lOMoARcPSD| 46342985
MỤC LỤC
Contents
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài ..................................................................................... 1
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu .......................................................... 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .......................................................... 2
4. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................ 3
5. Kết cấu của tiểu luận ............................................................................... 3
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ 3
CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG ................................................................... 3
1.1. Khái quát chung về chính quyền địa phương ................................... 3
1.2. Những quy định của pháp luật ........................................................... 4
1.3. Pháp luật về chính quyền địa phương ở đô thị ................................. 5
CHƯƠNG II: THỰC TIỄN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CHÍNH
QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG Ở ĐÔ THỊ .............................................................. 6
2.1. Những thành tựu đạt được .................................................................. 6
2.2. Những hạn chế, bất cập ....................................................................... 8
a) Những hạn chế, bt cập trong quy định pháp luật .............................. 8
b) Những hạn chế trong tổ chức, hoạt động của hình chính quyền địa
phương ở đô thị ......................................................................................... 9
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ
CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG Ở ĐÔ THỊ ............................................. 11
KẾT LUẬN .................................................................................................... 12
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 13
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chính quyền địa phương là quan quyền lực do nhân dân bầu ra, gắn liền với
nhân dân, trực tiếp giải quyết các vấn đề về quyền lợi ích của nhân dân. Bởi vậy,
chính quyền địa phương luôn được coi là cầu nối trực tiếp giữa Nhà nước với toàn thể
nhân dân khi công tác lãnh đạo quản tại chính quyền địa phương cũng sẽ phản
ánh trực tiếp đến các chính sách pháp luật do Nhà nước đề ra và khi áp dụng vào thực
tiễn lâu dài.
lOMoARcPSD| 46342985
Trong những năm gần đây, khi đất nước không ngừng đổi mới và phát triển thì vai
trò của chính quyền địa phương càng trở nên quan trọng. Việc hướng dẫn bảo đảm
việc thi hành Hiến pháp pháp luật tại địa phương được quan tâm sâu sắc, củng cố
nhằm đạt được những mục tiêu, nhiệm vụ chiến lược Đảng Nhà nước đề ra trong
mỗi nhiệm kỳ. Từ đó, nâng cao vai trò lãnh đạo, hiệu quả quản Nhà nước địa
phương.
Tuy nhiên, phát triển đồng nghĩa với việc phát sinh thêm nhiều tình trạng mới gây
nên sự khó khăn, vướng mắc nhất định trong công tác quản lý. Đặc biệt là tại các khu
vực đô thị ngày càng gia tăng các hành vi vi phạm pháp luật, sự suy thoái về đạo đức
và lối sống không chỉ ở nhân dân mà còn là một bộ phận quan chức. Đây là một trong
những vấn đề mang tính cấp thiết hiện nay, cần được giải quyết một cách triệt để. Đây
cũng là do đề tài “ Giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật về chính quyền địa
phương đô thị” được lựa chọn nhằm mục đích tìm hiểu nghiên cứu, cho mọi người
cái nhìn cụ thế, khái quát hơn với những quy định của pháp luật về mô hình chính
quyền địa phương ở đô thị và thực trạng áp dụng những quy định ấy.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Đi sâu vào nghiên cứu một số vấn đề lý luận về chính quyền địa phương để hiểu
cấu tổ chức của bộ máy chính quyền địa phương đô thị trên sở các quy định
của luật. Tìm hiểu Hiến pháp và Luật Tổ chức chính quyền địa phương, các văn bản thi
hành áp dụng pháp luật trong việc xác lập, xây dựng hình chính quyền địa
phương ở đô thị. Từ đó nêu ra được những nhận xét, đánh giá thiết thực.
Với hoạt động nghiên cứu, tìm hiểu đặc điểm của chính quyền địa phương ở đô thị
và thực trạng tổ chức hoạt động của chính quyền. Đề tài đặt ra nhiệm vụ quan trọng là
phải đxuất được một số giải pháp nhằm đổi mới và hoàn thiện hình tổ chức phù
hợp với đặc điểm, tính chất quy mô, đáp ứng yêu cầu tốc độ phát triển của đô thị
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu: tập trung nghiên cứu hình các cấp chính quyền địa
phương ở đô thị được tổ chức phù hợp với đặc điểm của đời sống chính trị, kinh tế,
hội những điểm riêng trong quá trình đổi mới đất nước, xu hướng toàn cầu
hóa, hội nhập quốc tế,… đang không ngừng hát triển.
Phạm vi nghiên cứu: tập trung vào tình hình thực tiện tại các địa phương đô thị
đồng thời nghiên cứu, tìm và hoàn thiện quy định của pháp luật trong công tác quản lý,
phát huy cao vai trò của chính quyền địa phương ở đô thị dưới nhiều góc độ khác nhau
lOMoARcPSD| 46342985
4. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng phương pháp duy vật biện chứng để phân tích, tổng hợp, so sánh, hthống,
kết hợp các sở luận, luận điểm khoa học với thực tiễn để đưa ra các giải pháp
nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về chính quyền địa phương ở đô thị.
5. Kết cấu của tiểu luận
Ngoài phần mục lục, phần mở đầu, kết luận, danh mục tài iệu tham khảo, nội dung
tiểu luận gồm ba chương:
Chương I: Khái quát chung quy định của pháp luật về chính quyền địa phương
đô thị
Chương II: Thực tiễn các quy định của pháp luật về chính quyền địa phương ở đô
thị
Chương III: Giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật vchính quyền địa phương
ở đô thị
CHƯƠNG I KHÁI QUÁT CHUNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CHÍNH
QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG
1.1. Khái quát chung về chính quyền địa phương
Theo Hiến pháp năm 2013, thuật ng“chính quyền địa phương” chính thức được
sử dụng tầm hiến định được quy định thành một chương riêng (Chương IX)
thuật ngữ này hiện được sử dụng tương đối rộng rãi và phổ biến trong các văn kiện của
Đảng, các văn bản pháp luật của Nhà nước.
Theo nghĩa rộng thể nói chính quyền địa phương hệ thống các quan nhà
nước địa phương, gồm cơ quan đại diện (cơ quan quyền lực nhà nước địa phương),
quan hành pháp quan pháp của địa phương đó. Theo nghĩa hẹp, chính quyền
địa phương được hiểu gồm cơ quan đại diện (cơ quan quyền lực nhà nước địa phương)
quan hành pháp của địa phương đó. Phụ thuộc vào cách tiếp cận vấn đề hoặc mục
tiêu nghiên cứu chính quyền địa phương sẽ được hiểu theo nghĩa rộng hay nghĩa
hẹp. Trong đó phổ biến là quan niệm theo nghĩa hẹp.
Từ quan niệm trên có thể hiểu chính quyền địa phương ở Việt Nam là một bộ phận
hợp thành, gắn hữu của chính quyền nhà nước, hình thức pháp lý thông qua
đó Nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình địa phương. Chính quyền địa phương
mang tính nhà nước, thực hiện quyền lực nhà nước ở địa phương. Tính chất quyền lực
nhà nước của chính quyền địa phương không chxác định vị trí, tính chất pháp
vai trò của các cơ quan chính quyền địa phương trong cơ chế thực hiện quyền lực nhà
nước thống nhất của Nhân dân, mà còn xác định thẩm quyền trách nhiệm của chính
lOMoARcPSD| 46342985
quyền địa phương trong việc ban hành các văn bản quản nhà nước, tổ chức thực hiện
pháp luật của Nhà nước, quyết định các biện pháp nhằm xây dựng và phát triển kinh tế
- hội địa phương. Chính quyền địa phương được tổ chức hoạt động theo nguyên
tắc tập trung, dân chủ, hình thành một hệ thống thứ bậc hành chính từ trên xuống theo
hướng cấp dưới phục tùng cấp trên, địa phương phục tùng Trung ương. Tổ chức bộ
máy của chính quyền địa phương do Nhân dân địa phương, bằng hình thức trực tiếp
hoặc gián tiếp, thành lập ra để tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước địa phương.
Chính quyền địa phương vừa chịu trách nhiệm trước quan nhà nước cấp trên, vừa
chịu trách nhiệm trước cử tri và Nhân dân ở địa phương.
1.2. Những quy định của pháp luật
Hiến pháp năm 2013 đã đổi tên gọi tHội đồng nhân dân Uỷ ban nhân dân
(trong Hiến pháp năm 1992) thành Chính quyền địa phương đã tạo nên sự thay đổi mới
về bộ máy hành chính Nhà nước tại cấp địa phương. Bên cạnh đó, Đảng và Nhà nước
ta đã ban hành Luật s77/2015/QH13 “Luật tổ chức chức chính quyền địa phương
cùng các văn bản sửa đổi, bổ sung năm 2017, 2019, 2023 cùng nhiều đạo luật khác
được ban hành đã cụ thhóa các quy định về Chính quyền địa phương như: Luật Tổ
chức Quốc hội năm 2014, Luật Tổ chức Chính phủ 2015,…Các văn bản pháp luật này
đã tạo cơ sở pháp luật cho việc tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương nói
chung và chính quyền địa phương ở đô thị nói riêng.
So với Hiến pháp năm 1992, điểm mới của Hiến pháp năm 2013 khi quy định về
chính quyền địa phương đã xác định “đơn vị hành chính tương đương” là đơn vị thuộc
thành phố trực thuộc trung ương. Đặc biệt, cấp chính quyền địa phương gồm Hội
đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân được tổ chức phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô
thị, hải đảo, đơn vhành chính kinh tế đặc biệt do luật định (khoản 2 Điều 111). Trên
tinh thần của Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015
đã xác định “đơn vị hành chính tương đương” “thành phố thuộc thành phố trực
thuộc trung ương” và quy định chính quyền địa phương ở đô thị gồm chính quyền địa
phương thành phố trực thuộc trung ương, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành
phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương, phường, thị trấn. Bên cạnh đó, bLuật này
cũng xuất hiện nhiều nội dung mới về cơ cấu tổ chức, thẩm quyền, bổ sung thêm Ban
đô thị đối với Hội đồng nhân dân thành phố trực thuộc trung ương nhằm đáp ứng nhu
cầu về quản lý nhà nước đối với quá trình đô thị hóa.
Bên cạnh đó, nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương quận phường đã
được điều chỉnh cho phù hợp với yêu cầu quản lý thống nhất, liên thông trong khu vực
nội thành, nội thị tại các đô thị. Ngoài việc thực hiện chức năng đại diện giám sát
theo quy định chung, tập trung thực hiện 2 nhóm nhiệm vụ liên quan đến việc quyết
định các vấn đề ở địa phương gồm: thông qua ngân sách quận, phường theo quy định
của Luật Ngân sách nhà nước bầu nhân sự của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân
cùng cấp. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Chính phủ Luật Tổ
lOMoARcPSD| 46342985
chức chính quyền địa phương năm 2019 đã tạo sở để Quốc hội quyết định một số
đề án về thí điểm chính quyền địa phương ở đô thị tại một số địa phương phù hợp với
đặc điểm và yêu cầu quản lý của từng đô thị. Trước đó, Nghị định số 24/2014/NĐ-CP
của Chính phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương, ngoài một số sở đặc thù như Sở Ngoại vụ, Ban Dân
tộc, Sở Quy hoạch - Kiến trúc, thể tổ chức quan chuyên môn đặc thù khác khi
thật cần thiết, phù hợp với đặc điểm, tình hình phát triển kinh tế - xã hội đáp ứng
yêu cầu quản nhà nước địa phương. Nghị định số 37/2014/NĐ-CP cũng đã quy
định việc tổ chức các quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp huyện. Theo đó,
ngoài 10 cơ quan chuyên môn được thống nhấ tất cả các quận, huyện, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh quy định tại Điều 7 của Nghị định này, được tổ chức một số quan
chuyên môn khác để phù hợp với tửng loại hình đơn vị hành chính cấp huyện trong đó
ở quận, thành phố thuộc tỉnh có phòng quản lý đô thị.
1.3. Pháp luật về chính quyền địa phương ở đô thị.
Trong giai đoạn hiện nay, để bắt kịp với xu thế chung trên toàn thế thới Đảng
Nhà nước ta đã và đang tích cực thúc đẩy quá trình đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ. Từ đó,
các đô thị ngày càng được mở rộng phát triển không ngừng, đóng vai trò các trung
m phát triển kinh tế, chính trị, xã hội,…đi kèm với sự phát triển này cũng kéo theo
nhiều sự thay đổi đáng kể. Chính quyền địa phương ở đô thị về cơ bản vẫn gắn liền v
bản chất, vị trí, vai trò, chức năng đại diện của Nhân dân cũng như mối liên hệ giữa
chính quyền các cấp theo quy định của pháp luật, bên cạnh đó cũng cần thể hiện các
yêu cầu đặc thù riêng vphương thức tổ chức, quản lý phát triển đô thị. Bởi có sự
khác biệt nhất định giữa đô thị và nông thôn nên bộ máy chính quyền địa phương ở đô
thị cần phải có tính tập trung cao, thông suốt và hạn chế các khâu trung gian đồng thời
đáp ứng nhu cầu và nguyện vọng của người dân qua từng thời kỳ phát triển đất nước.
Sau chủ trương của Đảng tại văn kiện Đại hội XIII, thể chế hóa Nghị quyết số
97/2019/QH14, 27-11-2019, của Quốc hội, “Tđiểm tổ chức mô hình chính quyền đô
thị tại thành phố Hà Nội”; Nghị quyết s119/2020/QH14, ngày 19-6-2020, của Quốc
hội, “Về thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị và một số cơ chế, chính sách đặc
thù phát triển thành phố Đà Nẵng”; Nghị quyết số 131/2020/QH14, ngày 16-11-2020,
của Quốc hội, “Tổ chức chính quyền đô thị tại Thành phố Hồ Chí Minh”.
Theo đó, ta xây dựng hình chính quyền đô thị một cấp: được tổ chức trong phạm
vi nội thành của thành phố trực thuộc Trung ương. Trong đó, chỉ một quan đại
diện là Hội đồng nhân dân thành phố và không tổ chức Hội đồng nhân dân quận
phường và Ủy ban nhân dân ở cả ba cấp hành chính. Mô hình này hiện đang được triển
khai tại Thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Đà Nẵng.
- Mô hình chính quyền đô thị hai cấp: được tổ chức ở khu vực nội thành của thành
phố trực thuộc Trung ương. Trong đó, có hai cơ quan đại diện
lOMoARcPSD| 46342985
Hội đồng nhân dân thành phố Hội đồng nhân dân quận, không tổ chức Hội đồng
nhân dân ở phường, có đủ ba cấp hành chính của Uỷ ban nhân dân. Mô hình này hiện
đang được áp dụng ở Thành phố Hà Nội.
Trong khuôn mẫu của chính quyền địa phương, chính quyền địa phương đô thị
dù có sự thay đổi nhưng đều phải đảm bảo các nguyên tắc cơ bản như tập trung, thống
nhất, vận hành thông suốt. Đồng thời, do tính chất phức tạp tại các khu đô thị nên phải
đảm bảo việc phân công, phân cấp được ràng, rành mạch giữa trung ương với địa
phương, thúc đẩy tạo nên một môi trường thuận lợi để các cấp chính quyền địa phương
đô thị có thể chủ động, tích cực thực hiện các biện pháp phát triển kinh tế, văn hóa,
hội nhằm nâng cao đời sống của nhân dân. Chính quyền địa phương ở đô thị cũng
là một bộ phận của hệ thống pháp luật Việt Nam, bao gồm các quy phạm pháp luật do
quan Nnước thẩm quyền ban hành được thể hiện qua các văn bản quy phạm
pháp luật, tạo nên mối liên hệ chặt chẽ, thống nhất trong việc điều chỉnh các quan hệ
xã hội phát sinh trong tổ chức và hoạt động của chính quyền đô thị.
thể thấy Chính quyền địa phương” chưa được thống nhất chung về một
khái niệm nhưng Đảng và Nhà nước ta đã chú trọng, quan tâm đến việc xây dựng các
quy định pháp luật, không ngừng sửa đổi, bổ sung các điều luật để hướng tới việc xây
dựng một bộ máy hành chính tại các cấp địa phương ngày càng toàn vẹn, phát huy hiệu
quả, hiệu lực cao nhất nhằm đáp ứng nhu cầu, lợi ích của người dân, vì nhân dân phục
vụ. Qua đó củng cố niềm tin của nhân dân vào năng lực, vai trò quản lý, lãnh đạo của
Đảng.
CHƯƠNG II THỰC TIỄN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CHÍNH
QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG Ở ĐÔ THỊ
2.1. Những thành tựu đạt được
Thông qua Nghị quyết số 97/2019QH14 ngày 27/11/2019 của Quốc hội về thí điểm
tổ chức hình chính quyền địa phương đô thị tại Thành phố Nội. Nghị quyết số
119/2020QH14 ngày 19/6/2020 của Quốc hội về thí điểm tổ chức hình chính quyền
đô thị và một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Đà Nẵng. Nghị quyết
số 131/2020/QH14 ngày 29/3/2020 của Quốc hội về tổ chức hình chính quyền đô
thị tại Thành phố Hồ Chí Minh. Việc xây dựng và thực hiện đề án tổ chức thí điểm mô
hình chính quyền địa phương đô thị đã được tiến hành dựa trên các snày. Qua
đó, thấy được tính nghiêm túc và cấp thiết trong công cuộc đổi mới và hoàn thiện việc
xây dựng bộ máy nhà nước tại các cấp chính quyền địa phương ở đô thị.
Trong thời gian qua, công tác tổ chức và quản lý bộ máy nhà nước tại các cấp
chính quyền địa phương ở đô thị đã và đang từng bước phát triển và ngày càng chặt
chẽ hơn. Với giai đoạn từng bước đổi mới và hoàn thiện hơn về cải cách hành chính
nhà nước hiện nay, chính quyền địa phương ở đô thị đã có những tiến bộ nhất định về
lOMoARcPSD| 46342985
năng lực, hiệu quả trong quản lý nhà nước và phục vụ nhân dân trên địa bàn. Trongđ
ó, phải kể đến những kết quả tích cực:
Thứ nhất, việc phân định nhiệm vụ, quyền hạn tại các cấp chính quyền địa phương
đô thị dần những đặc thù riêng, khác biệt so với chính quyền địa phương ở nông
thôn. Ngoài việc quyết định các vấn đề tại địa phương như ở nông thôn thì vai trò của
chính quyền địa phương đô thị còn đảm nhận việc quyết định các chính sách quy
hoạch phát triển, xây dựng kết cấu hạ tầng, quản và tổ chức đời sống nhân dân,… Ở
các cấp quận, phường thì nhiệm vụ, quyền hạn cũng được mở rộng và điều chỉnh phù
hợp hơn, đáp ứng nhu cầu về việc quản thống nhất, liên thông trong khu vực nội
thành, nội thị tại các đô thị. quan hành chính phường cũng đã tích cực, chủ động
điều hành, đưa ra quyết định nhanh chính xác đối với các vấn đcấp bách tại địa
phương trên cơ sở xác định trách nhiệm, người, việc qua đó góp phần nâng cao
hiệu quả trong công c quản nhà nước nhưng vẫn đảm bảo các quyền làm chủ, quyền
đại diện của nhân dân. Với từng mức độ khác nhau, các cấp chính quyền địa phương ở
đô thị ngày càng quan tâm nhiều hơn đến đời sống của nhân dân như việc bảo đảm các
dịch vcông cộng cơ bản, đáp ng nhu cầu của nhân dân, các lĩnh vực như giáo dục,
sức khỏe, môi trường,… đều hướng tới nhu cầu, lợi ích chính đáng của người dân.
Thứ hai, chức năng, nhiệm vụ, cấu tổ chức, bmáy của Hội đồng nhân dân
Uỷ ban nhân dân đã được sắp xếp, điều chỉnh theo các quy định của Luật tổ chức chính
quyền địa phương năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017,2019) của chính quyền
thành phố, phù hợp hơn với đặc điểm, tính chất của quản đô thị. Vai trò của Hội
đồng nhân dân các cấp thành phố, thị xã, thị trấn ngày càng được thể hiện rõ hơn với
cách quan quyền lực nhà nước địa phương, thực hiện tốt hơn chức năng quyết
định các vấn đề quan trọng của đô thị và chức năng giám sát hoạt động của bộ y
hành chính đô thị. Uỷ ban nhân dân các cấp đô thị cũng nhiều sđổi mới, thích
ứng với quá trình phát triển nền hành chính. Với vai trò của mình, tại từng mức độ khác
nhau, các hoạt động của Uỷ ban nhân dân ngày càng hiệu lực đạt hiệu quả cao
trong công tác quản lý đối với các lĩnh vực kinh tế - xã hội trên địa bàn theo phân cấp,
ủy quyền của chính quyền đô thị. Góp phần không nhỏ trong đáp ứng nhu cầu giải
quyết bức xúc của người dân.
Thứ ba, việc từng bước đổi mới hoàn thiện phương thức hoạt động của Hội đồng
nhân dân, Uỷ ban nhân dân đã dần được đảm bảo được tính thống nhất, nhanh nhạy
trong quy trình quản lý, điều hành của chính quyền địa phương ở đô thị.
Thứ tư, đối với đội ngũ cán bộ, công chức của chính quyền địa phương ở đô thị
cũng có những tiến bộ đáng kể, dần phát huy về năng lực, trách nhiệm, trình độ,
phong cách, thái độ của từng cá nhân. Từ đó, chất lượng, kết quả khi cung cấp dịch
vụ công từng bước được cải thiện, đáp ứng tốt hơn các nhu cầu của tổ chức và người
dân.
lOMoARcPSD| 46342985
Như vậy, có thể thấy rằng việc đổi mới, cải thiện trong việc tổ chức các cấp chính
quyền địa phương ở đô thị đã đạt được một số thành tựu mới, góp phần nâng cao năng
lực của cả bộ máy chính quyền đô thị nói chung và mỗi cơ quan, đơn vị trong bộ máy
đó nói riêng.
2.2. Những hạn chế, bất cập
a) Những hạn chế, bt cập trong quy định pháp luật
Bên cạnh những kết quả, thành tựu đã đạt được thì quy định pháp luật về mô hình
tổ chức chính quyền địa phương ở đô thị vẫn còn bộc lộ nhiều vấn đề như:
- Quy định về xác định vị trí, vai trò của đơn vị hành chính
Pháp luật hiện hành quy định nước ta gồm ba cấp đơn vị hành chính là: cấp tỉnh,
cấp huyện, cấp nên có thể hiểu, việc tổ chức đơn vị hành chính lãnh thổ sẽ không
sự phân biệt giữa các khu vực như đô thị, nông thôn, miền núi, miền xuôi hải đảo.
Hiến pháp 2013 cũng quy định Cấp chính quyền” bao gồm hai thiết hế là Hội đồng
nhân dân và Uỷ ban nhân dân. Theo đó, đâu không coi “Cấp chính quyền” thì
không nhất thiết phải có đủ hai thiết chế trên. Tuy nhiên, Luật tổ chức chính quyền địa
phương 2015 lại đồng nhất cấp chính quyền với cấp hành chính theo Điều 30, Điều 44
Điều 58. Do vậy, chính quyền địa phương cả ba cấp trong đó các đô thị cấp tỉnh, cấp
huyện, cấp cũng đủ hai thiết chế Hội đồng nhân dân Uỷ ban nhân dân. Điều
này đã cản trở việc xây dựng và thực thi một số thay đổi tại chính quyền địa phương ở
đô thị.
- Quy định về cơ cấu, tổ chức bộ máy của chính quyền địa phương ở đôthị
Việc thay đổi trong tổ chức chính quyền địa phương đô thi chưa thật stạo nên
bước chuyển mình lớn, về cơ bản thì cơ cấu, tổ chức chính quyền cấp dưới vẫn giống
cấp trên. Pháp luật cũng chưa đặt ra được các tiêu chí để phân định, đánh giá họa động
của chính quyền địa phương ở đô thị cũng như chính quyền địa phương nông thôn.
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, quy định của pháo luật đối với chính quyền địa
phương ở đô thị chưa thực sự đáp ứng, bắt kịp sự phát triển và ứng dụng những thành
tự khoa học- kỹ thuật mới vào quản nền hành chính nhà nước. vậy, đã qua
nhiều lần đổi mới và sắp xếp nhưng việc tổ chức bộ máy chính quyền địa phương ở đô
thị vẫn chưa tinh gọn, tương ứng với nhiệm vụ, thẩm quyền được giao.
Vẫn sự rập khuôn tương ứng với các cơ quan bộ, nghành trung ương đối với
chính quyền địa phương cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nên hoạt động các
sở, phòng, ban chuyên môn còn bị chồng chéo và không đảm bảo tính thống nhất, liên
thông về quy hoạch phát triển kinh tế- xã hội, không gian và hạ tầng kĩ thuật đô thị.
Các quy định về nhiệm vụ, thẩm quyển của chính quyền địa phương đô thị còn
nhiều bất cập, khi quy định về nhiệm vụ,quyền hạn của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban
nhân dân các cấp trên các lĩnh vực chưa sự tách biệt rõ ràng, còn trùng lặp về nhiệm
lOMoARcPSD| 46342985
vụ, quyền hạn của từng cấp được thể hiện qua một vài lĩnh vực nkinh tế, văn hóa,
khoa học, quốc phòng, an ninh trật tự, cũng ntrong lĩnh vực thi hành pháp luật
xây dựng chính quyền đô thị. Về bản, Hội đồng nhân dân dù là quan đại diện cho
ý chí nguyện vọng của nhân dân vẫn chưa thực sự quan đại diện khi quyết định
những vấn đề quan trọng tại địa phương, dẫn đến tình trạng hoạt động của Hội đồng
nhân dân ở cấp chính quyền đô thị còn mang tính hình thức.
Quy định về mối quan hệ giữa chính quyền trung ương với chính quyền địa phương
đô thị còn mang nặng tính thứ bậc. Khi chính quyền cấp dưới phục tùng chính quyền
cấp trên, chính quyền địa phương phục tùng chính quyền trung ương đã khiến cho chính
quyền địa phương bị coi là cấp dưới, không có quyền tự chủ nhất định. Gây khó khăn
trong việc phát huy tính chủ động, sáng tạo, của mình khi giải quyết những vấn đề bức
xúc của người dân địa phương.
Các quy định về kiểm tra, thanh tra và giám sát đối với chính quyền đô thị chưa
đầy đủ, toàn diện. Cùng với đó là công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát vẫn chưa xử lý
nghiêm đối với những tập thể, cá nhân, người đứng đầu khi chưa hoàn thành tốt nhiệm
vụ sắp xếp, tổ chức, tinh gọn biên chế, chưa chế đánh giá phù hợp thay thế
những cán bộ, công chức, viên chức không đáp ứng được nhiệm vụ, công việc được
giao. Mục tiêu tinh giảm biên chế còn kéo dài, pháp luật chưa thực sự trao quyền cho
chính quyền đô thị về công tác tổ chức, nhân sự.
b) Những hạn chế trong tổ chức, hoạt động của mô hình chính quyền đa
phương ở đô thị
Thứ nhất, chức năng, nhiệm vụ của bộ máy chính quyền địa phương ở đô thị chưa
được điều chỉnh, cải cách để phù hợp với vai trò, chức năng trong điều kiện hiện nay.
Đảng và Nhà nước đang thúc đẩy phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, nhưng ở nhiều nơi vẫn còn trực tiếp can thiệp vào hoạt động của thị trường
người dân, còn gây khó khăn, cản trở các hoạt động tự do kinh doanh của các chủ
thể kinh tế. Xu thế phát triển tại môi trường đô thị đòi hỏi phảo không ngừng nhanh
nhạy, chủ động nhưng chính sự bao biện,ôm đòn quá mức của một số chính quyền đã
làm giảm năng lực, hiệu quả hoạt động của chính quyền địa phương ở đô thị.
Thứ hai, là cơ cấu tổ chức bộ máy chính quyền địa phương ở đô thị còn nhiều đầu
mới, nhiều lớp trung gian, chưa bảo đảm sự tập trung, thống nhất, dẫn đến việc phân
tán nguồn lực, quyền lực. Hội đồng nhân dân quận, phường chưa được trao quyền để
quyết định các vấn đề về quy hoạch, chiến lược, chủ trương, giải pháp phát triển kinh
tế - hội trên địa bàn. Ủy ban nhân dân quận, phường thực thi một snhiệm vụ cụ
thể quản hành chính nhà nước thực hiện cung cấp một số dịch vụ công trên địa
bàn theo thẩm quyền.
Thứ ba, cơ chế vận hành bộ máy hành chính tại đô thị chưa thống nhất, thông suốt,
chưa bảo đảm tính hệ thống và tập trung còn bị chia cắt theo từng cấp hành chính
lOMoARcPSD| 46342985
trong nội bộ đô thị. chế điều hành hành chính mang tính chất tập thể chứa đựng
nhiều bất hợp lý, trở ngại đáng kể đối với việc nâng cao năng lực của chính quyền
nhà nước nói chung và nhất là ca chính quyền địa phương ở đô thị nói riêng..
Thứ tư, trước yêu cầu mới của công cuộc cải cách, hội nhập quốc tế hiện nay, đội
ngũ cán bộ, công chức nhà nước đang ngày càng xuất hiện hơn những yếu kém về trình
độ, năng lực chuyên môn, kiến thức cũng như thiếu chủ động trong sáng tạo, kỹ năng
thực thi công vụ cụ thể, quan hệ giao tiếp với công dân, phẩm chất phục vụ công tâm,
liêm khiết, tận tụy… Đặc biệt trong bộ máy chính quyền địa phương đô thị thì những
biểu hiện này càng nét hơn trong một bộ phận cán bộ, công chức, khiến cho niềm
tin của nhân dân vào bộ máy Nhà nước bị suy giảm đồng thời làm hạn chế đáng kể
năng lực, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của chính quyền đô thị.
Thông qua các quy định pháp luật tại các Điều, Khoản trích trong Hiến pháp 2013,
Luật tổ chức chính quyền địa phương 2015, Luật sửa đổi b sung 2019 và các văn bản
áp dụng pháp luật khác như Nghị quyết, Nghị định,… cũng như thực tiễn áp dụng trong
những năm qua, có thế thấy thực trạng quy định pháp luật về chính quyền địa phương
đô thị bên cạnh nhiều thành tựu đạt được vẫn còn tồn đọng nhiều hạn chế, vấn đề
chưa thể giải quyết khiến cho các chính sách pháp luật dù được đề ra nhưng vẫn chưa
thể thực hiện hay đem lại hiệu quả cao.
lOMoARcPSD| 46342985
CHƯƠNG III GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ
CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG Ở ĐÔ THỊ
Những hạn chế trong quy định pháp luật về chính quyền địa phương ở đô thị có thể
được khắc phục, giải quyết thông qua một số giải pháp sau:
Thứ nhất, tiếp tục duy trì các quan điểm của Đảng và Nhà nước trong công tác
tổ chức hoạt động của chính quyền địa phương ở đô thị, thúc đẩyn nữa việc triển
khai, thí điểm các đề án về tchức chính quyền địa phương qua đó tổng kết, rút ra kinh
nghiệm, xây dựng cơ sở luận thực tiễn, hoàn thiện khung pháp qua đó tìm và
tiếp tục đổi mới công tác tổ chức hoạt động của chính quyền địa phương đô thị để
dần bắt kịp với tình hình mới. Việc xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp
luật đóng vai trò quan trọng, cần phải được chú ý hết mức vì pháp luật sở để
thực hiện, đẩy mạnh cải cách hành chính. Thúc đẩy sự hợp tác, đồng bộ giữa quan
Trung Ương ( Quốc hội, Chính phủ, các bộ, nghành ) trong việc sửa đổi, bổ sung, ban
hành các văn bản quy phạm pháp luật liên quan tới tổ chức bộ máy hoạt động của
chính quyền địa phương ở đô thị.
Việc thay đổi mô hình tổ chức chính quyền địa phương ở đô thị dù theo hướng nào
cũng cần đảm bảo các nguyên tắc sau: (1) Đề cao thẩm quyền, trách nhiệm của Chủ
tịch Uỷ ban nhân dân với tư cách là người đứng đầu cơ quan hành chính Nhà nước tại
địa phương; (2) Đề cao trách nhiệm và phân định vai trò của từng cá nhân, tập thể
trong công tác tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương ở đô thị; (3) Phát huy
tính độc lập, tự chủ của chính quyền đô thị trong việc thực hiện các nhiệm vụ và thẩm
quyền được giao; (4) Hướng tới việc xây dựng chính quyền địa phương ở đô thị thành
một cấp thống nhất, bảo đảm tính hiệu quả, hiệu lực, giảm bớt tổ chức trung gian.
Thứ hai, sửa đổi, bsung các văn bản quy phạm pháp luật về chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của chính quyền địa phương như Luật Tổ chức chính quyền địa phương,
Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân
dân các cấp. Bên cạnh đó, cần sửa đổi, bổ sung các đạo luật chuyên ngành có liên quan
đến cấu, tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương như Luật Đất đai, Luật
Quy hoạch đô thị, Luật Xây dựng, Luật Đầu tư công... cũng như các nghị định, thông
của Chính phủ các bộ, ngành trung ương cho phù hợp với hình chính quyền
đô thị trong phân cấp quản lý chức năng giữa trung ương và địa phương, giữa Uỷ ban
nhân dân thành phố, các sở ngành và quận, phường nhằm hạn chế tình trạng chồng
chéo, mâu thuẫn giữa các văn bản để phù hợp với tình hình phát triển đô thị hiện nay.
soát, loại bỏ những quy định chồng chéo, bất cập pháp điển hóa thành văn
bản quy phạm pháp luật về tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương giá tr
pháp lý cao để những thay đổi bản, toàn diện, mạnh mẽ, tạo hành lang pháp
vững chắc cho tổ chức hoạt động của chính quyền địa phương. Tinh thần soát,
lOMoARcPSD| 46342985
sửa đổi theo hướng trao quyền tự chủ nhiều hơn nữa cho các đô thị, thành phố trực
thuộc trung ương trong thu hút các nguồn lực cho phát triển.
Thứ ba, liên quan đến quy định về phân định thẩm quyền, phân quyền, ủy quyền
đối với chính quyền địa phương đô thị cần bổ sung, sửa đổi một số nội dung trong
Luật sửa đổi và một số điều của Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền
địa phương 2019 nhằm khắc phục tình trạng “chủ thể thực hiện ủy quyền gây khó khăn
trong việc áp dụng hạn chế hoạt động của chính quyền địa phương các cấp” hoặc
một số nhiệm vụ, quyền hạn bị phân cấp, ủy quyền tràn lan, làm giảm hiệu quả trong
công tác quản lý nhà nước ở địa phương.
Thứ tư, trong quá trình xây dựng văn bản pháp luật về Chính quyền địa phương cần
đảm bảo sự phân chia rạch ròi, stách biệt giữa Chính quyền địa phương đô thị
so với nông thôn, từ đó đề ra nhiệm vụ, cách thức tổ chức hoạt động riêng đối với
từng địa bàn.
Thứ năm, trong quá trình thực hiện thí điểm hình chính quyền địa phương ở đô
thị hiện áp dụng tại 3 thành phố Hà Nội, Đà Nẵng và TP. Hồ Chí Minh cần đưa ra tổng
kết để xây dựng thể chế mới về chính quyền địa phương theo hướng nghiên cứu áp
dụng trong phạm vi cả nước.
Việc xây dựng cơ spháp luật là cùng quan trọng pháp luật do Nhà nước đảm
bảo thực thi, thể hiện tính bắt buộc và tuân theo nguyên tắc chung. Trên cơ sở ấy, nếu
pháp luật không đề ra những vấn đbất cập, gây khó khăn trong việc thi hành, áp dụng
thì việc t chức, xây dựng mô hình chính quyền địa phương nói chung và chính quyền
đô thị nói riêng sẽ không thể khắc phục và giải quyết những vấn đề còn tồn đọng.
KẾT LUẬN
Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, mỗi quốc gia mỗi dân tộc đều hướng tới sự
phát triển không ngừng. Gắn với quá trình tăng trưởng này, đô thị đóng một vai trò rất
quan trọng, không chỉ kinh tế, chính trị mà văn hóa- xã hội, khoa học-kỹ thuật,…dù
lĩnh vực nào thì đều có điều kiện phát triển một cách mạnh mẽ. Có thể nói đô thị đang
là xu thế tất yếu của nhiều quốc gia trong kỷ nguyên công nghiệp hóa – hiện đại hóa.
Việt Nam hiện nay, đô thị cũng đóng vai trò quan trọng trong công tác quản
phát triển đất nước, đặc biệt khi Đảng Nhà nước ta đang phấn đấu trở thành nước
công nghiệp theo hướng hiện đại. Để đạt được điều đó, việc xây dựng từng bước
thay đổi mô hình chính quyền địa phương ở đô thị là nhu cầu cần thiết, đòi hỏi từ thực
tiễn. Thông qua các quy định pháp luật được thể hiện bằng văn bản, Nghị định, Thông
tư,…có thể thấy Đảng và Nhà nước ta đã có ý thức quan tâm tới bộ máy nhà nước, tuy
nhiên về bản thì các vấn đề được nêu trong các văn bản pháp luật còn nhiều hạn chế,
chưa chặt chẽ, đầy đủ, còn mang tính hình thức. Từ đó quá trình áp dụng luật vào đời
sống còn vấp phải nhiều khó khăn, hạn chế như bộ máy hành chính còn phức tạp,
lOMoARcPSD| 46342985
chế quản lý, thực hiện thi hành còn chậm trễ dẫn đến việc phục vụ nhân dân còn
nhiều thiếu sót. Thông qua quá trình nghiên cứu, tìm hiểu quy định của pháp luật về
chính quyền địa phương đô thị bài tiểu luận muốn đề cập, hướng đến một số giải
pháp giúp hoàn thiện và tháo gỡ khó khăn trong quá trình xây dựng pháp luật về chính
quyền địa phương nói chung và chính quyền địa phương đô thị nói riêng. vậy,
theo xu thế phát triển không ngừng như hiện nay, các vấn đề mới luôn nảy sinh và ảnh
hướng đến quá trình thực hiện nên đây vẫn luôn vấn đề quan trọng, cần thiết, luôn
phải được đề cao trong công cuộc xây dựng, đổi , mới đất nước.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Luật tổ chức chính quyền địa phương số 77/2015/QH13. (2015), NXB lao động,
Nội.
Nguyễn Hải Long, Hoàng Xuân Châu (2020), Tổ chức hoạt động của chính quyền
địa phương, NXB Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
Mai Hữu Bốn, Luận bàn về năng lực của chính quyền đô thị hiện nay ở Việt Nam,
Tạp chí công thương, https://tapchicongthuong.vn/luan-ban-ve-nangluc-cua-chinh-
quyen-do-thi-hien-nay-o-viet-nam-84058.htm, 14/10/2024
Nguyễn Duy Thăng, Thực trạng và định hướng đổi mới tổ chức và hoạt động của
chính quyền địa phương ở Việt Nam, Tạp chí tổ chức nhà nước,
https://tcnn.vn/news/detail/53227/Thuctrang-va-dinh-huong-doi-moi-to-chucva-hoat-
dong-cua-chinh-quyen-dia-phuong-oViet-Nam.html, 14/10/2024
Trần Thị Diệu Oanh, Chính quyền địa phương trong Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ
chức chính quyền địa phương và Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII
của Đảng, Bộ nội vụ,
https://moha.gov.vn/tintuc/Pages/listbnv.aspx?Cat=737&ItemID=42327, 01/02/2023

Preview text:

lOMoAR cPSD| 46342985 MỤC LỤC Contents
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài ..................................................................................... 1
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu .......................................................... 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .......................................................... 2
4. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................ 3
5. Kết cấu của tiểu luận ............................................................................... 3
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ 3
CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG ................................................................... 3
1.1. Khái quát chung về chính quyền địa phương ................................... 3
1.2. Những quy định của pháp luật ........................................................... 4
1.3. Pháp luật về chính quyền địa phương ở đô thị ................................. 5
CHƯƠNG II: THỰC TIỄN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CHÍNH
QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG Ở ĐÔ THỊ
.............................................................. 6
2.1. Những thành tựu đạt được .................................................................. 6
2.2. Những hạn chế, bất cập ....................................................................... 8
a) Những hạn chế, bất cập trong quy định pháp luật .............................. 8
b) Những hạn chế trong tổ chức, hoạt động của mô hình chính quyền địa
phương ở đô thị ......................................................................................... 9
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ
CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG Ở ĐÔ THỊ
............................................. 11
KẾT LUẬN .................................................................................................... 12
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 13 PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chính quyền địa phương là cơ quan quyền lực do nhân dân bầu ra, gắn liền với
nhân dân, trực tiếp giải quyết các vấn đề về quyền và lợi ích của nhân dân. Bởi vậy,
chính quyền địa phương luôn được coi là cầu nối trực tiếp giữa Nhà nước với toàn thể
nhân dân khi công tác lãnh đạo và quản lý tại chính quyền địa phương cũng sẽ phản
ánh trực tiếp đến các chính sách pháp luật do Nhà nước đề ra và khi áp dụng vào thực tiễn lâu dài. lOMoAR cPSD| 46342985
Trong những năm gần đây, khi đất nước không ngừng đổi mới và phát triển thì vai
trò của chính quyền địa phương càng trở nên quan trọng. Việc hướng dẫn và bảo đảm
việc thi hành Hiến pháp và pháp luật tại địa phương được quan tâm sâu sắc, củng cố
nhằm đạt được những mục tiêu, nhiệm vụ chiến lược mà Đảng và Nhà nước đề ra trong
mỗi nhiệm kỳ. Từ đó, nâng cao vai trò lãnh đạo, hiệu quả quản lý Nhà nước ở địa phương.
Tuy nhiên, phát triển đồng nghĩa với việc phát sinh thêm nhiều tình trạng mới gây
nên sự khó khăn, vướng mắc nhất định trong công tác quản lý. Đặc biệt là tại các khu
vực đô thị ngày càng gia tăng các hành vi vi phạm pháp luật, sự suy thoái về đạo đức
và lối sống không chỉ ở nhân dân mà còn là một bộ phận quan chức. Đây là một trong
những vấn đề mang tính cấp thiết hiện nay, cần được giải quyết một cách triệt để. Đây
cũng là lý do đề tài “ Giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật về chính quyền địa
phương ở đô thị” được lựa chọn nhằm mục đích tìm hiểu và nghiên cứu, cho mọi người
có cái nhìn cụ thế, khái quát hơn với những quy định của pháp luật về mô hình chính
quyền địa phương ở đô thị và thực trạng áp dụng những quy định ấy.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Đi sâu vào nghiên cứu một số vấn đề lý luận về chính quyền địa phương để hiểu rõ
cơ cấu tổ chức của bộ máy chính quyền địa phương ở đô thị trên cơ sở các quy định
của luật. Tìm hiểu Hiến pháp và Luật Tổ chức chính quyền địa phương, các văn bản thi
hành và áp dụng pháp luật trong việc xác lập, xây dựng mô hình chính quyền địa
phương ở đô thị. Từ đó nêu ra được những nhận xét, đánh giá thiết thực.
Với hoạt động nghiên cứu, tìm hiểu đặc điểm của chính quyền địa phương ở đô thị
và thực trạng tổ chức hoạt động của chính quyền. Đề tài đặt ra nhiệm vụ quan trọng là
phải đề xuất được một số giải pháp nhằm đổi mới và hoàn thiện mô hình tổ chức phù
hợp với đặc điểm, tính chất và quy mô, đáp ứng yêu cầu tốc độ phát triển của đô thị
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu: tập trung nghiên cứu mô hình các cấp chính quyền địa
phương ở đô thị được tổ chức phù hợp với đặc điểm của đời sống chính trị, kinh tế,
xã hội và những điểm riêng trong quá trình đổi mới đất nước, xu hướng toàn cầu
hóa, hội nhập quốc tế,… đang không ngừng hát triển.
Phạm vi nghiên cứu: tập trung vào tình hình thực tiện tại các địa phương ở đô thị
đồng thời nghiên cứu, tìm và hoàn thiện quy định của pháp luật trong công tác quản lý,
phát huy cao vai trò của chính quyền địa phương ở đô thị dưới nhiều góc độ khác nhau lOMoAR cPSD| 46342985
4. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng phương pháp duy vật biện chứng để phân tích, tổng hợp, so sánh, hệ thống,
kết hợp các cơ sở lý luận, luận điểm khoa học với thực tiễn để đưa ra các giải pháp
nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về chính quyền địa phương ở đô thị.
5. Kết cấu của tiểu luận
Ngoài phần mục lục, phần mở đầu, kết luận, danh mục tài iệu tham khảo, nội dung
tiểu luận gồm ba chương:
Chương I: Khái quát chung quy định của pháp luật về chính quyền địa phương ở đô thị
Chương II: Thực tiễn các quy định của pháp luật về chính quyền địa phương ở đô thị
Chương III: Giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật về chính quyền địa phương ở đô thị
CHƯƠNG I KHÁI QUÁT CHUNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CHÍNH
QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG
1.1. Khái quát chung về chính quyền địa phương
Theo Hiến pháp năm 2013, thuật ngữ “chính quyền địa phương” chính thức được
sử dụng ở tầm hiến định và được quy định thành một chương riêng (Chương IX) và
thuật ngữ này hiện được sử dụng tương đối rộng rãi và phổ biến trong các văn kiện của
Đảng, các văn bản pháp luật của Nhà nước.
Theo nghĩa rộng có thể nói chính quyền địa phương là hệ thống các cơ quan nhà
nước ở địa phương, gồm cơ quan đại diện (cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương),
cơ quan hành pháp và cơ quan tư pháp của địa phương đó. Theo nghĩa hẹp, chính quyền
địa phương được hiểu gồm cơ quan đại diện (cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương)
và cơ quan hành pháp của địa phương đó. Phụ thuộc vào cách tiếp cận vấn đề hoặc mục
tiêu nghiên cứu mà chính quyền địa phương sẽ được hiểu theo nghĩa rộng hay nghĩa
hẹp. Trong đó phổ biến là quan niệm theo nghĩa hẹp.
Từ quan niệm trên có thể hiểu chính quyền địa phương ở Việt Nam là một bộ phận
hợp thành, gắn bó hữu cơ của chính quyền nhà nước, là hình thức pháp lý thông qua
đó Nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình ở địa phương. Chính quyền địa phương
mang tính nhà nước, thực hiện quyền lực nhà nước ở địa phương. Tính chất quyền lực
nhà nước của chính quyền địa phương không chỉ xác định vị trí, tính chất pháp lý và
vai trò của các cơ quan chính quyền địa phương trong cơ chế thực hiện quyền lực nhà
nước thống nhất của Nhân dân, mà còn xác định thẩm quyền và trách nhiệm của chính lOMoAR cPSD| 46342985
quyền địa phương trong việc ban hành các văn bản quản lý nhà nước, tổ chức thực hiện
pháp luật của Nhà nước, quyết định các biện pháp nhằm xây dựng và phát triển kinh tế
- xã hội ở địa phương. Chính quyền địa phương được tổ chức và hoạt động theo nguyên
tắc tập trung, dân chủ, hình thành một hệ thống thứ bậc hành chính từ trên xuống theo
hướng cấp dưới phục tùng cấp trên, địa phương phục tùng Trung ương. Tổ chức bộ
máy của chính quyền địa phương do Nhân dân địa phương, bằng hình thức trực tiếp
hoặc gián tiếp, thành lập ra để tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước ở địa phương.
Chính quyền địa phương vừa chịu trách nhiệm trước cơ quan nhà nước cấp trên, vừa
chịu trách nhiệm trước cử tri và Nhân dân ở địa phương.
1.2. Những quy định của pháp luật
Hiến pháp năm 2013 đã đổi tên gọi từ Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân
(trong Hiến pháp năm 1992) thành Chính quyền địa phương đã tạo nên sự thay đổi mới
về bộ máy hành chính Nhà nước tại cấp địa phương. Bên cạnh đó, Đảng và Nhà nước
ta đã ban hành Luật số 77/2015/QH13 “Luật tổ chức chức chính quyền địa phương”
cùng các văn bản sửa đổi, bổ sung năm 2017, 2019, 2023 cùng nhiều đạo luật khác
được ban hành đã cụ thể hóa các quy định về Chính quyền địa phương như: Luật Tổ
chức Quốc hội năm 2014, Luật Tổ chức Chính phủ 2015,…Các văn bản pháp luật này
đã tạo cơ sở pháp luật cho việc tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương nói
chung và chính quyền địa phương ở đô thị nói riêng.
So với Hiến pháp năm 1992, điểm mới của Hiến pháp năm 2013 khi quy định về
chính quyền địa phương đã xác định “đơn vị hành chính tương đương” là đơn vị thuộc
thành phố trực thuộc trung ương. Đặc biệt, cấp chính quyền địa phương gồm có Hội
đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân được tổ chức phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô
thị, hải đảo, đơn vị hành chính kinh tế đặc biệt do luật định (khoản 2 Điều 111). Trên
tinh thần của Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015
đã xác định rõ “đơn vị hành chính tương đương” là “thành phố thuộc thành phố trực
thuộc trung ương” và quy định chính quyền địa phương ở đô thị gồm chính quyền địa
phương ở thành phố trực thuộc trung ương, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành
phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương, phường, thị trấn. Bên cạnh đó, bộ Luật này
cũng xuất hiện nhiều nội dung mới về cơ cấu tổ chức, thẩm quyền, bổ sung thêm Ban
đô thị đối với Hội đồng nhân dân thành phố trực thuộc trung ương nhằm đáp ứng nhu
cầu về quản lý nhà nước đối với quá trình đô thị hóa.
Bên cạnh đó, nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương quận và phường đã
được điều chỉnh cho phù hợp với yêu cầu quản lý thống nhất, liên thông trong khu vực
nội thành, nội thị tại các đô thị. Ngoài việc thực hiện chức năng đại diện và giám sát
theo quy định chung, tập trung thực hiện 2 nhóm nhiệm vụ liên quan đến việc quyết
định các vấn đề ở địa phương gồm: thông qua ngân sách quận, phường theo quy định
của Luật Ngân sách nhà nước và bầu nhân sự của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân
cùng cấp. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ lOMoAR cPSD| 46342985
chức chính quyền địa phương năm 2019 đã tạo cơ sở để Quốc hội quyết định một số
đề án về thí điểm chính quyền địa phương ở đô thị tại một số địa phương phù hợp với
đặc điểm và yêu cầu quản lý của từng đô thị. Trước đó, Nghị định số 24/2014/NĐ-CP
của Chính phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương, ngoài một số sở đặc thù như Sở Ngoại vụ, Ban Dân
tộc, Sở Quy hoạch - Kiến trúc, có thể tổ chức cơ quan chuyên môn đặc thù khác khi
thật cần thiết, phù hợp với đặc điểm, tình hình phát triển kinh tế - xã hội và đáp ứng
yêu cầu quản lý nhà nước ở địa phương. Nghị định số 37/2014/NĐ-CP cũng đã quy
định việc tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp huyện. Theo đó,
ngoài 10 cơ quan chuyên môn được thống nhấ ở tất cả các quận, huyện, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh quy định tại Điều 7 của Nghị định này, được tổ chức một số cơ quan
chuyên môn khác để phù hợp với tửng loại hình đơn vị hành chính cấp huyện trong đó
ở quận, thành phố thuộc tỉnh có phòng quản lý đô thị.
1.3. Pháp luật về chính quyền địa phương ở đô thị.
Trong giai đoạn hiện nay, để bắt kịp với xu thế chung trên toàn thế thới Đảng và
Nhà nước ta đã và đang tích cực thúc đẩy quá trình đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ. Từ đó,
các đô thị ngày càng được mở rộng và phát triển không ngừng, đóng vai trò là các trung
tâm phát triển kinh tế, chính trị, xã hội,…đi kèm với sự phát triển này cũng kéo theo
nhiều sự thay đổi đáng kể. Chính quyền địa phương ở đô thị về cơ bản vẫn gắn liền về
bản chất, vị trí, vai trò, chức năng đại diện của Nhân dân cũng như mối liên hệ giữa
chính quyền các cấp theo quy định của pháp luật, bên cạnh đó cũng cần thể hiện các
yêu cầu đặc thù riêng về phương thức tổ chức, quản lý và phát triển đô thị. Bởi có sự
khác biệt nhất định giữa đô thị và nông thôn nên bộ máy chính quyền địa phương ở đô
thị cần phải có tính tập trung cao, thông suốt và hạn chế các khâu trung gian đồng thời
đáp ứng nhu cầu và nguyện vọng của người dân qua từng thời kỳ phát triển đất nước.
Sau chủ trương của Đảng tại văn kiện Đại hội XIII, thể chế hóa Nghị quyết số
97/2019/QH14, 27-11-2019, của Quốc hội, “Thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô
thị tại thành phố Hà Nội”; Nghị quyết số 119/2020/QH14, ngày 19-6-2020, của Quốc
hội, “Về thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị và một số cơ chế, chính sách đặc
thù phát triển thành phố Đà Nẵng”; Nghị quyết số 131/2020/QH14, ngày 16-11-2020,
của Quốc hội, “Tổ chức chính quyền đô thị tại Thành phố Hồ Chí Minh”.
Theo đó, ta xây dựng mô hình chính quyền đô thị một cấp: được tổ chức trong phạm
vi nội thành của thành phố trực thuộc Trung ương. Trong đó, chỉ có một cơ quan đại
diện là Hội đồng nhân dân thành phố và không tổ chức Hội đồng nhân dân ở quận và
phường và Ủy ban nhân dân ở cả ba cấp hành chính. Mô hình này hiện đang được triển
khai tại Thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Đà Nẵng.
- Mô hình chính quyền đô thị hai cấp: được tổ chức ở khu vực nội thành của thành
phố trực thuộc Trung ương. Trong đó, có hai cơ quan đại diện là lOMoAR cPSD| 46342985
Hội đồng nhân dân thành phố và Hội đồng nhân dân quận, không tổ chức Hội đồng
nhân dân ở phường, có đủ ba cấp hành chính của Uỷ ban nhân dân. Mô hình này hiện
đang được áp dụng ở Thành phố Hà Nội.
Trong khuôn mẫu của chính quyền địa phương, chính quyền địa phương ở đô thị
dù có sự thay đổi nhưng đều phải đảm bảo các nguyên tắc cơ bản như tập trung, thống
nhất, vận hành thông suốt. Đồng thời, do tính chất phức tạp tại các khu đô thị nên phải
đảm bảo việc phân công, phân cấp được rõ ràng, rành mạch giữa trung ương với địa
phương, thúc đẩy tạo nên một môi trường thuận lợi để các cấp chính quyền địa phương
ở đô thị có thể chủ động, tích cực thực hiện các biện pháp phát triển kinh tế, văn hóa,
xã hội nhằm nâng cao đời sống của nhân dân. Chính quyền địa phương ở đô thị cũng
là một bộ phận của hệ thống pháp luật Việt Nam, bao gồm các quy phạm pháp luật do
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành được thể hiện qua các văn bản quy phạm
pháp luật, tạo nên mối liên hệ chặt chẽ, thống nhất trong việc điều chỉnh các quan hệ
xã hội phát sinh trong tổ chức và hoạt động của chính quyền đô thị.
Có thể thấy “ Chính quyền địa phương” dù chưa được thống nhất chung về một
khái niệm nhưng Đảng và Nhà nước ta đã chú trọng, quan tâm đến việc xây dựng các
quy định pháp luật, không ngừng sửa đổi, bổ sung các điều luật để hướng tới việc xây
dựng một bộ máy hành chính tại các cấp địa phương ngày càng toàn vẹn, phát huy hiệu
quả, hiệu lực cao nhất nhằm đáp ứng nhu cầu, lợi ích của người dân, vì nhân dân phục
vụ. Qua đó củng cố niềm tin của nhân dân vào năng lực, vai trò quản lý, lãnh đạo của Đảng.
CHƯƠNG II THỰC TIỄN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CHÍNH
QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG Ở ĐÔ THỊ
2.1. Những thành tựu đạt được
Thông qua Nghị quyết số 97/2019QH14 ngày 27/11/2019 của Quốc hội về thí điểm
tổ chức mô hình chính quyền địa phương ở đô thị tại Thành phố Hà Nội. Nghị quyết số
119/2020QH14 ngày 19/6/2020 của Quốc hội về thí điểm tổ chức mô hình chính quyền
đô thị và một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Đà Nẵng. Nghị quyết
số 131/2020/QH14 ngày 29/3/2020 của Quốc hội về tổ chức mô hình chính quyền đô
thị tại Thành phố Hồ Chí Minh. Việc xây dựng và thực hiện đề án tổ chức thí điểm mô
hình chính quyền địa phương ở đô thị đã được tiến hành dựa trên các cơ sở này. Qua
đó, thấy được tính nghiêm túc và cấp thiết trong công cuộc đổi mới và hoàn thiện việc
xây dựng bộ máy nhà nước tại các cấp chính quyền địa phương ở đô thị.
Trong thời gian qua, công tác tổ chức và quản lý bộ máy nhà nước tại các cấp
chính quyền địa phương ở đô thị đã và đang từng bước phát triển và ngày càng chặt
chẽ hơn. Với giai đoạn từng bước đổi mới và hoàn thiện hơn về cải cách hành chính
nhà nước hiện nay, chính quyền địa phương ở đô thị đã có những tiến bộ nhất định về lOMoAR cPSD| 46342985
năng lực, hiệu quả trong quản lý nhà nước và phục vụ nhân dân trên địa bàn. Trongđ
ó, phải kể đến những kết quả tích cực:
Thứ nhất, việc phân định nhiệm vụ, quyền hạn tại các cấp chính quyền địa phương
ở đô thị dần có những đặc thù riêng, khác biệt so với chính quyền địa phương ở nông
thôn. Ngoài việc quyết định các vấn đề tại địa phương như ở nông thôn thì vai trò của
chính quyền địa phương ở đô thị còn đảm nhận việc quyết định các chính sách quy
hoạch phát triển, xây dựng kết cấu hạ tầng, quản lý và tổ chức đời sống nhân dân,… Ở
các cấp quận, phường thì nhiệm vụ, quyền hạn cũng được mở rộng và điều chỉnh phù
hợp hơn, đáp ứng nhu cầu về việc quản lý thống nhất, liên thông trong khu vực nội
thành, nội thị tại các đô thị. Cơ quan hành chính phường cũng đã tích cực, chủ động
điều hành, đưa ra quyết định nhanh và chính xác đối với các vấn đề cấp bách tại địa
phương trên cơ sở xác định rõ trách nhiệm, rõ người, rõ việc qua đó góp phần nâng cao
hiệu quả trong công tác quản lý nhà nước nhưng vẫn đảm bảo các quyền làm chủ, quyền
đại diện của nhân dân. Với từng mức độ khác nhau, các cấp chính quyền địa phương ở
đô thị ngày càng quan tâm nhiều hơn đến đời sống của nhân dân như việc bảo đảm các
dịch vụ công cộng cơ bản, đáp ứng nhu cầu của nhân dân, các lĩnh vực như giáo dục,
sức khỏe, môi trường,… đều hướng tới nhu cầu, lợi ích chính đáng của người dân.
Thứ hai, chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức, bộ máy của Hội đồng nhân dân và
Uỷ ban nhân dân đã được sắp xếp, điều chỉnh theo các quy định của Luật tổ chức chính
quyền địa phương năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017,2019) và của chính quyền
thành phố, phù hợp hơn với đặc điểm, tính chất của quản lý đô thị. Vai trò của Hội
đồng nhân dân các cấp thành phố, thị xã, thị trấn ngày càng được thể hiện rõ hơn với
tư cách là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, thực hiện tốt hơn chức năng quyết
định các vấn đề quan trọng của đô thị và chức năng giám sát hoạt động của bộ máy
hành chính đô thị. Uỷ ban nhân dân các cấp ở đô thị cũng có nhiều sự đổi mới, thích
ứng với quá trình phát triển nền hành chính. Với vai trò của mình, tại từng mức độ khác
nhau, các hoạt động của Uỷ ban nhân dân ngày càng có hiệu lực và đạt hiệu quả cao
trong công tác quản lý đối với các lĩnh vực kinh tế - xã hội trên địa bàn theo phân cấp,
ủy quyền của chính quyền đô thị. Góp phần không nhỏ trong đáp ứng nhu cầu và giải
quyết bức xúc của người dân.
Thứ ba, việc từng bước đổi mới và hoàn thiện phương thức hoạt động của Hội đồng
nhân dân, Uỷ ban nhân dân đã dần được đảm bảo được tính thống nhất, nhanh nhạy
trong quy trình quản lý, điều hành của chính quyền địa phương ở đô thị.
Thứ tư, đối với đội ngũ cán bộ, công chức của chính quyền địa phương ở đô thị
cũng có những tiến bộ đáng kể, dần phát huy về năng lực, trách nhiệm, trình độ,
phong cách, thái độ của từng cá nhân. Từ đó, chất lượng, kết quả khi cung cấp dịch
vụ công từng bước được cải thiện, đáp ứng tốt hơn các nhu cầu của tổ chức và người dân. lOMoAR cPSD| 46342985
Như vậy, có thể thấy rằng việc đổi mới, cải thiện trong việc tổ chức các cấp chính
quyền địa phương ở đô thị đã đạt được một số thành tựu mới, góp phần nâng cao năng
lực của cả bộ máy chính quyền đô thị nói chung và mỗi cơ quan, đơn vị trong bộ máy đó nói riêng.
2.2. Những hạn chế, bất cập
a) Những hạn chế, bất cập trong quy định pháp luật

Bên cạnh những kết quả, thành tựu đã đạt được thì quy định pháp luật về mô hình
tổ chức chính quyền địa phương ở đô thị vẫn còn bộc lộ nhiều vấn đề như:
- Quy định về xác định vị trí, vai trò của đơn vị hành chính
Pháp luật hiện hành quy định nước ta gồm ba cấp đơn vị hành chính là: cấp tỉnh,
cấp huyện, cấp xã nên có thể hiểu, việc tổ chức đơn vị hành chính lãnh thổ sẽ không có
sự phân biệt giữa các khu vực như đô thị, nông thôn, miền núi, miền xuôi và hải đảo.
Hiến pháp 2013 cũng quy định rõ “ Cấp chính quyền” bao gồm hai thiết hế là Hội đồng
nhân dân và Uỷ ban nhân dân. Theo đó, ở đâu không coi là “Cấp chính quyền” thì
không nhất thiết phải có đủ hai thiết chế trên. Tuy nhiên, Luật tổ chức chính quyền địa
phương 2015 lại đồng nhất cấp chính quyền với cấp hành chính theo Điều 30, Điều 44
và Điều 58. Do vậy, chính quyền địa phương cả ba cấp trong đó các đô thị cấp tỉnh, cấp
huyện, cấp xã cũng có đủ hai thiết chế Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân. Điều
này đã cản trở việc xây dựng và thực thi một số thay đổi tại chính quyền địa phương ở đô thị.
- Quy định về cơ cấu, tổ chức bộ máy của chính quyền địa phương ở đôthị
Việc thay đổi trong tổ chức chính quyền địa phương ở đô thi chưa thật sự tạo nên
bước chuyển mình lớn, về cơ bản thì cơ cấu, tổ chức chính quyền cấp dưới vẫn giống
cấp trên. Pháp luật cũng chưa đặt ra được các tiêu chí để phân định, đánh giá họa động
của chính quyền địa phương ở đô thị cũng như chính quyền địa phương ở nông thôn.
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, quy định của pháo luật đối với chính quyền địa
phương ở đô thị chưa thực sự đáp ứng, bắt kịp sự phát triển và ứng dụng những thành
tự khoa học- kỹ thuật mới vào quản lý nền hành chính nhà nước. Vì vậy, dù đã qua
nhiều lần đổi mới và sắp xếp nhưng việc tổ chức bộ máy chính quyền địa phương ở đô
thị vẫn chưa tinh gọn, tương ứng với nhiệm vụ, thẩm quyền được giao.
Vẫn có sự rập khuôn tương ứng với các cơ quan bộ, nghành ở trung ương đối với
chính quyền địa phương ở cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nên hoạt động các
sở, phòng, ban chuyên môn còn bị chồng chéo và không đảm bảo tính thống nhất, liên
thông về quy hoạch phát triển kinh tế- xã hội, không gian và hạ tầng kĩ thuật đô thị.
Các quy định về nhiệm vụ, thẩm quyển của chính quyền địa phương ở đô thị còn
nhiều bất cập, khi quy định về nhiệm vụ,quyền hạn của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban
nhân dân các cấp trên các lĩnh vực chưa có sự tách biệt rõ ràng, còn trùng lặp về nhiệm lOMoAR cPSD| 46342985
vụ, quyền hạn của từng cấp được thể hiện qua một vài lĩnh vực như kinh tế, văn hóa,
khoa học, quốc phòng, an ninh trật tự, cũng như trong lĩnh vực thi hành pháp luật và
xây dựng chính quyền đô thị. Về cơ bản, Hội đồng nhân dân dù là cơ quan đại diện cho
ý chí và nguyện vọng của nhân dân vẫn chưa thực sự là cơ quan đại diện khi quyết định
những vấn đề quan trọng tại địa phương, dẫn đến tình trạng hoạt động của Hội đồng
nhân dân ở cấp chính quyền đô thị còn mang tính hình thức.
Quy định về mối quan hệ giữa chính quyền trung ương với chính quyền địa phương
ở đô thị còn mang nặng tính thứ bậc. Khi chính quyền cấp dưới phục tùng chính quyền
cấp trên, chính quyền địa phương phục tùng chính quyền trung ương đã khiến cho chính
quyền địa phương bị coi là cấp dưới, không có quyền tự chủ nhất định. Gây khó khăn
trong việc phát huy tính chủ động, sáng tạo, của mình khi giải quyết những vấn đề bức
xúc của người dân địa phương.
Các quy định về kiểm tra, thanh tra và giám sát đối với chính quyền đô thị chưa
đầy đủ, toàn diện. Cùng với đó là công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát vẫn chưa xử lý
nghiêm đối với những tập thể, cá nhân, người đứng đầu khi chưa hoàn thành tốt nhiệm
vụ sắp xếp, tổ chức, tinh gọn biên chế, chưa có cơ chế đánh giá phù hợp và thay thế
những cán bộ, công chức, viên chức không đáp ứng được nhiệm vụ, công việc được
giao. Mục tiêu tinh giảm biên chế còn kéo dài, pháp luật chưa thực sự trao quyền cho
chính quyền đô thị về công tác tổ chức, nhân sự.
b) Những hạn chế trong tổ chức, hoạt động của mô hình chính quyền địa
phương ở đô thị
Thứ nhất, chức năng, nhiệm vụ của bộ máy chính quyền địa phương ở đô thị chưa
được điều chỉnh, cải cách để phù hợp với vai trò, chức năng trong điều kiện hiện nay.
Đảng và Nhà nước đang thúc đẩy phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, nhưng ở nhiều nơi vẫn còn trực tiếp can thiệp vào hoạt động của thị trường
và người dân, còn gây khó khăn, cản trở các hoạt động tự do kinh doanh của các chủ
thể kinh tế. Xu thế phát triển tại môi trường đô thị đòi hỏi phảo không ngừng nhanh
nhạy, chủ động nhưng chính sự bao biện,ôm đòn quá mức của một số chính quyền đã
làm giảm năng lực, hiệu quả hoạt động của chính quyền địa phương ở đô thị.
Thứ hai, là cơ cấu tổ chức bộ máy chính quyền địa phương ở đô thị còn nhiều đầu
mới, nhiều lớp trung gian, chưa bảo đảm sự tập trung, thống nhất, dẫn đến việc phân
tán nguồn lực, quyền lực. Hội đồng nhân dân quận, phường chưa được trao quyền để
quyết định các vấn đề về quy hoạch, chiến lược, chủ trương, giải pháp phát triển kinh
tế - xã hội trên địa bàn. Ủy ban nhân dân quận, phường thực thi một số nhiệm vụ cụ
thể quản lý hành chính nhà nước và thực hiện cung cấp một số dịch vụ công trên địa bàn theo thẩm quyền.
Thứ ba, cơ chế vận hành bộ máy hành chính tại đô thị chưa thống nhất, thông suốt,
chưa bảo đảm tính hệ thống và tập trung mà còn bị chia cắt theo từng cấp hành chính lOMoAR cPSD| 46342985
trong nội bộ đô thị. Cơ chế điều hành hành chính mang tính chất tập thể chứa đựng
nhiều bất hợp lý, là trở ngại đáng kể đối với việc nâng cao năng lực của chính quyền
nhà nước nói chung và nhất là của chính quyền địa phương ở đô thị nói riêng..
Thứ tư, trước yêu cầu mới của công cuộc cải cách, hội nhập quốc tế hiện nay, đội
ngũ cán bộ, công chức nhà nước đang ngày càng xuất hiện hơn những yếu kém về trình
độ, năng lực chuyên môn, kiến thức cũng như thiếu chủ động trong sáng tạo, kỹ năng
thực thi công vụ cụ thể, quan hệ giao tiếp với công dân, phẩm chất phục vụ công tâm,
liêm khiết, tận tụy… Đặc biệt trong bộ máy chính quyền địa phương ở đô thị thì những
biểu hiện này càng rõ nét hơn trong một bộ phận cán bộ, công chức, khiến cho niềm
tin của nhân dân vào bộ máy Nhà nước bị suy giảm đồng thời làm hạn chế đáng kể
năng lực, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của chính quyền đô thị.
Thông qua các quy định pháp luật tại các Điều, Khoản trích trong Hiến pháp 2013,
Luật tổ chức chính quyền địa phương 2015, Luật sửa đổi bổ sung 2019 và các văn bản
áp dụng pháp luật khác như Nghị quyết, Nghị định,… cũng như thực tiễn áp dụng trong
những năm qua, có thế thấy thực trạng quy định pháp luật về chính quyền địa phương
ở đô thị bên cạnh nhiều thành tựu đạt được vẫn còn tồn đọng nhiều hạn chế, vấn đề
chưa thể giải quyết khiến cho các chính sách pháp luật dù được đề ra nhưng vẫn chưa
thể thực hiện hay đem lại hiệu quả cao. lOMoAR cPSD| 46342985
CHƯƠNG III GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ
CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG Ở ĐÔ THỊ
Những hạn chế trong quy định pháp luật về chính quyền địa phương ở đô thị có thể
được khắc phục, giải quyết thông qua một số giải pháp sau:
Thứ nhất, tiếp tục và duy trì các quan điểm của Đảng và Nhà nước trong công tác
tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương ở đô thị, thúc đẩy hơn nữa việc triển
khai, thí điểm các đề án về tổ chức chính quyền địa phương qua đó tổng kết, rút ra kinh
nghiệm, xây dựng cơ sở lý luận và thực tiễn, hoàn thiện khung pháp lý qua đó tìm và
tiếp tục đổi mới công tác tổ chức hoạt động của chính quyền địa phương ở đô thị để
dần bắt kịp với tình hình mới. Việc xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp
luật đóng vai trò quan trọng, và cần phải được chú ý hết mức vì pháp luật là cơ sở để
thực hiện, đẩy mạnh cải cách hành chính. Thúc đẩy sự hợp tác, đồng bộ giữa cơ quan
Trung Ương ( Quốc hội, Chính phủ, các bộ, nghành ) trong việc sửa đổi, bổ sung, ban
hành các văn bản quy phạm pháp luật liên quan tới tổ chức bộ máy và hoạt động của
chính quyền địa phương ở đô thị.
Việc thay đổi mô hình tổ chức chính quyền địa phương ở đô thị dù theo hướng nào
cũng cần đảm bảo các nguyên tắc sau: (1) Đề cao thẩm quyền, trách nhiệm của Chủ
tịch Uỷ ban nhân dân với tư cách là người đứng đầu cơ quan hành chính Nhà nước tại
địa phương; (2) Đề cao trách nhiệm và phân định rõ vai trò của từng cá nhân, tập thể
trong công tác tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương ở đô thị; (3) Phát huy
tính độc lập, tự chủ của chính quyền đô thị trong việc thực hiện các nhiệm vụ và thẩm
quyền được giao; (4) Hướng tới việc xây dựng chính quyền địa phương ở đô thị thành
một cấp thống nhất, bảo đảm tính hiệu quả, hiệu lực, giảm bớt tổ chức trung gian.
Thứ hai, sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật về chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của chính quyền địa phương như Luật Tổ chức chính quyền địa phương,
Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân
dân các cấp. Bên cạnh đó, cần sửa đổi, bổ sung các đạo luật chuyên ngành có liên quan
đến cơ cấu, tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương như Luật Đất đai, Luật
Quy hoạch đô thị, Luật Xây dựng, Luật Đầu tư công... cũng như các nghị định, thông
tư của Chính phủ và các bộ, ngành trung ương cho phù hợp với mô hình chính quyền
đô thị trong phân cấp quản lý chức năng giữa trung ương và địa phương, giữa Uỷ ban
nhân dân thành phố, các sở ngành và quận, phường nhằm hạn chế tình trạng chồng
chéo, mâu thuẫn giữa các văn bản để phù hợp với tình hình phát triển đô thị hiện nay.
Rà soát, loại bỏ những quy định chồng chéo, bất cập và pháp điển hóa thành văn
bản quy phạm pháp luật về tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương có giá trị
pháp lý cao để có những thay đổi cơ bản, toàn diện, mạnh mẽ, tạo hành lang pháp lý
vững chắc cho tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương. Tinh thần rà soát, lOMoAR cPSD| 46342985
sửa đổi theo hướng trao quyền tự chủ nhiều hơn nữa cho các đô thị, thành phố trực
thuộc trung ương trong thu hút các nguồn lực cho phát triển.
Thứ ba, liên quan đến quy định về phân định thẩm quyền, phân quyền, ủy quyền
đối với chính quyền địa phương ở đô thị cần bổ sung, sửa đổi một số nội dung trong
Luật sửa đổi và một số điều của Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền
địa phương 2019 nhằm khắc phục tình trạng “chủ thể thực hiện ủy quyền gây khó khăn
trong việc áp dụng và hạn chế hoạt động của chính quyền địa phương các cấp” hoặc
một số nhiệm vụ, quyền hạn bị phân cấp, ủy quyền tràn lan, làm giảm hiệu quả trong
công tác quản lý nhà nước ở địa phương.
Thứ tư, trong quá trình xây dựng văn bản pháp luật về Chính quyền địa phương cần
đảm bảo sự phân chia rạch ròi, có sự tách biệt giữa Chính quyền địa phương ở đô thị
so với nông thôn, từ đó đề ra nhiệm vụ, cách thức tổ chức và hoạt động riêng đối với từng địa bàn.
Thứ năm, trong quá trình thực hiện thí điểm mô hình chính quyền địa phương ở đô
thị hiện áp dụng tại 3 thành phố Hà Nội, Đà Nẵng và TP. Hồ Chí Minh cần đưa ra tổng
kết để xây dựng thể chế mới về chính quyền địa phương theo hướng nghiên cứu áp
dụng trong phạm vi cả nước.
Việc xây dựng cơ sở pháp luật là vô cùng quan trọng vì pháp luật do Nhà nước đảm
bảo thực thi, thể hiện tính bắt buộc và tuân theo nguyên tắc chung. Trên cơ sở ấy, nếu
pháp luật không đề ra những vấn đề bất cập, gây khó khăn trong việc thi hành, áp dụng
thì việc tổ chức, xây dựng mô hình chính quyền địa phương nói chung và chính quyền
đô thị nói riêng sẽ không thể khắc phục và giải quyết những vấn đề còn tồn đọng. KẾT LUẬN
Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, mỗi quốc gia mỗi dân tộc đều hướng tới sự
phát triển không ngừng. Gắn với quá trình tăng trưởng này, đô thị đóng một vai trò rất
quan trọng, không chỉ kinh tế, chính trị mà văn hóa- xã hội, khoa học-kỹ thuật,…dù là
lĩnh vực nào thì đều có điều kiện phát triển một cách mạnh mẽ. Có thể nói đô thị đang
là xu thế tất yếu của nhiều quốc gia trong kỷ nguyên công nghiệp hóa – hiện đại hóa.
Ở Việt Nam hiện nay, đô thị cũng đóng vai trò quan trọng trong công tác quản lý
và phát triển đất nước, đặc biệt khi Đảng và Nhà nước ta đang phấn đấu trở thành nước
công nghiệp theo hướng hiện đại. Để đạt được điều đó, việc xây dựng và từng bước
thay đổi mô hình chính quyền địa phương ở đô thị là nhu cầu cần thiết, đòi hỏi từ thực
tiễn. Thông qua các quy định pháp luật được thể hiện bằng văn bản, Nghị định, Thông
tư,…có thể thấy Đảng và Nhà nước ta đã có ý thức quan tâm tới bộ máy nhà nước, tuy
nhiên về cơ bản thì các vấn đề được nêu trong các văn bản pháp luật còn nhiều hạn chế,
chưa chặt chẽ, đầy đủ, còn mang tính hình thức. Từ đó quá trình áp dụng luật vào đời
sống còn vấp phải nhiều khó khăn, hạn chế như bộ máy hành chính còn phức tạp, cơ lOMoAR cPSD| 46342985
chế quản lý, thực hiện và thi hành còn chậm trễ dẫn đến việc phục vụ nhân dân còn
nhiều thiếu sót. Thông qua quá trình nghiên cứu, tìm hiểu quy định của pháp luật về
chính quyền địa phương ở đô thị bài tiểu luận muốn đề cập, hướng đến một số giải
pháp giúp hoàn thiện và tháo gỡ khó khăn trong quá trình xây dựng pháp luật về chính
quyền địa phương nói chung và chính quyền địa phương ở đô thị nói riêng. Dù vậy,
theo xu thế phát triển không ngừng như hiện nay, các vấn đề mới luôn nảy sinh và ảnh
hướng đến quá trình thực hiện nên đây vẫn luôn là vấn đề quan trọng, cần thiết, luôn
phải được đề cao trong công cuộc xây dựng, đổi , mới đất nước.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Luật tổ chức chính quyền địa phương số 77/2015/QH13. (2015), NXB lao động, Hà Nội.
Nguyễn Hải Long, Hoàng Xuân Châu (2020), Tổ chức và hoạt động của chính quyền
địa phương, NXB Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
Mai Hữu Bốn, Luận bàn về năng lực của chính quyền đô thị hiện nay ở Việt Nam,
Tạp chí công thương, https://tapchicongthuong.vn/luan-ban-ve-nangluc-cua-chinh-
quyen-do-thi-hien-nay-o-viet-nam-84058.htm, 14/10/2024
Nguyễn Duy Thăng, Thực trạng và định hướng đổi mới tổ chức và hoạt động của
chính quyền địa phương ở Việt Nam, Tạp chí tổ chức nhà nước,
https://tcnn.vn/news/detail/53227/Thuctrang-va-dinh-huong-doi-moi-to-chucva-hoat-
dong-cua-chinh-quyen-dia-phuong-oViet-Nam.html, 14/10/2024
Trần Thị Diệu Oanh, Chính quyền địa phương trong Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ
chức chính quyền địa phương và Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII
của Đảng, Bộ nội vụ,
https://moha.gov.vn/tintuc/Pages/listbnv.aspx?Cat=737&ItemID=42327, 01/02/2023