HỒN TRƯƠNG BA, DA HÀNG THỊT
-Lưu Quang Vũ-
A. MỞ I:
Mùa xuân m 1975, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước kết thúc thắng lợi, đất nước
thống nhất trong nền độc lập, a bình. Cuộc sống với "muôn mặt đời thường" đã trở lại sau
chiến tranh. Nhiều vấn đề của đời sống văn a, nhân sinh mà trước đây do hoàn cảnh chiến
tranh chưa được c ý, nay được đặt ra; nhiều quan niệm đạo đức phải được nhìn nhận lại
trong tình hình mới, nhiều yếu tố nảy sinh, nhất khi đất nước bước vào công cuộc đổi mới.
Như một yếu tố khách quan, văn học cũng phải đổi mới. Vở kịch " Hồn Trương Ba, da
hàng thịt" của Lưu Quang đã đáp ứng được yêu cầu đó, đây được xem một trong
những tác phẩm tiêu biểu nhất của văn học thời y. Qua tác phẩm, nhà văn đã truyền đi
bức thông điệp sâu sắc: Được sống làm người quí giá thật nhưng được sống đúng mình,
sống trọn vẹn với những giá trị mình vốn theo đuổi lại càng quí giá hơn. Sự sống
chỉ thật sự ý nghĩa khi con người được sống theo lẽ tự nhiên, hài hoà giữa thể xác tinh
thần. Nêu vấn đề.
B. THÂN BÀI:
I. TỔNG
1. Tác giả: Lưu Quang (1948 - 1988)
- một nhà soạn kịch tài năng, một hiện ợng đặc biệt của nghệ thuật n khấu ớc ta
những năm tám mươi của thế k trước.
- Nắm bắt được những vấn đề bức thiết, phản ánh được những vấn đề thời sự nóng bỏng
trong cuộc sống cũng như nhìn thấy những mâu thuẫn đang tồn tại nên kịch của Lưu Quang
đã nói lên được nguyện vọng của đông đảo mọi tầng lớp nhân dân.
1
# LỚP VĂN THANH TUYỀN
Họ và tên: ……………………………..
Lớp: ……….
- Sức hấp dẫn lâu bền của kich bản Lưu Quang chiều sâu của những giá trị muôn thuở
được thể hiện qua một ngôn ngữ kịch vừa đời thường vừa thấm đẫm chất thơ cùng màu sắc
triết nhân sinh.
2. Tác phẩm:
- Hồn Trương Ba, da hàng thịt viết m 1981 nhưng đến năm 1984 mới ra mắt công
chúng. Đây một trong những vở kịch đặc sắc nhất của u Quang Vũ, được công diễn
nhiều lần trong nước ngoài ớc. T một cốt truyện dân gian, Lưu Quang đã xây
dựng thành công một vở kịch nói hiện đại, đặt ra nhiều vấn đề mới mẻ, ý nghĩa tưởng,
triết nhân văn sâu sắc.
- Trương Ba giỏi đánh cờ bị Nam Tào bắt chết nhầm. muốn sửa sai nên Nam Tào Đế
Thích đã cho hồn Trương Ba sống lại, nhập vào xác anh hàng thịt vừa chết. Khi trú nhờ
trong xác anh ng thịt, Trương Ba gặp phải rất nhiều phiền toái: trưởng sách nhiễu, chị
hàng thịt đòi chồng, ngay đến gia đình của ông cũng cảm thấy xa lạ... Bản thân Trương Ba
cũng đau khổ phải sống trái với tự nhiên. Đặc biệt khi xác anh hàng thịt đã làm cho
Trương Ba nhiễm một i thói xấu. Trước nguy bị tha hóa, ông đã quyết định trả lại xác
cho anh hàng thịt, còn mình thì chấp nhận cái chết.
- Đoạn trích trong sách giáo khoa được trích từ cảnh VII đoạn kết của vở kịch, đúng o
lúc xung đột trung tâm của vở kịch lên đến đỉnh điểm. Sau mấy tháng sống trong tình trạng
“bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”, nhân vật Hồn Trương Ba ngày ng trở nên xa l
với bạn bè, người thân trong gia đình tự chán ghét chính mình, muốn thoát ra khỏi
nghịch cảnh trớ trêu.
II. PHÂN
BI KỊCH CỦA TRƯƠNG BA QUA MÀN ĐỐI THOẠI HỒN C:
1. Giải thích khái niệm bi kịch”:
- Bi kịch sự mâu thuẫn, đối lập giữa hiện thực đời sống với khát vọng, ước, mong
muốn con người, sự chênh lệch giữa khát vọng thực hiện và kh năng thực hiện khát
vọng.
- Nhân vật bi kịch thường bắt đầu những con người ơng thiện, hiền lành nhưng do vấp
phải một hoặc một chuỗi sai lầm do yếu tố chủ quan hoặc khách quan mang lại, họ biến
thành một con người khác đi đánh mất bản ngã lương thiện ban đầu. Sau đó lại nhờ yếu
tố chủ quan hoặc khách quan đã từng đẩy họ vào đường cùng đó thức tỉnh, họ muốn hoàn
lương nhưng không khả năng không được ai giúp đ trên con đường hoàn lương nên
thường chịu kết cục bi thảm.
2. Bi kịch của Trương Ba qua màn đói thoại Hồn - Xác:
2.1. Bi kịch của Trương Ba trước hết bi kịch về cái chết oan uổng:
Chuỗi bi kịch khởi đầu cái chết oan uổng của Trương Ba do sự tắc trách của quan trời.
Trương Ba là ông o gần sáu mươi, thích làm vườn, giỏi đánh cờ, hiền lành, u thương vợ
con tâm hồn trong sạch. Ch Nam o vội đi dự tiệc nên đã bắt chết nhầm. Đang sống
cuộc sống êm ấm với gia đình lại đột ngột chết đi, đây là một bi kịch đau lòng.
2.2. Được tái sinh trong thể anh hàng thịt, hồn Trương Ba rơi vào bi kịch
không được chính mình:
2
# LỚP VĂN THANH TUYỀN
- Theo lời khuyên của tiên cờ Đế Thích, Nam Tào, Bắc Đẩu "sửa sai", muốn trả lại công bằng
cho Trương Ba bằng cách cho Trương Ba sống lại. Không phải sống hoàn toàn hồn
được tiếp tục sống trong thân xác của một người khác - anh hàng thịt vừa mới chết gần nhà.
Chính sự thay đổi này đã đẩy Trương Ba vào chuỗi bi kịch đầy đau khổ, dằn vặt. Con người
vốn tổng thể thống nhất giữa linh hồn xác thịt, thế nhưng Trương Ba lại được sống
không được chính mình trọn vẹn.
- Trước khi diễn ra cuộc đối thoại giữa hồn xác, nhà viết kịch đã đ cho Hồn Trương Ba
ngồi ôm đầu một hồi lâu rồi vụt đứng dậy với một lời độc thoại đầy khẩn thiết: “Không!
Không! Tôi không muốn sống như thế y mãi! i chán cái ch không phải của tôi
này lắm rồi!”. Hồn Trương Ba đang trong m trạng ng bức bối, đau khổ thể hiện
trong những u cảm thán ngắn, dồn dập cùng với ước nguyện khắc khoải. Hồn bức bối bởi
không th nào thoát ra khỏi cái thân xác mà hồn ghê tởm. Hồn đau khổ bởi mình không n
nh nữa. Trương Ba bây giờ vụng về, thô lỗ, phũ phàng lắm. Hồn Trương Ba cũng càng
lúc càng rơi vào trạng thái tuyệt vọng.
- Còn đau khổ hơn khi con người không thể làm chủ được chính mình, ghê tởm thân xác
mình đang vay mượn, nhưng Hồn Trương Ba lại không thể thoát khỏi nó, ông cần đến
để tồn tại. Biết Hồn b dồn vào thế bí, Xác đưa ra giao kèo thỏa hiệp để chung sống bằng
giọng ve vuốt mơn trớn: Những c một mình một bóng, ông cứ việc nghĩ rằng ông một
tâm hồn bên trong cao khiết, chẳng qua hoàn cảnh để sống ông phải nhân nhượng
tôi. Làm xong điều xấu ông cứ việc đổ tội cho tôi, để cho ông được thanh thản miễn là…
ông vẫn làm đủ mọi việc thỏa mãn những thèm khát của tôi”. Xác sẽ “ve vuốt” Hồn bằng
cách thông cảm với “những trò chơi tâm hồn”, nhận hết mọi điều xấu miễn Hồn vẫn “làm
đủ mọi việc để thỏa mãn thèm khát” của Xác. Nhận thức “lí lẽ ti tiện” của Xác, Hồn than
như tuyệt vọng, bất lực u trời. Đó một sự chấp nhận s phận trong nỗi đau đớn khôn
cùng muốn tìm đường thoát nhưng hoàn toàn vọng.
2.3. Bi kịch được đẩy lên đến đỉnh điểm khi hồn Trương Ba nhận ra s tha hóa
của chính mình:
- Trương Ba vốn người làm vườn hiền lành, tốt bụng lối sống trong sạch tâm hồn
thanh cao, thú vui đánh cờ niềm yêu say với thiên nhiên cây cỏ chính minh chứng
nhất ta nhìn thấy nhân vật này thế nhưng từ khi sống trong c của anh hàng thịt thì người
làm vườn hiền lành ơng thiện ấy dần thay đổi, dần trở nên bạo lực, bị tha a vào những
ham thú vật chất bồ, không mấy lành mạnh đứng đắn. Thông qua lời xác anh hàng thịt,
sự thay đổi ấy hiện ra ngay khi Trương Ba đứng gần vợ xác anh hàng thịt: Khi ông bên
nhà tôi… Khi ông đứng bên cạnh vợ tôi, tay chân run rẩy, hơi thở ng rực, c nghẹn lại
“Đêm hôm đó, suýt nữa thì… Đó cảm giác “xao xuyến” “lâng lâng cảm xúc” trước
đây Hồn cho “phàm”. Với bằng chứng cụ thể, Hồn xấu hổ kiên quyết phủ định:
mày chứ, chân tay mày, hơi thở mày”. Xác vừa khẳng định vừa hỏi xoáy lại để tấn công tiếp:
Thì tôi ghen đâu! Ai lại đi ghen với chính thân th mình…nhưng ta nên thành thực:
Chẳng lẽ ông không xao xuyến chút gì? Để thỏa mãn tôi, chẳng nhẽ ông không tham dự
chút đỉnh ?” Như vậy Xác dẫn dắt Hồn vào sự thật không thể phủ nhận Hồn ít nhiều đã
bị vấy bẩn, tha hóa bởi dục vọng của thân xác. Xác anh hàng thịt gợi lại tất cả những sự
3
# LỚP VĂN THANH TUYỀN
thật ấy khiến Hồn ng thấy xấu hổ, cảm thấy mình ti tiện. Lí lẽ của Xác khơi trúng điểm
đen lâu nay trú ngụ trong Xác anh hàng thịt, Hồn Trương Ba trong khiết đã bị hóa
màu. Hồn đuối bất lực bèn la to, ra lệnh áp chế thể xác để che giấu sự lúng ng, bối rối,
do dự, yếu thế của mình Ta…ta… đã bảo mày im đi! Lời thoại của Hồn ngập ngừng
lẽ như bị hụt i. Hồn bị dồn o chân ờng để buộc phải công nhận sự chế ngự của Xác.
Xác khẳng định một lần nữa: Hai ta đã hòa làm một rồi”. Xác nhấn vào sự thật đau đớn
Hồn đang muốn trốn chạy, muốn phủ nhận, đẩy tình huống kịch lên cao trào.
- Hồn chỉ còn cố gắng biện minh chống chế cứu vãn: Ta vẫn một đời sống riêng: nguyên
vẹn, trong sạch, thẳng thắn…”. Xác vẫn không buông tha, tấn công bằng sự mỉa mai Khi
ông phải tồn tại nhờ tôi, chiều theo những đòi hỏi của tôi, n nhận nguyên vẹn,
trong sạch, thẳng thắn!”. Trước sự thực không sao chối cãi, Hồn phản ứng tiêu cự bằng
cách bịt tai lại”. Đó nỗ lực chối bỏ trong tuyệt vọng hoàn toàn bế tắc. Xác tiếp tục dùng
lời lẽ hiểm hóc sắc lẹm như dao mổ, phanh trần nỗi đau đang tấy mủ trong Hồn. Đó nhờ
sức mạnh của Xác mà Hồn thể: tát thằng con ông tóe máu mồm máu mũi”. Mặc cố
bịt tai, nhưng khi nghe Xác nói như vậy Hồn phải lên tiếng chối b sức mạnh làm ta trở
thành tàn bạo”. c khôn ngoan biết lỡ lời nên biện minh cho mình bằng những lẽ: “là
hoàn cảnh” “cũng đáng được quý trọng”, không tội. Hồn chỉ còn phản ứng yếu ớt:
Nhưng...Nhưng”.
3. Ý nghĩa triết của tác phẩm:
- Từ nh huống kịch oái oăm rơi vào cảnh ngộ người nông dân Trương Ba, đối thoại giữa
hồn Trương Ba và xác hàng thịt gợi cho người đọc nghĩ tới hàm ý sâu xa tác giả muốn gửi
gắm. Linh hồn thể xác là hai phương diện tồn tại trong mỗi con người. Có thể nào sống
không cần đến dáng hình, thân thể? Nhưng lẽ nào đời sống của con người chỉ thu gọn lại
trong những nhu cầu thuần tuý bản năng? Đừng “bỏ bê” thân xác để chỉ biết đến một thứ
linh hồn chung chung trừu tượng không thuộc về một ai trên i thế gian này. Cũng đừng
chỉ chạy theo những khát thèm của thân xác trở về với hồng hoang nguyên thuỷ. Cuộc
đấu tranh giữa linh hồn xác thịt chính cuộc đấu tranh giữa đạo đức tội lỗi, giữa khát
vọng dục vọng, giữa phần “người” phần “con” trong mỗi con người. Một n đại diện
cho những đẹp đẽ, thanh cao; một bên đại diện cho sự thô tục, thô phàm. Tác gi Lưu
Quang Vũ nhấn mạnh không thể một tâm hồn thanh cao trong một thân xác phàm tục.
Con người chỉ thực sự hạnh phúc khi được sống là chính mình, được hoà hợp xác hồn,
trong ngoài, nội dung hình thức trong một thể thống nhất toàn vẹn chứ không phải
cuộc sống chắp vá, bất nhất: bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”.
- Đoạn trích còn là lời nhắc nh sâu sắc của nhà văn về tầm quan trọng của việc được
chính mình: Được sống làm người quý giá thật nhưng được sống đúng mình, sống trọn
vẹn những giá tr mình vốn theo đuổi còn quý giá n. Sự sống chỉ thực sự ý nghĩa
khi con người đựợc sống tự nhiên với sự hài hoà giữa thể xác m hồn. Con người phải
luôn luôn biết đấu tranh với những nghịch cảnh, với chính bản thân, chống lại sự dung tục,
để hoàn thiện nhân cách vươn tới những giá trị tinh thần cao quý.
PHÂN TÍCH MÀN ĐỐI THOẠI HỒN C:
1. Nguyên nhân dẫn đến màn đối thoại:
4
# LỚP VĂN THANH TUYỀN
- Do phải sống nhờ thể xác của hàng thịt, hồn Trương Ba đành chiều theo một số nhu cầu
hiển nhiên của xác thịt. Linh hồn nhân hậu, trong sạch, bản tính ngay thẳng của Trương Ba
xưa kia, nay phải sống ợn, l thuộc n không sai khiến được xác thịt thô phàm của anh
hàng thịt trái lại còn bị nhiễm độc bởi cái tầm thường, dung tục. Nên linh hồn Trường
Ba dằn vặt, đau khổ, quyết chống trả bằng cách ch ra khỏi xác thịt để tồn tại độc lập,
không lệ thuộc vào thân xác.
- Mở đầu đoạn trích màn độc thoại của Hồn Trương Ba. Tác giả để Trương Ba ngồi ôm
đầu một hồi lâu rồi vụt đứng dậy tuôn ra một tràng độc thoại đầy đau khổ: “Không! Không!
Tôi không muốn sống như thế này mãi! Tôi chán cái chỗ không phải của tôi này lắm
rồi! Cái thân thể kềnh càng thô lỗ này, ta bắt đầu sợ mi, ta chỉ muốn rời xa mi tức khắc!
Nếu cái hồn của ta có hình t riêng nhỉ, để được tách khỏi thân xác y, ch một lát.
Lời độc thoại cho thấy con người đang trạng thái u uất, bế tắc, không lối thoát. Hồn đau
khổ, dằn vặt, quẫn ch đến ng cực, không thể chịu đựng dày hơn được nữa. Và trong
sự khát khao tách bạch ấy, hồn đã được tách ra khỏi thể xác vốn không phải của hồn màn
đối thoại bắt đầu.
2. Diễn biến màn đối thoại:
a. Chặng 1:
- Sau khi tách ra khỏi thể c, hồn xác bắt đầu cho cuộc đối thoại. Xác mở đầu cho cuộc
đối thoại, xác xoáy vào hiện thực bi kịch của Hồn: linh hồn mờ nhạt khốn khổ kia ơi, ông
không tách ra khỏi tôi được đâu”. Giọng của xác là giọng đắc thắng, đầy ngạo mạn, trịch
thượng khiêu khích. Thấy c tiếng i, Hồn rất ngạc nhiên buông lời lẽ cay
nghiệt, mắng mỏ c: A, y cũng tiếng nói kia à. lý, mày không tiếng nói,
chỉ xác thịt âm u đui mù”. Xác cũng không vừa: ông đã biết tiếng nói của tôi rồi, đã
luôn luôn bị tiếng nói ấy sai khiến”, Chính vì âm u đui tôi sức mạnh ghê gớm,
lấn át cả linh hồn cao khiết của ông đấy”. Hồn bị châm chọc nên cùng tức giận, lớn tiếng
phủ định tiếng i của Xác: i láo, mày chỉ vỏ bề ngoài, không ý nghĩa hết,
không có tưởng, không cảm xúc”. Xác hỏi lại đầy thách thức: thật thế không?”.
Hồn chùn đuổi lí, buộc phải dần đồng nh, xác nhận sự ảnh ởng của c nếu có, thì
chỉ những thứ thấp kém, bất cứ con thú nào cũng được: thèm ăn ngon, thèm rượu
thịt”. Đằng sau lời thoại này Hồn dường như câm lặng, mặc cho xác mắng mỏ, xúc phạm.
- Bắt đầu từ đây, xác bắt đầu tấn công hồn một cách đầy khiêu khích, bỡn cợt. Những lẽ
xác hàng thịt đưa ra để tranh cãi với hồn Trương Ba xác đáng: c ng thịt đui mù,
âm u nhưng khả ng lấn át, sai khiến linh hồn cao khiết. Hồn trương Ba cao khiết
nhưng đã bị nhiễm những thói xấu, b tha hoá. Việc làm của Trương Ba tham dự của xác
hàng thịt. c dẫn dắt Hồn vào sự thật không th phủ nhận - Hồn ít nhiều đã bị vấy bẩn, tha
hóa bởi dục vọng của thân xác: Khi ông bên nhà i... Khi ông đứng bên cạnh vợ tôi, tay
chân run rẩy, hơi thở nóng rực, cổ nghẹn lại... Đêm hôm đó, suýt nữa thì... ”. Xác đã nhắc
lại sinh động, tường tận dục vọng vật chất thấp hèn càng bồi thêm nỗi dằn vặt sự thật
nhỡn tiền, phũ phàng. Dục vọng tầm thường ấy trước đây Trương Ba nào có. Hồn phải xuôi
theo những lời buộc tội của Xác, bị c sai khiến làm cho đứng trước món ăn dung tục tiết
canh, cổ hũ, khấu đuôi cũng khiến cho Trương Ba lâng ng cảm xúc”.
5
# LỚP VĂN THANH TUYỀN
lẽ của Xác khơi trúng tim đen mà lâu nay trú ngụ trong Xác hàng thịt,
Hồn Trương Ba trong khiết đã hóa màu. Hồn thế bất lực, chống đối yếu ớt: Ta... ta
đã bảo mày im đi”. Lời nói ngập ngừng như lẽ bị hụt hơi. Hồn bị dồn vào chân tường
để buộc phải công nhận sự chế ng của th xác.
b. Chặng 2:
Hồn Trương Ba cố gắng đưa ra lẽ để cứu vãn: Không! Ta vẫn một đời sống
riêng: nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn…”. Hồn đau khổ nhưng vẫn cương quyết tin
vào sự tồn tại của mình, tin vào bản thân mình. Lời quả quyết "Không!" đầy khảng khái
mạnh mẽ, thể hiện ý chí niềm tin ởng tuyệt đối của Hồn về nhân cách, lối sống
chính mình luôn n giữ. Trước mọi đổi thay bất ngờ dồn n, Hồn vẫn tin vào "đời sống
riêng" mình xây dựng, một đời sống của người làm ờn lương thiện, nhãn nhặn, trầm
tĩnh chưa bao giờ để những thứ dung tục hoà o cuộc sống của mình.
+ Nhưng đứng trước lời khẳng định chắc nịch ấy, xác anh hàng thịt cười nhạo, mỉa mai,
chế giễu vào i lẽ yếu đuối ấy của tâm hồn khẳng định vai trò của mình: Nực cười
thật! Khi ông phải tồn tại nhờ i, chiều theo những đòi hỏi của tôi, còn nhận nguyên
vẹn, trong sạch, thẳng thắn!. c ng thịt nhìn cuộc sống nh đang bằng góc nhìn
thực tế phần bàng quan với mọi nỗ lực gìn giữ nhân cách của Hồn Trương Ba. Đối với
Xác, sự tồn tại của Xác đã làm thay đổi cuộc sống của linh hồn, cho Hồn Trương Ba
cố gắng phủ nhận đến mức nào, thì sự thật: Xác đã điều khiển, dẫn dắt Hồn chiều theo
những ý muốn thô thiển, dung tục của Xác.
+ Xác khẳng định sự thật phũ phàng: Chẳng cách nào chối bỏ tôi được đâu!
đáng lẽ ông phải cảm ơn tôi. Tôi đã cho ông sức mạnh. Ông nhớ hôm ông tát thằng con
ông toé máu mồm máu mũi không? Cơn giận của ông lại thêm sức mạnh của tôi….
Từng lẽ được đưa ra cùng thuyết phục bởi cách dùng t tự nhiên độc đáo, gãy gọn
nơi "Cây bút ng" của sân khấu kịch Việt Nam. Xác dần chiếm thế mạnh mẽ khẳng
định: "Chẳng cách nào chối bỏ tôi được đâu!", dập tắt mọi hy vọng đang le lói trong
Hồn Trương Ba. Xác muốn dùng lời lẽ, sự thực để đè nén, chiến thắng mọi khát vọng
Hồn đang nung nấu. Xác hiểu sự chính trực của Hồn, hiểu được Hồn không bao gi chấp
nhận thừa nhận về sự mặt điều khiển của Xác, vì thế, c đã chọn cách nói vừa
giễu cợt, vừa mỉa mai để xoáy một nhát dao cứa sâu vào tâm can của Hồn. Khi nhắc đến
đứa con trai, Xác c tình nhấn mạnh cơn giận đầy đủ sức mạnh của Xác để " tát thằng
con ông toé máu mồm máu mũi". Xác dùng chính hành động bạo tàn ấy để kéo Hồn về với
sự thật đang hiện diện trong chính gia đình Trương Ba, để Hồn chấp nhận sự tồn tại
mặt hiển nhiên của Xác vào lúc này.
Như vậy, đối với Hồn, Xác rất quan trọng nếu không Xác, Hồn sẽ không
chốn dung thân ngược lại nếu không Hồn thì Xác cũng chỉ “âm u đui mù”. Lý
lẽ của Xác giúp chúng ta nhận ra rằng xác hoàn toàn không nghĩa, sức
mạnh riêng thể thay đổi nhân cách một con người, biến đổi một con người
6
# LỚP VĂN THANH TUYỀN
theo ý mình. Xác đã buộc hồn phải thay đổi thái độ t cao ngạo, khinh b đến ng
túng yếu ớt thừa nhận sự sống của thân xác.
c. Chặng 3:
- Nhận biết Hồn bị dồn vào thế bí, xác đưa ra giao kèo nhằm thỏa hiệp để chung sống bằng
giọng nhẹ nhàng, vuốt ve hồn, xác chủ động đưa ra đề nghị: Những lúc một mình lẻ bóng,
ông cứ việc nghĩ rằng ông một tâm hồn bên trong cao khiết, chẳng qua hoàn cảnh,
để sống ông phải nhân nhượng tôi. Làm xong một điều xấu ông cứ đổ lỗi cho tôi, để ông
được thanh thản… miễn là… ông vẫn m đủ mọi việc thỏa mãn những thèm khát của tôi.
- Hồn Trương Ba nhận thức được “lí lẽ ti tiện” của Xác nhưng dần đuối lí đau khổ nhận ra
sự chế ng của thể xác, kêu lên tuyệt vọng “Trời!”. Hồn đã từng nghĩ chỉ cần Hồn luôn gìn
giữ sự cao cả trong sạch trong cốt cách thì Xác sẽ không bao giờ chiếm hữu được linh
hồn cao khiết ấy, Hồn Xác những thể riêng biệt. Thế nhưng, qua từng minh chứng,
qua từng điều mà Hồn cùng Xác đã trải qua, Hồn chua chát nhận ra Hồn không th nào điều
khiển c dừng lại, Hồn chỉ với suy nghĩ tưởng của mình không đủ sức mạnh để ngăn
Xác làm càn, ngăn Xác sống với cuộc đời vốn dĩ chỉ của riêng Xác.
Phải sống nhờ o những yếu tố vật chất bên ngoài, không được sống đúng với con
người thực của mình, hoàn toàn ph thuộc vào hoàn cảnh sống dung tục, bị chi
phối, sai khiến một trong những bi kịch đau đớn nhất của con người. Hồn đành
chấp nhận số phận trong nỗi đau đớn khôn cùng, muốn tìm đường thoát nhưng hoàn
toàn vọng. Tới đây, màn đối thoại kết thúc, Trương Ba bần thần nhập lại vào xác
anh ng thịt.
3. Kết qu của màn đối thoại:
- Hồn Trương Ba c chỉ, điệu bộ lúng túng; lời thoại ngắn; giọng điệu thanh minh yếu ớt,
tội nghiệp thể hiện sự khổ sở, bức bối, xấu h khi nhận thấy mình ngày càng mất dần đi sự
thanh cao. Hồn muốn tách ra để đời sống riêng độc lập, không phụ thuộc vào xác nhưng
bất lực.
- Còn Xác hàng thịt biết sự lệ thuộc của Hồn nên đã cười nhạo, ve vẫn, phỉnh nịnh, thỏa
hiệp hồn hãy theo mình bằng những lẽ sắc sảo, chặt chẽ. Giọng điệu khi mỉa mai, khi cao
ngạo, khi châm chọc, chê cười.
4. Ý nghĩa triết của màn đối thoại:
- Hai hình ợng hồn Trương Ba xác hàng thịt đây mang ý nghĩa ẩn dụ. Một bên đại điện
cho sự trong sạch, nhân hậu khát vọng sống thanh cao, xứng đáng với danh nghĩa con
người (Hồn) một bên s tầm thường, dung tục (Xác). Nội dung cuộc đối thoại xoay
quanh một vấn đề giàu tính triết lí, thể hiện cuộc đấu tranh dai dẳng giữa hai mặt tồn tại
trong một con người. Từ đó nói lên khát vọng hướng thiện của con người tầm quan trọng
của việc tự ý thức, tự chiến thắng bản thân.
- Qua đó ta thấy: Trương Ba được sống nhưng là sống nhờ sống gửi, sống vay mượn đáng hổ
thẹn phải chung đụng với sự dung tục bị sự dung tục đồng hoá. c giả cảnh báo:
“Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”. Khi con người phải sống trong dung tục thì cái dung
7
# LỚP VĂN THANH TUYỀN
tục sẽ ngự trị, sẽ dần thắng thế, lấn át và sẽ tàn phá những trong sạch, đẹp đẽ, cao quý
trong con người.
- Cuộc sống thì đáng quý, được sống hạnh phúc nhưng được sống mình điều đáng quý
hơn. Muốn vậy, phải sống hài hòa giữa thể xác và linh hồn, hài hòa giữa cái bên trong và cái
bên ngoài, giữa nội dung hình thức. Sống hợp với l t nhiên. Không th một linh hồn
thanh cao trong một thân xác phàm tục, tội lỗi. Đừng bao giờ cho rằng tâm hồn thứ đáng
quý nên chỉ biết chăm lo cho m hồn không chú ý đến những giá trị vật chất. Hay cũng
đừng quan tâm đến thể xác bỏ đời sống tâm hồn. Hồn Xác cả hai đều đáng quý. Vì
vậy, hãy dung hòa phần con phần người để trở thành con người đúng nghĩa. Có lẽ nhận
thức được điều này nên cuối vở kịch, Hồn Trương Ba đã quyết tâm trả xác cho anh hàng thịt
để trở v với chính mình “vẹn nguyên, trong sạch, thẳng thắn”.
PHÂN TÍCH MÀN ĐỐI THOẠI GIỮA HỒN TRƯƠNG BA ĐẾ THÍCH:
1. Nguyên nhân dẫn đến n đối thoại giữa Trương Ba Đế Thích:
Do phải sống nhờ thể xác của hàng thịt, hồn Trương Ba phải chiều theo một số nhu cầu
hiển nhiên của xác thịt. Linh hồn nhân hậu, trong sạch, bản tính ngay thẳng của Trương Ba
xưa kia, nay phải sống ợn, lệ thuộc nên bị nhiễm độc bởi sự tầm thường, dung tục của
xác thịt thô phàm. Thấm thía nghịch cảnh của bi kịch sống không được chính mình bi
kịch bị chính những người thân yêu cự tuyệt Trương Ba đã quyết định châm nhang gọi Đế
Thích để quyết chết trả lại sự trong sạch, vẹn nguyên của linh hồn.
2. Nội dung cuộc đối thoại giữa Trương Ba và Đế Thích:
a. Phần đầu của màn đối thoại cuộc tranh luận về quan niệm sống của Trương Ba
Đế Thích. Qua cuộc tranh luận ấy, c giả đề cao quan điểm sống “phải sống
chính mình”.
- Mở đầu lời độc thoại: “Mày đã thắng thế rồi đấy, cái thân xác không phải của ta ạ…
Nhưng lẽ nào ta lại chịu thua mày, khuất phục mày tự đánh mất mình?”. Lời độc thoại
cho thấy cuộc đấu tranh nội m cùng dữ dội Trương Ba. Thực ra cuộc đấu tranh đó đã
được tác giả Lưu Quang Vũ gửi gắm qua màn đối thoại giữa Trương Ba xác hàng thịt.
Đó cuộc đấu tranh giữa xác hồn; giữa cao cả đê hèn; giữa tốt xấu; giữa cao
thượng dung tục; giữa khát vọng dục vọng. Đó cũng cuộc đấu tranh để hoàn thiện
nhân cách. Cuộc đấu tranh này phần thắng nghiêng về xác nhưng bản thân hồn Trương Ba
đã không chịu lép vế, không khuất phục mà đã tìm mọi ch để được sống chính mình
đây chính nhân cách cao đẹp của Trương Ba.
- Trương Ba bày tỏ nguyện vọng với Đế Thích: “Tôi không thể tiếp tục mang thân anh
hàng thịt được nữa, không thể được!”. Lời thoại tới hai lần phủ định “tôi không thể”;
“không thể được” cho thấy quyết m rời bỏ xác ng thịt ý chí sắt đá của Trương Ba khi
thấm thía nghịch cảnh trớ trêu của mình.
- Tiếp đến Trương Ba nêu lên đòi hỏi chính đáng ng như quan điểm sống cao đẹp
sống phải chính mình: Không thể bên trong một đằng, n ngoài một nẻo được. Tôi
muốn được i toàn vẹn. Câu nói thể hiện nghịch cảnh của Trương Ba, sự bất nhất của
cái bên trong cái bên ngoài: “bên trong” chính linh hồn, cảm xúc, ởng, nhân ch
8
# LỚP VĂN THANH TUYỀN
cao đẹp của Trương Ba. Hồn sự tinh anh chi phối điều khiển thể xác. Đối lập n trong
“bên ngoài” c thịt thô phàm của anh hàng thịt. Nhưng “cái bên ngoài” cần hiểu theo
nghĩa rộng hoàn cảnh sống, bản năng, nhu cầu tự nhiên, là dục vọng bản ng. Sự
tha hóa của linh hồn Trương Ba chính là do linh hồn đã nhượng bộ, đã tự bán mình, tự thỏa
hiệp với nhu cầu bản năng. Đây chính sự dằn vặt, đau khổ, trăn trở của Trương Ba. Cả hai
không thể hoà hợp bởi không thể một tâm hồn thanh cao trong một thể c phàm tục tội
lỗi.
- Từ đó, Trương Ba n tiếng đòi nhu cầu chính đáng của bản thân: “Tôi muốn được
tôi toàn vẹn”. Đây khát vọng mãnh liệt của Trương Ba, khát vọng được sống hòa hợp.
“Toàn vẹn” nghĩa phải sự a hợp giữa n trong bên ngoài, giữa nội dung hình
thức, giữa thể xác linh hồn. Không thể cuộc sống nào “hồn này xác kia được.
Cuộc sống không thuận theo lẽ tự nhiên, không thuận theo tạo hóa, sống mà không được
chính mình thì đó một bi kịch nghiệt ngã.
- Trước những yêu cầu của Trương Ba, Đế Thích lại lập luận rằng: Trương Ba nên
chấp nhận cuộc sống ấy dưới đất trên trời đều thế cả”. Đế Thích chỉ ra rằng không chỉ
Trương Ba đang sống trong cảnh trong ngoài bất nhất, mọi người đều như thế cả. vậy
Đế Thích khuyên Trương Ba đừng c gắng làm viên bi lăn ngược vòng hãy chấp nhận,
hãy biết cách thỏa hiệp, học ch chấp nhận. Đế Thích đã lấy tâm đám đông để áp đặt lên
quan điểm sống của nh. Đế Thích lấy dẫn chứng về chính ông ta Ngọc Hoàng cũng
không thể sống chính mình: “Ở bên ngoài, tôi đâu được sống theo như những gì tôi
nghĩ bên trong. Mà cả Ngọc Hoàng nữa. Chính người lắm khi cũng phải khuôn ép mình
cho xứng với danh vị Ngọc Hoàng”. Như vậy, theo Đế Thích thì: “không ai được sống
chính mình”. Bởi sống nghĩa là tồn tại, còn tồn tại như thế nào thì còn do hoàn cảnh, điều
kiện con người buộc phải quy thuận. Đây quan niệm sống sai lầm đáng lên án.
- Trương Ba bắt đầu đổi giọng lên án Đế Thích: Sống nhờ vào đồ đạc, của cải của
người khác, đã chuyện không nên, đằng này cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng
thịt”. Trương Ba đưa ra sự so sánh đồ đạc, vật chất bản thân. Đ đạc, của cải vật chất
mượn của người khác đã chuyện không nên; còn sống nhờ, sống gửi, sống sinh vào
thân xác của kẻ khác điều xấu hổ đáng lên án. Trương Ba thẳng thắn: Ông chỉ nghĩ đơn
giản là cho i sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết!”. Lời thoại đã chỉ trích
quan niệm sai lầm của Đế Thích bởi suy nghĩ đơn giản về cuộc sống. Với Đế Thích, sống
tồn tại còn tồn tại như thế nào thì không cần biết. Với Trương Ba, sống không chỉ sự tồn
tại sinh học sự tồn tại ấy còn phải sự tồn tại ý nghĩa.
=> Những lời thoại của Trương Ba Đế Thích phần này chủ yếu thiên về cuộc đấu
tranh của Trương Ba đó cuộc đấu tranh vượt lên nghịch cảnh để chiến thắng bản
thân bảo vệ linh hồn cao đẹp.
b. Phần sau của màn đối thoại chủ yếu thông qua cuộc đấu tranh “tồn tại hay không
tồn tại”. Cuộc đấu tranh này toát lên nhân cách cao thượng đức hi sinh của Trương
Ba:
- Tiếp đến Trương Ba bày tỏ nguyện vọng: Thân thể anh hàng thịt còn lành lặn nguyên
xi đây, tôi trả lại cho anh ta. Ông y làm cho hồn anh ta được sống lại với thân xác này .
Nhưng Đế Thích bác bỏ Đế Thích cho rằng tâm hồn đáng quý của Trương Ba không thể
9
# LỚP VĂN THANH TUYỀN
thay thế cho phần hồn tầm thường của anh hàng thịt. Trương Ba lập luận rằng: Tầm
thường, nhưng đúng của anh ta… chúng sinh ra để sống với nhau”. Để khẳng định với
quyết tâm của mình Trương Ba trở nên mạnh mẽ: Nếu ông không giúp, tôi sẽ nhảy xuống
sông hay đâm một nhát dao vào cổ, lúc đó thì hồn tôi chẳng còn, xác anh hàng thịt cũng
mất”. Ý chí mạnh mẽ của Trương Ba xuất phát t khát vọng “được sống chính mình”,
để “được sống chính mình” lúc này, Trương Ba không con đường nào khác cái chết.
ch khi chết đi, ông mới thực sự chính mình, mới hoàn nguyên được vẻ đẹp cao khiết
của linh hồn mình. Với Trương Ba, thiên đường đẹp nhất để linh hồn th trú ngụ sau khi
chết chính phục sinh trong trái tim của những người yêu quý ông.
- Lưu Quang đặt Trương Ba vào một tình huống kịch độc đáo. Sự việc cu Tị, con
trai độc nhất của ch Lụa chết đã làm cho cuộc đối thoại mang tính bước ngoặt.
+ Đế Thích muốn Trương Ba nhập hồn vào xác cu Tị: Ông sống trong thân xác thằng
chắc sẽ ổn”. Câu nói này của Đế Thích một lần nữa cho thấy lối suy nghĩ đơn giản, phiến
diện sống sự tồn tại. Thực chất của lối suy nghĩ này xuất phát từ chính cuộc sống của
Đế Thích. Tiên phật thánh thần chẳng bao giờ chết cho nên sống là để ởng thụ. Lối sống
này ảnh hưởng trực tiếp lên ởng ấy dẫn đến những sai lầm của Đế Thích.
+ Trước yêu cầu của Đế Thích, Trương Ba ngập ngừng: Ông cho tôi suy ng một lát đã”.
Sự phân n của Trương Ba cho thấy: sống đáng quý thật, được tồn tại mãi mãi điều
còn quý giá hơn. Sự phân vân này cũng cho thấy Trương Ba rất ham sống, vẫn muốn được
sống. Trương Ba lại tiếp tục trải qua cuộc đấu tranh nội tâm dữ dội. Ông hình dung thấy
trước mắt cuộc sống tương lai của mình trong thể của một thằng lên mười: khi
tôi còn phải sang nhà chị Lụa v tôi, các con tôi sẽ nghĩ ngợi, x sự thế nào, khi
chồng mình, bố mình mang thân một thằng lên mười”. Trương Ba thấy mọi sự
nhất khi ông nhìn thấy được sự đơn của bản thân khi: Vẫn phải sống suốt bao năm
tháng dằng dặc. Mình tôi giữa đám người hậu sinh… Tôi sẽ như ông khách ngồi nhà
người ta… Tôi sẽ vơ lạc lõng”. Điều khiến chúng ta trân trọng Trương Ba đó chính
tâm hồn ông cao thượng: Tôi không thể cướp cái thân thể non nớt của cu Tị cũng chính
cái chết của cu Tị cùng với khát vọng được cứu sống thằng bé đã khiến Trương Ba trở nên
mạnh mẽ. Trương Ba lên tiếng khẩn khoản cầu cứu Đế Thích Ông hãy cứu nó! Ông phải
cứu nó! con trẻ… Ông hãy giúp tôi lần cuối cùng”.
+ Đế Thích vẫn muốn Trương Ba tiếp tục tồn tại nhưng Trương Ba đã thẳng thắn chỉ ra sai
lầm của Đế Thích: những cái sai không thể sửa được. Chắp gượng ép chỉ càng làm
sai thêm. Chỉ có cách đừng bao giờ sai nữa, hoặc phải bằng một việc đúng khác”.
Ông cũng khuyên nh Đế Thích phải làm cho bằng được việc đúng, đó chính làm cho cu
Tị được sống lại”. Những suy nghĩ tốt đẹp của Trương Ba đức hi sinh cao thượng của
ông cuối cùng cũng thay đổi được duy của Đế Thích. Cu Tị được sống n Trương Ba trở
về với chính mình chứ không còn cái vật quái gở mang tên hồn Trương Ba, da hàng thịt
nữa”.
=> Có những bi kịch mang cho ta nhiều nghẹn ngào, nhưng cũng những bi kịch làm
trái tim ta thổn thức, trân trọng. Bi kịch của Hồn Trương Ba chính như thế, vừa
khiến ta trăn trở, nhưng cũng làm ta rung động. Hồn Trương Ba đau khổ, quyết định
lựa chọn cái chết để giải phóng cho nh một mặt xuất phát từ nhu cầu nội tại của bản
10
# LỚP VĂN THANH TUYỀN
thân, mặt khác xuất phát từ tấm lòng vị tha, trái tim nhân hậu, cao thượng: mong
muốn giải thoát nỗi khổ đau cho những người thân yêu; muốn ngăn chặn nguy gia
đình “tan hoang” do tác động, ảnh hưởng tiêu cực từ chính mình; muốn đem lại niềm
vui, niềm hạnh phúc cho những người xung quanh, như cu Tị, chị Lụa, vợ anh hàng
thịt, anh hàng thịt.
3. Kết quả màn đối thoại:
- Đế Thích chấp nhận nguyện vọng của Hồn Trương Ba, để cho cu T được sống lại, trả thân
xác cho anh hàng thịt n Trương Ba vĩnh viễn từ bỏ i trần.
- đoạn kết, Hồn Trương Ba nhập vào cảnh vật quen thuộc trong gia đình gắn trong
trái tim những người yêu thương ông. Trương Ba đã phục sinh linh hồn mình trong trái tim
của những người yêu thương. Linh hồn ông mãi mãi bất tử trong màu xanh cây vườn bất
tử trong những người yêu mến ông.
4. Ý nghĩa của triết của màn đối thoại:
Được sống m người quý giá thật nhưng được sống đúng mình, sống trọn vẹn những
giá trị mình vốn theo đuổi còn quý giá n.
Sự sống chỉ thực sự ý nghĩa khi con người được sống tự nhiên với sự i hòa giữa thể
xác và linh hồn. Tác giả Lưu Quang nhấn mạnh không thể một tâm hồn thanh cao
trong một thân xác phàm tục. Con người chỉ thực sự hạnh phúc khi được sống là chính mình,
được hoà hợp xác hồn, trong ngoài, nội dung hình thức trong một thể thống nhất
toàn vẹn chứ không phải cuộc sống chắp , bất nhất: bên trong một đằng, bên ngoài
một nẻo”.
Con người phải luôn biết đấu tranh với nghịch cảnh, với chính bản thân, chống lại sự dung
tục, để hoàn thiện nhân cách và vươn tới những giá trị tinh thần cao quý.
III. HỢP
1. Nội dung:
Hồn Trương Ba, da hàng thịt vở kịch nổi tiếng của tác giả Lưu Quang . Thành
công của không chỉ nội dung, xung đột kịch độc đáo, mà còn bởi giá trị tưởng,
triết u sắc được tác giả khéo léo gửi gắm trong tác phẩm. V kịch kết tinh tài năng,
tầm nhìn tấm lòng của Lưu Quang với cuộc đời. Giáo Phan Ngọc đã không tiếc
lời ngợi ca tác phẩm y người sinh thành ra nó: "Không ai bằng Vũ trong biệt tài
làm nên cái muôn thuở trong cái đời thường, biến c ch, huyền thoại thành truyện thời
sự, dùng cái để nói cái thực, dùng cái thô lỗ để khẳng định cái cao quý".
2. Nghệ thuật:
Làm n thành ng của đoạn trích nói riêng tác phẩm nói chung, u Quang đã
sử dụng một số thủ pháp nghệ thuật: ng tạo lại cốt truyện dân gian; xây dựng tình
huống, xung đột kịch độc đáo, hấp dẫn; đối thoại kịch đậm chất triết lí, giàu kịch nh,
tạo nên chiều sâu ý nghĩa cho vở kịch; hành động kịch của nhân vật phù hợp với tính
cách, hoàn cảnh, góp phần thúc đẩy tình huống, xung đột kịch phát triển; thủ pháp độc
thoại nội m giúp nhân vật bộc lộ tính cách quan niệm về lẽ sống đúng đắn; kết hợp
11
# LỚP VĂN THANH TUYỀN
yếu tố hoang đường, cấu với hiện thực, kết hợp tính hiện đại truyền thống. Tác
phẩm vừa sức phê phán mạnh mẽ lại vừa chất tr tình bay bổng.
C. KẾT I:
Hơn bốn mươi năm đã trôi qua nhưng c phẩm vẫn còn vẹn nguyên giá trị và sức cuốn
hút với bao thế hệ bạn đọc như thuở ban đầu. Những vấn đề Lưu Quang đặt ra trong
tác phẩm cho đến hôm nay vẫn còn nóng hổi tính thời sự. Tác phẩm một lời nhắc nhở,
cảnh tỉnh sâu sắc đối với muôn thế hệ con người trên con đường hoàn thiện nhân cách,
hướng tới những lẽ sống cao đẹp.
12
# LỚP VĂN THANH TUYỀN

Preview text:

Họ và tên: ……………………………. Lớp: ……….
HỒN TRƯƠNG BA, DA HÀNG THỊT -Lưu Quang Vũ- A. MỞ BÀI:
Mùa xuân năm 1975, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước kết thúc thắng lợi, đất nước
thống nhất trong nền độc lập, hòa bình. Cuộc sống với "muôn mặt đời thường" đã trở lại sau
chiến tranh. Nhiều vấn đề của đời sống văn hóa, nhân sinh mà trước đây do hoàn cảnh chiến
tranh chưa được chú ý, nay được đặt ra; nhiều quan niệm đạo đức phải được nhìn nhận lại
trong tình hình mới, nhiều yếu tố nảy sinh, nhất là khi đất nước bước vào công cuộc đổi mới.
Như một yếu tố khách quan, văn học cũng phải đổi mới. Vở kịch " Hồn Trương Ba, da
hàng thịt" của Lưu Quang Vũ đã đáp ứng được yêu cầu đó, đây được xem là một trong
những tác phẩm tiêu biểu nhất của văn học thời kì này. Qua tác phẩm, nhà văn đã truyền đi
bức thông điệp sâu sắc: Được sống làm người quí giá thật nhưng được sống đúng là mình,
sống trọn vẹn với những giá trị mà mình vốn có và theo đuổi lại càng quí giá hơn. Sự sống
chỉ thật sự có ý nghĩa khi con người được sống theo lẽ tự nhiên, hài hoà giữa thể xác và tinh
thần. Nêu vấn đề. B. THÂN BÀI: I. TỔNG
1. Tác giả: Lưu Quang Vũ (1948 - 1988)
- Là một nhà soạn kịch tài năng, một hiện tượng đặc biệt của nghệ thuật sân khấu nước ta
những năm tám mươi của thế kỉ trước.
- Nắm bắt được những vấn đề bức thiết, phản ánh được những vấn đề thời sự nóng bỏng
trong cuộc sống cũng như nhìn thấy những mâu thuẫn đang tồn tại nên kịch của Lưu Quang
Vũ đã nói lên được nguyện vọng của đông đảo mọi tầng lớp nhân dân. 1
# LỚP VĂN CÔ THANH TUYỀN
- Sức hấp dẫn lâu bền của kich bản Lưu Quang Vũ là chiều sâu của những giá trị muôn thuở
được thể hiện qua một ngôn ngữ kịch vừa đời thường vừa thấm đẫm chất thơ cùng màu sắc triết lý nhân sinh. 2. Tác phẩm:
- “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” viết năm 1981 nhưng đến năm 1984 mới ra mắt công
chúng. Đây là một trong những vở kịch đặc sắc nhất của Lưu Quang Vũ, được công diễn
nhiều lần ở trong nước và ngoài nước. Từ một cốt truyện dân gian, Lưu Quang Vũ đã xây
dựng thành công một vở kịch nói hiện đại, đặt ra nhiều vấn đề mới mẻ, có ý nghĩa tư tưởng,
triết lý và nhân văn sâu sắc.
- Trương Ba giỏi đánh cờ bị Nam Tào bắt chết nhầm. Vì muốn sửa sai nên Nam Tào và Đế
Thích đã cho hồn Trương Ba sống lại, nhập vào xác anh hàng thịt vừa chết. Khi trú nhờ
trong xác anh hàng thịt, Trương Ba gặp phải rất nhiều phiền toái: lí trưởng sách nhiễu, chị
hàng thịt đòi chồng, ngay đến gia đình của ông cũng cảm thấy xa lạ. . Bản thân Trương Ba
cũng đau khổ vì phải sống trái với tự nhiên. Đặc biệt là khi xác anh hàng thịt đã làm cho
Trương Ba nhiễm một vài thói xấu. Trước nguy cơ bị tha hóa, ông đã quyết định trả lại xác
cho anh hàng thịt, còn mình thì chấp nhận cái chết.
- Đoạn trích trong sách giáo khoa được trích từ cảnh VII và đoạn kết của vở kịch, đúng vào
lúc xung đột trung tâm của vở kịch lên đến đỉnh điểm. Sau mấy tháng sống trong tình trạng
“bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”, nhân vật Hồn Trương Ba ngày càng trở nên xa lạ
với bạn bè, người thân trong gia đình và tự chán ghét chính mình, muốn thoát ra khỏi nghịch cảnh trớ trêu. II. PHÂN
BI KỊCH CỦA TRƯƠNG BA QUA MÀN ĐỐI THOẠI HỒN – XÁC:
1. Giải thích khái niệm “bi kịch”:
- Bi kịch là sự mâu thuẫn, đối lập giữa hiện thực đời sống với khát vọng, mơ ước, mong
muốn con người, là sự chênh lệch giữa khát vọng thực hiện và khả năng thực hiện khát vọng.
- Nhân vật bi kịch thường bắt đầu là những con người lương thiện, hiền lành nhưng do vấp
phải một hoặc một chuỗi sai lầm do yếu tố chủ quan hoặc khách quan mang lại, họ biến
thành một con người khác đi và đánh mất bản ngã lương thiện ban đầu. Sau đó lại nhờ yếu
tố chủ quan hoặc khách quan đã từng đẩy họ vào đường cùng đó thức tỉnh, họ muốn hoàn
lương nhưng không có khả năng và không được ai giúp đỡ trên con đường hoàn lương nên
thường chịu kết cục bi thảm.
2. Bi kịch của Trương Ba qua màn đói thoại Hồn - Xác:
2.1. Bi kịch của Trương Ba trước hết là bi kịch về cái chết oan uổng:
Chuỗi bi kịch khởi đầu ở cái chết oan uổng của Trương Ba do sự tắc trách của quan trời.
Trương Ba là ông lão gần sáu mươi, thích làm vườn, giỏi đánh cờ, hiền lành, yêu thương vợ
con và tâm hồn trong sạch. Chỉ vì Nam Tào vội đi dự tiệc nên đã bắt chết nhầm. Đang sống
cuộc sống êm ấm với gia đình lại đột ngột chết đi, đây là một bi kịch đau lòng.
2.2. Được tái sinh trong cơ thể anh hàng thịt, hồn Trương Ba rơi vào bi kịch
không được là chính mình: 2
# LỚP VĂN CÔ THANH TUYỀN
- Theo lời khuyên của tiên cờ Đế Thích, Nam Tào, Bắc Đẩu "sửa sai", muốn trả lại công bằng
cho Trương Ba bằng cách cho Trương Ba sống lại. Không phải sống hoàn toàn mà là hồn
được tiếp tục sống trong thân xác của một người khác - anh hàng thịt vừa mới chết gần nhà.
Chính sự thay đổi này đã đẩy Trương Ba vào chuỗi bi kịch đầy đau khổ, dằn vặt. Con người
vốn là tổng thể thống nhất giữa linh hồn và xác thịt, thế nhưng Trương Ba lại được sống mà
không được là chính mình trọn vẹn.
- Trước khi diễn ra cuộc đối thoại giữa hồn và xác, nhà viết kịch đã để cho Hồn Trương Ba
ngồi ôm đầu một hồi lâu rồi vụt đứng dậy” với một lời độc thoại đầy khẩn thiết: “Không!
Không! Tôi không muốn sống như thế này mãi! Tôi chán cái chỗ ở không phải là của tôi
này lắm rồi!”. Hồn Trương Ba đang ở trong tâm trạng vô cùng bức bối, đau khổ thể hiện
trong những câu cảm thán ngắn, dồn dập cùng với ước nguyện khắc khoải. Hồn bức bối bởi
không thể nào thoát ra khỏi cái thân xác mà hồn ghê tởm. Hồn đau khổ bởi mình không còn
là mình nữa. Trương Ba bây giờ vụng về, thô lỗ, phũ phàng lắm. Hồn Trương Ba cũng càng
lúc càng rơi vào trạng thái tuyệt vọng.
- Còn gì đau khổ hơn khi con người không thể làm chủ được chính mình, ghê tởm thân xác
mình đang vay mượn, nhưng Hồn Trương Ba lại không thể thoát khỏi nó, vì ông cần đến nó
để tồn tại. Biết Hồn bị dồn vào thế bí, Xác đưa ra giao kèo thỏa hiệp để chung sống bằng
giọng ve vuốt mơn trớn: “Những lúc một mình một bóng, ông cứ việc nghĩ rằng ông có một
tâm hồn bên trong cao khiết, chẳng qua vì hoàn cảnh vì để sống mà ông phải nhân nhượng
tôi. Làm xong điều xấu ông cứ việc đổ tội cho tôi, để cho ông được thanh thản …miễn là…
ông vẫn làm đủ mọi việc thỏa mãn những thèm khát của tôi”. Xác sẽ “ve vuốt” Hồn bằng
cách thông cảm với “những trò chơi tâm hồn”, nhận hết mọi điều xấu miễn là Hồn vẫn “làm
đủ mọi việc để thỏa mãn thèm khát” của Xác. Nhận thức “lí lẽ ti tiện” của Xác, Hồn than
như là tuyệt vọng, bất lực kêu trời. Đó là một sự chấp nhận số phận trong nỗi đau đớn khôn
cùng muốn tìm đường thoát nhưng hoàn toàn vô vọng.
2.3. Bi kịch được đẩy lên đến đỉnh điểm khi hồn Trương Ba nhận ra sự tha hóa của chính mình:
- Trương Ba vốn là người làm vườn hiền lành, tốt bụng có lối sống trong sạch và tâm hồn
thanh cao, thú vui đánh cờ và niềm yêu say với thiên nhiên cây cỏ chính là minh chứng rõ
nhất ta nhìn thấy ở nhân vật này thế nhưng từ khi sống trong xác của anh hàng thịt thì người
làm vườn hiền lành lương thiện ấy dần thay đổi, dần trở nên bạo lực, bị tha hóa vào những
ham thú vật chất xô bồ, không mấy lành mạnh đứng đắn. Thông qua lời xác anh hàng thịt,
sự thay đổi ấy hiện ra ngay khi Trương Ba đứng gần vợ xác anh hàng thịt: “ Khi ông ở bên
nhà tôi… Khi ông đứng bên cạnh vợ tôi, tay chân run rẩy, hơi thở nóng rực, cổ nghẹn lại…
“Đêm hôm đó, suýt nữa thì…” Đó là cảm giác “xao xuyến” “lâng lâng cảm xúc” mà trước
đây Hồn cho là “phàm”. Với bằng chứng cụ thể, Hồn xấu hổ và kiên quyết phủ định: “
mày chứ, chân tay mày, hơi thở mày”. Xác vừa khẳng định vừa hỏi xoáy lại để tấn công tiếp:
Thì tôi có ghen đâu! Ai lại đi ghen với chính thân thể mình…nhưng ta nên thành thực:
Chẳng lẽ ông không xao xuyến chút gì? Để thỏa mãn tôi, chẳng nhẽ ông không tham dự
chút đỉnh gì?” Như vậy Xác dẫn dắt Hồn vào sự thật không thể phủ nhận – Hồn ít nhiều đã
bị vấy bẩn, tha hóa bởi dục vọng của thân xác. Xác anh hàng thịt gợi lại tất cả những sự 3
# LỚP VĂN CÔ THANH TUYỀN
thật ấy khiến Hồn càng thấy xấu hổ, cảm thấy mình ti tiện. Lí lẽ của Xác khơi trúng điểm
đen mà lâu nay vì trú ngụ trong Xác anh hàng thịt, Hồn Trương Ba trong khiết đã bị hóa
màu. Hồn đuối lý bất lực bèn la to, ra lệnh áp chế thể xác để che giấu sự lúng túng, bối rối,
do dự, yếu thế của mình “Ta…ta… đã bảo là mày im đi!” Lời thoại của Hồn ngập ngừng lí
lẽ như bị hụt hơi. Hồn bị dồn vào chân tường để buộc phải công nhận sự chế ngự của Xác.
Xác khẳng định một lần nữa: “Hai ta đã hòa làm một rồi”. Xác nhấn vào sự thật đau đớn
mà Hồn đang muốn trốn chạy, muốn phủ nhận, đẩy tình huống kịch lên cao trào.
- Hồn chỉ còn cố gắng biện minh chống chế cứu vãn: “Ta vẫn có một đời sống riêng: nguyên
vẹn, trong sạch, thẳng thắn…”. Xác vẫn không buông tha, tấn công bằng sự mỉa mai “Khi
ông phải tồn tại nhờ tôi, chiều theo những đòi hỏi của tôi, mà còn nhận là nguyên vẹn,
trong sạch, thẳng thắn!”. Trước sự thực không sao chối cãi, Hồn phản ứng tiêu cự bằng
cách “bịt tai lại”. Đó là nỗ lực chối bỏ trong tuyệt vọng hoàn toàn bế tắc. Xác tiếp tục dùng
lời lẽ hiểm hóc sắc lẹm như dao mổ, phanh trần nỗi đau đang tấy mủ trong Hồn. Đó là nhờ
sức mạnh của Xác mà Hồn có thể: “tát thằng con ông tóe máu mồm máu mũi”. Mặc dù cố
bịt tai, nhưng khi nghe Xác nói như vậy Hồn phải lên tiếng chối bỏ “sức mạnh làm ta trở
thành tàn bạo”. Xác khôn ngoan biết là lỡ lời nên biện minh cho mình bằng những lí lẽ: “là
hoàn cảnh” “cũng đáng được quý trọng”, không có tội. Hồn chỉ còn phản ứng yếu ớt: “Nhưng. .Nhưng”.
3. Ý nghĩa triết lý của tác phẩm:
- Từ tình huống kịch oái oăm rơi vào cảnh ngộ người nông dân Trương Ba, đối thoại giữa
hồn Trương Ba và xác hàng thịt gợi cho người đọc nghĩ tới hàm ý sâu xa tác giả muốn gửi
gắm. Linh hồn và thể xác là hai phương diện tồn tại trong mỗi con người. Có thể nào sống
mà không cần đến dáng hình, thân thể? Nhưng lẽ nào đời sống của con người chỉ thu gọn lại
trong những nhu cầu thuần tuý bản năng? Đừng “bỏ bê” thân xác để chỉ biết đến một thứ
linh hồn chung chung trừu tượng không thuộc về một ai trên cõi thế gian này. Cũng đừng
chỉ chạy theo những khát thèm của thân xác mà trở về với hồng hoang nguyên thuỷ. Cuộc
đấu tranh giữa linh hồn và xác thịt chính là cuộc đấu tranh giữa đạo đức và tội lỗi, giữa khát
vọng và dục vọng, giữa phần “người” và phần “con” trong mỗi con người. Một bên đại diện
cho những gì đẹp đẽ, thanh cao; một bên đại diện cho sự thô tục, thô phàm. Tác giả Lưu
Quang Vũ nhấn mạnh không thể có một tâm hồn thanh cao trong một thân xác phàm tục.
Con người chỉ thực sự hạnh phúc khi được sống là chính mình, được hoà hợp xác và hồn,
trong và ngoài, nội dung và hình thức trong một thể thống nhất toàn vẹn chứ không phải là
cuộc sống chắp vá, bất nhất: “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”.
- Đoạn trích còn là lời nhắc nhở sâu sắc của nhà văn về tầm quan trọng của việc được là
chính mình: Được sống làm người quý giá thật nhưng được sống đúng là mình, sống trọn
vẹn những giá trị mình vốn có và theo đuổi còn quý giá hơn. Sự sống chỉ thực sự có ý nghĩa
khi con người đựợc sống tự nhiên với sự hài hoà giữa thể xác và tâm hồn. Con người phải
luôn luôn biết đấu tranh với những nghịch cảnh, với chính bản thân, chống lại sự dung tục,
để hoàn thiện nhân cách và vươn tới những giá trị tinh thần cao quý.
PHÂN TÍCH MÀN ĐỐI THOẠI HỒN – XÁC:
1. Nguyên nhân dẫn đến màn đối thoại: 4
# LỚP VĂN CÔ THANH TUYỀN
- Do phải sống nhờ thể xác của hàng thịt, hồn Trương Ba đành chiều theo một số nhu cầu
hiển nhiên của xác thịt. Linh hồn nhân hậu, trong sạch, bản tính ngay thẳng của Trương Ba
xưa kia, nay phải sống mượn, lệ thuộc nên không sai khiến được xác thịt thô phàm của anh
hàng thịt mà trái lại còn bị nhiễm độc bởi cái tầm thường, dung tục. Nên linh hồn Trường
Ba dằn vặt, đau khổ, quyết chống trả bằng cách tách ra khỏi xác thịt để tồn tại độc lập,
không lệ thuộc vào thân xác.
- Mở đầu đoạn trích là màn độc thoại của Hồn Trương Ba. Tác giả để Trương Ba ngồi ôm
đầu một hồi lâu rồi vụt đứng dậy tuôn ra một tràng độc thoại đầy đau khổ: “Không! Không!
Tôi không muốn sống như thế này mãi! Tôi chán cái chỗ ở không phải là của tôi này lắm
rồi! Cái thân thể kềnh càng thô lỗ này, ta bắt đầu sợ mi, ta chỉ muốn rời xa mi tức khắc!
Nếu cái hồn của ta có hình thù riêng nhỉ, để nó được tách khỏi thân xác này, dù chỉ một lát”.
Lời độc thoại cho thấy con người đang ở trạng thái u uất, bế tắc, không lối thoát. Hồn đau
khổ, dằn vặt, quẫn bách đến cùng cực, không thể chịu đựng dày vò hơn được nữa. Và trong
sự khát khao tách bạch ấy, hồn đã được tách ra khỏi thể xác vốn không phải của hồn và màn đối thoại bắt đầu.
2. Diễn biến màn đối thoại: a. Chặng 1:
- Sau khi tách ra khỏi thể xác, hồn và xác bắt đầu cho cuộc đối thoại. Xác mở đầu cho cuộc
đối thoại, xác xoáy vào hiện thực bi kịch của Hồn: “linh hồn mờ nhạt khốn khổ kia ơi, ông
không tách ra khỏi tôi được đâu”. Giọng của xác là giọng đắc thắng, đầy ngạo mạn, trịch
thượng và khiêu khích. Thấy xác có tiếng nói, Hồn rất ngạc nhiên và buông lời lẽ cay
nghiệt, mắng mỏ xác: “A, mày cũng có tiếng nói kia à. Vô lý, mày không có tiếng nói, mà
chỉ là xác thịt âm u đui mù”. Xác cũng không vừa: “ông đã biết tiếng nói của tôi rồi, đã
luôn luôn bị tiếng nói ấy sai khiến”, “Chính vì âm u đui mù mà tôi có sức mạnh ghê gớm,
lấn át cả linh hồn cao khiết của ông đấy”. Hồn bị châm chọc nên vô cùng tức giận, lớn tiếng
phủ định tiếng nói của Xác: “Nói láo, mày chỉ là vỏ bề ngoài, không có ý nghĩa gì hết,
không có tư tưởng, không có cảm xúc”. Xác hỏi lại đầy thách thức: “Có thật thế không?”.
Hồn chùn và đuổi lí, buộc phải dần đồng tình, xác nhận sự ảnh hưởng của Xác “nếu có, thì
chỉ là những thứ thấp kém, mà bất cứ con thú nào cũng có được: thèm ăn ngon, thèm rượu
thịt”. Đằng sau lời thoại này Hồn dường như câm lặng, mặc cho xác mắng mỏ, xúc phạm.
- Bắt đầu từ đây, xác bắt đầu tấn công hồn một cách đầy khiêu khích, bỡn cợt. Những lí lẽ mà
xác hàng thịt đưa ra để tranh cãi với hồn Trương Ba là xác đáng: Xác hàng thịt dù có đui mù,
âm u nhưng có khả năng lấn át, sai khiến linh hồn cao khiết. Hồn trương Ba dù cao khiết
nhưng đã bị nhiễm những thói xấu, bị tha hoá. Việc làm của Trương Ba có tham dự của xác
hàng thịt. Xác dẫn dắt Hồn vào sự thật không thể phủ nhận - Hồn ít nhiều đã bị vấy bẩn, tha
hóa bởi dục vọng của thân xác: “Khi ông ở bên nhà tôi. . Khi ông đứng bên cạnh vợ tôi, tay
chân run rẩy, hơi thở nóng rực, cổ nghẹn lại. . Đêm hôm đó, suýt nữa thì. . ”. Xác đã nhắc
lại sinh động, tường tận dục vọng vật chất thấp hèn càng bồi thêm nỗi dằn vặt vì sự thật
nhỡn tiền, phũ phàng. Dục vọng tầm thường ấy trước đây Trương Ba nào có. Hồn phải xuôi
theo những lời buộc tội của Xác, bị Xác sai khiến làm cho đứng trước món ăn dung tục “tiết
canh, cổ hũ, khấu đuôi” cũng khiến cho Trương Ba “lâng lâng cảm xúc”. 5
# LỚP VĂN CÔ THANH TUYỀN
Lí lẽ của Xác khơi trúng tim đen mà lâu nay vì trú ngụ trong Xác hàng thịt,
Hồn Trương Ba trong khiết đã hóa màu. Hồn vì thế bất lực, chống đối yếu ớt: “Ta. . ta
đã bảo mày im đi”. Lời nói ngập ngừng như lí lẽ bị hụt hơi. Hồn bị dồn vào chân tường
để buộc phải công nhận sự chế ngự của thể xác. b. Chặng 2:
– Hồn Trương Ba cố gắng đưa ra lý lẽ để cứu vãn: “Không! Ta vẫn có một đời sống
riêng: nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn…”. Hồn dù đau khổ nhưng vẫn cương quyết tin
vào sự tồn tại của mình, tin vào bản thân mình. Lời quả quyết "Không!" đầy khảng khái và
mạnh mẽ, thể hiện ý chí và niềm tin tưởng tuyệt đối của Hồn về nhân cách, lối sống mà
chính mình luôn gìn giữ. Trước mọi đổi thay bất ngờ và dồn nén, Hồn vẫn tin vào "đời sống
riêng" mà mình xây dựng, một đời sống của người làm vườn lương thiện, nhãn nhặn, trầm
tĩnh và chưa bao giờ để những thứ dung tục hoà vào cuộc sống của mình.
+ Nhưng đứng trước lời khẳng định chắc nịch ấy, xác anh hàng thịt cười nhạo, mỉa mai,
chế giễu vào cái lí lẽ yếu đuối ấy của tâm hồn và khẳng định vai trò của mình: “ Nực cười
thật! Khi ông phải tồn tại nhờ tôi, chiều theo những đòi hỏi của tôi, mà còn nhận là nguyên
vẹn, trong sạch, thẳng thắn!”. Xác hàng thịt nhìn cuộc sống mình đang có bằng góc nhìn
thực tế và có phần bàng quan với mọi nỗ lực gìn giữ nhân cách của Hồn Trương Ba. Đối với
Xác, sự tồn tại của Xác đã làm thay đổi cuộc sống của linh hồn, dù cho Hồn Trương Ba có
cố gắng phủ nhận đến mức nào, thì sự thật: Xác đã điều khiển, dẫn dắt Hồn chiều theo
những ý muốn thô thiển, dung tục của Xác.
+ Xác khẳng định sự thật phũ phàng: “Chẳng có cách nào chối bỏ tôi được đâu! Mà
đáng lẽ ông phải cảm ơn tôi. Tôi đã cho ông sức mạnh. Ông có nhớ hôm ông tát thằng con
ông toé máu mồm máu mũi không? Cơn giận của ông lại có thêm sức mạnh của tôi…”.
Từng lý lẽ được đưa ra vô cùng thuyết phục bởi cách dùng từ tự nhiên mà độc đáo, gãy gọn
nơi "Cây bút vàng" của sân khấu kịch Việt Nam. Xác dần chiếm thế và mạnh mẽ khẳng
định: "Chẳng có cách nào chối bỏ tôi được đâu!", dập tắt mọi hy vọng đang le lói trong
Hồn Trương Ba. Xác muốn dùng lời lẽ, sự thực để đè nén, chiến thắng mọi khát vọng mà
Hồn đang nung nấu. Xác hiểu rõ sự chính trực của Hồn, hiểu được Hồn không bao giờ chấp
nhận và thừa nhận về sự có mặt và điều khiển của Xác, vì thế, Xác đã chọn cách nói vừa
giễu cợt, vừa mỉa mai để xoáy một nhát dao cứa sâu vào tâm can của Hồn. Khi nhắc đến
đứa con trai, Xác cố tình nhấn mạnh cơn giận có đầy đủ sức mạnh của Xác để " tát thằng
con ông toé máu mồm máu mũi". Xác dùng chính hành động bạo tàn ấy để kéo Hồn về với
sự thật đang hiện diện trong chính gia đình Trương Ba, để Hồn chấp nhận sự tồn tại và có
mặt hiển nhiên của Xác vào lúc này.
⇨ Như vậy, đối với Hồn, Xác rất quan trọng vì nếu không có Xác, Hồn sẽ không có
chốn dung thân và ngược lại nếu không có Hồn thì Xác cũng chỉ “âm u đui mù”. Lý
lẽ của Xác giúp chúng ta nhận ra rằng xác hoàn toàn không vô nghĩa, nó có sức
mạnh riêng và nó có thể thay đổi nhân cách một con người, biến đổi một con người 6
# LỚP VĂN CÔ THANH TUYỀN
theo ý mình. Xác đã buộc hồn phải thay đổi thái độ từ cao ngạo, khinh bỉ đến lúng
túng và yếu ớt thừa nhận sự sống của thân xác. c. Chặng 3:
- Nhận biết Hồn bị dồn vào thế bí, xác đưa ra giao kèo nhằm thỏa hiệp để chung sống bằng
giọng nhẹ nhàng, vuốt ve hồn, xác chủ động đưa ra đề nghị: “Những lúc một mình lẻ bóng,
ông cứ việc nghĩ rằng ông có một tâm hồn bên trong cao khiết, chẳng qua vì hoàn cảnh, vì
để sống mà ông phải nhân nhượng tôi. Làm xong một điều xấu ông cứ đổ lỗi cho tôi, để ông
được thanh thản… miễn là… ông vẫn làm đủ mọi việc thỏa mãn những thèm khát của tôi.
- Hồn Trương Ba nhận thức được “lí lẽ ti tiện” của Xác nhưng dần đuối lí và đau khổ nhận ra
sự chế ngự của thể xác, kêu lên tuyệt vọng “Trời!”. Hồn đã từng nghĩ chỉ cần Hồn luôn gìn
giữ sự cao cả và trong sạch trong cốt cách thì Xác sẽ không bao giờ chiếm hữu được linh
hồn cao khiết ấy, vì Hồn và Xác là những thể riêng biệt. Thế nhưng, qua từng minh chứng,
qua từng điều mà Hồn cùng Xác đã trải qua, Hồn chua chát nhận ra Hồn không thể nào điều
khiển Xác dừng lại, Hồn chỉ với suy nghĩ và lý tưởng của mình không đủ sức mạnh để ngăn
Xác làm càn, ngăn Xác sống với cuộc đời vốn dĩ chỉ là của riêng Xác.
⇨ Phải sống nhờ vào những yếu tố vật chất bên ngoài, không được sống đúng với con
người thực của mình, hoàn toàn phụ thuộc vào hoàn cảnh sống dung tục, bị nó chi
phối, sai khiến là một trong những bi kịch đau đớn nhất của con người. Hồn đành
chấp nhận số phận trong nỗi đau đớn khôn cùng, muốn tìm đường thoát nhưng hoàn
toàn vô vọng. Tới đây, màn đối thoại kết thúc, Trương Ba bần thần nhập lại vào xác anh hàng thịt.
3. Kết quả của màn đối thoại:

- Hồn Trương Ba có cử chỉ, điệu bộ lúng túng; lời thoại ngắn; giọng điệu thanh minh yếu ớt,
tội nghiệp thể hiện sự khổ sở, bức bối, xấu hổ khi nhận thấy mình ngày càng mất dần đi sự
thanh cao. Hồn muốn tách ra để có đời sống riêng độc lập, không phụ thuộc vào xác nhưng bất lực.
- Còn Xác hàng thịt biết rõ sự lệ thuộc của Hồn nên đã cười nhạo, ve vẫn, phỉnh nịnh, thỏa
hiệp hồn hãy theo mình bằng những lí lẽ sắc sảo, chặt chẽ. Giọng điệu khi mỉa mai, khi cao
ngạo, khi châm chọc, chê cười.
4. Ý nghĩa triết lý của màn đối thoại:
- Hai hình tượng hồn Trương Ba và xác hàng thịt ở đây mang ý nghĩa ẩn dụ. Một bên đại điện
cho sự trong sạch, nhân hậu và khát vọng sống thanh cao, xứng đáng với danh nghĩa con
người (Hồn) và một bên là sự tầm thường, dung tục (Xác). Nội dung cuộc đối thoại xoay
quanh một vấn đề giàu tính triết lí, thể hiện cuộc đấu tranh dai dẳng giữa hai mặt tồn tại
trong một con người. Từ đó nói lên khát vọng hướng thiện của con người và tầm quan trọng
của việc tự ý thức, tự chiến thắng bản thân.
- Qua đó ta thấy: Trương Ba được sống nhưng là sống nhờ sống gửi, sống vay mượn đáng hổ
thẹn vì phải chung đụng với sự dung tục và bị sự dung tục đồng hoá. Tác giả cảnh báo:
“Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”. Khi con người phải sống trong dung tục thì cái dung 7
# LỚP VĂN CÔ THANH TUYỀN
tục sẽ ngự trị, sẽ dần thắng thế, lấn át và sẽ tàn phá những gì trong sạch, đẹp đẽ, cao quý trong con người.
- Cuộc sống thì đáng quý, được sống là hạnh phúc nhưng được sống là mình là điều đáng quý
hơn. Muốn vậy, phải sống hài hòa giữa thể xác và linh hồn, hài hòa giữa cái bên trong và cái
bên ngoài, giữa nội dung và hình thức. Sống hợp với lẽ tự nhiên. Không thể có một linh hồn
thanh cao trong một thân xác phàm tục, tội lỗi. Đừng bao giờ cho rằng tâm hồn là thứ đáng
quý nên chỉ biết chăm lo cho tâm hồn mà không chú ý đến những giá trị vật chất. Hay cũng
đừng quan tâm đến thể xác mà bỏ bê đời sống tâm hồn. Hồn và Xác cả hai đều đáng quý. Vì
vậy, hãy dung hòa phần con và phần người để trở thành con người đúng nghĩa. Có lẽ nhận
thức được điều này nên cuối vở kịch, Hồn Trương Ba đã quyết tâm trả xác cho anh hàng thịt
để trở về với chính mình “vẹn nguyên, trong sạch, thẳng thắn”.
PHÂN TÍCH MÀN ĐỐI THOẠI GIỮA HỒN TRƯƠNG BA VÀ ĐẾ THÍCH:
1. Nguyên nhân dẫn đến màn đối thoại giữa Trương Ba và Đế Thích:
Do phải sống nhờ thể xác của hàng thịt, hồn Trương Ba phải chiều theo một số nhu cầu
hiển nhiên của xác thịt. Linh hồn nhân hậu, trong sạch, bản tính ngay thẳng của Trương Ba
xưa kia, nay phải sống mượn, lệ thuộc nên bị nhiễm độc bởi sự tầm thường, dung tục của
xác thịt thô phàm. Thấm thía nghịch cảnh của bi kịch sống không được là chính mình và bi
kịch bị chính những người thân yêu cự tuyệt – Trương Ba đã quyết định châm nhang gọi Đế
Thích để quyết chết trả lại sự trong sạch, vẹn nguyên của linh hồn.
2. Nội dung cuộc đối thoại giữa Trương Ba và Đế Thích:
a. Phần đầu của màn đối thoại là cuộc tranh luận về quan niệm sống của Trương Ba
và Đế Thích. Qua cuộc tranh luận ấy, tác giả đề cao quan điểm sống – “phải sống là chính mình”.
- Mở đầu là lời độc thoại: “Mày đã thắng thế rồi đấy, cái thân xác không phải của ta ạ…
Nhưng lẽ nào ta lại chịu thua mày, khuất phục mày và tự đánh mất mình?”. Lời độc thoại
cho thấy cuộc đấu tranh nội tâm vô cùng dữ dội ở Trương Ba. Thực ra cuộc đấu tranh đó đã
được tác giả Lưu Quang Vũ gửi gắm qua màn đối thoại giữa Trương Ba và xác hàng thịt.
Đó là cuộc đấu tranh giữa xác và hồn; giữa cao cả và đê hèn; giữa tốt và xấu; giữa cao
thượng và dung tục; giữa khát vọng và dục vọng. Đó cũng là cuộc đấu tranh để hoàn thiện
nhân cách. Cuộc đấu tranh này phần thắng nghiêng về xác nhưng bản thân hồn Trương Ba
đã không chịu lép vế, không khuất phục mà đã tìm mọi cách để được sống là chính mình –
đây chính là nhân cách cao đẹp của Trương Ba.
- Trương Ba bày tỏ nguyện vọng với Đế Thích: “Tôi không thể tiếp tục mang thân anh
hàng thịt được nữa, không thể được!”. Lời thoại có tới hai lần phủ định “tôi không thể”;
“không thể được” cho thấy quyết tâm rời bỏ xác hàng thịt là ý chí sắt đá của Trương Ba khi
thấm thía nghịch cảnh trớ trêu của mình.
- Tiếp đến Trương Ba nêu lên đòi hỏi chính đáng cũng như quan điểm sống cao đẹp –
sống phải là chính mình: Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi
muốn được là tôi toàn vẹn”. Câu nói thể hiện nghịch cảnh của Trương Ba, sự bất nhất của
cái bên trong và cái bên ngoài: “bên trong” chính là linh hồn, cảm xúc, tư tưởng, nhân cách 8
# LỚP VĂN CÔ THANH TUYỀN
cao đẹp của Trương Ba. Hồn là sự tinh anh chi phối điều khiển thể xác. Đối lập bên trong là
“bên ngoài” – xác thịt thô phàm của anh hàng thịt. Nhưng “cái bên ngoài” cần hiểu theo
nghĩa rộng là hoàn cảnh sống, là bản năng, là nhu cầu tự nhiên, là dục vọng bản năng. Sự
tha hóa của linh hồn Trương Ba chính là do linh hồn đã nhượng bộ, đã tự bán mình, tự thỏa
hiệp với nhu cầu bản năng. Đây chính là sự dằn vặt, đau khổ, trăn trở của Trương Ba. Cả hai
không thể hoà hợp bởi không thể có một tâm hồn thanh cao trong một thể xác phàm tục tội lỗi.
- Từ đó, Trương Ba lên tiếng đòi nhu cầu chính đáng của bản thân: “Tôi muốn được là
tôi toàn vẹn”. Đây là khát vọng mãnh liệt của Trương Ba, khát vọng được sống hòa hợp.
“Toàn vẹn” nghĩa là phải có sự hòa hợp giữa bên trong và bên ngoài, giữa nội dung và hình
thức, giữa thể xác và linh hồn. Không thể có cuộc sống nào mà “hồn này xác kia” được.
Cuộc sống không thuận theo lẽ tự nhiên, không thuận theo tạo hóa, sống mà không được là
chính mình thì đó là một bi kịch nghiệt ngã.
- Trước những yêu cầu của Trương Ba, Đế Thích lại lập luận rằng: Trương Ba nên
chấp nhận cuộc sống ấy vì “dưới đất trên trời đều thế cả”. Đế Thích chỉ ra rằng không chỉ
Trương Ba đang sống trong cảnh trong ngoài bất nhất, mà mọi người đều như thế cả. Vì vậy
Đế Thích khuyên Trương Ba đừng cố gắng làm viên bi lăn ngược vòng mà hãy chấp nhận,
hãy biết cách thỏa hiệp, học cách chấp nhận. Đế Thích đã lấy tâm lý đám đông để áp đặt lên
quan điểm sống của mình. Đế Thích lấy dẫn chứng về chính ông ta và Ngọc Hoàng cũng
không thể sống là chính mình: “Ở bên ngoài, tôi đâu có được sống theo như những gì tôi
nghĩ ở bên trong. Mà cả Ngọc Hoàng nữa. Chính người lắm khi cũng phải khuôn ép mình
cho xứng với danh vị Ngọc Hoàng”. Như vậy, theo Đế Thích thì: “không ai được sống là
chính mình”. Bởi sống có nghĩa là tồn tại, còn tồn tại như thế nào thì còn do hoàn cảnh, điều
kiện mà con người buộc phải quy thuận. Đây là quan niệm sống sai lầm đáng lên án.
- Trương Ba bắt đầu đổi giọng lên án Đế Thích: Sống nhờ vào đồ đạc, của cải của
người khác, đã là chuyện không nên, đằng này cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng
thịt”. Trương Ba đưa ra sự so sánh đồ đạc, vật chất và bản thân. Đồ đạc, của cải vật chất
mượn của người khác đã là chuyện không nên; còn sống nhờ, sống gửi, sống ký sinh vào
thân xác của kẻ khác là điều xấu hổ đáng lên án. Trương Ba thẳng thắn: “Ông chỉ nghĩ đơn
giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết!”. Lời thoại đã chỉ trích
quan niệm sai lầm của Đế Thích bởi suy nghĩ đơn giản về cuộc sống. Với Đế Thích, sống là
tồn tại còn tồn tại như thế nào thì không cần biết. Với Trương Ba, sống không chỉ là sự tồn
tại sinh học mà sự tồn tại ấy còn phải là sự tồn tại có ý nghĩa.
=> Những lời thoại của Trương Ba và Đế Thích ở phần này chủ yếu thiên về cuộc đấu
tranh của Trương Ba – đó là cuộc đấu tranh vượt lên nghịch cảnh để chiến thắng bản
thân bảo vệ linh hồn cao đẹp.
b. Phần sau của màn đối thoại chủ yếu thông qua cuộc đấu tranh “tồn tại hay không
tồn tại”. Cuộc đấu tranh này toát lên nhân cách cao thượng và đức hi sinh của Trương Ba:
- Tiếp đến Trương Ba bày tỏ nguyện vọng: Thân thể anh hàng thịt còn lành lặn nguyên
xi đây, tôi trả lại cho anh ta. Ông hãy làm cho hồn anh ta được sống lại với thân xác này ”.
Nhưng Đế Thích bác bỏ vì Đế Thích cho rằng tâm hồn đáng quý của Trương Ba không thể 9
# LỚP VĂN CÔ THANH TUYỀN
thay thế cho phần hồn tầm thường của anh hàng thịt. Trương Ba lập luận rằng: “ Tầm
thường, nhưng đúng là của anh ta… chúng sinh ra là để sống với nhau”. Để khẳng định với
quyết tâm của mình Trương Ba trở nên mạnh mẽ: “Nếu ông không giúp, tôi sẽ nhảy xuống
sông hay đâm một nhát dao vào cổ, lúc đó thì hồn tôi chẳng còn, xác anh hàng thịt cũng
mất”. Ý chí mạnh mẽ của Trương Ba xuất phát từ khát vọng “được sống là chính mình”, và
để “được sống là chính mình” lúc này, Trương Ba không có con đường nào khác là cái chết.
Vì chỉ khi chết đi, ông mới thực sự là chính mình, mới hoàn nguyên được vẻ đẹp cao khiết
của linh hồn mình. Với Trương Ba, thiên đường đẹp nhất để linh hồn có thể trú ngụ sau khi
chết chính là phục sinh trong trái tim của những người yêu quý ông.
- Lưu Quang Vũ đặt Trương Ba vào một tình huống kịch độc đáo. Sự việc cu Tị, con
trai độc nhất của chị Lụa chết đã làm cho cuộc đối thoại mang tính bước ngoặt.
+ Đế Thích muốn Trương Ba nhập hồn vào xác cu Tị: “Ông sống trong thân xác thằng bé
chắc sẽ ổn”. Câu nói này của Đế Thích một lần nữa cho thấy lối suy nghĩ đơn giản, phiến
diện – sống là sự tồn tại. Thực chất của lối suy nghĩ này là xuất phát từ chính cuộc sống của
Đế Thích. Tiên phật thánh thần chẳng bao giờ chết cho nên sống là để hưởng thụ. Lối sống
này ảnh hưởng trực tiếp lên tư tưởng ấy dẫn đến những sai lầm của Đế Thích.
+ Trước yêu cầu của Đế Thích, Trương Ba ngập ngừng: “Ông cho tôi suy nghĩ một lát đã”.
Sự phân vân của Trương Ba cho thấy: sống là đáng quý thật, được tồn tại mãi mãi là điều
còn quý giá hơn. Sự phân vân này cũng cho thấy Trương Ba rất ham sống, vẫn muốn được
sống. Trương Ba lại tiếp tục trải qua cuộc đấu tranh nội tâm dữ dội. Ông hình dung thấy
trước mắt là cuộc sống tương lai của mình trong cơ thể của một thằng bé lên mười: “ Có khi
tôi còn phải sang nhà chị Lụa ở… Bà vợ tôi, các con tôi sẽ nghĩ ngợi, xử sự thế nào, khi
chồng mình, bố mình mang thân một thằng bé lên mười…”. Trương Ba thấy mọi sự vô lí
nhất là khi ông nhìn thấy được sự cô đơn của bản thân khi: “Vẫn phải sống suốt bao năm
tháng dằng dặc. Mình tôi giữa đám người hậu sinh… Tôi sẽ như ông khách ngồi ở nhà
người ta… Tôi sẽ bơ vơ lạc lõng”. Điều khiến chúng ta trân trọng ở Trương Ba đó chính là
tâm hồn ông cao thượng: “Tôi không thể cướp cái thân thể non nớt của cu Tị” và cũng chính
cái chết của cu Tị cùng với khát vọng được cứu sống thằng bé đã khiến Trương Ba trở nên
mạnh mẽ. Trương Ba lên tiếng khẩn khoản cầu cứu Đế Thích “Ông hãy cứu nó! Ông phải
cứu nó! … vì con trẻ… Ông hãy giúp tôi lần cuối cùng”.
+ Đế Thích vẫn muốn Trương Ba tiếp tục tồn tại nhưng Trương Ba đã thẳng thắn chỉ ra sai
lầm của Đế Thích: “Có những cái sai không thể sửa được. Chắp vá gượng ép chỉ càng làm
sai thêm. Chỉ có cách là đừng bao giờ sai nữa, hoặc phải bù bằng một việc đúng khác”.
Ông cũng khuyên nhủ Đế Thích phải làm cho bằng được việc đúng, đó chính là làm cho cu
Tị được sống lại”. Những suy nghĩ tốt đẹp của Trương Ba và đức hi sinh cao thượng của
ông cuối cùng cũng thay đổi được tư duy của Đế Thích. Cu Tị được sống còn Trương Ba trở
về với chính mình chứ không còn là “cái vật quái gở mang tên hồn Trương Ba, da hàng thịt nữa”.
=> Có những bi kịch mang cho ta nhiều nghẹn ngào, nhưng cũng có những bi kịch làm
trái tim ta thổn thức, trân trọng. Bi kịch của Hồn Trương Ba chính là như thế, vừa
khiến ta trăn trở, nhưng cũng làm ta rung động. Hồn Trương Ba đau khổ, quyết định
lựa chọn cái chết để giải phóng cho mình một mặt xuất phát từ nhu cầu nội tại của bản 10
# LỚP VĂN CÔ THANH TUYỀN
thân, mặt khác xuất phát từ tấm lòng vị tha, trái tim nhân hậu, cao thượng: mong
muốn giải thoát nỗi khổ đau cho những người thân yêu; muốn ngăn chặn nguy cơ gia
đình “tan hoang” do tác động, ảnh hưởng tiêu cực từ chính mình; muốn đem lại niềm
vui, niềm hạnh phúc cho những người xung quanh, như cu Tị, chị Lụa, vợ anh hàng
thịt, anh hàng thịt.
3. Kết quả màn đối thoại:
- Đế Thích chấp nhận nguyện vọng của Hồn Trương Ba, để cho cu Tị được sống lại, trả thân
xác cho anh hàng thịt còn Trương Ba vĩnh viễn từ bỏ cõi trần.
- Ở đoạn kết, Hồn Trương Ba nhập vào cảnh vật quen thuộc trong gia đình và gắn bó trong
trái tim những người yêu thương ông. Trương Ba đã phục sinh linh hồn mình trong trái tim
của những người yêu thương. Linh hồn ông mãi mãi bất tử trong màu xanh cây vườn và bất
tử trong những người yêu mến ông.
4. Ý nghĩa của triết lý của màn đối thoại:
– Được sống làm người quý giá thật nhưng được sống đúng là mình, sống trọn vẹn những
giá trị mình vốn có và theo đuổi còn quý giá hơn.
– Sự sống chỉ thực sự có ý nghĩa khi con người được sống tự nhiên với sự hài hòa giữa thể
xác và linh hồn. Tác giả Lưu Quang Vũ nhấn mạnh không thể có một tâm hồn thanh cao
trong một thân xác phàm tục. Con người chỉ thực sự hạnh phúc khi được sống là chính mình,
được hoà hợp xác và hồn, trong và ngoài, nội dung và hình thức trong một thể thống nhất
toàn vẹn chứ không phải là cuộc sống chắp vá, bất nhất: “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”.
– Con người phải luôn biết đấu tranh với nghịch cảnh, với chính bản thân, chống lại sự dung
tục, để hoàn thiện nhân cách và vươn tới những giá trị tinh thần cao quý. III. HỢP 1. Nội dung:
Hồn Trương Ba, da hàng thịt” là vở kịch nổi tiếng của tác giả Lưu Quang Vũ. Thành
công của nó không chỉ ở nội dung, xung đột kịch độc đáo, mà còn bởi giá trị tư tưởng,
triết lí sâu sắc được tác giả khéo léo gửi gắm trong tác phẩm. Vở kịch là kết tinh tài năng,
tầm nhìn và tấm lòng của Lưu Quang Vũ với cuộc đời. Giáo sư Phan Ngọc đã không tiếc
lời ngợi ca tác phẩm này và người sinh thành ra nó: "Không ai bằng Vũ trong biệt tài
làm nên cái muôn thuở trong cái đời thường, biến cổ tích, huyền thoại thành truyện thời
sự, dùng cái hư để nói cái thực, dùng cái thô lỗ để khẳng định cái cao quý". 2. Nghệ thuật:
Làm nên thành công của đoạn trích nói riêng và tác phẩm nói chung, Lưu Quang Vũ đã
sử dụng một số thủ pháp nghệ thuật: Sáng tạo lại cốt truyện dân gian; xây dựng tình
huống, xung đột kịch độc đáo, hấp dẫn; đối thoại kịch đậm chất triết lí, giàu kịch tính,
tạo nên chiều sâu ý nghĩa cho vở kịch; hành động kịch của nhân vật phù hợp với tính
cách, hoàn cảnh, góp phần thúc đẩy tình huống, xung đột kịch phát triển; thủ pháp độc
thoại nội tâm giúp nhân vật bộc lộ tính cách và quan niệm về lẽ sống đúng đắn; kết hợp 11
# LỚP VĂN CÔ THANH TUYỀN
yếu tố hoang đường, hư cấu với hiện thực, kết hợp tính hiện đại và truyền thống. Tác
phẩm vừa có sức phê phán mạnh mẽ lại vừa có chất trữ tình bay bổng. C. KẾT BÀI:
Hơn bốn mươi năm đã trôi qua nhưng tác phẩm vẫn còn vẹn nguyên giá trị và sức cuốn
hút với bao thế hệ bạn đọc như thuở ban đầu. Những vấn đề mà Lưu Quang Vũ đặt ra trong
tác phẩm cho đến hôm nay vẫn còn nóng hổi tính thời sự. Tác phẩm là một lời nhắc nhở,
cảnh tỉnh sâu sắc đối với muôn thế hệ con người trên con đường hoàn thiện nhân cách,
hướng tới những lẽ sống cao đẹp. 12
# LỚP VĂN CÔ THANH TUYỀN
Document Outline

  • A.MỞ BÀI:
  • B.THÂN BÀI:
    • 1.Tác giả: Lưu Quang Vũ (1948 - 1988)
    • 2.Tác phẩm:
  • II.PHÂN
    • 1.Giải thích khái niệm “bi kịch”:
    • 2.Bi kịch của Trương Ba qua màn đói thoại Hồn - Xác:
    • 2.2.Được tái sinh trong cơ thể anh hàng thịt, hồn Trươ
    • 2.3.Bi kịch được đẩy lên đến đỉnh điểm khi hồn Trương
    • 3.Ý nghĩa triết lý của tác phẩm:
  • PHÂN TÍCH MÀN ĐỐI THOẠI HỒN – XÁC:
    • 1.Nguyên nhân dẫn đến màn đối thoại:
    • 2.Diễn biến màn đối thoại:
    • ⇨Lí lẽ của Xác khơi trúng tim đen mà lâu nay vì trú
    • ⇨Như vậy, đối với Hồn, Xác rất quan trọng vì nếu kh
    • theo ý mình. Xác đã buộc hồn phải thay đổi thái độ
    • 4.Ý nghĩa triết lý của màn đối thoại:
  • PHÂN TÍCH MÀN ĐỐI THOẠI GIỮA HỒN TRƯƠNG BA VÀ ĐẾ T
    • 1.Nguyên nhân dẫn đến màn đối thoại giữa Trương Ba v
    • 2.Nội dung cuộc đối thoại giữa Trương Ba và Đế Thích
    • => Những lời thoại của Trương Ba và Đế Thích ở phầ
    • -Lưu Quang Vũ đặt Trương Ba vào một tình huống kịch
    • => Có những bi kịch mang cho ta nhiều nghẹn ngào,
    • thân, mặt khác xuất phát từ tấm lòng vị tha, trái
    • 4.Ý nghĩa của triết lý của màn đối thoại:
  • III.HỢP
    • 1.Nội dung:
    • 2.Nghệ thuật:
  • C.KẾT BÀI: