Phân tích vai trò của thực tiễn đối với nhận thức - Triết học Mác - Lênin | Đại học Tôn Đức Thắng

Phân tích vai trò của thực tiễn đối với nhận thức - Triết học Mác - Lênin | Đại học Tôn Đức Thắng được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

Phân tích vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
Đối với , đóng sở, động lực, mục đích của nhận thức thực tiễn vai trò nhận
thức nhận tiêu chuẩn của chân lý, kiểm tra tính đúng đắn của quá trình
thức chân lý:
– Thực tiễn là nguồn gốc, cơ sở của nhận thức:
Thông qua hoạt động thực tiễn, con người nhận biết được cấu trúc; tính chất và các
mối quan hệ giữa các đối tượng để hình thành tri thức. Hoạt động thực tiễn bổ sung
và điều chỉnh những tri thức đã được khái quát. Thực tiễn đề ra nhu cầu, nhiệm vụ,
cách thức và khuynh hướng vận động và phát triển của nhận thức. Chính sự tác
động đó đã làm cho các đối tượng bộc lộ những thuộc tính, những mối liên hệ và
các quan hệ khác nhau giúp cho con người nhận thức được các quy luật vận động
và phát triển của thế giới. Trên cơ sở đó hình thành các lý thuyết khoa học.
Ví dụ: Sự xuất hiện học thuyết Macxit vào những năm 40 của thế kỷ XIX cũng BẮT
NGUỒN từ hoạt động thực tiễn của các phong trào đấu tranh của giai cấp công
nhân chống lại giai cấp tư sản lúc bấy giờ.
- Thực tiễn là động lực của nhận thức:
Hoạt động thực tiễn góp phần hoàn thiện các giác quan, tạo ra khả năng phản ánh
nhạy bén, chính xác, nhanh hơn; tạo ra các công cụ, phương tiện để tăng năng lực
phản ánh của con người đối với tự nhiên. Những tri thức được áp dụng vào thực
tiễn đem lại động lực kích thích quá trình nhận thức tiếp theo.
+ Thực tiễn sản xuất vật chất cải biến thế giới đặt ra yêu cầu buộc con người
phải nhận thức về thế giới.
+ Thực tiễn làm cho các giác quan, duy của con người phát triển hoàn thiện,
từ đó giúp con người nhận thức ngày càng sâu sắc hơn về thế giới.
dụ: Chẳng hạn, xuất phát từ NHU CẦU thực tiễn con người CẦN phải “đo đạc
diện tích đo lường sức chứa của những cái bình, từ sự tính toán thời gian sự
chế tạo khí” toán học đã ra đời phát triển. (Hãy cố gắng lấy Ví dụ khác
nhau).
- Thực tiễn là mục đích của nhận thức:
+ Mục đích cuối cùng của nhận thức giúp con người hoạt động thực tiễn nhằm
cải biến thế giới. Nhận thức không chỉ thoả mãn nhu cầu hiểu biết mà còn đáp ứng
nhu cầu nâng cao năng lực hoạt động để đưa lại hiệu quả cao hơn, đáp ứng nhu cầu
ngày càng tăng của con người. Thực tiễn luôn vận động, phát triển nhờ đó, thực
tiễn thúc đẩy nhận thức vận động, phát triển theo.
+ Chỉ thông qua hoạt động thực tiễn, thì tri thức con người mới thể hiện được
sức mạnh của mình, sự hiểu biết của con người mới ý nghĩa. Bằng thực tiễn
kiểm chứng nhận thức đúng hay sai, khi nhận thức đúng thì phục vụ thực tiễn
phát triển và ngược lại.
dụ: Ngay cả những thành tựu mới đây nhất khám phá và giải bản đồ gien
người cũng ra đời từ chính thực tiễn, từ MỤC ĐÍCH chữa trị những căn bệnh nan y
và từ MỤC ĐÍCH tìm hiểu, khai thác những tiềm năng bí ẩn của con người
- Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý:
+ Bằng thực tiễn kiểm chứng nhận thức đúng hay sai. Khi nhận thức đúng thì
phục vụ thực tiễn phát triển ngược lại. Như vậy, thực tiễn thước đo chính
xác nhất để kiểm tra tính đúng đắn của tri thức, xác nhận tri thức đó có phải là chân
lý hay không.
Ví dụ: - Nhà bác học Galile tìm ra định luật về sức cản của không khí.
- Trái đất quay quanh mặt trời
- Không có gì quý hơn độc lập tự do.
- Thực tiễn là hoạt động vật chất có tính tất yếu khách quan, diễn ra độc lập đối với
nhận thức, nó luôn vận động và phát triển trong lịch sử, nhờ đó nó thúc đẩy nhận
thức cùng vận động và phát triển. Mọi sự biến đổi của nhận thức thường xuyên
chịu sự kiểm nghiệm trực tiếp của thực tiễn.
- Thực tiễn có vai trò làm tiêu chuẩn, thước đo giá trị của những tri thức đã đạt
được trong nhận thức, nó còn bổ sung, chỉnh sửa, điều chỉnh, sửa chữa, phát triển
và hoàn thiện nhận thức.
- Thực tiễn là điểm xuất phát của nhận thức, là yếu tố đóng vai trò quyết định đối
với sự hình thành và phát triển của nhận thức, cũng là nơi nhận thức luôn hướng
đến để kiểm nghiệm tính đúng đắn.
- Con người phải luôn quán triệt quan điểm thực tiễn, quan điểm này yêu cầu nhận
thức phải xuất phát từ thực tiễn. Nếu xa rời thực tiễn sẽ dẫn đến sai lầm của bệnh
chủ quan, duy ý chí, giáo điều, máy móc, quan liêu.
Việc nắm vững những nguyên tắc về tính cụ thể của chân lý có ý nghĩa phương
pháp luận quan trọng trong hoạt động nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn.
Nhận thức là những tri thức về bản chất quy luật của hiện thực, của thực tiễn mà
thực tiễn là cơ sở, động lực và mục đích của nhận thức.
– Tiêu chuẩn thực tiễn vừa mang tính tuyệt đối vừa mang tính tương đối
- Chân lý cũng là khách quan, là sự thống nhất giữa hai trình độ, chân lý tuyệt đối
và chân lý tương đối thì điều đó cũng có nghĩa là nhận thức phải trải qua một quá
trình đi từ chưa biết đầy đủ đến biết đầy đủ hơn về sự vật, hiện tượng.
- Chính trong thực tiễn mà con người chứng minh được chân lý, tức là chứng minh
tính hiện thực và sức mạnh, tính trần tục của tư duy.
- Thực tiễn tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau nên các hình thức kiểm nghiệm
bằng thực tiễn đối với tri thức là chân lý cũng khác nhau, có thể là tiến hành thực
nghiệm, áp dụng những phát minh vào thực tế.
| 1/4

Preview text:

Phân tích vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
Đối với nhận thức, thực tiễn đóng vai trò là cơ sở, động lực, mục đích của nhận
thức
và là tiêu chuẩn của chân lý, kiểm tra tính đúng đắn của quá trình nhận thức chân lý:
– Thực tiễn là nguồn gốc, cơ sở của nhận thức:
Thông qua hoạt động thực tiễn, con người nhận biết được cấu trúc; tính chất và các
mối quan hệ giữa các đối tượng để hình thành tri thức. Hoạt động thực tiễn bổ sung
và điều chỉnh những tri thức đã được khái quát. Thực tiễn đề ra nhu cầu, nhiệm vụ,
cách thức và khuynh hướng vận động và phát triển của nhận thức. Chính sự tác
động đó đã làm cho các đối tượng bộc lộ những thuộc tính, những mối liên hệ và
các quan hệ khác nhau giúp cho con người nhận thức được các quy luật vận động
và phát triển của thế giới. Trên cơ sở đó hình thành các lý thuyết khoa học.
Ví dụ: Sự xuất hiện học thuyết Macxit vào những năm 40 của thế kỷ XIX cũng BẮT
NGUỒN từ hoạt động thực tiễn của các phong trào đấu tranh của giai cấp công
nhân chống lại giai cấp tư sản lúc bấy giờ.

- Thực tiễn là động lực của nhận thức:
Hoạt động thực tiễn góp phần hoàn thiện các giác quan, tạo ra khả năng phản ánh
nhạy bén, chính xác, nhanh hơn; tạo ra các công cụ, phương tiện để tăng năng lực
phản ánh của con người đối với tự nhiên. Những tri thức được áp dụng vào thực
tiễn đem lại động lực kích thích quá trình nhận thức tiếp theo.
+ Thực tiễn sản xuất vật chất và cải biến thế giới đặt ra yêu cầu buộc con người
phải nhận thức về thế giới.
+ Thực tiễn làm cho các giác quan, tư duy của con người phát triển và hoàn thiện,
từ đó giúp con người nhận thức ngày càng sâu sắc hơn về thế giới.
Ví dụ: Chẳng hạn, xuất phát từ NHU CẦU thực tiễn con người CẦN phải “đo đạc
diện tích và đo lường sức chứa của những cái bình, từ sự tính toán thời gian và sự
chế tạo cơ khí” MÀ toán học đã ra đời và phát triển. (Hãy cố gắng lấy Ví dụ khác nhau).
- Thực tiễn là mục đích của nhận thức:
+ Mục đích cuối cùng của nhận thức là giúp con người hoạt động thực tiễn nhằm
cải biến thế giới. Nhận thức không chỉ thoả mãn nhu cầu hiểu biết mà còn đáp ứng
nhu cầu nâng cao năng lực hoạt động để đưa lại hiệu quả cao hơn, đáp ứng nhu cầu
ngày càng tăng của con người. Thực tiễn luôn vận động, phát triển nhờ đó, thực
tiễn thúc đẩy nhận thức vận động, phát triển theo.
+ Chỉ có thông qua hoạt động thực tiễn, thì tri thức con người mới thể hiện được
sức mạnh của mình, sự hiểu biết của con người mới có ý nghĩa. Bằng thực tiễn mà
kiểm chứng nhận thức đúng hay sai, khi nhận thức đúng thì nó phục vụ thực tiễn
phát triển và ngược lại.
Ví dụ: Ngay cả những thành tựu mới đây nhất là khám phá và giải mã bản đồ gien
người cũng ra đời từ chính thực tiễn, từ MỤC ĐÍCH chữa trị những căn bệnh nan y
và từ MỤC ĐÍCH tìm hiểu, khai thác những tiềm năng bí ẩn của con người
- Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý:
+ Bằng thực tiễn mà kiểm chứng nhận thức đúng hay sai. Khi nhận thức đúng thì
nó phục vụ thực tiễn phát triển và ngược lại. Như vậy, thực tiễn là thước đo chính
xác nhất để kiểm tra tính đúng đắn của tri thức, xác nhận tri thức đó có phải là chân lý hay không.
Ví dụ: - Nhà bác học Galile tìm ra định luật về sức cản của không khí.
- Trái đất quay quanh mặt trời
- Không có gì quý hơn độc lập tự do.
- Thực tiễn là hoạt động vật chất có tính tất yếu khách quan, diễn ra độc lập đối với
nhận thức, nó luôn vận động và phát triển trong lịch sử, nhờ đó nó thúc đẩy nhận
thức cùng vận động và phát triển. Mọi sự biến đổi của nhận thức thường xuyên
chịu sự kiểm nghiệm trực tiếp của thực tiễn.
- Thực tiễn có vai trò làm tiêu chuẩn, thước đo giá trị của những tri thức đã đạt
được trong nhận thức, nó còn bổ sung, chỉnh sửa, điều chỉnh, sửa chữa, phát triển
và hoàn thiện nhận thức.
- Thực tiễn là điểm xuất phát của nhận thức, là yếu tố đóng vai trò quyết định đối
với sự hình thành và phát triển của nhận thức, cũng là nơi nhận thức luôn hướng
đến để kiểm nghiệm tính đúng đắn.
- Con người phải luôn quán triệt quan điểm thực tiễn, quan điểm này yêu cầu nhận
thức phải xuất phát từ thực tiễn. Nếu xa rời thực tiễn sẽ dẫn đến sai lầm của bệnh
chủ quan, duy ý chí, giáo điều, máy móc, quan liêu.
Việc nắm vững những nguyên tắc về tính cụ thể của chân lý có ý nghĩa phương
pháp luận quan trọng trong hoạt động nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn.
Nhận thức là những tri thức về bản chất quy luật của hiện thực, của thực tiễn mà
thực tiễn là cơ sở, động lực và mục đích của nhận thức.
– Tiêu chuẩn thực tiễn vừa mang tính tuyệt đối vừa mang tính tương đối
- Chân lý cũng là khách quan, là sự thống nhất giữa hai trình độ, chân lý tuyệt đối
và chân lý tương đối thì điều đó cũng có nghĩa là nhận thức phải trải qua một quá
trình đi từ chưa biết đầy đủ đến biết đầy đủ hơn về sự vật, hiện tượng.
- Chính trong thực tiễn mà con người chứng minh được chân lý, tức là chứng minh
tính hiện thực và sức mạnh, tính trần tục của tư duy.
- Thực tiễn tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau nên các hình thức kiểm nghiệm
bằng thực tiễn đối với tri thức là chân lý cũng khác nhau, có thể là tiến hành thực
nghiệm, áp dụng những phát minh vào thực tế.