đông Du sau này đã trở thành những hạt nhân của các phong trào cách mạng tiếp theo
trong công cuộc giải phóng dân tộc.
Phong trào Duy Tân do Phan Chu Trinh lãnh đạo với mục đích giành độc lập bằng
con đường cải cách văn hóa, mở mang dân trí, nâng cao dân khí, phát triển kinh tế theo
hướng tư bản chủ nghĩa trong khuôn khổ hợp pháp, làm cho dân giàu, nước mạnh,
buộc thực dân Pháp phải trao trả độc lập cho nước Việt Nam. Thế nhưng phong trào
bị thực dân Pháp đàn áp, giải tán dẫn đến thất bại. Phong trào Duy Tân có ý nghĩa giúp
khơi dậy lên tư tưởng tiến bộ, tấn công mạnh mẽ vào hệ tư tưởng phong kiến lạc hậu
và bảo thủ nhằm làm thay đổi chế độ tư tưởng phong kiến. 3 lOMoAR cPSD| 45474828
Như vậy phong trào đấu tranh theo ý thức hệ phong kiến và tư sản diễn ra dưới
nhiều hình thức đã thất bại. Thất bại của con đường cứu nước theo khuynh hướng
chính trị phong kiến và Tư sản đã dẫn đến sự khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu
nước ở Việt Nam. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến thất bại của các phong trào yêu
nước như tổ chức còn non kém, không đủ sức để chống đỡ trước mọi thủ đoạn khủng
bố của kẻ thù để tồn tại và phát triển hay Khuynh hướng chính chính trị theo con đường
dân chủ tư sản dân tộc Việt Nam không đáp ứng được yêu cầu khách quan của sự
nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân ta thế nhưng nguyên nhân chủ yếu và quan
trọng nhất là cách mạng Việt Nam thiếu đi một giai cấp và một tổ chức chính trị tiên
tiến lãnh đạo. Sự thất bại của phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản
trong giai đoạn trên nói lên: con đường giải phóng dân tộc theo khuynh hướng dân
chủ tư sản là không thành công: “ muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con
đường nào khác con đường cách mạng vô sản “. Vấn đề đặt ra cho cách mạng Việt Nam
lúc bấy giờ đó là phải tìm được con đường cứu nước đúng đắn, phải xây dựng được
một tổ chức chính trị tiên tiến đủ tầm để lãnh đạo cách mạng.
b. Phân tích quá trình chuẩn bị thành lập Đảng Cộng Sản của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc.
Nguyễn Ái Quốc sinh ngày 19/05/1890 (tên khai sinh là Nguyễn Sinh Cung, sau
đổi thành Nguyễn Tất Thành) ở làng Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Sinh ra
và lớn lên trong một gia đình nhà Nho có truyền thống yêu nước, từ nhỏ Nguyễn Ái
Quốc đã có truyền thống đấu tranh chống giặc Pháp, giải phóng đồng bào. Người rất
tán thành con đường yêu nước của các bậc tiền bối đi trước như của Phan Bội Châu,
Phan Châu Trinh,…; nhưng không tán thành con đường cứu nước của các cụ. Ngày
5/6/1911, Người rời quê hương, ra đi tìm đường cứu nước. Trải qua bao nhiêu chông
gai, vất vả, đặt chân tới nhiều nước trên thế giới, thậm chí là nước địch, Người đã rút
ra một kết luận quan trọng: “Ở đâu bọn đế quốc thực dân cũng tàn bạo, độc ác, ở đâu
người lao động cũng bị bóc lột dã man.”
Cuối năm 1917, Người từ nước Anh trở lại Pháp và tham gia các hoạt động xã hội.
Năm 1919, Người gia nhập Đảng xã hội của Pháp và cũng cùng năm đó, trong Hội nghị
Vecxay (Versailles), Nguyễn Ái Quốc đã thay mặt những người Việt Nam yêu nước ở
Pháp gửi tới Hội nghị Bản yêu sách của nhân dân Việt Nam, gồm 8 điểm đòi chính phủ
Pháp thực hiện quyền tự do, dân chủ, bình đẳng cho dân tộc Việt Nam.
Tháng 7/1920, Người đã đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề
dân tộc và thuộc địa (Lênin) đăng trên báo Nhân Đạo của Đảng Xã hội Pháp. Từ đó,
Người đã tìm thấy con đường giải phóng dân tộc và khẳng định: Muốn cứu nước và
giải phóng dân tộc không có con đường nào khác ngoài con đường cách mạng vô sản.
Cuối năm 1920, tại Đại hội lần thứ XVIII họp ở Tours, Người đã tán thành gia nhập Quốc
tế thứ ba và tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Sự kiện này đã đánh dấu bước
chuyển biến tư tưởng chính trị của Nguyễn Ái Quốc, từ lập trường yêu nước sang lập
trường cộng sản. Đồng thời cũng mở ra cho cách mạng Việt Nam một giai đoạn phát
triển mới “giai đoạn phong trào cách mạng Việt Nam gắn liền với phong trào công 4 lOMoAR cPSD| 45474828
nhân quốc tế, đưa nhân dân Việt Nam đi theo con đường mà chính Người đã trải qua,
từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác- Lênin.”
Sau khi đã tìm được con đường cứu nước đúng đắn, Người tiếp tục học tập để
bổ sung, hoàn thiện tư tưởng cứu nước, đồng thời tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác-
Lênin về Việt Nam nhằm tạo tiền đề về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho sự ra đời của
chính đảng tiên phong ở Việt Nam- Đảng Cộng sản Việt Nam.
Quá trình truyền bá tư tưởng chủ nghĩa Mác- Lênin vào Việt Nam của lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc có ba điểm đáng lưu ý:
Thứ nhất, Người không bê nguyên xi và biết vận dụng một cách có sáng tạo. Tức
là, chủ nghĩa Mác- Lênin vào Việt Nam đã được “nung nấu” bằng trí tuệ của Hồ Chí
Minh. Vì vậy, Người đã chọn những vấn đề căn cốt, diễn đạt ngắn gọn và dễ hiểu nhất
nhằm để cho dân tộc Việt Nam, trước hết là những nhà lãnh đạo cách mạng lĩnh hội và tiếp thu.
Thứ hai, Người không chỉ truyền bá chủ nghĩa Mác- Lênin vào phong trào công
nhân mà còn truyền bá vào phong trào yêu nước, tạo nền tảng để chủ nghĩa Mác-Lênin
đi sâu vào Việt Nam, tạo sự chuyển biến về chất của phong trào yêu nước Việt Nam.
Từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho sự ra đời của Đảng cộng sản ở Việt Nam.
Thứ ba, phương pháp truyền bá của Nguyễn Ái Quốc cũng rất đặc biệt. Người
tuyên truyền thông qua các bài viết, tác phẩm, bài báo (đặc biệt là báo Thanh niên);
thông qua tổ chức (Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên) và thông qua những con
người cụ thể (các lớp học tại Quảng Châu- Trung Quốc, phong trào “vô sản hóa” tại Việt
Nam). Bằng cách tuyên truyền đặc biệt này, việc truyền bá đã đi sâu, nhanh và rộng
hơn vào trong tư tưởng của nhân dân Việt Nam, mặt khác cũng tạo tiền đề cho quá
trình chuẩn bị về tổ chức cho sự ra đời của Đảng sau này.
Cuối năm 1929, đầu năm 1930, Người đã có một quyết định có tính bước ngoặt:
chuẩn bị và chủ trì Hội nghị thành lập Đảng. Việc chuẩn bị và chủ trì Hội nghị của Người
hoàn toàn chủ động, vì mãi đến tháng 2.1930 Chỉ thị của Quốc tế Cộng sản mới về đến
Sài Gòn. Và vì thế, nếu không có sự chủ động của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc thì Đảng
Cộng sản Việt Nam đã không ra đời khi những điều kiện đã chín mùi như lịch sử đã diễn ra.
Có thể thấy, trong hành trình ra đi tìm đường cứu nước (19111930), lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc đã có vai trò vô cùng quan trọng trong việc thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam. Vai trò đó thể hiện trong việc tìm và lựa chọn ra con đường cứu nước đúng
đẳn, chuẩn bị về tư tưởng, chính trị, tổ chức và chủ động triệu tập, chủ trì Hội nghị
thành lập Đảng, góp phần dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam vào mùa
xuân năm 1930. Do vậy, cũng có thể xác định quy luật ra đời của Đảng ta là Chủ nghĩa
Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam.
2.Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với cách mạng Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay. 5 lOMoAR cPSD| 45474828
2.1.Quan điểm của Chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của
Đảng trong cách mạng vô sản. Chủ nghĩa C.Mác:
C. Mác chỉ ra rằng: Giai cấp công nhân phải có chính đảng tiên phong được tổ
chức chặt chẽ. Bao gồm những người triệt để cách mạng nhất, giác ngộ nhất của giai
cấp công nhân, đại biểu cơ bản cho lợi ích của giai cấp công nhân. Đảng tiên phong
được trang bị lý luận khoa học đóng vai trò là người tổ chức, định hướng chính trị và
giáo dục, động viên tập hợp quần chúng hành động cách mạng một cách tự giác; phong
trào công nhân dưới sự lãnh đạo của chính đảng tiên phong phải vạch ra được cương
lĩnh chính trị đúng đắn phù hợp với hòan cảnh lịch sử cụ thể…
Với vị trí, vai trò quan trong của mình, do đó nhiệm vụ trước hết của chính Đảng
vô sản là: Tổ chức những người vô sản thành giai cấp, lật đổ sự thống trị của giai cấp
tư sản, giai cấp vô sản giành lấy chính quyền; dùng sự thống trị chính trị của mình để
từng bước đoạt lấy toàn bộ tư bản trong tay giai cấp tư sản, để tập trung tất cả những
công nhân sản xuất vào trong tay nhà nước. C. Mác định nghĩa: Nhà nước tức là giai
cấp vô sản được tổ chức thành giai cấp thống trị, nghĩa là “việc giành chính quyền trở
thành một nghĩa vụ vĩ đại của giai cấp công nhân” (Mác & Ăngghen, toàn tập, tập 16, Nxb, CTQG,ST,H. 1994, tr22.).
C. Mác đặc biệt nêu cao vai trò và sức mạnh của tổ chức, có tổ chức giai cấp thành
một khối vững chắc thì mới mong chiến thắng được giai cấp tư sản đã quá sành sỏi và
già nua trong quá trình chuyên đi bóc lột kẻ khác. Giai cấp vô sản sẽ dùng ưu thế chính
trị của mình để từng bước một đoạt lấy toàn bộ tư bản trong tay giai cấp tư sản, để
tập trung tất cả những công cụ sản xuất trong tay nhà nước. Tức là trong tay giai cấp
vô sản, đã được tổ chức thành giai cấp thống trị … “Vì sự thành công của phong trào
công nhân trong mỗi nước chỉ có thể được bảo đảm bằng sức mạnh của sự thống nhất
và sự tổ chức …” (Mác & Ăngghen, toàn tập, tập 16, Nxb ST. H.1994, tr27). Tư tưởng Hồ Chí Minh:
Có thể thấy, vấn đề xây dựng Đảng luôn được Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan
tâm và chú trọng. Trong tác phẩm Đường Cách mệnh, Bác chỉ rõ: “Đảng có vững, cách
mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững, thuyền mới chạy”. Khẳng định
Đảng Cộng sản “như người cầm lái” cho con thuyền là quan điểm nhất quán của Hồ
Chí Minh về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong suốt cả quá trình cách
mạng, cả trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cả trong cách mạng xã hội chủ
nghĩa: “phải có Đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài
thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh
mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy” ( Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.289).
Như vậy, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là một tất yếu, vai trò lãnh
đạo của Đảng cũng là một tất yếu – điều đó xuất phát từ yêu cầu phát triển của dân
tộc Việt Nam. Thực tế quá trình cách mạng Việt Nam vận dụng và phát triển tư tưởng
HCM đã nói lên rẳng, sự bảo đảm, phát huy vai trò lãnh đạo của ĐCS VN trong suốt tiến 6 lOMoAR cPSD| 45474828
trình phát triển của đất nước theo mục tiêu chủ nghĩa xã hội là một nguyên tắc vận
hành của xã hội VN từ khi có Đảng.
2.2.Những thành tựu Việt Nam đã đạt được sau 35 năm đổi mới:
Những năm vừa qua, nắm bắt thuận lợi thời cơ; vượt qua khó khăn thách thức,
nhất là tác động nặng nề của cuộc khủng hoảng, suy thoái kinh tế toàn cầu do đại dịch
Covid-19 đến thế giới và nước ta, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã đoàn kết, chung
sức, đồng lòng nỗ lực phấn đấu đạt được nhiều thành tựu nổi bật, quan trọng, toàn
diện, tạo nên nhiều dấu ấn nổi bật. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
của nước ta phát triển ổn định, kinh tế vĩ mô chuyển biến tích cực, lạm phát được ổn
định ở mức thấp, các cân đối lớn của nền kinh tế cơ bản được bảo đảm, tốc độ tăng
trưởng ở mức cao; quy mô và tiềm lực của nền kinh tế tăng lên, chất lượng được cải
thiện. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đầu người trong giai đoạn 2016-2020 vẫn đạt
khoảng 6%, riêng năm 2020 do tác động của đại dịch Covid-19 nên mức độ tăng trưởng
giảm xuống còn 2.91% nhưng vẫn nằm trong nhóm những nước tăng trưởng cao nhất
thế giới. Quy mô nền kinh tế và thu nhập bình quân đầu người tăng lên (năm 2020 GDP
đạt 271.2 tỷ USD và thu nhập bình quân đầu người đạt 2.779 USD). Chất lượng tăng
trưởng được cải thiện, năng suất lao động tăng từ 4.3%/năm giai đoạn 2011-2015 lên
6%/năm giai đoạn 2016-2020. Cơ cấu các ngành kinh tế chuyển dịch tích cực, tỷ trọng
khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm, tỷ trọng khu vực công nghiệp, xây dựng,
dịch vụ tăng lên. Công nghiệp chế biến chế tạo phát triển nhanh; công nghiệp hỗ trợ
có bước phát triển, góp phần nâng cao tỷ lệ nội địa hóa và giá trị gia tăng của sản phẩm.
Nông nghiệp có bước biến chuyển mạnh sang sản xuất hàng hóa, ứng dụng công nghệ
cao, nâng cao chất lượng và hiệu quả, tiếp tục là trụ đỡ của nền kinh tế; kinh tế; kinh
tế nông thôn tiếp tục phát triển; chương trình xây dựng nông thôn mới đạt nhiều kết
quả quan trọng, hoàn thành sớm gần 2 năm so với kế hoạch đề ra, góp phần làm thay
đổi bộ mặt nông thôn và đời sống nông dân. Phát triển kinh tế số bước đầu được chú trọng.
Ngoài kinh tế, giáo dục nước ta cũng được cải thiện rất nhiều trong những năm
vừa qua. Đảng và nhà nước ta đã bước đầu cho triển khai những chủ trương đổi mới
toàn diện ngành giáo dục, mở rộng quy mô mạng lưới cơ sở giáo dục và đào tạo. Những
vùng khó khăn và đồng bào dân tộc thiểu số được quan tâm hơn. Chương trình giảng
dạy và sách giáo khoa giáo dục được đổi mới, phương pháp dạy và học đa dạng hơn.
Giáo dục mầm non đạt chuẩn phổ cập cho trẻ em 5 tuổi và giáo dục phổ thông đạt
được sự công nhận rộng rãi của thế giới. Công tác tổ chức coi thi, kiểm tra, chấm điểm
được thực hiện chỉn chu hơn, đánh giá được kết quả thực chất và hiệu quả hơn. Giáo
dục đại học cũng được đổi mới, chất lượng đào tạo và cơ sở vật chất của các trường
đại học được cải thiện, chương trình học cũng được đổi mới, cấp tiến bắt kịp với thế
giới. Đào tạo việc làm cũng có nhiều chuyển biến. Công tác đào tạo giáo viên, giảng
viên và các cán bộ quản lý giáo dục được chú trọng cả về chất lượng lẫn số lượng. Cơ
chế tự chủ, cung cấp dịch vụ công trong giáo dục đạt được những thành tựu đầu tiên.
Phát triển văn hóa, xã hội con người đạt được nhiều kết quả quan trọng. Những
sản phẩm, lĩnh vực văn hóa phát triển ngày một đa dạng, đáp ứng nhu cầu của nhân 7 lOMoAR cPSD| 45474828
dân về nhiều mặt trong đời sống xã hội. Nhiều di sản văn hóa được kế thừa, bảo tồn
và phát huy. Những hoạt động giao lưu văn hóa quốc tế được khởi sắc. Đảng và nhà
nước ta đã thực hiện đồng bộ có hiệu quả các chính sách giúp phát triển xã hội, nhằm
hướng tới một xã hội văn minh, ổn định và tiến bộ. Đặc biệt, ngày càng có nhiều chính
sách nhằm đảm bảo an sinh xã hội, quan tâm phúc lợi xã hội cho người dân, những
chính sách dành cho người có công với Cách mạng cũng được cải thiện, tiếp tục cải
thiện những chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội (tỷ lệ bảo hiểm y tế đạt 90%), đảm
bảo quyền lợi cho người lao động. Quy mô về y tế, dịch vụ chăm sóc sức khỏe, khám
chữa bệnh, phòng, chống dịch có bước phát triển, tiếp cận được với nhiều kỹ thuật
tiên tiến, máy móc và trang thiết bị hiện đại trên thế giới, điều này thể hiện rất rõ trong
cuộc chiến phòng chống đại dịch Covid-19. Tỷ lệ hộ nghèo sụt giảm (tỷ lệ hộ nghèo
theo chuẩn đa chiều giảm còn 3%), phúc lợi xã hội được quan tâm, những mục tiêu
của Đảng và nhà nước về xóa đói giảm nghèo, cải thiện y tế giáo dục đã được hoàn
thành trước thời hạn và được đánh giá là điểm nổi bật, làm tiền đề cho sự phát triển đất nước sau này.
Qua 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đất nước ta đã đạt được những
thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn so với những
năm trước đổi mới. Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: “Đất nước
ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Những
thành tựu đó là kết tinh của sự sáng tạo, là kết quả của cả một quá trình nỗ lực phấn
đấu bền bỉ, liên tục qua nhiều nhiệm kỳ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; góp
phần khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam ta là hoàn toàn đúng
đắn, phù hợp với quy luật khách quan, thực tiễn của đất nước và xu hướng phát triển
của thời đại, sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của Cách mạng Việt Nam.
2.3.Những khó khăn, thách thức đặt ra của cách mạng Việt Nam hiện nay đòi hỏi
phải có sự lãnh đạo của Đảng.
Trong xu hướng toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, Đảng ta đã chỉ ra những thách
thức, những nguy cơ lớn đối với công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam. Những nguy cơ, thách thức đó là: tụt hậu xa hơn so về kinh tế so với nhiều nước
trong khu vực; nạn tham nhũng và tệ quan liêu; ….”. Những thách thức này có quan hệ
mật thiết, tác động qua lại lẫn nhau. Đảng ta đã chỉ ra được những nguy cơ chính mà
chúng ta cần ưu tiên giải quyết:
Thứ nhất, tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới
vẫn là nguy cơ thường trực và khó khắc phục.
Toàn cầu hóa tạo ra những thách thức không nhỏ đối với những nước đang xây dựng
chủ nghĩa xã hội, như Việt Nam, Trung Quốc, Cu-ba, Lào. Toàn cầu hóa hiện nay, về bản
chất, là toàn cầu hóa do chủ nghĩa tư bản độc quyền chi phối, hơn nữa lại diễn ra trong
bối cảnh chủ nghĩa xã hội hiện thực đang lâm vào thoái trào, nên tác động tiêu cực của
nó đến các nước phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa lại càng rõ rệt. Về phương
diện kinh tế, đây là cuộc cạnh tranh, đấu tranh hết sức cam go và phức tạp giữa các 8 lOMoAR cPSD| 45474828
nước trong bối cảnh các thế lực tư bản độc quyền gia tăng ảnh hưởng mạnh mẽ, chi phối toàn cầu hóa.
Thứ hai, nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa vẫn còn tiềm ẩn.
Trong cơ chế thị trường, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần hiện nay, ngoài phân
phối theo lao động còn phân phối theo vốn đóng góp, theo hiệu quả kinh tế… nên dẫn
tới thực tế là phân hóa xã hội ngày càng gia tăng, bất công xã hội vẫn đang diễn ra dưới
nhiều hình thức khác nhau, gây căng thẳng, xung đột xã hội và nhất là xuất hiện nguy
cơ đẩy các quan hệ xã hội tới chỗ xa rời bản chất công bằng, dân chủ, nhân đạo, nhân
văn tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội.
Thứ ba, âm mưu thực hiện “diễn biến hòa bình” của thế lực thù địch nhằm chống
phá nước ta với những biểu hiện mới, quyết liệt và tinh vi hơn trước.
Thông thường, “diễn biến hòa bình” được coi là chiến lược của chủ nghĩa đế quốc và
các thế lực thù địch, phản động quốc tế thực hiện phương thức, thủ đoạn mới, phi
quân sự để chống phá, đẩy lùi và đi đến xóa bỏ chủ nghĩa xã hội trên thế giới. Đặc biệt
là sự phát triển của công nghệ số, các trang mạng, ứng dụng xã hội đã được các thế lực
thù địch ráo riết tận dụng triệt để trong thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”
nhằm xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Đây là nguy cơ không thể xem
thường, thực tế đó đòi hỏi chúng ta cần phải có những biện pháp, cách thức, đối phó
và khắc chế cho phù hợp, không để rơi vào tình trạng bị động, bất ngờ.
Thứ tư, tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu
hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, trong đó có tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí ở
bộ phận cán bộ, đảng viên vẫn chưa được ngăn chặn triệt để
Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa XII “Tập trung xây
dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín,
ngang tầm nhiệm vụ” đã nêu những kết quả đạt được và ưu điểm trong xây dựng đội
ngũ cán bộ như sau: Đa số cán bộ có lập trường tư tưởng, bản lĩnh chính trị vững vàng,
có đạo đức, lối sống giản dị, gương mẫu, có ý thức tổ chức kỷ luật, luôn tu dưỡng, rèn
luyện, trình độ, năng lực được nâng lên, phấn đấu, hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Đa số cán bộ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã
hội ở các cấp có năng lực, phẩm chất, uy tín. Tuy nhiên, thực tế cho thấy còn một số
cán bộ có bản lĩnh chính trị chưa thật sự vững vàng, có biểu hiện dao động về lập
trường, quan điểm; lười học tập, nâng cao nhận thức về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh. Đáng chú ý là gần đây có một số cán bộ, đảng viên đã thực sự “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa”, đòi “đa nguyên”, “đa đảng”, sám hối, “chia tay ý thức hệ”,
từ bỏ chủ nghĩa xã hội… Một số cán bộ uy tín thấp, có biểu hiện sa sút về đạo đức, lối
sống, thiếu gương mẫu, thiếu tinh thần trách nhiệm, nói không đi đôi với làm, xa rời
nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình; thậm chí chưa vì lợi ích quốc
gia dân tộc và nhân dân trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ, đặt lợi ích cá nhân lên
trên lợi ích tập thể; đặc quyền, đặc lợi, quan liêu, xa dân; có quan hệ kinh tế với các
doanh “sân sau”, sa vào “lợi ích”. Do vậy, đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng tham
nhũng đang là một nhiệm vụ quan trọng và cấp bách hiện nay, nhưng cũng là một
nhiệm vụ rất khó khăn, gay go, đầy phức tạp. 9 lOMoAR cPSD| 45474828
Thứ năm, phai nhạt, đánh mất bản sắc văn hóa, xói mòn những giá trị truyền
thống của dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế
Toàn cầu hóa hiện nay có những bước phát triển mới, cùng với cuộc Cách mạng
công nghiệp lần thứ tư đã thúc đẩy quá trình hình thành xã hội thông tin, nền kinh tế
số; đồng thời cũng đe dọa đến bản sắc văn hóa của các dân tộc trên thế giới, trong đó
có Việt Nam. Nhiều phản giá trị, phản văn hóa, tư tưởng độc hại dễ dàng xâm nhập,
làm biến dạng các giá trị văn hóa, đạo đức truyền thống. Đây là một nguy cơ đang hiển
hiện và ngày một gia tăng đối với Việt Nam, nhất là những tác động tiêu cực của nó tới
tầng lớp thanh niên và sẽ gây ra hệ hụy hết sức nguy hiểm, khó lường.
Thứ sáu, phân liệt, xuyên tạc, hạ thấp ý nghĩa chủ nghĩa quốc tế trong sáng của
giai cấp công nhân, cùng với những biểu hiện dân tộc cực đoan gia tăng.
Có thể thấy, những bước phát triển và thành quả của cách mạng thế giới từ trước
đến nay đều không tách rời sự thống nhất giữa chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ
nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, thống nhất với việc giải quyết đúng đắn mối quan
hệ giữa dân tộc và quốc tế. Trong bối cảnh toàn cầu hoá ngày nay, hầu hết các chính
phủ trên thế giới đều công khai tuyên bố đặt lợi ích dân tộc lên trên hết. Cùng với đó,
chủ nghĩa dân tộc cực đoan và chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, biệt phái cũng đang có xu
hướng ngày càng gia tăng, tác động phức tạp đến đường lối, chính sách đối nội và đối
ngoại của nhiều nước, ảnh hưởng xấu, làm tê liệt truyền thống, chủ nghĩa quốc tế trong
sáng của giai cấp công nhân trên phạm vi thế giới.
Thứ bảy, bối cảnh hiện nay đang đặt ra thách thức rất lớn đối với sự bảo đảm
vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, giữ vững
hòa bình, ổn định để phát triển.
Nguyên tắc “bất biến” là độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của
đất nước, là mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh”, còn cách thức bảo đảm những nguyên tắc bất di, bất dịch ấy thì
có thể ứng biến tùy thuộc từng giai đoạn phát triển. Những thời cơ và thách thức, cơ
hội và nguy cơ này luôn xuất hiện đan xen nhau và việc nhận diện chúng đóng vai trò
hết sức quan trọng trong việc xây dựng những quyết sách, chính sách, chiến lược phù
hợp với điều kiện lịch sử - cụ thể của Việt Nam hiện nay, do đó, cần tận dụng được
những thời cơ, khắc chế nguy cơ nhằm phát triển đất nước nhanh, bền vững, giữ vững
định hướng xã hội chủ nghĩa trong hội nhập và phát triển, hướng tới mục tiêu cao cả
là xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh
2.4.Nhận thức của bản thân về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay.
Trước, trong và sau Đại hội lần thứ XIII của Đảng, các thế lực thù địch ráo riết đẩy
mạnh các hoạt động chống phá Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức bằng
những thủ đoạn rất tinh vi, thâm độc. Mục đích chống phá của chúng nhằm gây chia
rẽ nội bộ Đảng, vào đường lối, chủ trương phát triển đất nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Một trong những thủ đoạn chống phá rất tàn độc của các thế lực thù địch 10 lOMoAR cPSD| 45474828
là chúng chống phá trực diện vào nền tảng tư tưởng của Đảng, đó là chủ nghĩa Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đảng ta ra đời là sự hết hợp của chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân
và phong trào yêu nước Việt Nam. Từ khi xuất hiện trên vũ đài chính trị, Đảng Cộng sản
Việt Nam đã tỏ rõ là một đảng cách mạng chân chính nhất, có sức hội tụ lớn nhất mọi
sức mạnh của dân tộc, của giai cấp, sớm trở thành đội tiên phong của giai cấp và của
dân tộc trong cuộc đấu tranh chống đế quốc, phong kiến. Có thể nói, sứ mệnh lịch sử
của Đảng Cộng sản Việt Nam là do thời đại, do giai cấp và dân tộc quy định.
Đảng luôn nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và trải nghiệm thực tiễn để có đường lối đổi mới đúng đắn, sáng
tạo làm nên những bước ngoặt lớn của cách mạng Việt Nam. Sự nghiệp đổi mới toàn
diện đất nước do Đảng ta khởi xướng trong bối cảnh quốc tế có nhiều phức tạp, đất
nước chồng chất khó khăn càng làm nổi bật những thành tựu đạt được sau 25 năm đổi
mới là rất to lớn và có ý nghĩa lịch sử, khẳng định lý tưởng cộng sản cao đẹp, sức sống
bền vững của chủ nghĩa xã hội hiện thực và tầm nhìn chiến lược của Đảng Cộng sản
Việt Nam. Đất nước có hoà bình, thống nhất, cả nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa áp dụng vào Việt Nam đã nhanh chóng bộc lộ khuyết tật, sai lầm của nó. Nhưng
sau mỗi sai lầm, vấp ngã, Đảng đã dũng cảm “nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật”,
kiên quyết sửa chữa, kịp thời tổng kết rút ra những bài học từ những thành công và cả
những sai lầm, thất bại, kiên trì sự nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Hai mươi năm năm qua với bản lĩnh, trí tuệ và đạo đức cao đẹp của một Đảng
cách mạng cầm quyền dày dặn kinh nghiệm, luôn biết tự đổi mới, tự chỉnh đốn tạo
động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước vươn lên giành
nhiều thắng lợi mới. Mô hình, mục tiêu và con đường, biện pháp xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam ngày càng sâu sắc, đầy đủ hơn. Mặc dù cách mạng còn nhiều khó
khăn, lâu dài nhưng nhất định thắng lợi. Bởi đó là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn của
cách mạng Việt Nam phù hợp với quy luật tiến hoá của lịch sử nhân loại. Đường lối đổi
mới của Đảng xa lạ với những gì mà kẻ thù lâu nay vẫn ra sức tuyên truyền xuyên tạc
rằng còn đường phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa của chúng ta là
“sản phẩm ngoại nhập, không có tương lai”. Nhất là từ sau những sai lầm về đường lối
cải tổ dẫn tới sự sụp đổ của chế độ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông u và Liên Xô
những năm cuối thế kỷ XX. Kẻ thù đã lớn tiếng tuyên bố rằng chủ nghĩa Mác – Lênin đã
bị phủ định ngay tại quê hương của nó bởi sự lỗi thời; hơn nữa , khi du nhập vào Việt
Nam đã bị cắt xén, biến dạng thành bạo lực đấu tranh; kinh tế trì trệ , suy thoái, khủng
hoảng…; là những biểu hiện của “hồi kết”,”Chương thử nghiệm cuối cùng của chủ nghĩa
tư bản”… Nhưng thắng lợi của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước 25 năm qua của
dân tộc ta đã bác bỏ những luận điệu xuyên tạc xằng bậy đó của kẻ thù.
Giữ vững nguyên tắc độc lập, sáng tạo, trung thành với lợi ích của nhân dân là bí
quyết thành công của Đảng ta. Ngay từ đầu, Đảng đã xác định rõ khâu đột phá của sự
nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, quyết tâm xây dựng một xã hội “Dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa 11 lOMoAR cPSD| 45474828
thực sự của dân, do dân và vì dân, phát huy được sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc
thực hiện lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Để tiếp tục tạo cơ sở vững chắc trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước trong
những năm tới, Đại hội đại diện đất nước trong những năm tới, Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XI của Đảng đã xác định rõ 8 phương hướng cơ bản để toàn Đảng, toàn
dân ta quán triệt và thực hiện:
Một là, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh
tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.
Hai là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ba là, xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con
người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội.
Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp
tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa , thực hiện đại đoàn kết toàn dân
tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất.
Bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Với những phương hướng cơ bản trên, chắc chắn trong thời gian tới, Đảng ta
sẽ tiếp tục lãnh đạo đất nước tiến lên không ngừng, đạt được nhiều thắng lợi to lớn
hơn trong sự nghiệp xây dựng và đổi mới đất nước. Hiện nay, nước ta đang trong thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế và sự phát triển mạnh
mẽ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nền kinh tế trí thức, đòi hỏi mỗi cán
bộ, ĐVTN, ĐV trẻ phải nỗ lực, phấn đấu học tập nâng cao trình độ về mọi mặt, tiếp cận
những thành tựu mới về khoa học công nghệ của thế giới, trau dồi hơn nữa về chuyên
môn, nghiệp vụ, kỹ năng làm việc, chú trọng nghiên cứu, nâng cao khả năng trình độ
ứng dụng khoa học - công nghệ, công nghệ thông tin, kiến thức về nền kinh tế số, chính
phủ điện tử để đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới.
Thời gian tới, mỗi CBĐV trẻ cần tích cực hưởng ứng và chủ động xây dựng kế
hoạch học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, trong đó đặc
biệt quan tâm học tập Bác về phương pháp, tác phong công tác của CBĐV. Bên cạnh
đó, cần xây dựng kế hoạch tự học tập, rèn luyện phải bảo đảm toàn diện các nội dung
nâng cao trình độ, nhận thức về mọi mặt: Lý luận chính trị; rèn luyện đạo đức, lối sống;
chuyên môn, nghiệp vụ; cập nhật kiến thức mới. Từ đó, đảng viên trẻ cần nhận thức
đúng và đủ về lý tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam, phải là nhân tố nòng cốt, đi đầu
trong đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. 12 lOMoAR cPSD| 45474828
Quá trình vận động thành lập Đảng đã khẳng định tính tất yếu và duy nhất về
vai trò lãnh đạo của Đảng. Thực tiễn cho thấy khi Tổ quốc bị xâm lăng và dưới ách áp
bức bóc lột của thực dân Pháp, nhân dân Việt Nam đều có một lòng nồng nàn yêu
nước, đứng lên chống ngoại xâm, cởi ách nô lệ, giành độc lập cho dân tộc. Hàng loạt
các phong trào đấu tranh mạnh mẽ đã nổ ra. Các giai cấp, tầng lớp trong xã hội đều
bước lên vũ đài chính trị nhằm khẳng định vai trò lãnh đạo cách mạng như: Phong trào
Cần Vương, phong trào nông dân Yên Thế; phong trào dân chủ tư sản, tiêu biểu là cụ
Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh; phong trào đấu tranh của giai cấp tư sản, tiêu biểu
là Việt Nam Quốc dân Đảng... Tuy nhiên tất cả các phong trào đấu tranh đều lần lượt
thất bại. Qua quá trình sàng lọc, lựa chọn của lịch sử đã khẳng định chỉ có giai cấp công
nhân mà đội tiên phong là Đảng cộng sản là lực lượng duy nhất đủ sức nắm quyền lãnh
đạo phong trào cách mạng tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn. Thực tiễn cách mạng
giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế đảm
bảo sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi. Đến nay Đảng Cộng sản
Việt Nam duy nhất nắm quyền lãnh đạo vẫn là sự kế thừa tính tất yếu lựa chọn của lịch
sử và phù hợp với nguyện vọng của nhân dân nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. 13