CHƯƠNG I
LÍ LUẬN MÁC – LÊNIN VỀ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
I. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU CỦA MÔN HỌC LÍ LUẬN MÁC –
LÊNIN VỀ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
Là một môn khoa học xã hội, lí luận Mác – Lênin về nhà nước và pháp luật
nghiên cứu những hiện tượng xã hội nhà nước và pháp luật.
Lí luận về nhà nước và pháp luật sẽ giải đáp những vấn đề chung, cơ bản về
những nguyên nhân, điều kiện phát sinh nhà nước và pháp luật; về những quy luật
phát triển của nhà nước và pháp luật; thay thế kiểu nhà nước và pháp luật này bằng
kiểu nhà nước và pháp luật khác; về bản chất, hình thức, chức năng của nhà nước
và pháp luật, đặc biệt là nhà nước và pháp luật XHCN; về mối quan hệ hữu cơ giữa
nhà nước và pháp luật.
Lí luận về nhà nước và pháp luật là môn khoa học nhập môn đối với luật học.
Nó giới thiệu những khái niệm và phạm trù cơ bản về nhà nước và pháp luật, vì
vậy nó mang tính chất triết học khái quát. Đây là môn khoa học về phương pháp
luật, có nhiệm vụ trình bày đặc thù của việc áp dụng phương pháp biện chứng
Mác-xít vào các hiện tượng nhà nước và pháp luật. Lí luận về nhà nước và pháp
luật chiếm một vị trí trung tâm trong hệ thống các môn khoa học chuyên nghiên
cứu về những hiện tượng nhà nước và pháp luật. Mác, Ănghen, Lênin là những
người đặt cơ sở cho khoa học về lí luận nhà nước và pháp luật. Các nhà kinh điển
của chủ nghĩa Mác – Lênin đã nghiên cứu rất sâu những quy luật phát sinh và phát
triển của nhà nước và pháp luật.
II. NGUỒN GỐC VÀ BẢN CHẤT CỦA NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, vấn đề nhà nước là vấn đề chủ
yếu, vấn đề then chốt trong toàn bộ hệ thống chính trị. Đây cũng là “… vấn đề
phức tạp nhất, khó khăn nhất… là vấn đề mà các học giả, các nhà văn, các nhà triết
học tư sản đã làm cho rắc rối nhất”.
Để có sự hiểu biết đúng đắn về bản chất của nhà nước và pháp luật, theo lời
dạy của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin, chúng ta phải dựa trên quan
điểm lịch sự, để nghiên cứu các hiện tượng nhà nước và pháp luật.
Điều đó có nghĩa là phải bắt đầu bằng việc phân tích nguồn gốc lịch sử, điều
kiện lịch sử làm xuất hiện nhà nước và pháp luật, phải nghiên cứu xem nhà nước
và pháp luật đầu tiên ra như thế nào, do những nguyên nhân gì?
1. Quan điểm Mác – Lênin về nguồn gốc phát sinh nhà nước và pháp luật
Chủ nghĩa Mác – Lê nin coi nhà nước và pháp luật là những hiện tượng lịch sử,
không cùng xuất hiện với loài người mà chỉ xuất hiện ở nơi nào, lúc nào mà xã hội
đã phân chia thành giai cấp và mâu thuẫn giữa những giai cấp ấy không thể điều
hòa được. Trước đây, đã có một thời kì không có nhà nước và pháp luật. Đó là xã
hội Cộng sản nguyên thủy.
a. Xã hội loài người thời kì Cộng sản nguyên thủy
Trong xã hội Cộng sản nguyên thủy, lúc đầu còn người sống thành từng bầy
lưu động, không lớn và đi lang thang tìm kiếm hoa quả làm thức ăn. Trải qua nhiều
thế hệ, loài người đã biết dùng lửa, biết làm ra những công cụ bằng đá, biết tạo ra
cung tên và biến nghề săn bắn thành nguồn cung cấp tư liệu sinh hoạt cho mình. Vì
trình độ sản xuất lúc đó còn rất thấp, công cụ sản xuất còn rất lạc hậu, thô sơ,
người ta không thể đấu tranh riêng lẻ với thiên nhiên và thú dữ. Muốn sống còn,
những người cùng chung một huyết tộc tập hợp lại với nhau, cùng lao động tập thể
và cùng nhau thừa hưởng những thành quả lao động đó. Lối sống lao động tập thể
này đã dẫn đến chế độ công hữu về tư liệu sản xuất và sản phẩm đã sản xuất ra.
Mọi người đều bình đẳng đối với tư liệu sản xuất và địa vị của con người trong xã
hội cũng bình đẳng với nhau. Vì trình độ sản xuất còn quá thấp nên người ta không
thể sản xuất ra một số sản phẩm nhiều hơn so với nhu cầu của bản thân con người,
do đó giữa con người với nhau không có và không thể có sự phân chia giai cấp,
không có và không thể có bóc lột. Mọi người trong xã hội nguyên thủy đều làm
chung, ăn chung, thậm chí ở chung với nhau không có gì phân biệt nên thời kì này
còn được gọi là thời kì “Cộng sản nguyên thủy”. Hình thức cơ bản về cách tổ chức
đời sống của người nguyên thủy là Thị tộc. Thị tộc cũng là đơn vị sản xuất và là
hình thức tổ chức kinh tế đầu tiên của loài người. Thị tộc là tập hợp những người,
gồm từ hàng chục đến hàng trăm người được tổ chức theo quan hệ huyết thống, có
cùng một dòng máu. Là hình thức tổ chức xã hội đầu tiên của loài người, Thị tộc là
đặc trưng của chế độ Cộng sản nguyên thủy phát triền. Về điều này, F. Ăngghen đã
từng kết luận: Đây là “… một chế độ chung cho tất cả các người dã man mãi cho
đến khi họ bước sáng thời đại văn minh, thậm chí còn sau hơn nữa”.
Mỗi thị tộc đều có một Tộc trường đứng đầu, thời chiến còn có Thủ lĩnh
quân sự. Tộc trưởng và Thủ lĩnh quân sự do toàn thể thành viê trong Thị tộc bầu ra
và có thể bị bãi miễn bất cứ lúc nào. Tộc trường chỉ là người đại biểu và chấp hành
ý chí của toàn thể thành viên trong Thị tộc. Họ không có bất kì đặc quyền nào
khác, họ cùng lao động và cùng sinh hoạt chung với các thành viên khác của Thị
tộc. Trong Thị tộc không có bất kì cơ quan cưỡng chế nào. Quan hệ giữa các thành
viên trong Thị tộc là quan hệ bình đẳng.
Nhiều Thị tộc thống nhất hợp lại với nhau thành Bộ lạc. Mỗi Bộ lạc đều có
lãnh thổ riêng, có tên gọi riêng. Các Thị tộc hợp thành Bộ lạc cùng nói chung một
ngôn ngữ, cùng có chung một loại thần thánh nhất định. Đứng đầu Bộ lạc là một
Thủ lĩnh do các thành viên Bộ lạc bầu ra. Thủ lĩnh này cùng với các Tộc trưởng và
các Thủ lĩnh quân sự của các Thị tộc thành viên hợp thành Hội đồng Bộ lạc để bàn
bạc và giải quyết những vấn đề trong nội bộ cũng như những vấn đề quan hệ với
các Bộ lạc láng giềng. Các cuộc họp của Hội đồng Bộ lạc được tiến hành công khai
để cho bất kì thành viên nào của Bộ lạc cũng có thể tham dự và đóng góp ý kiến.
Khi Hội đồng đã ra quyết định thì mọi người đều tuân theo và chấp hành một cách
tự giác trên cơ sở tôn trọng các Thủ lĩnh. Mọi sự tranh chấp hay xích mích đều do
các bên hữu quan tự giải quyết, hoặc là do tập thể giải quyết một cách ổn thỏa theo
phong tục, tập quán má không cần tới bất kì cơ quan bạo lực nào cả.
Như vậy, trong xã hội Cộng sản nguyên thủy, do sức lao động còn thấp kém,
công cụ lao động còn thô sơ, cơ sở của lao động sản xuất là chế độ công hữu về tư
liệu sản xuất, không có tài sản tư hữu, không có giai cấp nên không có mâu thuẫn
giai cấp đối kháng. Do đó mà không có nhà nước và pháp luật.
b. Sự tan rã của chế độ Cộng sản nguyên thủy và sự xuất hiện nhà nước
và pháp luật
Sức sản xuất trong xã hội nguyên thủy tuy rất chậm chạp những đã phát triển
không ngừng. Sự ngừng phát triển của sức sản xuất trong xã hội là nhân tố có tính
chất quyết định làm phát sinh chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất: công cụ sản xuất
được cải tiến, đặc biệt kĩ thuật luyện sắt được phát minh, người ta đã có thể chế tạo
ra đồ sắt, năng suất lao động được nâng cao, của cải làm ra càng dồi dào hơn, có sự
dư thừa so với trước.
Cùng với sự phát triển của sức sản xuất, xã hội loài người đã trải qua ba lần
phân công lao động. Lần thứ nhất là giữa trồng trọt và chăn nuôi. Lần thứ hai là
giữa thủ công nghiệp và nông nghiệp. Lần thứ ba là giữa sản xuất và những người
chuyên làm nghề buôn bán (tức là khi thương nghiệp xuất hiện).
Ba lần phân công lao động lớn trong xã hội làm cho trao đổi ra đời và phát
triển. công cụ sản xuất được cải tiến, thúc đẩy sản xuất phát triển. Chế độ tư hữu về
tư liệu sản xuất ra đời dần dần thay thế cho độ công hữu về tư liệu sản xuất. Công
xã bắt đầu chia thành gia đình nhỏ theo chế độ phụ hệ.
Con người ngày xàng sản xuất ra nhiều hơn của cải để sống, tạo ra tài sản dư
thừa. Hiện tượng chênh lệch về của cải đã đưa công xã đến tình trạng phân ra
người giàu và người nghèo. Chiến tranh trở thành phương tiện cướp bóc của cải để
làm giàu và bắt tù binh làm nô lệ nhằm bóc lột sức lao động của họ. Số người
nghèo trong công xã cũng bị đẩy xuống là nô lệ. Trong Thị tộc xuất hiện người
giàu và người nghèo, xuất hiện những người bóc lột và người bị bóc lột, xuất hiện
giai cấp chủ nô và nô lệ. Xung đột giữa những tập đoàn người này, giữa những giai
cấp này ngày càng gay gắt đưa đến sự tan rã của xã hội Thị tộc. Công xã nguyên
thủy không có giai cấp đã bị xã hội có giai cấp (chế độ chiếm hữu nô lệ) thay thế.
Bắt đầu từ đấy lịch sử loài người là lịch sử đấu tranh giai cấp.
Lợi ích vật chất của hai giai cấp chủ nô và nô lệ căn bản đối lập nhau. Chủ
nô là người chiếm hữu nô lệ, cưỡng bức nô lệ lao động một cách nặng nhọc, chiếm
hữu sản phẩm lao động của nô lệ. Còn nô lệ thì lao động quanh năm mà không đủ
nuôi thân, hàng loạt nô lệ bị hành hạ đến chết. Nô lệ chẳng những không có quyền
lợi nào về mặt kinh tế mà về mặt chính trị họ cũng không có chút đảm bảo và địa
vị nào cả. Chủ nô có quyền bắn hoặc thậm chí giết nô lệ. Tình trạng đó tất nhiên
dẫn đến sự phản kháng của nô lệ và như vậy giữa chủ nô và nô lệ đã diễn ra cuộc
đấu tranh giai cấp không thể điều hòa được.
Muốn củng cố địa vị thống trị của chủ nô, cần phải có một cơ quan bạo lực
đặc biệt, nếu không sẽ không thể trấn áp được sự phản kháng của nô lệ, không thể
củng cố được sự thống trị của chủ nô. Tổ chức Thị tộc không thể hoàn thành được
nhiệm vụ này mà cần thiết phải xây dựng một tổ chức bạo lực mới để thay thế tổ
chức Thị tộc. Tổ chức bạo lực đó chính là nhà nước.
V. I. Lênin đã trình bày lí luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về nguồn gốc của
nhà nước trong một công thức ngắn gọn như sau: “Nhà nước là sản phẩm và biểu
hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được. Bất cứ ở đâu, lúc nào
và chừng nào mà về mặt khách quan những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa
được thì nhà nước xuất hiện. Và ngược lại, sự tồn tại của nhà nước chứng tỏ rằng
những mâu thuẫn giai cấp là không thể điều hòa được.
Như vậy, nguyên nhân căn bản, chủ yếu làm cho Công xã nguyên thủy tan rã
và nhà nước xuất hiện là:
Sự phát triển kinh tế trong nội bộ xã hội dẫn đến sự phát sinh và phát
triển của chế độ tư hưu về tư liệu sản xuất.
Sự phát sinh giai cấp và mâu thuẫn giữa những giai cấp đối kháng tới
mức không thể điều hòa được.
Nhà nước xuất hiện tức là xuất hiện một bộ máy thống trị tách ra khỏi xã hội
và đứng trên xã hội, gồm một nhóm người đặc biệt chuyên làm công tác lãnh đạo,
sử dụng bộ máy cưỡng bức đặc biệt gồm: hiến binh, quân đội, cảnh sát, tòa án, nhà
tù… nhằm đàn áp các giai cấp đối lập. Nhà nước xuất hiện để duy trì chế độ tư
hữu, bảo vệ quyền lợi cho giai cấp thống trị trong xã hội và để duy trì mãi mãi địa
vị của giai cấp thống trị đó. Chính vì vậy, Lênin đã nêu một định nghĩa rằng: “Nhà
nước là một bộ máy để duy trì sự thống trị của một giai cấp này đối với một giai
cấp khác”. Bản chất của nhà nước, bất kể là nhà nước của giai cấp nào cũng đều là
công cụ, là cơ quan, là bộ máy áp bức giai cấp, là chuyên chính giai cấp.
Quyền của giai cấp thống trị thông qua nhà nước bắt buộc cả xã hội phải
phục tùng gọi là quyền thống trị chính trị, tức là chuyên chính giai cấp. Không có
nhà nước, giai cấp thống trị không thể thực hiện được quyền lực của mình đối với
xã hội. Nhà nước là tổ chức chính trị của xã hội, của các giai cấp thống trị về mặt
kinh tế. Nhà nước là biểu hiện trực tiếp của chuyên chính giai cấp.
Đặc trưng của nhà nước so với Thị tộc:
Dân cư được phân theo khu vực địa lí chứ không phân theo quan hệ huyết
thống. Dân cư sống trong khu vực địa lí do một nhà nước quả lí đều có
quyền và có nghĩa vụ đối với nhà nước đó.
Nhà nước là tổ chức quyền lực của giai cấp thống trị, gồm những người tách
ra khỏi nhân dân, đứng trên nhân dân và thực hiện quyền lực tách khỏi dân
cư. Đó là quyền lực chính trị. Nhà nước do đó vừa là công cụ tổ chức giai
cấp, vừa là hình thức thực hiện quyền lực xã hội công khai.
Thuế xuất hiện, nhà nước chỉ có thể tồn tại nhờ có thuế do nhân dân lao
động đóng góp.
Cùng với sự ra đời của nhà nước, pháp luật cũng phát sinh. Dưới chế độ
Công xã nguyên thủy, quan hệ giữa người với người do phong tục, tập quán điều
chỉnh. Phong tục, tập quán nảy sinh ra từ trong lòng xã hội nguyên thủy, xác định
cái gì có thể làm, cái gì không được làm, cái gì tốt, cái gì xấu. Tập quán phản ánh ý
chí của mọi thành viên trong xã hội, đại biểu cho lợi ích của tất cả mọi người. Tập
quán dựa vào sự tuân thủ tự giác của con người và được bảo đảm thực hiện bằng
dư luận xã hội và sức mạnh truyền thống. Nhưng khi xã hội đã nảy sinh ra hai giai
cấp đối lập, khi cuộc đấu tranh giai cấp là không thể điều hòa được thì những tạp
quán trước đây vốn tiêu biểu cho lợi ích của toàn thể thành viên trong xã hội sẽ
không còn sức mạnh để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Để củng cố địa vị thống trị
của mình, giai cấp bóc lột cần phải có những quy tắc điều chỉnh hành vi mới,
những quy tắc này chỉ phản ánh ý chí của giai cấp thống trị. Muốn làm cho giai cấp
bị thống trị phục tùng những quy tắc này, thì những quy tắc điều chỉnh này phải
được nhà nước chế định ra và được bảo đảm thực hiện bằng sự cưỡng chế của nhà
nước. Những quy tắc điều chỉnh hành vi mới này chính là pháp luật.
Pháp luật cũng như nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn
giai cấp không thể điều hòa được. Pháp luật thay thế tập quán nguyên thủy không
phải trong một lúc mà phải trải qua một quá trình lâu dài và phức tạp. Thoạt đầu,
người ta sửa lại những tập quán cũ cho phù hợp với lợi ích của giai cấp thống trị và
dần dần người ta quy định, ban hành thêm những quy tắc mới. Pháp luật lúc đầu
biểu hiện bằng tập quán pháp (bất thành văn) và thực tiển xét xử (tiền lệ pháp). Sau
này, nhà nước mới chế định ra một số luật thành văn (văn bản pháp luật).
Pháp luật là những quy tắc điều chỉnh hành vi của con người, do nhà nước ban
hành và có tính cưỡng chế.
Trong Tuyên ngôn Đảng Cộng sản, Mác và Ăngghen đã định nghĩa: “Pháp luật
là ý chí của giai cấp thống trị được đưa lên thành lên, ý chí đó do những điều kiện
sinh hoạt vật chất của xã hội quyết định”.
Định nghĩa kinh điển này đã nói lên bản chất của pháp luật là ý chí của giai cấp
thống trị được để lên thành luật.
Từ định nghĩa này, có thể rút ra một số đặc điểm cơ bản của pháp luật:
Pháp luật là ý chí của giai cấp thống trị, tức là của giai cấp thực hiện quyền
lãnh đạo của nhà nước đối với xã hội, giai cấp nắm chính quyền;
Ý chí đó được đề lên thành pháp luật, tức là được quy định thành những quy
tắc điều chỉnh hành vi của mọi người, có tính chất cưỡng chế, bắt buộc tất cả
mọi người phải phục tùng;
Pháp luật là những quy tắc có tính chất cưỡng chế chung;
Ý chí nêu lên thành luật là do điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội quyết
định, tức là do điều kiện kinh tế xã hội chi phối;
Pháp luật là một trong những công cụ quan trọng nhất để giai cấp thốn trị
thực hiện chuyên chính giai cấp.
2. Các học thuyết phản động, phản khoa học về nguồn gốc của nhà nước và
pháp luật
Cuộc đấu tranh giai cấp được phản ánh ngay trong cuộc đấu tránh giữa các quan
điểm về vấn đề nguồn gốc và bản chất của nhà nước và pháp luật. Sở dĩ có những
quan điểm khác nhau về nguồn gốc và bản chất của nhà nước và pháp luật vì mỗi
người đều xuất phát từ lợi ích của một giai cấp để nhìn nhận vấn đề.
Những người đại diện cho giai cấp bóc lột xuất phát từ quan điểm duy
tâm, phản động, xuyên tạc nguyên nhân sâu xa làm xuất hiện nhà nước và pháp
luật, che đậy bản chất giai cấp của hai hiện tượng lịch sử này, cho rằng nhà
nước là một cái gì thần bí (đại diện cho quan điểm này là Kan, Hêghen, Tibô
v.v…) tồn tại vĩnh viễn trong lịch sử nhân loại, nhà nước thay mặt thượng đế
để cai trị dân chúng… Múc đích của quan điểm duy tâm này là mê hoặc quần
chúng, làm cho quần chúng an phận thủ thường, tin vào định mệnh và từ bỏ
cuộc đấu tranh chống lại nhà nước của giai cấp thống trị.
Quan điểm phản khoa học thứ hai cho rằng: trong nhân dân có người
này sẵn có ý thức phục tùng,còn người khác vốn có ý thức quản lí, lãnh đạo, và
sự kết hợp hai loại tâm lí này làm nảy sinh ra nhà nước và pháp luật (đại diện
cho quan điểm này là A-ris-tot).
Khi chủ nghĩa tư bản bước vào giai đoạn tột cùng là chủ nghĩa đế quốc, học
thuyết về ý thức phục tùng và ý thức lãnh đạo được truyền bá rất rộng rãi và được
sử dụng làm cơ sở để bào chữa cho chính sách bành trướng xâm lược và nô dịch
của các nước đế quốc đối với các dân tộc ở châu Á, châu Phi, châu Mỹ - Latinh,
bào chữa cho chính sách áp bức, bóc lột nhân dân lao động ở các nước tư bản.
Những học thuyết cơ bản nêu trên đều là phản khoa học, không dựa vào quan
điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để xem xét các hiện tượng xã hội nhà
nước và pháp luật.
III. CÁC KIỂU, HÌNH THỨC, CHỨC NĂNG CỦA NHÀ NƯỚC VÀ
PHÁP LUẬT
1. Các kiểu, hình thức, chức năng của nhà nước
a. Kiểu nhà nước
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, kiểu nhà nước là khái niệm dùng
để chỉ những nhà nước cùng ra đời trên một cơ sở kinh tế và cùng có một bản chất
giai cấp nhất định.
Kiểu nhà nước do kiểu quan hệ sản xuất và do bản chất giai cấp của nhà
nước quyết định.
Từ khi lịch sử xã hội loài người xuất hiện giai cấp và đấu tranh giai cấp đến
nay, trong xã hội có bốn cơ sở kinh tế khác nhau, kế tiếp, thay thế nhau: cơ sở kinh
tế chiếm hữu nô lệ, cơ sở kinh tế phong kiến, cơ sở kinh tế tư bản chủ nghĩa và cơ
sở kinh tế xã hội chủ nghĩa (XHCN). Thích ứng với bốn cơ sở kinh tế đó thì có bốn
kiểu nhà nước: kiểu nhà nước chiếm hữu nô lệ, kiểu nhà nước phong kiến, kiểu nhà
nước tư bản chủ nghĩa và kiểu nhà nước XHCN. Các kiểu nhà nước này có bản
chất giai cấp khác nhau.
Kiểu nhà nước biểu lệ bản chất của nhà nước. Nhà nước có bản chất tư bản
thì nhà nước đó được tổ chức theo kiểu tư bản của nó. Nó không thể sử dụng kiểu
nhà nước phong kiến hay kiểu nhà nước XHCN.
b. Hình thức của nhà nước
Hình thức nhà nước cũng là vấn đề quan trọng trong lí luận về nhà nước và
pháp luật của chủ nghĩa Mác-Lênin. Bản chất của nhà nước là công cụ thống trị
của một giai cấp, là quyền lực chính trị. Nhưng quyền lực đó tồn tại dưới hình thức
nào, được tổ chức như thế nào, được sắp xếp như thế nào thì lại là những vấn đề
thược nội dung của lí luận về hình thức nhà nước.
Nhà nước có hai loại hình thức: Hình thức tổ chức và hình thức chính thể.
Về hình thức tổ chức: nhà nước có hai loại là nhà nước đơn nhất và
nhà nước liên bang. Nhà nước đơn nhất là nhà nước trong đó chỉ có một hệ
thống cơ quan quyền lực tối cao duy nhất thực hiện chủ quyền quốc gia (Việt
Nam, Lào, Bun-ga-ri, Pháp, Nhật Bản, v.v…), còn nhà nước liên bang là nhà
nước có nhiều hệ thống cơ quan quyền lực tối cao: cơ quan của liên bang và
cơ quan của từng nước thành viên trong liên bang. Mỗi hệ thống cơ quan
quyền lực tối cao thực hiện chủ quyền quốc gia của mình trong phạm vi
thẩm quyền đã được phân chia (ví dụ: Liên Xô cũ, Tiệp Khắc cũ, Liên bang
Đức và đặc biệt là Hợp chủng quốc Hoa Kì hiện nay…).
Về hình thức chính thể: người ta chia hình thức nhà nước ra làm hai
loại cơ bản là chính thể quân chủ và chính thể cộng hòa. Hình thức chính thể
quân chủ có những đặc điểm như sau: người đứng đầu nhà nước và thống trị
suốt đời là vua. Vua lên ngôi theo thừa kế, cha truyền con nối. Vua có toàn
quyền định đoạt mọi công việc của quốc gia (quân chủ tuyệt đối) hoặc chỉ có
danh vọng, không có thực quyền hay thực quyền bị hạn chế trong một phạm
vi nhất định (quân chủ lập hiến).
Hình thức chính thể cộng hòa là hình thức trong đó người đứng đầu nhà
nước là cá nhân hay tập thể do bầu cử mà ra và chỉ thi hành quyền hạn của mình
trong một thời hạn nhất định (nhiệm kì). Trong chính thể cộng hòa có cộng hòa
quý tộc (La Mã, Hy Lạp cổ đại) và cộng hòa dân chủ. Trong chính thể cộng hòa
dân chủ có chính thể cộng hòa tổng thống (ví dụ: Hoa Kì) và cộng hòa đại nghị (ví
dụ: Cộng hòa Pháp).
Hình thức nhà nước có liên quan chặt chẽ với kiểu nhà nước. Cùng một kiểu
nhà nước có thể có nhiều hình thức khác nhau và một hình thức có thể áp dụng
trong nhiều kiểu nhà nước khác nhau. Nhưng, có những hình thức chỉ thích hợp
với một kiểu nhà nước nào đó chứ không thể thích hợp với các kiểu khác. Ví dụ:
Hình thức chính thể quân chủ không thể có ở kiểu nhà nước XHCN v.v…
c. Chức năng của nhà nước
Chức năng của nhà nước là phương hướng hoạt động cơ bản của nhà nước
trong từng thời kí nhất định. Nhà nước có hai chức năng cơ bản là chức năng đối
nội và chức năng đối ngoại.
Chức năng đối nội gồm:
Trấn áp sự phản kháng của giai cấp đối lập nhằm bảo vệ lợi ích và quyền
thống trị của giai cấp thống trị;
Tổ chức xây dựng kinh tế phục vụ lợi ích của giai cấp thống trị;
Tổ chức giáo dục văn hóa nhằm bảo đảm sự thống trị của hệ tư tưởng của
giai cấp thống trị.
Chức năng đối ngoại gồm:
Bảo vệ đất nước chống sự xâm lăng của nước ngoài;
Thi hành chính sách đối ngoại phục vụ quyền lực của giai cấp thống trị. Tất
cả những chức năng nêu trên đều liên quan chặt chẽ với nhau, tác động qua
lại với nhau và biểu hiện bản chất của nhà nước.
2. Các kiểu, hình thức, chức năng của pháp luật
a. Kiểu pháp luật
Kiểu pháp luật là khái niệm gắn liền với kiểu nhà nước vì pháp luật do nhà
nước chế định ra. Nhà nước thuộc kiểu nào thì chế định ra pháp luật thuộc kiểu ấy.
Từ xưa đến nay có bốn kiểu nhà nước thì cũng có bốn kiểu pháp luật: kiểu pháp
luật nô lệ, kiểu pháp luật phong kiến, kiểu pháp luật tư sản và kiểu pháp luật xã hội
chủ nghĩa.
Kiểu pháp luật nói lên bản chất của pháp luật, tức là nói pháp luật đó phục
vụ cho giai cấp thống trị nào, thực hiện chuyên chính đối với giai cấp nào.
b. Hình thức của pháp luật
Pháp luật biểu hiện dưới nhiều hình thức như Hiến pháp, Luật, Nghị định,
Quyết định, Mệnh lệnh, Chỉ thị v.v… Hình thức pháp luật còn bao gồm cả phong
tục, tập quán được nhà nước thừa nhận và các tiền lệ xét xử (Án lệ) của các tòa án.
c. Chức năng của pháp luật
Chức năng của pháp luật gắn liền với chức năng của nhà nước và biểu hiện cụ
thể ở bốn chức năng chủ yếu sau đây:
Ấn định tổ chức của quốc gia, của xã hội;
Điều chỉnh các quan hệ xã hội quan trọng nhất như quan hệ giữa các cơ quan
quyền lực với nhau, giữa các cơ quan chính quyền và nhân dân, quan hệ
giữa các giai cấp, các tầng lớp nhân dân với nhau;
Định ra những chuẩn mực, khuôn phép cho những hành động hoặc các cư xử
của nhân dân;
Xây dựng trật tự xã hội.
d. Các hệ thống pháp luật chủ yếu trên thế giới
Theo sự phân loại của Tòa án Quốc tế Liên hợp quốc (International Court of
Justice), có sáu hệ thống pháp luật cơ bản là Common law, Islamic law, Indian law,
Chinese law và Law inspired by Communism.
Common law là hệ thống pháp luật hình thành ở Anh, sau đó là ở Hoa Kì và
các nước từng là thuộc địa của Anh, Mỹ.
Đặc điểm của Common law là khi mới ra đời, các quy tắc pháp luật chủ yếu là bất
thành văn. Common law là tập hợp các quy tắc từ các tập quán và các án lệ (tiền lệ
xét xử).
Ngày nay, những nước xây dựng hệ thống pháp luật theo Common law cũng đã
và đang từng bước pháp điển hóa pháp luật dưới hình thức văn bản. Tuy nhiên, án
lệ và tập quán ở những nước này vẫn đóng vai trò quan trọng.

Preview text:

CHƯƠNG I
LÍ LUẬN MÁC – LÊNIN VỀ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT I.
ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU CỦA MÔN HỌC LÍ LUẬN MÁC –
LÊNIN VỀ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT

Là một môn khoa học xã hội, lí luận Mác – Lênin về nhà nước và pháp luật
nghiên cứu những hiện tượng xã hội nhà nước và pháp luật.
Lí luận về nhà nước và pháp luật sẽ giải đáp những vấn đề chung, cơ bản về
những nguyên nhân, điều kiện phát sinh nhà nước và pháp luật; về những quy luật
phát triển của nhà nước và pháp luật; thay thế kiểu nhà nước và pháp luật này bằng
kiểu nhà nước và pháp luật khác; về bản chất, hình thức, chức năng của nhà nước
và pháp luật, đặc biệt là nhà nước và pháp luật XHCN; về mối quan hệ hữu cơ giữa nhà nước và pháp luật.
Lí luận về nhà nước và pháp luật là môn khoa học nhập môn đối với luật học.
Nó giới thiệu những khái niệm và phạm trù cơ bản về nhà nước và pháp luật, vì
vậy nó mang tính chất triết học khái quát. Đây là môn khoa học về phương pháp
luật, có nhiệm vụ trình bày đặc thù của việc áp dụng phương pháp biện chứng
Mác-xít vào các hiện tượng nhà nước và pháp luật. Lí luận về nhà nước và pháp
luật chiếm một vị trí trung tâm trong hệ thống các môn khoa học chuyên nghiên
cứu về những hiện tượng nhà nước và pháp luật. Mác, Ănghen, Lênin là những
người đặt cơ sở cho khoa học về lí luận nhà nước và pháp luật. Các nhà kinh điển
của chủ nghĩa Mác – Lênin đã nghiên cứu rất sâu những quy luật phát sinh và phát
triển của nhà nước và pháp luật.
II. NGUỒN GỐC VÀ BẢN CHẤT CỦA NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, vấn đề nhà nước là vấn đề chủ
yếu, vấn đề then chốt trong toàn bộ hệ thống chính trị. Đây cũng là “… vấn đề
phức tạp nhất, khó khăn nhất… là vấn đề mà các học giả, các nhà văn, các nhà triết
học tư sản đã làm cho rắc rối nhất”.
Để có sự hiểu biết đúng đắn về bản chất của nhà nước và pháp luật, theo lời
dạy của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin, chúng ta phải dựa trên quan
điểm lịch sự, để nghiên cứu các hiện tượng nhà nước và pháp luật.
Điều đó có nghĩa là phải bắt đầu bằng việc phân tích nguồn gốc lịch sử, điều
kiện lịch sử làm xuất hiện nhà nước và pháp luật, phải nghiên cứu xem nhà nước
và pháp luật đầu tiên ra như thế nào, do những nguyên nhân gì?
1. Quan điểm Mác – Lênin về nguồn gốc phát sinh nhà nước và pháp luật
Chủ nghĩa Mác – Lê nin coi nhà nước và pháp luật là những hiện tượng lịch sử,
không cùng xuất hiện với loài người mà chỉ xuất hiện ở nơi nào, lúc nào mà xã hội
đã phân chia thành giai cấp và mâu thuẫn giữa những giai cấp ấy không thể điều
hòa được. Trước đây, đã có một thời kì không có nhà nước và pháp luật. Đó là xã
hội Cộng sản nguyên thủy.
a. Xã hội loài người thời kì Cộng sản nguyên thủy
Trong xã hội Cộng sản nguyên thủy, lúc đầu còn người sống thành từng bầy
lưu động, không lớn và đi lang thang tìm kiếm hoa quả làm thức ăn. Trải qua nhiều
thế hệ, loài người đã biết dùng lửa, biết làm ra những công cụ bằng đá, biết tạo ra
cung tên và biến nghề săn bắn thành nguồn cung cấp tư liệu sinh hoạt cho mình. Vì
trình độ sản xuất lúc đó còn rất thấp, công cụ sản xuất còn rất lạc hậu, thô sơ,
người ta không thể đấu tranh riêng lẻ với thiên nhiên và thú dữ. Muốn sống còn,
những người cùng chung một huyết tộc tập hợp lại với nhau, cùng lao động tập thể
và cùng nhau thừa hưởng những thành quả lao động đó. Lối sống lao động tập thể
này đã dẫn đến chế độ công hữu về tư liệu sản xuất và sản phẩm đã sản xuất ra.
Mọi người đều bình đẳng đối với tư liệu sản xuất và địa vị của con người trong xã
hội cũng bình đẳng với nhau. Vì trình độ sản xuất còn quá thấp nên người ta không
thể sản xuất ra một số sản phẩm nhiều hơn so với nhu cầu của bản thân con người,
do đó giữa con người với nhau không có và không thể có sự phân chia giai cấp,
không có và không thể có bóc lột. Mọi người trong xã hội nguyên thủy đều làm
chung, ăn chung, thậm chí ở chung với nhau không có gì phân biệt nên thời kì này
còn được gọi là thời kì “Cộng sản nguyên thủy”. Hình thức cơ bản về cách tổ chức
đời sống của người nguyên thủy là Thị tộc. Thị tộc cũng là đơn vị sản xuất và là
hình thức tổ chức kinh tế đầu tiên của loài người. Thị tộc là tập hợp những người,
gồm từ hàng chục đến hàng trăm người được tổ chức theo quan hệ huyết thống, có
cùng một dòng máu. Là hình thức tổ chức xã hội đầu tiên của loài người, Thị tộc là
đặc trưng của chế độ Cộng sản nguyên thủy phát triền. Về điều này, F. Ăngghen đã
từng kết luận: Đây là “… một chế độ chung cho tất cả các người dã man mãi cho
đến khi họ bước sáng thời đại văn minh, thậm chí còn sau hơn nữa”.
Mỗi thị tộc đều có một Tộc trường đứng đầu, thời chiến còn có Thủ lĩnh
quân sự. Tộc trưởng và Thủ lĩnh quân sự do toàn thể thành viê trong Thị tộc bầu ra
và có thể bị bãi miễn bất cứ lúc nào. Tộc trường chỉ là người đại biểu và chấp hành
ý chí của toàn thể thành viên trong Thị tộc. Họ không có bất kì đặc quyền nào
khác, họ cùng lao động và cùng sinh hoạt chung với các thành viên khác của Thị
tộc. Trong Thị tộc không có bất kì cơ quan cưỡng chế nào. Quan hệ giữa các thành
viên trong Thị tộc là quan hệ bình đẳng.
Nhiều Thị tộc thống nhất hợp lại với nhau thành Bộ lạc. Mỗi Bộ lạc đều có
lãnh thổ riêng, có tên gọi riêng. Các Thị tộc hợp thành Bộ lạc cùng nói chung một
ngôn ngữ, cùng có chung một loại thần thánh nhất định. Đứng đầu Bộ lạc là một
Thủ lĩnh do các thành viên Bộ lạc bầu ra. Thủ lĩnh này cùng với các Tộc trưởng và
các Thủ lĩnh quân sự của các Thị tộc thành viên hợp thành Hội đồng Bộ lạc để bàn
bạc và giải quyết những vấn đề trong nội bộ cũng như những vấn đề quan hệ với
các Bộ lạc láng giềng. Các cuộc họp của Hội đồng Bộ lạc được tiến hành công khai
để cho bất kì thành viên nào của Bộ lạc cũng có thể tham dự và đóng góp ý kiến.
Khi Hội đồng đã ra quyết định thì mọi người đều tuân theo và chấp hành một cách
tự giác trên cơ sở tôn trọng các Thủ lĩnh. Mọi sự tranh chấp hay xích mích đều do
các bên hữu quan tự giải quyết, hoặc là do tập thể giải quyết một cách ổn thỏa theo
phong tục, tập quán má không cần tới bất kì cơ quan bạo lực nào cả.
Như vậy, trong xã hội Cộng sản nguyên thủy, do sức lao động còn thấp kém,
công cụ lao động còn thô sơ, cơ sở của lao động sản xuất là chế độ công hữu về tư
liệu sản xuất, không có tài sản tư hữu, không có giai cấp nên không có mâu thuẫn
giai cấp đối kháng. Do đó mà không có nhà nước và pháp luật.
b. Sự tan rã của chế độ Cộng sản nguyên thủy và sự xuất hiện nhà nước và pháp luật
Sức sản xuất trong xã hội nguyên thủy tuy rất chậm chạp những đã phát triển
không ngừng. Sự ngừng phát triển của sức sản xuất trong xã hội là nhân tố có tính
chất quyết định làm phát sinh chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất: công cụ sản xuất
được cải tiến, đặc biệt kĩ thuật luyện sắt được phát minh, người ta đã có thể chế tạo
ra đồ sắt, năng suất lao động được nâng cao, của cải làm ra càng dồi dào hơn, có sự dư thừa so với trước.
Cùng với sự phát triển của sức sản xuất, xã hội loài người đã trải qua ba lần
phân công lao động. Lần thứ nhất là giữa trồng trọt và chăn nuôi. Lần thứ hai là
giữa thủ công nghiệp và nông nghiệp. Lần thứ ba là giữa sản xuất và những người
chuyên làm nghề buôn bán (tức là khi thương nghiệp xuất hiện).
Ba lần phân công lao động lớn trong xã hội làm cho trao đổi ra đời và phát
triển. công cụ sản xuất được cải tiến, thúc đẩy sản xuất phát triển. Chế độ tư hữu về
tư liệu sản xuất ra đời dần dần thay thế cho độ công hữu về tư liệu sản xuất. Công
xã bắt đầu chia thành gia đình nhỏ theo chế độ phụ hệ.
Con người ngày xàng sản xuất ra nhiều hơn của cải để sống, tạo ra tài sản dư
thừa. Hiện tượng chênh lệch về của cải đã đưa công xã đến tình trạng phân ra
người giàu và người nghèo. Chiến tranh trở thành phương tiện cướp bóc của cải để
làm giàu và bắt tù binh làm nô lệ nhằm bóc lột sức lao động của họ. Số người
nghèo trong công xã cũng bị đẩy xuống là nô lệ. Trong Thị tộc xuất hiện người
giàu và người nghèo, xuất hiện những người bóc lột và người bị bóc lột, xuất hiện
giai cấp chủ nô và nô lệ. Xung đột giữa những tập đoàn người này, giữa những giai
cấp này ngày càng gay gắt đưa đến sự tan rã của xã hội Thị tộc. Công xã nguyên
thủy không có giai cấp đã bị xã hội có giai cấp (chế độ chiếm hữu nô lệ) thay thế.
Bắt đầu từ đấy lịch sử loài người là lịch sử đấu tranh giai cấp.
Lợi ích vật chất của hai giai cấp chủ nô và nô lệ căn bản đối lập nhau. Chủ
nô là người chiếm hữu nô lệ, cưỡng bức nô lệ lao động một cách nặng nhọc, chiếm
hữu sản phẩm lao động của nô lệ. Còn nô lệ thì lao động quanh năm mà không đủ
nuôi thân, hàng loạt nô lệ bị hành hạ đến chết. Nô lệ chẳng những không có quyền
lợi nào về mặt kinh tế mà về mặt chính trị họ cũng không có chút đảm bảo và địa
vị nào cả. Chủ nô có quyền bắn hoặc thậm chí giết nô lệ. Tình trạng đó tất nhiên
dẫn đến sự phản kháng của nô lệ và như vậy giữa chủ nô và nô lệ đã diễn ra cuộc
đấu tranh giai cấp không thể điều hòa được.
Muốn củng cố địa vị thống trị của chủ nô, cần phải có một cơ quan bạo lực
đặc biệt, nếu không sẽ không thể trấn áp được sự phản kháng của nô lệ, không thể
củng cố được sự thống trị của chủ nô. Tổ chức Thị tộc không thể hoàn thành được
nhiệm vụ này mà cần thiết phải xây dựng một tổ chức bạo lực mới để thay thế tổ
chức Thị tộc. Tổ chức bạo lực đó chính là nhà nước.
V. I. Lênin đã trình bày lí luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về nguồn gốc của
nhà nước trong một công thức ngắn gọn như sau: “Nhà nước là sản phẩm và biểu
hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được. Bất cứ ở đâu, lúc nào
và chừng nào mà về mặt khách quan những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa
được thì nhà nước xuất hiện. Và ngược lại, sự tồn tại của nhà nước chứng tỏ rằng
những mâu thuẫn giai cấp là không thể điều hòa được.
Như vậy, nguyên nhân căn bản, chủ yếu làm cho Công xã nguyên thủy tan rã
và nhà nước xuất hiện là:
• Sự phát triển kinh tế trong nội bộ xã hội dẫn đến sự phát sinh và phát
triển của chế độ tư hưu về tư liệu sản xuất.
• Sự phát sinh giai cấp và mâu thuẫn giữa những giai cấp đối kháng tới
mức không thể điều hòa được.
Nhà nước xuất hiện tức là xuất hiện một bộ máy thống trị tách ra khỏi xã hội
và đứng trên xã hội, gồm một nhóm người đặc biệt chuyên làm công tác lãnh đạo,
sử dụng bộ máy cưỡng bức đặc biệt gồm: hiến binh, quân đội, cảnh sát, tòa án, nhà
tù… nhằm đàn áp các giai cấp đối lập. Nhà nước xuất hiện để duy trì chế độ tư
hữu, bảo vệ quyền lợi cho giai cấp thống trị trong xã hội và để duy trì mãi mãi địa
vị của giai cấp thống trị đó. Chính vì vậy, Lênin đã nêu một định nghĩa rằng: “Nhà
nước là một bộ máy để duy trì sự thống trị của một giai cấp này đối với một giai
cấp khác”. Bản chất của nhà nước, bất kể là nhà nước của giai cấp nào cũng đều là
công cụ, là cơ quan, là bộ máy áp bức giai cấp, là chuyên chính giai cấp.
Quyền của giai cấp thống trị thông qua nhà nước bắt buộc cả xã hội phải
phục tùng gọi là quyền thống trị chính trị, tức là chuyên chính giai cấp. Không có
nhà nước, giai cấp thống trị không thể thực hiện được quyền lực của mình đối với
xã hội. Nhà nước là tổ chức chính trị của xã hội, của các giai cấp thống trị về mặt
kinh tế. Nhà nước là biểu hiện trực tiếp của chuyên chính giai cấp.
Đặc trưng của nhà nước so với Thị tộc:
• Dân cư được phân theo khu vực địa lí chứ không phân theo quan hệ huyết
thống. Dân cư sống trong khu vực địa lí do một nhà nước quả lí đều có
quyền và có nghĩa vụ đối với nhà nước đó.
• Nhà nước là tổ chức quyền lực của giai cấp thống trị, gồm những người tách
ra khỏi nhân dân, đứng trên nhân dân và thực hiện quyền lực tách khỏi dân
cư. Đó là quyền lực chính trị. Nhà nước do đó vừa là công cụ tổ chức giai
cấp, vừa là hình thức thực hiện quyền lực xã hội công khai.
• Thuế xuất hiện, nhà nước chỉ có thể tồn tại nhờ có thuế do nhân dân lao động đóng góp.
Cùng với sự ra đời của nhà nước, pháp luật cũng phát sinh. Dưới chế độ
Công xã nguyên thủy, quan hệ giữa người với người do phong tục, tập quán điều
chỉnh. Phong tục, tập quán nảy sinh ra từ trong lòng xã hội nguyên thủy, xác định
cái gì có thể làm, cái gì không được làm, cái gì tốt, cái gì xấu. Tập quán phản ánh ý
chí của mọi thành viên trong xã hội, đại biểu cho lợi ích của tất cả mọi người. Tập
quán dựa vào sự tuân thủ tự giác của con người và được bảo đảm thực hiện bằng
dư luận xã hội và sức mạnh truyền thống. Nhưng khi xã hội đã nảy sinh ra hai giai
cấp đối lập, khi cuộc đấu tranh giai cấp là không thể điều hòa được thì những tạp
quán trước đây vốn tiêu biểu cho lợi ích của toàn thể thành viên trong xã hội sẽ
không còn sức mạnh để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Để củng cố địa vị thống trị
của mình, giai cấp bóc lột cần phải có những quy tắc điều chỉnh hành vi mới,
những quy tắc này chỉ phản ánh ý chí của giai cấp thống trị. Muốn làm cho giai cấp
bị thống trị phục tùng những quy tắc này, thì những quy tắc điều chỉnh này phải
được nhà nước chế định ra và được bảo đảm thực hiện bằng sự cưỡng chế của nhà
nước. Những quy tắc điều chỉnh hành vi mới này chính là pháp luật.
Pháp luật cũng như nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn
giai cấp không thể điều hòa được. Pháp luật thay thế tập quán nguyên thủy không
phải trong một lúc mà phải trải qua một quá trình lâu dài và phức tạp. Thoạt đầu,
người ta sửa lại những tập quán cũ cho phù hợp với lợi ích của giai cấp thống trị và
dần dần người ta quy định, ban hành thêm những quy tắc mới. Pháp luật lúc đầu
biểu hiện bằng tập quán pháp (bất thành văn) và thực tiển xét xử (tiền lệ pháp). Sau
này, nhà nước mới chế định ra một số luật thành văn (văn bản pháp luật).
Pháp luật là những quy tắc điều chỉnh hành vi của con người, do nhà nước ban
hành và có tính cưỡng chế.
Trong Tuyên ngôn Đảng Cộng sản, Mác và Ăngghen đã định nghĩa: “Pháp luật
là ý chí của giai cấp thống trị được đưa lên thành lên, ý chí đó do những điều kiện
sinh hoạt vật chất của xã hội quyết định”.
Định nghĩa kinh điển này đã nói lên bản chất của pháp luật là ý chí của giai cấp
thống trị được để lên thành luật.
• Từ định nghĩa này, có thể rút ra một số đặc điểm cơ bản của pháp luật:
• Pháp luật là ý chí của giai cấp thống trị, tức là của giai cấp thực hiện quyền
lãnh đạo của nhà nước đối với xã hội, giai cấp nắm chính quyền;
• Ý chí đó được đề lên thành pháp luật, tức là được quy định thành những quy
tắc điều chỉnh hành vi của mọi người, có tính chất cưỡng chế, bắt buộc tất cả
mọi người phải phục tùng;
• Pháp luật là những quy tắc có tính chất cưỡng chế chung;
• Ý chí nêu lên thành luật là do điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội quyết
định, tức là do điều kiện kinh tế xã hội chi phối;
• Pháp luật là một trong những công cụ quan trọng nhất để giai cấp thốn trị
thực hiện chuyên chính giai cấp.
2. Các học thuyết phản động, phản khoa học về nguồn gốc của nhà nước và pháp luật
Cuộc đấu tranh giai cấp được phản ánh ngay trong cuộc đấu tránh giữa các quan
điểm về vấn đề nguồn gốc và bản chất của nhà nước và pháp luật. Sở dĩ có những
quan điểm khác nhau về nguồn gốc và bản chất của nhà nước và pháp luật vì mỗi
người đều xuất phát từ lợi ích của một giai cấp để nhìn nhận vấn đề.
Những người đại diện cho giai cấp bóc lột xuất phát từ quan điểm duy
tâm, phản động, xuyên tạc nguyên nhân sâu xa làm xuất hiện nhà nước và pháp
luật, che đậy bản chất giai cấp của hai hiện tượng lịch sử này, cho rằng nhà
nước là một cái gì thần bí (đại diện cho quan điểm này là Kan, Hêghen, Tibô
v.v…) tồn tại vĩnh viễn trong lịch sử nhân loại, nhà nước thay mặt thượng đế
để cai trị dân chúng… Múc đích của quan điểm duy tâm này là mê hoặc quần
chúng, làm cho quần chúng an phận thủ thường, tin vào định mệnh và từ bỏ
cuộc đấu tranh chống lại nhà nước của giai cấp thống trị.
Quan điểm phản khoa học thứ hai cho rằng: trong nhân dân có người
này sẵn có ý thức phục tùng,còn người khác vốn có ý thức quản lí, lãnh đạo, và
sự kết hợp hai loại tâm lí này làm nảy sinh ra nhà nước và pháp luật (đại diện
cho quan điểm này là A-ris-tot).
Khi chủ nghĩa tư bản bước vào giai đoạn tột cùng là chủ nghĩa đế quốc, học
thuyết về ý thức phục tùng và ý thức lãnh đạo được truyền bá rất rộng rãi và được
sử dụng làm cơ sở để bào chữa cho chính sách bành trướng xâm lược và nô dịch
của các nước đế quốc đối với các dân tộc ở châu Á, châu Phi, châu Mỹ - Latinh,
bào chữa cho chính sách áp bức, bóc lột nhân dân lao động ở các nước tư bản.
Những học thuyết cơ bản nêu trên đều là phản khoa học, không dựa vào quan
điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để xem xét các hiện tượng xã hội nhà nước và pháp luật.
III. CÁC KIỂU, HÌNH THỨC, CHỨC NĂNG CỦA NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
1. Các kiểu, hình thức, chức năng của nhà nước a. Kiểu nhà nước
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, kiểu nhà nước là khái niệm dùng
để chỉ những nhà nước cùng ra đời trên một cơ sở kinh tế và cùng có một bản chất giai cấp nhất định.
Kiểu nhà nước do kiểu quan hệ sản xuất và do bản chất giai cấp của nhà nước quyết định.
Từ khi lịch sử xã hội loài người xuất hiện giai cấp và đấu tranh giai cấp đến
nay, trong xã hội có bốn cơ sở kinh tế khác nhau, kế tiếp, thay thế nhau: cơ sở kinh
tế chiếm hữu nô lệ, cơ sở kinh tế phong kiến, cơ sở kinh tế tư bản chủ nghĩa và cơ
sở kinh tế xã hội chủ nghĩa (XHCN). Thích ứng với bốn cơ sở kinh tế đó thì có bốn
kiểu nhà nước: kiểu nhà nước chiếm hữu nô lệ, kiểu nhà nước phong kiến, kiểu nhà
nước tư bản chủ nghĩa và kiểu nhà nước XHCN. Các kiểu nhà nước này có bản chất giai cấp khác nhau.
Kiểu nhà nước biểu lệ bản chất của nhà nước. Nhà nước có bản chất tư bản
thì nhà nước đó được tổ chức theo kiểu tư bản của nó. Nó không thể sử dụng kiểu
nhà nước phong kiến hay kiểu nhà nước XHCN.
b. Hình thức của nhà nước
Hình thức nhà nước cũng là vấn đề quan trọng trong lí luận về nhà nước và
pháp luật của chủ nghĩa Mác-Lênin. Bản chất của nhà nước là công cụ thống trị
của một giai cấp, là quyền lực chính trị. Nhưng quyền lực đó tồn tại dưới hình thức
nào, được tổ chức như thế nào, được sắp xếp như thế nào thì lại là những vấn đề
thược nội dung của lí luận về hình thức nhà nước.
Nhà nước có hai loại hình thức: Hình thức tổ chức và hình thức chính thể.
Về hình thức tổ chức: nhà nước có hai loại là nhà nước đơn nhất và
nhà nước liên bang. Nhà nước đơn nhất là nhà nước trong đó chỉ có một hệ
thống cơ quan quyền lực tối cao duy nhất thực hiện chủ quyền quốc gia (Việt
Nam, Lào, Bun-ga-ri, Pháp, Nhật Bản, v.v…), còn nhà nước liên bang là nhà
nước có nhiều hệ thống cơ quan quyền lực tối cao: cơ quan của liên bang và
cơ quan của từng nước thành viên trong liên bang. Mỗi hệ thống cơ quan
quyền lực tối cao thực hiện chủ quyền quốc gia của mình trong phạm vi
thẩm quyền đã được phân chia (ví dụ: Liên Xô cũ, Tiệp Khắc cũ, Liên bang
Đức và đặc biệt là Hợp chủng quốc Hoa Kì hiện nay…).
Về hình thức chính thể: người ta chia hình thức nhà nước ra làm hai
loại cơ bản là chính thể quân chủ và chính thể cộng hòa. Hình thức chính thể
quân chủ có những đặc điểm như sau: người đứng đầu nhà nước và thống trị
suốt đời là vua. Vua lên ngôi theo thừa kế, cha truyền con nối. Vua có toàn
quyền định đoạt mọi công việc của quốc gia (quân chủ tuyệt đối) hoặc chỉ có
danh vọng, không có thực quyền hay thực quyền bị hạn chế trong một phạm
vi nhất định (quân chủ lập hiến).
Hình thức chính thể cộng hòa là hình thức trong đó người đứng đầu nhà
nước là cá nhân hay tập thể do bầu cử mà ra và chỉ thi hành quyền hạn của mình
trong một thời hạn nhất định (nhiệm kì). Trong chính thể cộng hòa có cộng hòa
quý tộc (La Mã, Hy Lạp cổ đại) và cộng hòa dân chủ. Trong chính thể cộng hòa
dân chủ có chính thể cộng hòa tổng thống (ví dụ: Hoa Kì) và cộng hòa đại nghị (ví dụ: Cộng hòa Pháp).
Hình thức nhà nước có liên quan chặt chẽ với kiểu nhà nước. Cùng một kiểu
nhà nước có thể có nhiều hình thức khác nhau và một hình thức có thể áp dụng
trong nhiều kiểu nhà nước khác nhau. Nhưng, có những hình thức chỉ thích hợp
với một kiểu nhà nước nào đó chứ không thể thích hợp với các kiểu khác. Ví dụ:
Hình thức chính thể quân chủ không thể có ở kiểu nhà nước XHCN v.v…
c. Chức năng của nhà nước
Chức năng của nhà nước là phương hướng hoạt động cơ bản của nhà nước
trong từng thời kí nhất định. Nhà nước có hai chức năng cơ bản là chức năng đối
nội và chức năng đối ngoại.
Chức năng đối nội gồm:
• Trấn áp sự phản kháng của giai cấp đối lập nhằm bảo vệ lợi ích và quyền
thống trị của giai cấp thống trị;
• Tổ chức xây dựng kinh tế phục vụ lợi ích của giai cấp thống trị;
• Tổ chức giáo dục văn hóa nhằm bảo đảm sự thống trị của hệ tư tưởng của giai cấp thống trị.
Chức năng đối ngoại gồm:
• Bảo vệ đất nước chống sự xâm lăng của nước ngoài;
• Thi hành chính sách đối ngoại phục vụ quyền lực của giai cấp thống trị. Tất
cả những chức năng nêu trên đều liên quan chặt chẽ với nhau, tác động qua
lại với nhau và biểu hiện bản chất của nhà nước.
2. Các kiểu, hình thức, chức năng của pháp luật a. Kiểu pháp luật
Kiểu pháp luật là khái niệm gắn liền với kiểu nhà nước vì pháp luật do nhà
nước chế định ra. Nhà nước thuộc kiểu nào thì chế định ra pháp luật thuộc kiểu ấy.
Từ xưa đến nay có bốn kiểu nhà nước thì cũng có bốn kiểu pháp luật: kiểu pháp
luật nô lệ, kiểu pháp luật phong kiến, kiểu pháp luật tư sản và kiểu pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Kiểu pháp luật nói lên bản chất của pháp luật, tức là nói pháp luật đó phục
vụ cho giai cấp thống trị nào, thực hiện chuyên chính đối với giai cấp nào.
b. Hình thức của pháp luật
Pháp luật biểu hiện dưới nhiều hình thức như Hiến pháp, Luật, Nghị định,
Quyết định, Mệnh lệnh, Chỉ thị v.v… Hình thức pháp luật còn bao gồm cả phong
tục, tập quán được nhà nước thừa nhận và các tiền lệ xét xử (Án lệ) của các tòa án.
c. Chức năng của pháp luật
Chức năng của pháp luật gắn liền với chức năng của nhà nước và biểu hiện cụ
thể ở bốn chức năng chủ yếu sau đây:
• Ấn định tổ chức của quốc gia, của xã hội;
• Điều chỉnh các quan hệ xã hội quan trọng nhất như quan hệ giữa các cơ quan
quyền lực với nhau, giữa các cơ quan chính quyền và nhân dân, quan hệ
giữa các giai cấp, các tầng lớp nhân dân với nhau;
• Định ra những chuẩn mực, khuôn phép cho những hành động hoặc các cư xử của nhân dân;
• Xây dựng trật tự xã hội.
d. Các hệ thống pháp luật chủ yếu trên thế giới
Theo sự phân loại của Tòa án Quốc tế Liên hợp quốc (International Court of
Justice), có sáu hệ thống pháp luật cơ bản là Common law, Islamic law, Indian law,
Chinese law và Law inspired by Communism.
• Common law là hệ thống pháp luật hình thành ở Anh, sau đó là ở Hoa Kì và
các nước từng là thuộc địa của Anh, Mỹ.
Đặc điểm của Common law là khi mới ra đời, các quy tắc pháp luật chủ yếu là bất
thành văn. Common law là tập hợp các quy tắc từ các tập quán và các án lệ (tiền lệ xét xử).
Ngày nay, những nước xây dựng hệ thống pháp luật theo Common law cũng đã
và đang từng bước pháp điển hóa pháp luật dưới hình thức văn bản. Tuy nhiên, án
lệ và tập quán ở những nước này vẫn đóng vai trò quan trọng.