Phát triển du lịch cộng đồng gắn với giá trị văn hóa tộc người Việt tại vùng Đông Bắc | Bài tập kết thúc học phần Các dân tộc Việt Nam | Trường Đại học Phenikaa

Vùng du lịch Đông Bắc Bộ là một trong những vùng du lịch nổi tiếng ở nước ta được tạo hóa thiên nhiên ưu ái ban tặng cho những điều kiện thuận lợi để phát triển du lịch cùng những kỳ quan thiên nhiên nổi tiếng. Khí hậu ở đây nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa ẩm. Nơi đây là nơi sinh sống của các dân tộc Việt, H’mông, Dao và một số dân tộc ít người khác cùng nhau tạo nên sức hấp dẫn đặc biệt cho du khách muốn khám phá nơi đây. Trong đó, người Việt là dân tộc sinh sống đông nhất ở vùng Đông Bắc Bộ. Tộc người Việt ở đây có nhiều nét văn hóa đặc sắc về phong tục tập quán, văn hóa ăn mặc, văn hóa ẩm thực, tôn giáo tín ngưỡng. Những nét văn hóa phong phú, đa dạng của tộc người Việt đã tạo cho Đông Bắc Bộ một nét đẹp rất riêng và đem lại cho vùng đất này một tiềm năng phát triển du lịch rất lớn. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đón xem.

1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHENIKAA
KHOA DU LỊCH
BÀI TẬP KẾT THÚC HỌC PHẦN
MÔN CÁC DÂN TỘC VIỆT NAM
Đề bài: Phát triển du lịch cộng đồng gắn với giá
trị văn hóa tộc người Việt tại vùng Đông Bắc
Giảng viên : Cô Trương Mai Ngọc
Sinh viên : Nguyễn Thị Tố Quyên
MSV : 21011947
Khóa : K15
Lớp : Các dân tộc Việt Nam-1-1-22 (N02)
Năm học : 2022 – 2023
Hà Nội, 12/2022
2
MỤC LỤC LỜI MỞ
ĐẦU..............................................................................................................3 NỘI
DUNG...................................................................................................................4
I. Hệ thống các khái niệm...............................................................................4 I.1.
Văn hóa.........................................................................................................4 I.2.
Tộc người.....................................................................................................5
I.3. Văn hóa tộc người và đặc điểm của văn hóa tộc người.............................6 I.4.
Du lịch cộng đồng........................................................................................6
II. Khái quát khu vực Đông Bắc Bộ................................................................6
II.1. Vị trí địa lý...................................................................................................6
II.2. Đặc điểm địa hình........................................................................................7
II.3. Khí
hậu.........................................................................................................7 ........
.................................................................................................................
II.4. Tiềm năng du lịch........................................................................................7
III. Các đặc trưng của tộc người Việt...............................................................8
III.1. Người Việt tộc người chủ thể của các tộc người Việt Nam.................9
III.2. Tộc danh và nguồn gốc................................................................................9
III.3. Đặc điểm kinh
tế........................................................................................10 ...........................
..............................................................................................
III.4. Đặc điểm văn hóa – xã hội.........................................................................11
IV. Phát triển du lịch cộng đồng gắn với giá trị văn hoá tộc người Việt......17
IV.1. Trực
trạng..................................................................................................17 IV.2.
Giải pháp....................................................................................................19
KẾT LUẬN.................................................................................................................22
3
MỞ ĐẦU
Ngày nay, du lịch đã trở thành hoạt động phổ biến trong đời sống văn hóa hội
của mỗi con người ngành du lịch đã đem lại những lợi ích to lớn về nhiều mặt cho
các quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Nước ta là một quốc
gia có nhiều tiềm năng để phát triển du lịch. Bên cạnh tiềm năng du lịch về tự nhiên thì
ở Việt Nam điểm đặc biệt thu hút khách du lịch đó chính là sự đa dạng về bản sắc văn
hóa dân tộc, với 54 dân tộc anh em, mỗi dân tộc đều có những nét đặc trưng về văn hóa,
phong tục tập quán lối sống riêng tạo nên một bức tranh văn hóa đầy màu sắc. Du
lịch cộng đồng đang trở thành một xu hướng mới ở Việt Nam. Bởi loại hình du lịch này
phù hợp với bối cảnh kinh tế, đồng thời phát huy được lợi thế về tài nguyên du lịch tự
nhiên và nhân văn phong phú, đa dạng, đậm đà bản sắc dân tộc.
Vùng du lịch Đông Bắc Bộ là một trong những vùng du lịch nổi tiếng ở nước ta
được tạo hóa thiên nhiên ưu ái ban tặng cho những điều kiện thuận lợi để phát triển du
lịch cùng những kỳ quan thiên nhiên nổi tiếng. Khí hậu ở đây nằm trong vùng khí hậu
nhiệt đới gió mùa ẩm. Nơi đây là nơi sinh sống của các dân tộc Việt, H’mông, Dao và
một số dân tộc ít người khác cùng nhau tạo nên sức hấp dẫn đặc biệt cho du khách
muốn khám phá nơi đây. Trong đó, người Việt là dân tộc sinh sống đông nhất ở vùng
Đông Bắc Bộ. Tộc người Việt ở đây có nhiều nét văn hóa đặc sắc về phong tục tập
quán, văn hóa ăn mặc, văn hóa ẩm thực, tôn giáo tín ngưỡng. Những nét văn hóa
phong phú, đa dạng của tộc người Việt đã tạo cho Đông Bắc Bộ một nét đẹp rất riêng
và đem lại cho vùng đất này một tiềm năng phát triển du lịch rất lớn.
4
NỘI DUNG
I. Hệ thống các khái niệm
I.1. Văn hóa
Có nhiều định nghĩa khác nhau về văn hóa.
Theo UNESCO: “Văn hóa là tổng thể sống động các hoạt động và sáng tạo
trong quá khứ và trong hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành
nên một hệ thống các giá trị, các truyền thống và thị hiếu – những yếu tố xác định đặc
tính riêng của mỗi dân tộc”
Định nghĩa này nhấn mạnh vào hoạt động sáng tạo của các cộng đồng người gắn
liền với tiến trình phát triển có tính lịch sử của mỗi cộng đồng trải qua một thời gian
dài tạo nên những giá trị có tính nhân văn phổ quát, đồng thời có tính đặc thù của mỗi
cộng đồng, bản sắc riêng của từng dân tộc. Tuy nhiên, nếu chỉ căn cứ vào định nghĩa
có tính khái quát này, trong hoạt động quản lý nhà nước về văn hóa, chúng ta dễ bị
hiểu một cách sai lạc: Quản lý văn hóa là quản lý các hoạt động sáng tạo và thu hẹp
hơn nữa là quản lý sáng tác văn học nghệ thuật. Thực tế quản lý văn hóa không phải
như vậy, quản lý văn hóa ở cấp xã lại càng không phải chỉ có thế.
Theo Hồ Chí Minh: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài
người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học,
tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các
phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa”
Định nghĩa của Hồ Chí Minh giúp chúng ta hiểu văn hóa cụ thể và đầy đủ hơn.
Suy cho cùng, mọi hoạt động của con người trước hết đều “vì lẽ sinh tồn cũng như
mục đích của cuộc sống”, những hoạt động sống đó trải qua thực tiễn và thời gian
được lặp đi, lặp lại thành những thói quen, tập quán, chắt lọc thành những chuẩn mực,
những giá trị vật chất và tinh thần được tích lũy, lưu truyền từ đời này qua đời khác
thành kho tàng quý giá mang bản sắc riêng của mỗi cộng đồng, góp lại mà thành di sản
văn hóa của toàn nhân loại.
Ở một góc độ khác, người ta xem văn hóa như là một hệ thống các giá trị vật chất
và tinh thần do con người sáng tạo, tích lũy trong hoạt động thực tiễn qua quá trình
tương tác giữa con người với tự nhiên, xã hội và bản thân. Văn hóa là của con người,
do con người sáng tạo và vì lợi ích của con người. Văn hóa được con người giữ gìn, sử
dụng để phục vụ đời sống con người và truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Khái niệm chung về văn hóa: n hóa là tất cả những giá trị vật thể do con
người sáng tạo ra trên nền của thế giới tự nhiên. Văn hóa là khái niệm mang nội hàm
rộng với rất nhiều cách hiểu khác nhau, liên quan đến mọi mặt đời sống vật chất và
5
tinh thần của con người. Văn hóa bao gồm tất cả những sản phẩm của con người, và
như vậy, văn hóa bao gồm cả hai khía cạnh: khía cạnh phi vật chất của xã hội như
ngôn ngữ, tư tưởng, giá trị và các khía cạnh vật chất như nhà cửa, quần áo, các phương
tiện… Cả hai khía cạnh cần thiết để làm ra sản phẩm và đó là một phần của văn hóa.
Trong cuộc sống hàng ngày, văn hóa thường được hiểu là văn học, nghệ thuật
như thơ ca, mỹ thuật, sân khấu, điện ảnh… Các "trung tâm văn hóa" có ở khắp nơi
chính là cách hiểu này. Một cách hiểu thông thường khác: văn hóa là cách sống bao
gồm phong cách ẩm thực, trang phục, cư xử và cả đức tin, tri thức được tiếp nhận…
thế chúng ta nói một người nào đó là văn hóa cao, có văn hóa hoặc văn hóa thấp, vô
văn hóa.
Trong nhân loại học và xã hội học, khái niệm văn hóa được đề cập đến theo một
nghĩa rộng nhất. Văn hóa bao gồm tất cả mọi thứ vốn là một bộ phận trong đời sống
con người. Văn hóa không chỉ là những gì liên quan đến tinh thần mà bao gồm cả vật
chất.
Văn hóa liên kết với sự tiến hóa sinh học của loài người và nó là sản phẩm của
người thông minh (Homo sapiens). Trong quá trình phát triển, tác động sinh học hay
bản năng dần dần giảm bớt khi loài người đạt được trí thông minh để định dạng môi
trường tự nhiên cho chính mình. Đến lúc này, bản tính con người không không còn
mang tính bản năng mà là văn hóa. Khả năng sáng tạo của con người trong việc định
hình thế giới hơn hẳn bất kỳ loài động vật nào khác và chỉ có con người dựa vào văn
hóa hơn là bản năng để đảm bảo cho sự sống còn của chủng loài mình. Con người có
khả năng hình thành văn hóa và với tư cách là thành viên của một xã hội, con người
tiếp thu văn hóa, bảo tồn nó đồng thời truyền đạt nó từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Việc cùng có chung một văn hóa giúp xác định nhóm người hay xã hội mà các cá thể
là thành viên.
Văn hóa là bao gồm tất cả những sản phẩm của con người, và như vậy, văn
hóa bao gồm cả hai khía cạnh: khía cạnh phi vật chất của xã hội như ngôn ngữ, tư
tưởng, giá trị và các khía cạnh vật chất như nhà cửa, quần áo, các phương tiện…
Cả hai khía cạnh cần thiết để làm ra sản phẩm và đó là một phần của văn hóa.
I.2. Tộc người
Tộc ngườimột cộng đồng người hình thành và phát triển trong lịch sử, trên một
lãnh thổ nhất định, có đặc trưng chung ổn định về ngôn ngữ, đặc điểm sinh hoạt văn hoá
văn hóa, có mối quan hệ nguồn gốc, có chung ý thức tự giác tộc người và tên tự gọi.
Theo nghĩa hẹp, tộc người có thể được hiểu là một cộng người có chung tiếng mẹ
đẻ. Như vậy, tộc người tương đương với nhóm ngôn ngữ hay với nhóm dân tộc – ngôn
ngữ mà các nhà ngôn ngữ học gọi là nhóm nói tiếng mẹ đẻ. Theo nghĩa này, tộc người
là dùng để chỉ những tập hợp người khá thuần nhất, sống cạnh nhau và có chung các
6
đặc điểm về văn hoá mà trong đó yếu tố biểu hiện rõ nhất là việc sử dụng một ngôn
ngữ.
Theo nghĩa rộng, tộc người được hiểu là một cộng đồng người liên kết với nhau
bởi một phức hợp các tính chất chung về các mặt nhân chủng, ngôn ngữ, chính trị…
Sự kết hợp các tính chất đó tạo thành một hệ thống riêng, một cấu trúc mang tính văn
hoá chủ yếu – một nền văn hoá riêng biệt. Nói một cách ngắn gọn, tộc người là một
tập thể hay đúng hơn, là một cộng đồng người, được gắn bó với nhau bởi một nền văn
hoá riêng biệt. Theo nghĩa này, các yếu tố trong hệ thống tộc người có thể phát triển
không đồng đều ở mỗi thành viên, hay sự vắng mặt của một trong số các yếu tố ở một
thành viên cũng không làm cho họ tách khỏi nhóm tộc người của mình.
I.3. Văn hóa tộc người và đặc điểm của văn hóa tộc người
- Tính khép kín, biệt lập
- Quản lý làng bằng cơ chế kết hợp giữa mệnh lệnh hành chính của chính quyền
với tập quán pháp và hương ước của tộc
- Quan hệ dòng họ, quan hệ huyết thống nổi trội và nhiều khi chi phối quan hệ
láng giềng
- Thiếu tính ổn định
I.4. Du lịch cộng đồng
Du lịch cộng đồng là loại hình du lịch được phát triển trên cơ sở các giá trị văn
hóa của cộng đồng, do cộng đồng dân cư quản lý, tổ chức khai thác và hưởng lợi.
Du lịch cộng đồng thường được hiểu là hoạt động của một cộng đồng dân cư tham
gia làm du lịch, hay nói cách khác đây loại hình du lịch trong đó cộng đồng địa phương
tham gia vào chuỗi cung ứng quản du lịch. Loại hình này được phát triển trên
sở văn hóa của cộng đồng, do cộng đồng dân cư quản lý, tổ chức khai thác và hưởng lợi.
II. Khái quát khu vực Đông Bắc Bộ
II.1. Vị trí địa lý
Vùng Đông Bắc (hay Tiểu vùng Đông Bắc mở rộng) bao gồm 10 tỉnh Bắc Kạn,
Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Phú Thọ, Vĩnh Phúc,
Bắc Giang và Quảng Ninh.
Đông Bắc Bộ là vùng lãnh thổ ở phía đông bắc Bắc Bộ và ở hướng bắc vùng
đồng bằng sông Hồng, Việt Nam. Gọi là đông bắc để phân biệt với vùng tây bắc, còn
thực chất nó ở vào phía bắc và đông bắc của Hà Nội, rộng hơn vùng Việt Bắc. Vùng
đông bắc là một trong 3 tiểu vùng địa lý tự nhiên của Bắc Bộ Việt Nam (2 tiểu vùng
kia là Tây Bắc Bộ Đồng bằng sông Hồng).
7
Vùng đông bắc được giới hạn về phía bắc và đông bởi đường biên giới Việt Trung
phía Tây được giới hạn bởi thung lũng sông Hồng thượng nguồn sông Chảy, cao hơn,
được cấu tạo bởi đá granit, đá phiến và các cao nguyên đá vôi.
Vùng biển đông bắc nhiều đảo lớn nhỏ, chiếm gần 2/3 số lượng đảo biển của
Việt Nam (kể cả quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa).
II.2. Đặc điểm địa hình
Đây là vùng núi và trung du với nhiều khối núi và dãy núi đá vôi hoặc núi đất.
Phần phía tây, được giới hạn bởi thung lũng sông Hồng và thượng nguồn sông Chảy,
cao hơn, được cấu tạo bởi đá granit, đá phiến và các cao nguyên đá vôi. Thực chất, đây
là rìa của cao nguyên Vân Nam. Những đỉnh núi cao của vùng đông bắc đều tập trung
ở đây, như Tây Côn Lĩnh, Kiêu Liêu Ti.
Phần phía bắc sát biên giới Việt-Trung là các cao nguyên (sơn nguyên) lần lượt
từ tây sang đông gồm: cao nguyên Bắc Hà, cao nguyên Quản Bạ, cao nguyên Đồng
Văn. Hai cao nguyên đầu có độ cao trung bình từ 1000–1200m. Cao nguyên Đồng
Văn cao 1600 m. Sông suối chảy qua cao nguyên tạo ra một số hẻm núi dài và sâu.
Cũng có một số đồng bằng nhỏ hẹp, đó là Thất Khê, Lạng Sơn, Lộc Bình, Cao Bằng.
Phía đông, từ trung lưu sông Gâm trở ra biển, thấp hơn có nhiều dãy núi hình
vòng cung quay lưng về hướng Đông lần lượt từ Đông sang Tây là vòng cung Sông
Gâm, Ngân Sơn-Yên Lạc, Bắc Sơn, Đông Triều. Núi mọc cả trên biển, tạo thành cảnh
quan Hạ Long nổi tiếng. Các dãy núi vòng cung này hầu như đều trụm đuôi lại ở Tam
Đảo.
Phía tây nam, từ Phú Thọ, nam Tuyên Quang, nam Yên Bái, và Thái Nguyên
sang Bắc Giang thấp dần về phía đồng bằng. Người ta quen gọi phần này là "vùng
trung du". Độ cao của phần này chừng 100–150 m, đặc trưng của vùng Trung du là có
vùng Đồng Bằng khá rộng bị chia cắt bởi gò đồi.
Vùng đông bắc có nhiều sông chảy qua, trong đó các sông lớn là sông Hồng, sông
Chảy, sông Lô, sông Gâm (thuộc hệ thống sông Hồng), sông Cầu, sông Thương, sông
Lục Nam (thuộc hệ thống sông Thái Bình), sông Bằng, sông Bắc Giang, sông Kỳ
Cùng,…
II.3. Khí hậu
Nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa ẩm nhưng vì địa hình cao, lại có nhiều
dãy núi hình cánh cung mở ra ở phía bắc, chụm đầu về Tam Đảo, vào mùa Đông có
gió Bắc thổi mạnh, rất lạnh, còn mùa hè mát mẻ, do đó vùng này có khí hậu cận nhiệt
ẩm. Vùng núi ở Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn có thể có lúc nhiệt độ xuống
dưới 0°C và có băng giá, đôi khi có tuyết rơi. Các vùng ở đuôi các dãy núi cánh cung
cũng rất lạnh do gió mùa.
8
II.4. Tiềm năng du lịch
- Về tự nhiên
Đông Bắc là một quần thể núi non hùng vĩ, địa hình hiểm trở với các dạng địa
hình đan xen nhau khá phong phú.
Địa hình có đặc điểm bị chia cắt rất mạnh và có tính phân bậc với nhiều đèo cao,
vực thẳm kết hợp với các thung lũng mở rộng và thác nước tạo nên nhiều điểm cảnh
quan đẹp….Bên cạnh đó là các thửa ruộng bậc thang, núi đá như những bức tranh
tuyệt tác vừa hùng vĩ vừa thơ mộng của thiên nhiên. Đây là điều kiện lý tưởng để phát
triển các khu, điểm du lịch.
Hệ thống các núi, đồi, sông, hồ, hang động, đặc điểm khí hậu, các khu bảo tồn,
suối nước nóng…đặc biệt là hệ sinh thái, các điểm cảnh quan đều được thiên nhiên
ban tặng cho Tiểu vùng những giá trị cao phục vụ du lịch. Trong đó điển hình có thác
Bản Giốc (Cao Bằng), Thác Đăng Mò (Lạng Sơn), Công viên địa chất toàn cầu cao
nguyên đá Đồng Văn (Hà Giang), hồ Ba bể (Bắc Kạn); đặc biệt vịnh Hạ Long (Quảng
Ninh) trên địa bàn Tiểu vùng là Di sản thiên nhiên thế giới được UNESCO công nhận
và là một trong bảy kỳ quan thế giới mới có sức hấp dẫn đặc biệt đối với khách du
lịch.
Bên cạnh đó, Tiểu vùng có đường biên giới quốc gia dài gần 800 km và hệ thống cửa
khẩu đường bộ với Trung Quốc là tiềm năng phát triển du lịch biên giới.
- Về nhân văn
Tiểu vùng có nguồn tài nguyên du lịch nhân văn gắn liền với Bản sắc văn hóa
của các dân tộc vùng núi Đông Bắc được thể hiện qua các lễ hội, làng nghề, văn hóa
dân gian, di tích lịch sử văn hóa; Hệ thống di tích lịch sử cách mạng gắn với Bác Hồ,
Đảng và Cách mạng Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp. Vùng
núi Đông Bắc là nơi sinh sống của nhiều dân tộc thiểu số như Tày, Nùng, Mông, Dao,
Sán Dìu, Lô Lô, Bố Y, Phù Lá, La Chí, Pu Péo, Cờ Lao….trong cộng đồng 54 dân tộc
Việt Nam với các nhóm ngôn ngữ khác nhau: Tày – Thái, Mông – Dao, Việt – Mường,
Hoa, Tạng – Miến….Các dân tộc ở Đông Bắc, dù đông người hay ít người vẫn giữ
được những nét văn hóa truyền thống độc đáo của mình. Mỗi dân tộc đều có di sản văn
hóa riêng, làm nên tính độc đáo, đặc sắc của vùng đất. Không những thế, có một số
dân tộc (như La Chí, Pu Péo, Cờ Lao ở Hà Giang) được coi là có duy nhất với những
sắc thái riêng biệt. Chính sự tồn tại của đông đảo cộng đồng các dân tộc đã tạo nên cho
Tiểu vùng một diện mạo văn hóa vừa độc đáo vừa phong phú là nguồn tài nguyên du
lịch quan trọng thể hiện qua nhiều hình thức văn hóa khác nhau như hội Lồng Tồng
(Tày, Nùng), Gầu tào (Mông), Cấp sắc (Dao), Nhảy lửa (Pà Thẻn); Hát then, sli lượn;
đặc sản, ẩm thực; kiến trúc nghệ thuật…
9
Việt Bắc là quê hương của cách mạng Việt Nam, mỗi tấc đất ở Việt Bắc đều gắn
với sự nghiệp cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và cách mạng Việt Nam như Khu
lưu niệm chủ tịch Hồ Chí Minh, Di tích lịch sử đường 4 (Lạng Sơn) Hang Pắc Bó (Cao
Bằng), ATK Tân Trào (Tuyên Quang), ATK Định Hóa (Thái Nguyên)…trở thành
những điểm đến hấp dẫn đối với khách du lịch về nguồn, giáo dục, tâm linh.
III. Các đặc trưng của tộc người Việt
III.1. Người Việt – tộc người chủ thể của các tộc người ở Việt Nam
Người Việt hay người Kinh, là một dân tộc hình thành tại khu vực địa lý mà ngày
nay miền Bắc Việt Nam miền nam Trung Quốc. Đây dân tộc chính, chiếm khoảng
86,2% dân số cả nước được gọi chính thức dân tộc Kinh để phân biệt với những
dân tộc thiểu số tại Việt Nam. Ngôn ngữ chính của người Việt là tiếng Việt – thuộc ngữ
hệ Nam Á . Người Việt sinh sống trên khắp đất nước Việt Nam một số nước khác.
Cộng đồng người Việt hải ngoại đông nhất định cư ở Hoa Kỳ.
Trong 54 dân tộc, người Việt là một tộc người đa số, tộc người chủ thể. Điều này
thể hiện cả 2 mặt:
Về dân số, người Việt chiếm khoảng 86% dân số, trong khi 53 dân tộc khác chỉ
chiếm 14%.
Về địa bàn trú: Người Việt tộc người duy nhất trú thành các cộng đồng
đông đúc tại tất cả các tỉnh, trên tất cả các dạng địa hình, địa bàn (đồng bằng, trung
du, miền núi, ven biển, hải đảo), song tập trung nhiều nhất ở đồng bằng. Người Việt còn
chiếm lĩnh các thành phố, thị xã, thị trấn, các trục đường giao thông lớn trong cả nước.
Người Việt nắm giữ các ngành kinh tế then chốt, tạo ra nguồn lực kinh tế lớn
nhất cho cả nước.
Bên cạnh đó Người Việt cũng chiếm số đông và nắm giữ các vị trí then chốt
trong hệ thống chính trị các cấp.
Ngôn ngữ người Việt là quốc ngữ, văn hóa Việt là yếu tố nổi trội trong văn hóa
Việt Nam: 8/11 di sản văn hóa thế giới của Việt Nam là của người Việt.
Người Việt nắm giữ hệ thống giáo dục và tổ chức nền giáo dục quốc gia, có số
lượng cán bộ khoa học lớn nhất nước.
Suốt trong tiến trình lịch sử dài của đất nước, người Việt luôn giữ vai trò chủ đạo:
là tộc người lập nước, tổ chức các cuộc khởi nghĩa, kháng chiến chống giặc ngoại xâm,
giành và bảo vệ chủ quyền đất nước.
Sự tồn tại và phát triển của người Việt có ảnh hưởng tới các dân tộc khác, đến sự
hưng vong của quốc gia.
III.2. Tộc danh và nguồn gốc
10
- Tộc danh của người Việt
Từ xưa đến nay, tộc danh “ kinh” được quen dùng trong các văn bản chính trị,
hành chính và giao tiếp hàng ngày. Tuy nhiên trên thực tế,”Việt” mới tộc dân chính
thức. Tộc danh Kinh được giải thích bằng các ý kiến khác nhau:
Kinh là con cháu của Kinh Dương Vương. Kinh là người sống dọc các con kênh,
dòng sông. Thực tế, chỉ một bộ phận người Việt gắn bó với các dòng sông, các kênh
rạch, còn phần lớn đều sống xa sông, kênh rạch. Kinh là Kinh Đô, Kinh Kỳ, do các tộc
người thiểu số gọi các quan lại miền xuôi được cử lên miền núi nhậm trị, hoặc người
miền xuôi lên buôn bán (từ thời Lý). Cũng có ý kiến cho rằng, ”Kinh” là do người Hán
gọi, chỉ nhóm cư dân ở kinh đô đã qua giáo hóa.
- Nguồn gốc của người Việt
Theo truyền thuyết, vào thiên niên kỷ 3 trước Công nguyên, Lục Tục là con vua
Viên Đế thần nông được cử làm Kinh Dương Vương đi cai trị phương Nam. Kinh
Dương Vương sinh con là Sùng Lãm (còn gọi là Lạc Long Quân). Lạc Long Quân lấy
bà Âu Cơ là tổ tiên của người Việt phương Nam. Hai người sinh ra 100 người con, con
trưởng là Hùng Vương làm vua nước Văn Lang. Theo truyền thuyết này thì người Việt
có nguồn gốc từ Trung Quốc.
Tuy nhiên, các tư liệu sử học và dân tộc học cho phép khẳng định, tổ tiên của
người Việt chính là nhóm Lạc Việt nằm trong khối Bách Việt (gồm nhiều tộc Việt) cư
trú trên một vùng rộng lớn ở Bắc Việt Nam và Nam Trung Quốc từ rất xa xưa. Về
mặt nhân chủng, người Lạc Việt là nhóm trung gian giữa hai đại chủng Mông-gôlô-ít
và Ô xtra--ít.
Tư liệu khảo cổ học cho biết thêm, trên vùng lãng thổ Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ
hiện nay, cách đây khoảng 3500 – 4000 năm, nhóm Lạc Việt đã trực tiếp tạo ra những
nền văn hóa có tính liên tục, từ Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun và phát triển thành
văn hóa Đông Sơn rực rỡ. Quá trình tạo lập các nền văn hóa này cũng là quá trình
người Việt chuẩn bị các điều kiện để tiến tới thành lập nhà nước đầu tiên: nhà nước
Văn Lang (khoảng thế kỷ thứ VII tr.CN), trải qua nhiều đời vua (vua Hùng). Đây là
nhà nước sơ khai. Vua Hùng được xem là thủ lĩnh của một vùng rộng lớn. Khái niệm
“Hùng Vương “ là một khái niệm Hán mới xuất hiện vào thế kỷ XV.
Sau đó vào năm 257 tr.CN, Thục Phán một thủ lĩnh thuộc nhóm Âu Việt tiếp tục
sự nghiệp của các vua Hùng, lập ra nhà nước Âu Lạc đóng đô ở Cổ Loa.
Như vậy cần khẳng định, người Việt là tộc người bản địa cưu trú rất lâu đời trên
đất nước Việt Nam không phải từ lãnh thổ bên ngoài chuyển tới. III.3. Đặc điểm kinh
tế a. Nông nghiệp:
11
Người Việt sớm chọn nông nghiệp làm cơ sở kinh tế chính, trong đó trồng trọt
ruộng nước là chủ đạo, được bổ sung bằng một số hoa màu. Nền nông nghiệp của
người Việt có các đặc điểm nổi bật:
+ Duy trì trên cơ sở lịch mặt trăng (lịch can chi) và được thực hiện trong điều kiện
khí hậu nhiệt đới gió mùa, coi trọng yếu tố thời vụ
+ Đạt tới trình độ thâm canh cao so với các tộc người làm ruộng nước khác, trong
đó coi trọng các khâu canh tác cơ bản : nước – phân – cần – giống, đồng thời
yếu tố thời vụ cũng rất quan trọng.
+ Nhiều công đoạn sản xuất: làm đất (cày, cấy, chăm sóc…) ; gieo mạ, chăm sóc,
thu hoạch … Tất cả đều diễn ra trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt.
+ Trong những thập kỷ gần đây, nông nghiệp của người Việt đã có những đột
biến, năng suất tăng cao, xuất khẩu lúa gạo đứng hàng nhất, nhì trên thế giới.
b. Thủ công nghiệp
Thủ công nghiệp của người Việt khá phát triển với nhiều nghề: chế biến lương
thực – thực phẩm, diệt may mặc, gốm, đan lát, thêu…Tạo ra một lượng sản phẩm lớn
đáp ứng được yêu cầu cho cuộc sống của các tầng lớp xã hội, hình thành nhiều làng
thủ công chuyên nghiệp (làng nghề) như: gốm Bát Tràng, dệt lụa Vạn Phúc, làm nón
làng Chuông... Tuy nhiên thủ công nghiệp vẫn chỉ là bộ phận gắn chặt với nông
nghiệp.
c. Thương nghiệp
Thương nghiệp truyền thống của người Việt nhìn chung không phát triển, trước
hết do ảnh hưởng của tư tưởng Nho Giáo: trọng nông ức thương. Trong nông nghiệp
chủ yếu là nội thương, thông qua hệ thống chợ quê. Số người buôn bán ở thành phố
không nhiều. Trong vùng 5 – 10 làng mới có một cái chợ, chợ luân phiên họp, tạo
thành vòng khép kín để ngày nào cũng có chợ. Phụ nữ buôn bán lúc nông nhàn để
kiếm thêm thu nhập.
Do kỹ thuật vượt biển kém (không có tàu thuyền lớn sử dụng động lực) , do yêu
cầu bảo vệ an ninh đường biển và biên giới đất liền, nhà nước độc quyền buôn bán với
nước ngoài, người dân không có quyền ra nước ngoài tự do buôn bán.
d. Chăn nuôi
Người Việt chăn nuôi theo hình thức chăn thả tự do , tùy thuộc vào từng vùng khác
nhau mà người Việt chăn nuôi theo hình thức khác nhau. Khác với người Hoa chăn nuôi
theo hình thức du canh du cư, người Việt ta chăn nuôi theo hình thức định cư định canh,
cho nên vật nuôi phong phú đa dạng. Người Việt quan niệm Con trâu đầu
nghiệp” cho nên việc gia súc lớn cũng là một phần quan trọng của ngành chăn nuôi.
12
Tóm lại kinh tế truyền thống của người Việt vẫn ở trình độ thấp, chủ yếu dựa vào
nông nghiệp, công nghiệp phát triển chưa đa dạng vẫn còn mang tính lệ thuộc. Người
Việt sáng tạo ra vô vàn nghề thủ công truyền thống và nhiều mặt hàng phục vụ cho như
cầu đi lại ăn mặc ở...
III.4. Đặc điểm văn hóa hội
Văn hóa vật thể:
a. Ăn, ở, mặc
Truyền thống ẩm thực của người Việt thể hiện ở các đồ ăn , thức uống, phong
cách ăn uống phù hợp với điều kiện tự nhiên, lịch sử, xã hội của từng vùng miền.
Văn hóa ẩm thực là nét văn hóa tự nhiên hình thành trong cuộc sống. Đối với
người Việt, ẩm thực không chỉ là nét văn hóa về vật chất mà còn là văn hóa về tinh
thần. Qua ẩm thực người ta có thể hiểu được nét văn hóa thể hiện phẩm giá con người,
trình độ văn hóa của dân tộc với những đạo lý, phép tắc, phong tục trong cách ăn uống.
Từ ăn uống bao gồm hai động tác là ăn và uống. Người Việt đều hiểu ăn uống theo
một cách chung như là cách sống.
Văn hóa ẩm thực của người Việt có những nét đặc trưng như: tính hòa đồng, đa
dạng, ít mỡ; đậm đà hương vị với sự kết hợp nhiều loại gia vị làm tăng sức hấp dẫn
trong các món ăn. Việc ăn thành mâm, sử dụng đũa và đặc biệt trong bữa ăn không thể
thiếu cơm là tập quán chung của tất cả các dân tộc sinh sống trên đất Việt.
Văn hóa tinh thần của người Việt trong ẩm thực chính là sự thể hiện nét đẹp trong
văn hóa giao tiếp, là sự cư xử giữa người với người trong bữa ăn, làm vui lòng nhau
qua thái độ ứng xử lịch lãm. Việc ăn uống đều có những phép tắc, lề lối riêng của từng
người, của từng gia đình, của từng cộng đồng dân cư và của cả xã hội.
Trong gia đình: Ăn chung mâm, ưu tiên thức ăn ngon cho người lớn tuổi, trẻ nhỏ
"kính trên nhường dưới", thể hiện sự kính trọng, tình cảm yêu thương. Bữa cơm hàng
ngày được xem là cơ hội sum họp gia đình, mọi người quây quần bên nhau vui vầy sau
một ngày làm việc.
Ngoài xã hội: Việc mời khách đến nhà thể hiện nét văn hóa giữa người với người
trong xã hội. Khi có dịp tổ chức ăn uống, gia chủ thường làm những món ăn thật ngon,
nấu thật nhiều để đãi khách. Chủ nhà thường gắp thức ăn mời khách, tránh việc dừng
đũa trước khách, và có lời mời ăn thêm khi khách dùng bữa. Bữa cơm không chỉ đơn
thuần là cuộc vui mà còn thể hiện tấm lòng hiếu khách đặc trưng của người Việt
Về mặc, nét độc đáo nhất của người Việt là bộ quần áo dài của nữ giới, tôn thêm
vẻ đẹp duyên dáng của người phụ nữ, miền Nam bộ quần áo ba gắn với chiếc khăn
rằn ri.
13
Nói chung người Việt Nam dù ở Bắc, Trung hay Nam đều có cách mặc gần giống
nhau. Các loại quần áo như áo ngắn mặc với quần lá tọa ống rộng, quần có cạp hoặc
dùng dây rút. Thời xưa thì đàn ông để tóc dài, búi tó, hoặc thắt khăn đầu rìu,... Vào các
lễ hội đặc biệt thì mặc áo dài khăn đống, mùa áo đơn giản không có văn hoa. Chân thì
đi guốc mộc.
Vào thời xưa thì phụ nữ người Kinh ai cũng mặc yếm. Váy thì váy dài với dây
thắt lưng. Các loại nón thông thường như thúng, ba tầm... Trong những ngày hội thì
người phụ nữ thường mặc áo dài. Các thiếu nữ thì hay làm búi tóc đuôi gà. Các đồ
trang sức truyền thống như trâm, vòng cổ, hoa tai, nhẫn, vòng tay mang phong cách
tùy theo từng vùng. Phụ nữ Nam Bộ thường mặc áo bà ba với các kiểu cổ như tròn,
trái tim, bà lai với các khăn trùm đầu. Nón lá có thể nói là nón được sử dụng rộng rãi
nhất cho phụ nữ thời xưa do nó có thể tự làm và che nắng rất tốt.
Về ở, nét nổi bật nhất là kết cấu làng và cửa được bố trí hài hòa với khung cảnh
thiên nhiên, các đặc điểm về đất, thế nước của từng vùng: trung du, miền núi, đồng
bằng, đồng chiêm, gò đồi.
Ðại bộ phận người Việt sinh sống thành từng làng, dăm ba làng họp lại thành một
xã. Nhiều xã cũng chỉ bao gồm một làng lớn và một số xóm độc lập mới tách ra từ
làng lớn. Trong làng thường có nhiều xóm, có xóm lớn tương đương với thôn và thôn
Bắc bộ gần tương tự như một ấp của Nam bộ Ðặc biệt, trong làng, sự phân chia dân
nội tịch và dân ngoại tịch (ngụ cư) được quy định rõ trong Hương khoán ước của làng.
Gia đình của người Việt hầu hết và những gia đình nhỏ gồm 2 thế hệ theo chế độ
phụ quyền nhưng phụ nữ vẫn giữ vai trò quan trọng, thường người quản kinh tế
trong gia đình.
Các làng đều có công trình thờ cúng (gắn liền điêu khắc của từng thời kỳ) gồm
đình chùa, đền miếu,…
b. Thiết kế nhà cửa
Nhà người Việt miền Bắc có nhiều kiểu, nhiều dạng khác nhau thể hiện ở kết cấu
bộ khung nhà, chủ yếu là ở các kiểu vì kèo, ở bình đồ (tổ hợp nhà ), ở tổ chức mặt
bằng sinh hoạt… Song kiểu nhà ba gian hai chái với vì kèo suốt – giá chiêng – sáu
hàng cột là tiêu biểu hơn cả. Cũng có thề là vì kẻ chuyền (một biến dạng gần của vì
kèo suốt). Tổ hợp hai nhà : nhà chính và nhà phụ kết hợp với nhau theo hình “thước
thợ “. Mặt bằng sinh hoạt : gian giữa đặt bàn thờ tổ tiên, phản gỗ (ghế ngựa) dành cho
chủ nhà và bàn ghế tiếp khách. Hai gian bên của gian giữa kê giường tủ giành cho các
thành viên nam trong nhà. Hai gian chái có vách (đố hoặc tường) ngăn với ba gian
giữa. Trong các gian này dành cho sinh hoạt của các thành viên nữ, đồng thời còn là
nơi để cất lương thực và các thứ lặt vặt khác. Ðó là ngôi nhà chính, còn nhà phụ : một
14
gian hai chái, vì kèo thường đơn giản (vì kèo cầu hoặc vì kèo – ba cột). nhà này
thường là nhà bếp kết hợp làm nơi để nông cụ, cối xay, cối giã, và chuồng trâu…
c. Các di tích thờ cúng:
- Đình:
Thời điểm xuất hiện: chưa xác định rõ. Có thể xuất hiện vào khoảng thời vua Lê
thánh Tông (1470 -1497). Tuy nhiên các đình cổ nhất còn lại hiện nay đều là đình
dựng vào thời Mạc.
Thế đất đình: thường là nơi đẹp, cao nhất làng, theo phong thủy là nơi có long
mạch (tả thanh long, hữu bạch hổ), tạo ra sự hài hòa âm dương. Hướng của đình tùy
thuộc vào thế đất dựng đình, song đa số là hướng Tây (hướng có nhiều nắng để chống
ẩm thấp cho đình), hướng Nam, Đông Nam tạo ra sự mát mẻ cho đình.
Kết cấu của đình: có kết cấu chữ nhất (một tòa nhà 3 gian hoặc 5 gian); kết cấu
chữ đinh (có đại đình và nối với hậu cung); kết cấu chữ nhị (gồm 2 tòa nhà song song);
kết cấu chư tam (gồm 3 tòa nhà song song); kết cấu chữ công (gồm thượng điện kết
nối với hậu cung bằng tòa nhà hình ống).
Đình là có chức năng quan trọng: Đình là nơi hội họp, trung tâm hành chính của
làng, nơi thờ thành hoàng làng, nơi tổ chức các sinh hoạt văn hóa – xã hội mang tính
đẳng cấp của làng.
- Miếu: là một nhà thấp nhỏ, kiến trúc đơn giản, thường không có các
mảng điêu khắc, là nơi thờ thần, song có khi chỉ là nơi thờ những người, những
hiện tượng bình thường.
- Đền: có qui mô to, cao hơn miếu, kiến trúc phức tạp hơn, các mảng kiến
trúc rõ nét hơn, chức năng cũng giống miếu.
- Quán: vốn là kiến trúc của Đạo Giáo, về sau là nơi thờ thần.
- Am: vốn là ngôi nhà tranh để thờ Phật, sau này biến thành nơi thờ Thần.
- Chùa: là kiến trúc rất phổ biến ở Việt Nam
Chùa ở Việt Nam xuất hiện từ rất sớm, gắn với sự du nhập của đạo phật. Mỗi
chùa thường có 2 tên: tên thường (gắn với tên làng, hay chỉ một đặc điểm nào đó như
chùa làng cót, chùa trên, chùa dưới, chùa đồng…). Tên chữ gắn với tự như: phúc lâm
tự, tháp bảo tự,…
Cấu của chùa cũng tương tự như cấu trú của đình.
Vị trí của chùa trong đời sống làng Việt:
Chùa là nơi sinh hoạt tín ngưỡng
Chùa phản ánh sự du nhập của đạo Phật vào Việt Nam
Kiến trúc điêu khắc chùa, điêu khắc tượng không chỉ có giái trị nghệ thuật mà
còn biểu hiện tư tưởng của các thời kỳ
15
Chùa phản ánh sự phát triển cơ cấu tổ chức, phong tục, tập quán làng xã, phân
tầng hội, thể hiện qua tục đặt hậu, tục công đức ghi trong văn bia, chuông khánh.
Văn hóa phi vật thể a. Văn học:
Văn học của người Việt đã từng tồn tại từ rất lâu và được truyền miệng qua
truyển cổ, ca dao, tục ngữ... Nghệ thuật phong phú như ca hát, âm nhạc, điêu khắc, hội
họa, múa, diễn xướng... Hàng năm thì theo truyền thống các làng đều tổ chức hội làng
với các sinh hoạt cộng đồng. Khoảng sau Công Nguyên, người Kinh bị Bắc thuộc nên
đã dùng chữ Hán, nhưng về sau tự tạo thêm chữ viết riêng là chữ Nôm. Tuy nhiên chữ
Hán vẫn là ngôn ngữ chính thức được dùng trong hành chính và giáo dục. Từ khoảng
thế kỷ thứ 16 các giáo sĩ truyền giáo đến từ phương Tây thấy cần dùng chữ cái Latin
để ký âm tiếng Việt. Từ đó xuất hiện chữ Quốc Ngữ được sử dụng rộng rãi ngày nay.
Năm 1945, 95% dân số Việt Nam mù chữ nhưng đến năm 2010 tỷ lệ biết chữ ở người
lớn là 97,3%. Tuy nhiên tỷ lệ đọc sách của người Việt khá thấp ở mức 0,8 cuốn
sách/người/năm.
b. Phong tục tập quán:
Các phong tục tập quán với những nét đặc trưng khác biệt và đặc sắc là một trong
những yếu tố quan trọng góp phần tạo nên sự độc đáo cho văn hóa dân tộc Kinh. Là
một dân tộc có truyền thống đoàn kết, gắn bó, cần cù, sáng tạo những giá trị đậm đà
bản sắc dân tộc và phát huy truyền thống lâu dài của cha ông, chính vì thế đây là dân
tộc vẫn còn lưu giữ và tiếp nối các phong tục tập quán của tổ tiên để lại. Người Kinh
có tập quán ăn trầu cau, uống nước chè, nước vối.
Trong các bữa ăn đời thường, họ sẽ ăn cơm tẻ, cơm nếp hoặc cháo, xôi và một
trong những món ăn độc đáo và làm nên sự khác biệt của dân tộc Kinh với các dân tộc
khác trên cả nước đó chính là món mắm tôm, trứng vịt lộn. Việc hút thuốc lá, thuốc lào
có lẽ sau thế kỷ 16, sau khi cây thuốc lá nhập vào Việt Nam từ châu Mỹ. Ngoài các giá
trị vật chất, người Việt còn có những giá trị tâm linh như việc thờ cúng tổ tiên, giỗ và
các lễ hội như Tết. Các tôn giáo phổ biến như Phật giáo, Công giáo Rôma, đạo Cao
Đài...
Người Việt có rất nhiều dòng họ, có những họ rất phổ biến như Nguyễn, Trần,
Lê, Phạm, Vũ… dường như địa phương nào cũng có. Mỗi tộc họ, thường có nhà thờ tổ
riêng, họ lại chia ra làm nhiều chi phái và mỗi chi phái lại bao gồm nhiều nhánh. Mỗi
nhánh lại bao gồm các anh em cùng bố mẹ, ông bà. Quan hệ họ nội được truyền giữ
bền chắc qua nhiều đời. Anh em họ hàng (kể cả họ nội và họ ngoại đều yêu thương
giúp đỡ lẫn nhau).
c. Lễ tết:
16
* Tết Nguyên Đán
Tết Nguyên Đán Việt Nam từ buổi "khai thiên lập địa" đã tiềm tàng những giá trị
nhân văn thể hiện mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên, vũ trụ. Tết còn là dịp
để mọi người Việt Nam tưởng nhớ, tri ân tổ tiên, nguồn cội; giao cảm nhân sinh trong
quan hệ đạo lý (ăn quả nhớ kẻ trồng cây) và tình nghĩa xóm làng... *Giao thừa
Dân tộc nào cũng coi phút giao thừa là thiêng liêng. Tục ta tin rằng mỗi năm có
một ông hành khiển coi việc nhân gian, hết năm thì thần nọ bàn giao công việc cho
thần kia, cho nên cúng tế để tiễn ông cũ và đón ông mới.
Lễ giao thừa được cúng ở ngoài trời là bởi vì các cụ xưa hình dung trong phút cựu
vương hành khiển bàn giao công việc cho tân vương luôn quân đi, quân về đầy không
trung tấp nập, vội vã (nhưng mắt trần ta không nhìn thấy được), thậm chí có quan quân
còn chưa kịp ăn uống gì. Những phút ấy, các gia đình đưa xôi gà, bánh trái, hoa quả,
toàn đồ ăn nguội ra ngoài trời cúng, với lòng thành tiễn đưa người nhà trời đã cai quản
mình năm cũ và đón người nhà trời mới xuống làm nhiệm vụ cai quản hạ giới năm tới.
việc bàn giao, tiếp quản công việc hết sức khẩn trương nên các vị không thể vào trong
nhà khề khà mâm bát mà chỉ có thể dừng vài giây ăn vội vàng hoặc mang theo, thậm chí
chỉ chứng kiến lòng thành của chủ nhà.
* Lễ cúng Thổ Công
Sau khi cúng giao thừa xong, các gia chủ cũng khấn Thổ Công, tức là vị thần cai
quản trong nhà. Lễ vật cũng tương tự như lễ cúng giao thừa.
* Tết Thượng nguyên (Tết Nguyên tiêu)
Tết Thượng nguyên vào ngày rằm tháng giêng - ngày trăng tròn đầu tiên của
năm. Tết này phần lớn tổ chức tại chùa chiền, vì rằm tháng giêng còn là ngày vía của
Phật tổ. Ta có câu: "Lễ Phật quanh năm không bằng rằm tháng giêng". Tục ta tin rằng
ngày rằm tháng giêng, đức Phật giáng lâm tại các chùa để chứng độ lòng thành của các
tín đồ phật giáo. Trong dịp này chùa nào cũng đông người tới lễ bái. Sau khi đi chùa
mọi người về nhà họp mặt cúng gia tiên và ăn cỗ.
* Tết Thanh minh
Là tiết thứ năm trong "nhị thập tứ khí" và đã được người phương Ðông coi là một
lễ tiết hàng năm. Tiết thanh minh đến sau ngày Lập Xuân 45 ngày. Theo nghĩa đen,
thanh là khí trong, còn minh là sáng sủa.
Cúng lễ trong ngày tết thanh minh: Tết thanh minh cũng là dịp để con cháu sửa lễ
cúng gia tiên sau khi viếng mộ về. Cũng có nhà sửa lễ mang ra mộ cúng, nhưng đó chỉ
là cúng riêng một ngôi mộ. Còn sau đó người ta vẫn cúng ở bàn thờ tổ tiên và khấn tất
cả gia tiên nội ngoại về phối hưởng. Người ta thường cúng mặn trong ngày thanh
minh, nghĩa là có làm cỗ, hoặc không làm cỗ thì cũng có đĩa xôi, con gà cùng với
17
hương hoa, trà rượu, vàng mã. Và đồng thời với việc cúng tổ tiên cũng có cúng Thổ
Công như trong mọi dịp.
* Tết Ðoan Ngọ
Tết Đoan Ngọ còn gọi là tết Ðoan Dương còn nhiều tục truyền đến nay. Sáng
sớm cho trẻ ăn hoa quả, rượu nếp, trứng luộc, bôi hồng hoàng vào thóp đầu, vào ngực,
vào rốn để giết sâu bọ. Người lớn thì giết sâu bọ bằng uống rượu hoặc ăn rượu nếp.
* Tết Trung nguyên (Rằm tháng bảy)
Rằm tháng bảy theo tín ngưỡng là ngày xá tội vong nhân, nghĩa là bao nhiêu tội
nhân ở dưới âm phủ ngày hôm đó đều được tha tội. Bởi vậy trên dương thế mọi gia
đình đều làm cỗ bàn, đốt vàng mã cúng gia tiên và đồng thời cúng những linh hồn bơ
vơ không được ai chăm sóc. Người ta cũng thả chim lên trời, thả cá xuống sông, để
làm điều phúc đức.
* Tết Trung thu (Rằm tháng Tám)
Trung thu là giữa mùa thu, tết Trung Thu như tên gọi đến với chúng ta vào đúng
giữa mùa thu tức là vào rằm tháng tám âm lịch. Tết Trung Thu là tết của trẻ em.
* Tết Táo quân
Tết Táo quân vào ngày 23 tháng chạp - người ta coi đây là ngày "vua bếp" lên
chầu trời để tâu lại việc bếp núc, làm ăn, cư xử của gia đình trong năm qua.
Bởi thế nên, trong ngày này, mọi gia đình người Việt Nam đều làm mâm cơm
đạm bạc tiễn đưa "ông Táo". Cứ phiên chợ 23 tháng chạp, mỗi gia đình thường mua 2
mũ ông Táo, 1 mũ bà Táo bằng giấy và 3 con cá chép làm "ngựa" (chuyện cá chép hoá
rồng) đế Táo quân lên chầu trời. Sau khi cúng trong bếp, mũ được đốt và cá chép được
mang ra thả ở ao, hồ, sông...
Ngày ông Táo về chầu trời được xem như ngày đầu tiên của Tết Nguyên đán. Sau
khi tiễn đưa ông Táo người ta bắt đầu dọn dẹp nhà cửa, lau chùi đồ cúng ông bà tổ
tiên, treo tranh, câu đối, và cắm hoa ở những nơi trang trọng để chuẩn bị đón tết.
IV. Phát triển du lịch cộng đồng gắn với giá trị văn hoá tộc người Việt
IV.1. Trực trạng
Trên cơ sở phát huy những lợi thế về tài nguyên và vị trí về du lịch, vừa qua
Chính quyền các địa phương trên địa bàn Tiểu vùng đã có những định hướng và giải
pháp quản lý phát triển du lịch cho riêng mình.
Cùng với tiến trình phát triển của du lịch cả nước, du lịch các địa phương trong
Tiểu vùng phát triển với tốc độ tăng trưởng nhanh về mọi mặt và đã đạt được những
thành tựu đáng kể, có những đóng góp nhất định trong sự phát triển kinh tế – xã hội
của địa phương và đối với sự phát triển du lịch chung của cả nước. Du lịch các tỉnh
18
trong Tiểu vùng đang từng bước trở thành một trong những ngành kinh tế có vị trí
quan trọng trong cơ cấu kinh tế của địa phương.
Những kết quả đánh giá thông qua các chỉ tiêu về lượng khách, thu nhâp và việ
c  làm đã khẳng định vai trò của ngành du lịch trong nền kinh tế quốc dân. Ngành du
lịch của các địa phương trong Tiểu vùng đã có đóng góp quan trọng vào tăng trưởng
kinh tế, xoá đói, giảm nghèo, đảm bảo an sinh xã hôi, bảo tồn và phát huy giá trị văn
hoá,  bảo vê môi trường và giữ vững quốc phòng, an ninh.
Trên địa bàn Tiểu vùng đã hình thành những trung tâm du lịch và địa bàn du lịch
trọng điểm như Quảng Ninh (thuộc Duyên hải Đông Bắc), Phú Thọ (thuộc trung du),
Lạng Sơn (thuộc cửa ngõ Đông Bắc)…
Các sản phẩm du lịch gắn với loại hình du lịch sinh thái, nghiên cứu địa chất,
tham quan cảnh quan, về nguồn, cộng đồng trải nghiệm văn hóa bản địa… đang dần
khẳng định được giá trị và thương hiệu của riêng mình.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, thực trạng phát triển cho thấy du
lịch các địa phương trong Tiểu vùng phát triển vẫn còn nhiều hạn chế và bất cập; nhiều
khó khăn, trở ngại vẫn chưa có giải pháp thoả đáng; phát triển chưa có bước đột phá để
khẳng định thực sự là ngành kinh tế mũi nhọn; sản phẩm du lịch mờ nhạt, nghèo nàn
chưa tạo được sức hấp dẫn cho du khách; chưa xây dựng được tuyến du lịch hoàn
chỉnh mang tính đặc sắc, độc đáo. Chất lượng sản phẩm du lịch còn thấp, thiếu các
doanh nghiệp có thương hiệu; kết quả chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế của
địa phương và vẫn ẩn chứa nhiều rủi ro, thiếu bền vững. Tốc độ phát triển chung tuy
nhanh nhưng do điểm xuất phát thấp nên kết quả cuối cùng vẫn thấp. Ngoại trừ Quảng
Ninh, Phú Thọ, Lạng Sơn có tổng thu từ du lịch đạt ở mức cao (Quảng Ninh), khá
(Phú Thọ), trung bình (Lạng Sơn) so với mặt bằng chung của cả nước, còn lại các tỉnh
vùng núi Đông Bắc đều đứng ở vị trí thấp.
Có thể nêu một số nguyên nhân cơ bản dẫn đến kết quả còn thấp trong phát triển
du lịch như sau:
- Là khu vực miền núi nghèo, cơ sở hạ tầng còn nhiều bất cập, cơ sở vật chất kỹ
thuật du lịch còn thiếu, chất lượng thấp.
- Ảnh hưởng của tính thời vụ đối với du lịch cao.
- Ảnh hưởng của các yếu tố khách quan như thời tiết, dịch bệnh, trong đó đặc
biệt là sự bất lợi về thời tiết.
- Nhận thức trong cấp ủy, chính quyền, quần chúng một số địa phương chưa đầy
đủ về vai trò, ý nghĩa, vị trí của du lịch trong nền kinh tế; chưa ý thức được
tiềm năng để phát huy có hiệu quả kinh tế du lịch…
19
- Hiệu lực quản lý nhà nước về du lịch chưa cao. Sự phối hợp giữa các ngành để
phát triển du lịch còn yếu; thiếu liên kết chặt chẽ giữa các ngành sản xuất nông,
lâm nghiệp, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp trong sản xuất cung cấp các sản
phẩm phục vụ du lịch.
Môi trường đầu tư chưa thực sự hấp dẫn để thu hút được các doanh nghiệp
trong tỉnh có nguồn vốn lớn đầu tư phát triển du lịch.
- Bố trí nguồn lực đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng các khu du lịch không tương
ứng, không tạo được sức hấp dẫn thu hút đầu tư. Các dự án du lịch triển khai
chậm, không tạo được cơ sở vật chất kỹ thuật và sản phẩm du lịch cần thiết để
thu hút khách tạo động lực cho phát triển du lịch.
- Thiếu các doanh nhân giỏi và đội ngũ lao động có tay nghề, tính chuyên nghiệp
cao trong hoạt động du lịch.
- Công tác tuyên truyền, quảng bá, xúc tiến du lịch hiệu quả thấp, nội dung còn
chung chung, thiếu tính chuyên nghiệp; chưa gắn với các khu, điểm và sản
phẩm du lịch để thu hút các doanh nghiệp lữ hành lớn trong nước và quốc tế.
Các doanh nghiệp du lịch của tỉnh chưa tích cực tham gia vào công tác xúc tiến
du lịch.
- Phát triển du lịch còn ẩn chứa nhiều yếu tố thiếu bền vững (kinh doanh mang
tính chộp giật, cạnh tranh thiếu lành mạnh…).
IV.2. Giải pháp
Về quan điểm phát triển
Cần tập trung phát triển các sản phẩm du lịch dựa trên các giá trị nổi bật của tài
nguyên du lịch để tạo nên sự khác biệt nét đặc trưng về sản phẩm du lịch, tăng cường
thu hút khách cho Tiểu vùng nói riêng và toàn vùng nói chung.
Phát triển du lịch có chiều sâu, theo hướng nâng cao chất lượng và tính chuyên nghiệp
để bảo đảm sản phẩm du lịch ngày càng khẳng định thương hiệu và tính cạnh tranh
cao.
Phát triển nhanh để hòa nhập với phát triển du lịch khu vực và cả nước.
Về mục tiêu phát triển
Phải đặt ra mục tiêu phấn đấu để đến năm 2020, du lịch các tỉnh Tiểu vùng Đông
Bắc nói riêng và vùng Trung du miền núi Bắc Bộ nói chung có hệ thống sản phẩm du
lịch chất lượng cao, đa dạng, có thương hiêu, có sức cạnh tranh; mang đậm bản sắc
văn hoá các dân tộc thiểu số vùng Đông Bắc Việt Nam, hấp dẫn khách du lịch góp
phần bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa các dân tộc vùng núi cao.
20
Về phát triển loại hình và sản phẩm
a. Tập trung phát triển loại hình du lịch đặc trưng nhất để phát huy thế mạnh về tài
nguyên du lịch của Tiểu vùng, cụ thể:
- Về tự nhiên:
+ Đẩy mạnh phát triển du lịch sinh thái, khám phá thiên nhiên gắn với hang động,
núi cao và vùng trung du, gắn với các điểm cảnh quan.
+ Phát triển loại hình du lịch sinh thái biển, tham quan cảnh quan vịnh, đảo; nghỉ
dưỡng biển ở phía Đông.
+ Phát triển du lịch địa chất gắn với khoa học và giáo dục ở khu vực phía Bắc.
+ Chú trọng gắn kết phát triển du lịch sinh thái núi và trung du ở phía Tây, phía
Bắc với du lịch biển thuộc phía Đông.
- Về văn hóa-lịch sử: Khai thác đặc điểm nổi trội của nguồn tài nguyên văn hóa –
lịch sử nhằm đẩy mạnh phát triển thị trường khách du lịch văn hóa, về nguồn, lễ hội
tâm linh với những dòng sản phẩm sau :
+ Du lịch tham quan nghiên cứu, tìm hiểu: Tập trung khai thác dựa trên quần thể
di tích lịch sử – văn hóa và bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Bắc. Đây là sản
phẩm du lịch nổi trội và là thế mạnh của du lịch Tiểu vùng. Cần tạo ra nhiều chương
trình tham quan, nghiên cứu đa dạng kết hợp với nghỉ dưỡng phục vụ du khách. Phát
triển các bản văn hóa Việt Bắc gắn với làng nghề truyền thống, văn hóa ẩm thực… Du
lịch về nguồn, tâm linh: Chủ yếu khai thác hệ thống di tích lịch sử cách mạng về với
Thủ đô kháng chiến, thủ đô cách mạng Việt Nam.
+ Du lịch cộng đồng, trải nghiệm văn hóa bản địa: Tại các bản văn hóa dân tộc
thiểu số vùng núi, các làng chài ven biển.
+ Ngoài ra, để phát huy thế mạnh vị trí “địa đầu” với hệ thống cửa khẩu và khu
kinh tế cửa khẩu biên giới Tiểu vùng cũng cần phát triển mạnh du lịch biên giới gắn
với thương mại cửa khẩu, công vụ…
Về tổ chức không gian lãnh th
Tập trung ưu tiên phát triển các khu, điểm du lịch quốc gia và địa phương quan
trọng theo hướng của Chiến lược và Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam
đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 đã định ra trên địa bàn vùng để làm động lực
phát triển các khu, điểm du lịch khác trên bình diện tổng thể.
Dựa trên sự phân bố và các điểm tài nguyên du lịch có thể hình thành tuyến du
lịch theo chuyên đề về sinh thái, văn hóa để trải nghiệm, khám phá các đặc điểm tự
nhiên như núi cao, hang động, các đặc trưng văn hóa vùng núi Đông Bắc Việt Nam.
Chú trọng phát triển tuyến du lịch đường bộ dọc biên giới.
| 1/22

Preview text:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHENIKAA KHOA DU LỊCH
BÀI TẬP KẾT THÚC HỌC PHẦN
MÔN CÁC DÂN TỘC VIỆT NAM
Đề bài: Phát triển du lịch cộng đồng gắn với giá
trị văn hóa tộc người Việt tại vùng Đông Bắc
Giảng viên : Cô Trương Mai Ngọc
Sinh viên : Nguyễn Thị Tố Quyên MSV : 21011947 Khóa : K15 Lớp
: Các dân tộc Việt Nam-1-1-22 (N02)
Năm học : 2022 – 2023
Hà Nội, 12/2022 1 MỤC LỤC LỜI MỞ
ĐẦU..............................................................................................................3 NỘI
DUNG...................................................................................................................4
I. Hệ thống các khái niệm...............................................................................4 I.1.
Văn hóa.........................................................................................................4 I.2.
Tộc người.....................................................................................................5

I.3. Văn hóa tộc người và đặc điểm của văn hóa tộc người.............................6 I.4.
Du lịch cộng đồng........................................................................................6
II. Khái quát khu vực Đông Bắc Bộ................................................................6
II.1. Vị trí địa lý...................................................................................................6
II.2. Đặc điểm địa hình........................................................................................7 II.3. Khí
hậu.........................................................................................................7 ........
.................................................................................................................
II.4.
Tiềm năng du lịch........................................................................................7 III.
Các đặc trưng của tộc người Việt...............................................................8
III.1. Người Việt – tộc người chủ thể của các tộc người ở Việt Nam.................9
III.2. Tộc danh và nguồn gốc................................................................................9 III.3.
Đặc điểm kinh
tế........................................................................................10 ...........................
..............................................................................................

III.4. Đặc điểm văn hóa – xã hội.........................................................................11 IV.
Phát triển du lịch cộng đồng gắn với giá trị văn hoá tộc người Việt......17 IV.1. Trực
trạng..................................................................................................17 IV.2.
Giải pháp....................................................................................................19
KẾT LUẬN.................................................................................................................22 2 MỞ ĐẦU
Ngày nay, du lịch đã trở thành hoạt động phổ biến trong đời sống văn hóa xã hội
của mỗi con người và ngành du lịch đã đem lại những lợi ích to lớn về nhiều mặt cho
các quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Nước ta là một quốc
gia có nhiều tiềm năng để phát triển du lịch. Bên cạnh tiềm năng du lịch về tự nhiên thì
ở Việt Nam điểm đặc biệt thu hút khách du lịch đó chính là sự đa dạng về bản sắc văn
hóa dân tộc, với 54 dân tộc anh em, mỗi dân tộc đều có những nét đặc trưng về văn hóa,
phong tục tập quán và lối sống riêng tạo nên một bức tranh văn hóa đầy màu sắc. Du
lịch cộng đồng đang trở thành một xu hướng mới ở Việt Nam. Bởi loại hình du lịch này
phù hợp với bối cảnh kinh tế, đồng thời phát huy được lợi thế về tài nguyên du lịch tự
nhiên và nhân văn phong phú, đa dạng, đậm đà bản sắc dân tộc.
Vùng du lịch Đông Bắc Bộ là một trong những vùng du lịch nổi tiếng ở nước ta
được tạo hóa thiên nhiên ưu ái ban tặng cho những điều kiện thuận lợi để phát triển du
lịch cùng những kỳ quan thiên nhiên nổi tiếng. Khí hậu ở đây nằm trong vùng khí hậu
nhiệt đới gió mùa ẩm. Nơi đây là nơi sinh sống của các dân tộc Việt, H’mông, Dao và
một số dân tộc ít người khác cùng nhau tạo nên sức hấp dẫn đặc biệt cho du khách
muốn khám phá nơi đây. Trong đó, người Việt là dân tộc sinh sống đông nhất ở vùng
Đông Bắc Bộ. Tộc người Việt ở đây có nhiều nét văn hóa đặc sắc về phong tục tập
quán, văn hóa ăn mặc, văn hóa ẩm thực, tôn giáo tín ngưỡng. Những nét văn hóa
phong phú, đa dạng của tộc người Việt đã tạo cho Đông Bắc Bộ một nét đẹp rất riêng
và đem lại cho vùng đất này một tiềm năng phát triển du lịch rất lớn. 3 NỘI DUNG I.
Hệ thống các khái niệm I.1. Văn hóa
Có nhiều định nghĩa khác nhau về văn hóa.
Theo UNESCO: “Văn hóa là tổng thể sống động các hoạt động và sáng tạo
trong quá khứ và trong hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành
nên một hệ thống các giá trị, các truyền thống và thị hiếu – những yếu tố xác định đặc
tính riêng của mỗi dân tộc”
Định nghĩa này nhấn mạnh vào hoạt động sáng tạo của các cộng đồng người gắn
liền với tiến trình phát triển có tính lịch sử của mỗi cộng đồng trải qua một thời gian
dài tạo nên những giá trị có tính nhân văn phổ quát, đồng thời có tính đặc thù của mỗi
cộng đồng, bản sắc riêng của từng dân tộc. Tuy nhiên, nếu chỉ căn cứ vào định nghĩa
có tính khái quát này, trong hoạt động quản lý nhà nước về văn hóa, chúng ta dễ bị
hiểu một cách sai lạc: Quản lý văn hóa là quản lý các hoạt động sáng tạo và thu hẹp
hơn nữa là quản lý sáng tác văn học nghệ thuật. Thực tế quản lý văn hóa không phải
như vậy, quản lý văn hóa ở cấp xã lại càng không phải chỉ có thế.
Theo Hồ Chí Minh: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài
người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học,
tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các
phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa”
Định nghĩa của Hồ Chí Minh giúp chúng ta hiểu văn hóa cụ thể và đầy đủ hơn.
Suy cho cùng, mọi hoạt động của con người trước hết đều “vì lẽ sinh tồn cũng như
mục đích của cuộc sống”, những hoạt động sống đó trải qua thực tiễn và thời gian
được lặp đi, lặp lại thành những thói quen, tập quán, chắt lọc thành những chuẩn mực,
những giá trị vật chất và tinh thần được tích lũy, lưu truyền từ đời này qua đời khác
thành kho tàng quý giá mang bản sắc riêng của mỗi cộng đồng, góp lại mà thành di sản
văn hóa của toàn nhân loại.
Ở một góc độ khác, người ta xem văn hóa như là một hệ thống các giá trị vật chất
và tinh thần do con người sáng tạo, tích lũy trong hoạt động thực tiễn qua quá trình
tương tác giữa con người với tự nhiên, xã hội và bản thân. Văn hóa là của con người,
do con người sáng tạo và vì lợi ích của con người. Văn hóa được con người giữ gìn, sử
dụng để phục vụ đời sống con người và truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Khái niệm chung về văn hóa: Văn hóa là tất cả những giá trị vật thể do con
người sáng tạo ra trên nền của thế giới tự nhiên. Văn hóa là khái niệm mang nội hàm
rộng với rất nhiều cách hiểu khác nhau, liên quan đến mọi mặt đời sống vật chất và 4
tinh thần của con người. Văn hóa bao gồm tất cả những sản phẩm của con người, và
như vậy, văn hóa bao gồm cả hai khía cạnh: khía cạnh phi vật chất của xã hội như
ngôn ngữ, tư tưởng, giá trị và các khía cạnh vật chất như nhà cửa, quần áo, các phương
tiện… Cả hai khía cạnh cần thiết để làm ra sản phẩm và đó là một phần của văn hóa.
Trong cuộc sống hàng ngày, văn hóa thường được hiểu là văn học, nghệ thuật
như thơ ca, mỹ thuật, sân khấu, điện ảnh… Các "trung tâm văn hóa" có ở khắp nơi
chính là cách hiểu này. Một cách hiểu thông thường khác: văn hóa là cách sống bao
gồm phong cách ẩm thực, trang phục, cư xử và cả đức tin, tri thức được tiếp nhận… Vì
thế chúng ta nói một người nào đó là văn hóa cao, có văn hóa hoặc văn hóa thấp, vô văn hóa.
Trong nhân loại học và xã hội học, khái niệm văn hóa được đề cập đến theo một
nghĩa rộng nhất. Văn hóa bao gồm tất cả mọi thứ vốn là một bộ phận trong đời sống
con người. Văn hóa không chỉ là những gì liên quan đến tinh thần mà bao gồm cả vật chất.
Văn hóa liên kết với sự tiến hóa sinh học của loài người và nó là sản phẩm của
người thông minh (Homo sapiens). Trong quá trình phát triển, tác động sinh học hay
bản năng dần dần giảm bớt khi loài người đạt được trí thông minh để định dạng môi
trường tự nhiên cho chính mình. Đến lúc này, bản tính con người không không còn
mang tính bản năng mà là văn hóa. Khả năng sáng tạo của con người trong việc định
hình thế giới hơn hẳn bất kỳ loài động vật nào khác và chỉ có con người dựa vào văn
hóa hơn là bản năng để đảm bảo cho sự sống còn của chủng loài mình. Con người có
khả năng hình thành văn hóa và với tư cách là thành viên của một xã hội, con người
tiếp thu văn hóa, bảo tồn nó đồng thời truyền đạt nó từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Việc cùng có chung một văn hóa giúp xác định nhóm người hay xã hội mà các cá thể là thành viên.
Văn hóa là bao gồm tất cả những sản phẩm của con người, và như vậy, văn
hóa bao gồm cả hai khía cạnh: khía cạnh phi vật chất của xã hội như ngôn ngữ, tư
tưởng, giá trị và các khía cạnh vật chất như nhà cửa, quần áo, các phương tiện…
Cả hai khía cạnh cần thiết để làm ra sản phẩm và đó là một phần của văn hóa.
I.2. Tộc người
Tộc người là một cộng đồng người hình thành và phát triển trong lịch sử, trên một
lãnh thổ nhất định, có đặc trưng chung ổn định về ngôn ngữ, đặc điểm sinh hoạt văn hoá
văn hóa, có mối quan hệ nguồn gốc, có chung ý thức tự giác tộc người và tên tự gọi.
Theo nghĩa hẹp, tộc người có thể được hiểu là một cộng người có chung tiếng mẹ
đẻ. Như vậy, tộc người tương đương với nhóm ngôn ngữ hay với nhóm dân tộc – ngôn
ngữ mà các nhà ngôn ngữ học gọi là nhóm nói tiếng mẹ đẻ. Theo nghĩa này, tộc người
là dùng để chỉ những tập hợp người khá thuần nhất, sống cạnh nhau và có chung các 5
đặc điểm về văn hoá mà trong đó yếu tố biểu hiện rõ nhất là việc sử dụng một ngôn ngữ.
Theo nghĩa rộng, tộc người được hiểu là một cộng đồng người liên kết với nhau
bởi một phức hợp các tính chất chung về các mặt nhân chủng, ngôn ngữ, chính trị…
Sự kết hợp các tính chất đó tạo thành một hệ thống riêng, một cấu trúc mang tính văn
hoá chủ yếu – một nền văn hoá riêng biệt. Nói một cách ngắn gọn, tộc người là một
tập thể hay đúng hơn, là một cộng đồng người, được gắn bó với nhau bởi một nền văn
hoá riêng biệt. Theo nghĩa này, các yếu tố trong hệ thống tộc người có thể phát triển
không đồng đều ở mỗi thành viên, hay sự vắng mặt của một trong số các yếu tố ở một
thành viên cũng không làm cho họ tách khỏi nhóm tộc người của mình. I.3.
Văn hóa tộc người và đặc điểm của văn hóa tộc người
- Tính khép kín, biệt lập
- Quản lý làng bằng cơ chế kết hợp giữa mệnh lệnh hành chính của chính quyền
với tập quán pháp và hương ước của tộc
- Quan hệ dòng họ, quan hệ huyết thống nổi trội và nhiều khi chi phối quan hệ láng giềng
- Thiếu tính ổn định I.4.
Du lịch cộng đồng
Du lịch cộng đồng là loại hình du lịch được phát triển trên cơ sở các giá trị văn
hóa của cộng đồng, do cộng đồng dân cư quản lý, tổ chức khai thác và hưởng lợi.
Du lịch cộng đồng thường được hiểu là hoạt động của một cộng đồng dân cư tham
gia làm du lịch, hay nói cách khác đây là loại hình du lịch trong đó cộng đồng địa phương
tham gia vào chuỗi cung ứng và quản lý du lịch. Loại hình này được phát triển trên cơ
sở văn hóa của cộng đồng, do cộng đồng dân cư quản lý, tổ chức khai thác và hưởng lợi. II.
Khái quát khu vực Đông Bắc Bộ
II.1. Vị trí địa lý
Vùng Đông Bắc (hay Tiểu vùng Đông Bắc mở rộng) bao gồm 10 tỉnh Bắc Kạn,
Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Bắc Giang và Quảng Ninh.
Đông Bắc Bộ là vùng lãnh thổ ở phía đông bắc Bắc Bộ và ở hướng bắc vùng
đồng bằng sông Hồng, Việt Nam. Gọi là đông bắc để phân biệt với vùng tây bắc, còn
thực chất nó ở vào phía bắc và đông bắc của Hà Nội, rộng hơn vùng Việt Bắc. Vùng
đông bắc là một trong 3 tiểu vùng địa lý tự nhiên của Bắc Bộ Việt Nam (2 tiểu vùng
kia là Tây Bắc Bộ và Đồng bằng sông Hồng). 6
Vùng đông bắc được giới hạn về phía bắc và đông bởi đường biên giới Việt Trung
phía Tây được giới hạn bởi thung lũng sông Hồng và thượng nguồn sông Chảy, cao hơn,
được cấu tạo bởi đá granit, đá phiến và các cao nguyên đá vôi.
Vùng biển đông bắc có nhiều đảo lớn nhỏ, chiếm gần 2/3 số lượng đảo biển của
Việt Nam (kể cả quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa).
II.2. Đặc điểm địa hình
Đây là vùng núi và trung du với nhiều khối núi và dãy núi đá vôi hoặc núi đất.
Phần phía tây, được giới hạn bởi thung lũng sông Hồng và thượng nguồn sông Chảy,
cao hơn, được cấu tạo bởi đá granit, đá phiến và các cao nguyên đá vôi. Thực chất, đây
là rìa của cao nguyên Vân Nam. Những đỉnh núi cao của vùng đông bắc đều tập trung
ở đây, như Tây Côn Lĩnh, Kiêu Liêu Ti.
Phần phía bắc sát biên giới Việt-Trung là các cao nguyên (sơn nguyên) lần lượt
từ tây sang đông gồm: cao nguyên Bắc Hà, cao nguyên Quản Bạ, cao nguyên Đồng
Văn. Hai cao nguyên đầu có độ cao trung bình từ 1000–1200m. Cao nguyên Đồng
Văn cao 1600 m. Sông suối chảy qua cao nguyên tạo ra một số hẻm núi dài và sâu.
Cũng có một số đồng bằng nhỏ hẹp, đó là Thất Khê, Lạng Sơn, Lộc Bình, Cao Bằng.
Phía đông, từ trung lưu sông Gâm trở ra biển, thấp hơn có nhiều dãy núi hình
vòng cung quay lưng về hướng Đông lần lượt từ Đông sang Tây là vòng cung Sông
Gâm, Ngân Sơn-Yên Lạc, Bắc Sơn, Đông Triều. Núi mọc cả trên biển, tạo thành cảnh
quan Hạ Long nổi tiếng. Các dãy núi vòng cung này hầu như đều trụm đuôi lại ở Tam Đảo.
Phía tây nam, từ Phú Thọ, nam Tuyên Quang, nam Yên Bái, và Thái Nguyên
sang Bắc Giang thấp dần về phía đồng bằng. Người ta quen gọi phần này là "vùng
trung du". Độ cao của phần này chừng 100–150 m, đặc trưng của vùng Trung du là có
vùng Đồng Bằng khá rộng bị chia cắt bởi gò đồi.
Vùng đông bắc có nhiều sông chảy qua, trong đó các sông lớn là sông Hồng, sông
Chảy, sông Lô, sông Gâm (thuộc hệ thống sông Hồng), sông Cầu, sông Thương, sông
Lục Nam (thuộc hệ thống sông Thái Bình), sông Bằng, sông Bắc Giang, sông Kỳ Cùng,… II.3. Khí hậu
Nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa ẩm nhưng vì địa hình cao, lại có nhiều
dãy núi hình cánh cung mở ra ở phía bắc, chụm đầu về Tam Đảo, vào mùa Đông có
gió Bắc thổi mạnh, rất lạnh, còn mùa hè mát mẻ, do đó vùng này có khí hậu cận nhiệt
ẩm. Vùng núi ở Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn có thể có lúc nhiệt độ xuống
dưới 0°C và có băng giá, đôi khi có tuyết rơi. Các vùng ở đuôi các dãy núi cánh cung
cũng rất lạnh do gió mùa. 7
II.4. Tiềm năng du lịch - Về tự nhiên
Đông Bắc là một quần thể núi non hùng vĩ, địa hình hiểm trở với các dạng địa
hình đan xen nhau khá phong phú.
Địa hình có đặc điểm bị chia cắt rất mạnh và có tính phân bậc với nhiều đèo cao,
vực thẳm kết hợp với các thung lũng mở rộng và thác nước tạo nên nhiều điểm cảnh
quan đẹp….Bên cạnh đó là các thửa ruộng bậc thang, núi đá như những bức tranh
tuyệt tác vừa hùng vĩ vừa thơ mộng của thiên nhiên. Đây là điều kiện lý tưởng để phát
triển các khu, điểm du lịch.
Hệ thống các núi, đồi, sông, hồ, hang động, đặc điểm khí hậu, các khu bảo tồn,
suối nước nóng…đặc biệt là hệ sinh thái, các điểm cảnh quan đều được thiên nhiên
ban tặng cho Tiểu vùng những giá trị cao phục vụ du lịch. Trong đó điển hình có thác
Bản Giốc (Cao Bằng), Thác Đăng Mò (Lạng Sơn), Công viên địa chất toàn cầu cao
nguyên đá Đồng Văn (Hà Giang), hồ Ba bể (Bắc Kạn); đặc biệt vịnh Hạ Long (Quảng
Ninh) trên địa bàn Tiểu vùng là Di sản thiên nhiên thế giới được UNESCO công nhận
và là một trong bảy kỳ quan thế giới mới có sức hấp dẫn đặc biệt đối với khách du lịch.
Bên cạnh đó, Tiểu vùng có đường biên giới quốc gia dài gần 800 km và hệ thống cửa
khẩu đường bộ với Trung Quốc là tiềm năng phát triển du lịch biên giới. - Về nhân văn
Tiểu vùng có nguồn tài nguyên du lịch nhân văn gắn liền với Bản sắc văn hóa
của các dân tộc vùng núi Đông Bắc được thể hiện qua các lễ hội, làng nghề, văn hóa
dân gian, di tích lịch sử văn hóa; Hệ thống di tích lịch sử cách mạng gắn với Bác Hồ,
Đảng và Cách mạng Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp. Vùng
núi Đông Bắc là nơi sinh sống của nhiều dân tộc thiểu số như Tày, Nùng, Mông, Dao,
Sán Dìu, Lô Lô, Bố Y, Phù Lá, La Chí, Pu Péo, Cờ Lao….trong cộng đồng 54 dân tộc
Việt Nam với các nhóm ngôn ngữ khác nhau: Tày – Thái, Mông – Dao, Việt – Mường,
Hoa, Tạng – Miến….Các dân tộc ở Đông Bắc, dù đông người hay ít người vẫn giữ
được những nét văn hóa truyền thống độc đáo của mình. Mỗi dân tộc đều có di sản văn
hóa riêng, làm nên tính độc đáo, đặc sắc của vùng đất. Không những thế, có một số
dân tộc (như La Chí, Pu Péo, Cờ Lao ở Hà Giang) được coi là có duy nhất với những
sắc thái riêng biệt. Chính sự tồn tại của đông đảo cộng đồng các dân tộc đã tạo nên cho
Tiểu vùng một diện mạo văn hóa vừa độc đáo vừa phong phú là nguồn tài nguyên du
lịch quan trọng thể hiện qua nhiều hình thức văn hóa khác nhau như hội Lồng Tồng
(Tày, Nùng), Gầu tào (Mông), Cấp sắc (Dao), Nhảy lửa (Pà Thẻn); Hát then, sli lượn;
đặc sản, ẩm thực; kiến trúc nghệ thuật… 8
Việt Bắc là quê hương của cách mạng Việt Nam, mỗi tấc đất ở Việt Bắc đều gắn
với sự nghiệp cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và cách mạng Việt Nam như Khu
lưu niệm chủ tịch Hồ Chí Minh, Di tích lịch sử đường 4 (Lạng Sơn) Hang Pắc Bó (Cao
Bằng), ATK Tân Trào (Tuyên Quang), ATK Định Hóa (Thái Nguyên)…trở thành
những điểm đến hấp dẫn đối với khách du lịch về nguồn, giáo dục, tâm linh.
III. Các đặc trưng của tộc người Việt
III.1. Người Việt – tộc người chủ thể của các tộc người ở Việt Nam
Người Việt hay người Kinh, là một dân tộc hình thành tại khu vực địa lý mà ngày
nay là miền Bắc Việt Nam và miền nam Trung Quốc. Đây là dân tộc chính, chiếm khoảng
86,2% dân số cả nước và được gọi chính thức là dân tộc Kinh để phân biệt với những
dân tộc thiểu số tại Việt Nam. Ngôn ngữ chính của người Việt là tiếng Việt – thuộc ngữ
hệ Nam Á . Người Việt sinh sống trên khắp đất nước Việt Nam và một số nước khác.
Cộng đồng người Việt hải ngoại đông nhất định cư ở Hoa Kỳ.
Trong 54 dân tộc, người Việt là một tộc người đa số, tộc người chủ thể. Điều này thể hiện cả 2 mặt:
Về dân số, người Việt chiếm khoảng 86% dân số, trong khi 53 dân tộc khác chỉ chiếm 14%.
Về địa bàn cư trú: Người Việt là tộc người duy nhất cư trú thành các cộng đồng
đông đúc ở tại tất cả các tỉnh, trên tất cả các dạng địa hình, địa bàn (đồng bằng, trung
du, miền núi, ven biển, hải đảo), song tập trung nhiều nhất ở đồng bằng. Người Việt còn
chiếm lĩnh các thành phố, thị xã, thị trấn, các trục đường giao thông lớn trong cả nước.
Người Việt nắm giữ các ngành kinh tế then chốt, tạo ra nguồn lực kinh tế lớn nhất cho cả nước.
Bên cạnh đó Người Việt cũng chiếm số đông và nắm giữ các vị trí then chốt
trong hệ thống chính trị các cấp.
Ngôn ngữ người Việt là quốc ngữ, văn hóa Việt là yếu tố nổi trội trong văn hóa
Việt Nam: 8/11 di sản văn hóa thế giới của Việt Nam là của người Việt.
Người Việt nắm giữ hệ thống giáo dục và tổ chức nền giáo dục quốc gia, có số
lượng cán bộ khoa học lớn nhất nước.
Suốt trong tiến trình lịch sử dài của đất nước, người Việt luôn giữ vai trò chủ đạo:
là tộc người lập nước, tổ chức các cuộc khởi nghĩa, kháng chiến chống giặc ngoại xâm,
giành và bảo vệ chủ quyền đất nước.
Sự tồn tại và phát triển của người Việt có ảnh hưởng tới các dân tộc khác, đến sự hưng vong của quốc gia.
III.2. Tộc danh và nguồn gốc 9
- Tộc danh của người Việt
Từ xưa đến nay, tộc danh “ kinh” được quen dùng trong các văn bản chính trị,
hành chính và giao tiếp hàng ngày. Tuy nhiên trên thực tế,”Việt” mới tộc dân chính
thức. Tộc danh Kinh được giải thích bằng các ý kiến khác nhau:
Kinh là con cháu của Kinh Dương Vương. Kinh là người sống dọc các con kênh,
dòng sông. Thực tế, chỉ một bộ phận người Việt gắn bó với các dòng sông, các kênh
rạch, còn phần lớn đều sống xa sông, kênh rạch. Kinh là Kinh Đô, Kinh Kỳ, do các tộc
người thiểu số gọi các quan lại miền xuôi được cử lên miền núi nhậm trị, hoặc người
miền xuôi lên buôn bán (từ thời Lý). Cũng có ý kiến cho rằng, ”Kinh” là do người Hán
gọi, chỉ nhóm cư dân ở kinh đô đã qua giáo hóa.
- Nguồn gốc của người Việt
Theo truyền thuyết, vào thiên niên kỷ 3 trước Công nguyên, Lục Tục là con vua
Viên Đế thần nông được cử làm Kinh Dương Vương đi cai trị phương Nam. Kinh
Dương Vương sinh con là Sùng Lãm (còn gọi là Lạc Long Quân). Lạc Long Quân lấy
bà Âu Cơ là tổ tiên của người Việt phương Nam. Hai người sinh ra 100 người con, con
trưởng là Hùng Vương làm vua nước Văn Lang. Theo truyền thuyết này thì người Việt
có nguồn gốc từ Trung Quốc.
Tuy nhiên, các tư liệu sử học và dân tộc học cho phép khẳng định, tổ tiên của
người Việt chính là nhóm Lạc Việt nằm trong khối Bách Việt (gồm nhiều tộc Việt) cư
trú trên một vùng rộng lớn ở Bắc Việt Nam và Nam Trung Quốc từ rất xa xưa. Về
mặt nhân chủng, người Lạc Việt là nhóm trung gian giữa hai đại chủng Mông-gôlô-ít và Ô xtra-lô-ít.
Tư liệu khảo cổ học cho biết thêm, trên vùng lãng thổ Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ
hiện nay, cách đây khoảng 3500 – 4000 năm, nhóm Lạc Việt đã trực tiếp tạo ra những
nền văn hóa có tính liên tục, từ Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun và phát triển thành
văn hóa Đông Sơn rực rỡ. Quá trình tạo lập các nền văn hóa này cũng là quá trình
người Việt chuẩn bị các điều kiện để tiến tới thành lập nhà nước đầu tiên: nhà nước
Văn Lang (khoảng thế kỷ thứ VII tr.CN), trải qua nhiều đời vua (vua Hùng). Đây là
nhà nước sơ khai. Vua Hùng được xem là thủ lĩnh của một vùng rộng lớn. Khái niệm
“Hùng Vương “ là một khái niệm Hán mới xuất hiện vào thế kỷ XV.
Sau đó vào năm 257 tr.CN, Thục Phán một thủ lĩnh thuộc nhóm Âu Việt tiếp tục
sự nghiệp của các vua Hùng, lập ra nhà nước Âu Lạc đóng đô ở Cổ Loa.
Như vậy cần khẳng định, người Việt là tộc người bản địa cưu trú rất lâu đời trên
đất nước Việt Nam không phải từ lãnh thổ bên ngoài chuyển tới. III.3. Đặc điểm kinh
tế a. Nông nghiệp:
10
Người Việt sớm chọn nông nghiệp làm cơ sở kinh tế chính, trong đó trồng trọt
ruộng nước là chủ đạo, được bổ sung bằng một số hoa màu. Nền nông nghiệp của
người Việt có các đặc điểm nổi bật:
+ Duy trì trên cơ sở lịch mặt trăng (lịch can chi) và được thực hiện trong điều kiện
khí hậu nhiệt đới gió mùa, coi trọng yếu tố thời vụ
+ Đạt tới trình độ thâm canh cao so với các tộc người làm ruộng nước khác, trong
đó coi trọng các khâu canh tác cơ bản : nước – phân – cần – giống, đồng thời
yếu tố thời vụ cũng rất quan trọng.
+ Nhiều công đoạn sản xuất: làm đất (cày, cấy, chăm sóc…) ; gieo mạ, chăm sóc,
thu hoạch … Tất cả đều diễn ra trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt.
+ Trong những thập kỷ gần đây, nông nghiệp của người Việt đã có những đột
biến, năng suất tăng cao, xuất khẩu lúa gạo đứng hàng nhất, nhì trên thế giới.
b. Thủ công nghiệp
Thủ công nghiệp của người Việt khá phát triển với nhiều nghề: chế biến lương
thực – thực phẩm, diệt may mặc, gốm, đan lát, thêu…Tạo ra một lượng sản phẩm lớn
đáp ứng được yêu cầu cho cuộc sống của các tầng lớp xã hội, hình thành nhiều làng
thủ công chuyên nghiệp (làng nghề) như: gốm Bát Tràng, dệt lụa Vạn Phúc, làm nón
làng Chuông... Tuy nhiên thủ công nghiệp vẫn chỉ là bộ phận gắn chặt với nông nghiệp.
c. Thương nghiệp
Thương nghiệp truyền thống của người Việt nhìn chung không phát triển, trước
hết do ảnh hưởng của tư tưởng Nho Giáo: trọng nông ức thương. Trong nông nghiệp
chủ yếu là nội thương, thông qua hệ thống chợ quê. Số người buôn bán ở thành phố
không nhiều. Trong vùng 5 – 10 làng mới có một cái chợ, chợ luân phiên họp, tạo
thành vòng khép kín để ngày nào cũng có chợ. Phụ nữ buôn bán lúc nông nhàn để kiếm thêm thu nhập.
Do kỹ thuật vượt biển kém (không có tàu thuyền lớn sử dụng động lực) , do yêu
cầu bảo vệ an ninh đường biển và biên giới đất liền, nhà nước độc quyền buôn bán với
nước ngoài, người dân không có quyền ra nước ngoài tự do buôn bán. d. Chăn nuôi
Người Việt chăn nuôi theo hình thức chăn thả tự do , tùy thuộc vào từng vùng khác
nhau mà người Việt chăn nuôi theo hình thức khác nhau. Khác với người Hoa chăn nuôi
theo hình thức du canh du cư, người Việt ta chăn nuôi theo hình thức định cư định canh,
cho nên vật nuôi phong phú đa dạng. Người Việt có quan niệm “ Con trâu là đầu cơ
nghiệp” cho nên việc gia súc lớn cũng là một phần quan trọng của ngành chăn nuôi. 11
Tóm lại kinh tế truyền thống của người Việt vẫn ở trình độ thấp, chủ yếu dựa vào
nông nghiệp, công nghiệp phát triển chưa đa dạng vẫn còn mang tính lệ thuộc. Người
Việt sáng tạo ra vô vàn nghề thủ công truyền thống và nhiều mặt hàng phục vụ cho như
cầu đi lại ăn mặc ở...
III.4. Đặc điểm văn hóa – xã hội
Văn hóa vật thể: a. Ăn, ở, mặc
Truyền thống ẩm thực của người Việt thể hiện ở các đồ ăn , thức uống, phong
cách ăn uống phù hợp với điều kiện tự nhiên, lịch sử, xã hội của từng vùng miền.
Văn hóa ẩm thực là nét văn hóa tự nhiên hình thành trong cuộc sống. Đối với
người Việt, ẩm thực không chỉ là nét văn hóa về vật chất mà còn là văn hóa về tinh
thần. Qua ẩm thực người ta có thể hiểu được nét văn hóa thể hiện phẩm giá con người,
trình độ văn hóa của dân tộc với những đạo lý, phép tắc, phong tục trong cách ăn uống.
Từ ăn uống bao gồm hai động tác là ăn và uống. Người Việt đều hiểu ăn uống theo
một cách chung như là cách sống.
Văn hóa ẩm thực của người Việt có những nét đặc trưng như: tính hòa đồng, đa
dạng, ít mỡ; đậm đà hương vị với sự kết hợp nhiều loại gia vị làm tăng sức hấp dẫn
trong các món ăn. Việc ăn thành mâm, sử dụng đũa và đặc biệt trong bữa ăn không thể
thiếu cơm là tập quán chung của tất cả các dân tộc sinh sống trên đất Việt.
Văn hóa tinh thần của người Việt trong ẩm thực chính là sự thể hiện nét đẹp trong
văn hóa giao tiếp, là sự cư xử giữa người với người trong bữa ăn, làm vui lòng nhau
qua thái độ ứng xử lịch lãm. Việc ăn uống đều có những phép tắc, lề lối riêng của từng
người, của từng gia đình, của từng cộng đồng dân cư và của cả xã hội.
Trong gia đình: Ăn chung mâm, ưu tiên thức ăn ngon cho người lớn tuổi, trẻ nhỏ
"kính trên nhường dưới", thể hiện sự kính trọng, tình cảm yêu thương. Bữa cơm hàng
ngày được xem là cơ hội sum họp gia đình, mọi người quây quần bên nhau vui vầy sau một ngày làm việc.
Ngoài xã hội: Việc mời khách đến nhà thể hiện nét văn hóa giữa người với người
trong xã hội. Khi có dịp tổ chức ăn uống, gia chủ thường làm những món ăn thật ngon,
nấu thật nhiều để đãi khách. Chủ nhà thường gắp thức ăn mời khách, tránh việc dừng
đũa trước khách, và có lời mời ăn thêm khi khách dùng bữa. Bữa cơm không chỉ đơn
thuần là cuộc vui mà còn thể hiện tấm lòng hiếu khách đặc trưng của người Việt
Về mặc, nét độc đáo nhất của người Việt là bộ quần áo dài của nữ giới, tôn thêm
vẻ đẹp duyên dáng của người phụ nữ, ở miền Nam bộ quần áo bà ba gắn với chiếc khăn rằn ri. 12
Nói chung người Việt Nam dù ở Bắc, Trung hay Nam đều có cách mặc gần giống
nhau. Các loại quần áo như áo ngắn mặc với quần lá tọa ống rộng, quần có cạp hoặc
dùng dây rút. Thời xưa thì đàn ông để tóc dài, búi tó, hoặc thắt khăn đầu rìu,... Vào các
lễ hội đặc biệt thì mặc áo dài khăn đống, mùa áo đơn giản không có văn hoa. Chân thì đi guốc mộc.
Vào thời xưa thì phụ nữ người Kinh ai cũng mặc yếm. Váy thì váy dài với dây
thắt lưng. Các loại nón thông thường như thúng, ba tầm... Trong những ngày hội thì
người phụ nữ thường mặc áo dài. Các thiếu nữ thì hay làm búi tóc đuôi gà. Các đồ
trang sức truyền thống như trâm, vòng cổ, hoa tai, nhẫn, vòng tay mang phong cách
tùy theo từng vùng. Phụ nữ Nam Bộ thường mặc áo bà ba với các kiểu cổ như tròn,
trái tim, bà lai với các khăn trùm đầu. Nón lá có thể nói là nón được sử dụng rộng rãi
nhất cho phụ nữ thời xưa do nó có thể tự làm và che nắng rất tốt.
Về ở, nét nổi bật nhất là kết cấu làng và cửa được bố trí hài hòa với khung cảnh
thiên nhiên, các đặc điểm về đất, thế nước của từng vùng: trung du, miền núi, đồng
bằng, đồng chiêm, gò đồi.
Ðại bộ phận người Việt sinh sống thành từng làng, dăm ba làng họp lại thành một
xã. Nhiều xã cũng chỉ bao gồm một làng lớn và một số xóm độc lập mới tách ra từ
làng lớn. Trong làng thường có nhiều xóm, có xóm lớn tương đương với thôn và thôn
Bắc bộ gần tương tự như một ấp của Nam bộ Ðặc biệt, trong làng, sự phân chia dân
nội tịch và dân ngoại tịch (ngụ cư) được quy định rõ trong Hương khoán ước của làng.
Gia đình của người Việt hầu hết và những gia đình nhỏ gồm 2 thế hệ theo chế độ
phụ quyền nhưng phụ nữ vẫn giữ vai trò quan trọng, thường là người quản lý kinh tế trong gia đình.
Các làng đều có công trình thờ cúng (gắn liền điêu khắc của từng thời kỳ) gồm
đình chùa, đền miếu,…
b. Thiết kế nhà cửa
Nhà người Việt miền Bắc có nhiều kiểu, nhiều dạng khác nhau thể hiện ở kết cấu
bộ khung nhà, chủ yếu là ở các kiểu vì kèo, ở bình đồ (tổ hợp nhà ), ở tổ chức mặt
bằng sinh hoạt… Song kiểu nhà ba gian hai chái với vì kèo suốt – giá chiêng – sáu
hàng cột là tiêu biểu hơn cả. Cũng có thề là vì kẻ chuyền (một biến dạng gần của vì
kèo suốt). Tổ hợp hai nhà : nhà chính và nhà phụ kết hợp với nhau theo hình “thước
thợ “. Mặt bằng sinh hoạt : gian giữa đặt bàn thờ tổ tiên, phản gỗ (ghế ngựa) dành cho
chủ nhà và bàn ghế tiếp khách. Hai gian bên của gian giữa kê giường tủ giành cho các
thành viên nam trong nhà. Hai gian chái có vách (đố hoặc tường) ngăn với ba gian
giữa. Trong các gian này dành cho sinh hoạt của các thành viên nữ, đồng thời còn là
nơi để cất lương thực và các thứ lặt vặt khác. Ðó là ngôi nhà chính, còn nhà phụ : một 13
gian hai chái, vì kèo thường đơn giản (vì kèo cầu hoặc vì kèo – ba cột). nhà này
thường là nhà bếp kết hợp làm nơi để nông cụ, cối xay, cối giã, và chuồng trâu…
c. Các di tích thờ cúng: - Đình:
Thời điểm xuất hiện: chưa xác định rõ. Có thể xuất hiện vào khoảng thời vua Lê
thánh Tông (1470 -1497). Tuy nhiên các đình cổ nhất còn lại hiện nay đều là đình dựng vào thời Mạc.
Thế đất đình: thường là nơi đẹp, cao nhất làng, theo phong thủy là nơi có long
mạch (tả thanh long, hữu bạch hổ), tạo ra sự hài hòa âm dương. Hướng của đình tùy
thuộc vào thế đất dựng đình, song đa số là hướng Tây (hướng có nhiều nắng để chống
ẩm thấp cho đình), hướng Nam, Đông Nam tạo ra sự mát mẻ cho đình.
Kết cấu của đình: có kết cấu chữ nhất (một tòa nhà 3 gian hoặc 5 gian); kết cấu
chữ đinh (có đại đình và nối với hậu cung); kết cấu chữ nhị (gồm 2 tòa nhà song song);
kết cấu chư tam (gồm 3 tòa nhà song song); kết cấu chữ công (gồm thượng điện kết
nối với hậu cung bằng tòa nhà hình ống).
Đình là có chức năng quan trọng: Đình là nơi hội họp, trung tâm hành chính của
làng, nơi thờ thành hoàng làng, nơi tổ chức các sinh hoạt văn hóa – xã hội mang tính đẳng cấp của làng. -
Miếu: là một nhà thấp nhỏ, kiến trúc đơn giản, thường không có các
mảng điêu khắc, là nơi thờ thần, song có khi chỉ là nơi thờ những người, những
hiện tượng bình thường. -
Đền: có qui mô to, cao hơn miếu, kiến trúc phức tạp hơn, các mảng kiến
trúc rõ nét hơn, chức năng cũng giống miếu. -
Quán: vốn là kiến trúc của Đạo Giáo, về sau là nơi thờ thần. -
Am: vốn là ngôi nhà tranh để thờ Phật, sau này biến thành nơi thờ Thần. -
Chùa: là kiến trúc rất phổ biến ở Việt Nam
Chùa ở Việt Nam xuất hiện từ rất sớm, gắn với sự du nhập của đạo phật. Mỗi
chùa thường có 2 tên: tên thường (gắn với tên làng, hay chỉ một đặc điểm nào đó như
chùa làng cót, chùa trên, chùa dưới, chùa đồng…). Tên chữ gắn với tự như: phúc lâm tự, tháp bảo tự,…
Cấu của chùa cũng tương tự như cấu trú của đình.
Vị trí của chùa trong đời sống làng Việt:
Chùa là nơi sinh hoạt tín ngưỡng
Chùa phản ánh sự du nhập của đạo Phật vào Việt Nam
Kiến trúc điêu khắc chùa, điêu khắc tượng không chỉ có giái trị nghệ thuật mà
còn biểu hiện tư tưởng của các thời kỳ 14
Chùa phản ánh sự phát triển và cơ cấu tổ chức, phong tục, tập quán làng xã, phân
tầng xã hội, thể hiện qua tục đặt hậu, tục công đức ghi trong văn bia, chuông khánh.
Văn hóa phi vật thể a. Văn học:
Văn học của người Việt đã từng tồn tại từ rất lâu và được truyền miệng qua
truyển cổ, ca dao, tục ngữ... Nghệ thuật phong phú như ca hát, âm nhạc, điêu khắc, hội
họa, múa, diễn xướng... Hàng năm thì theo truyền thống các làng đều tổ chức hội làng
với các sinh hoạt cộng đồng. Khoảng sau Công Nguyên, người Kinh bị Bắc thuộc nên
đã dùng chữ Hán, nhưng về sau tự tạo thêm chữ viết riêng là chữ Nôm. Tuy nhiên chữ
Hán vẫn là ngôn ngữ chính thức được dùng trong hành chính và giáo dục. Từ khoảng
thế kỷ thứ 16 các giáo sĩ truyền giáo đến từ phương Tây thấy cần dùng chữ cái Latin
để ký âm tiếng Việt. Từ đó xuất hiện chữ Quốc Ngữ được sử dụng rộng rãi ngày nay.
Năm 1945, 95% dân số Việt Nam mù chữ nhưng đến năm 2010 tỷ lệ biết chữ ở người
lớn là 97,3%. Tuy nhiên tỷ lệ đọc sách của người Việt khá thấp ở mức 0,8 cuốn sách/người/năm.
b. Phong tục tập quán:
Các phong tục tập quán với những nét đặc trưng khác biệt và đặc sắc là một trong
những yếu tố quan trọng góp phần tạo nên sự độc đáo cho văn hóa dân tộc Kinh. Là
một dân tộc có truyền thống đoàn kết, gắn bó, cần cù, sáng tạo những giá trị đậm đà
bản sắc dân tộc và phát huy truyền thống lâu dài của cha ông, chính vì thế đây là dân
tộc vẫn còn lưu giữ và tiếp nối các phong tục tập quán của tổ tiên để lại. Người Kinh
có tập quán ăn trầu cau, uống nước chè, nước vối.
Trong các bữa ăn đời thường, họ sẽ ăn cơm tẻ, cơm nếp hoặc cháo, xôi và một
trong những món ăn độc đáo và làm nên sự khác biệt của dân tộc Kinh với các dân tộc
khác trên cả nước đó chính là món mắm tôm, trứng vịt lộn. Việc hút thuốc lá, thuốc lào
có lẽ sau thế kỷ 16, sau khi cây thuốc lá nhập vào Việt Nam từ châu Mỹ. Ngoài các giá
trị vật chất, người Việt còn có những giá trị tâm linh như việc thờ cúng tổ tiên, giỗ và
các lễ hội như Tết. Các tôn giáo phổ biến như Phật giáo, Công giáo Rôma, đạo Cao Đài...
Người Việt có rất nhiều dòng họ, có những họ rất phổ biến như Nguyễn, Trần,
Lê, Phạm, Vũ… dường như địa phương nào cũng có. Mỗi tộc họ, thường có nhà thờ tổ
riêng, họ lại chia ra làm nhiều chi phái và mỗi chi phái lại bao gồm nhiều nhánh. Mỗi
nhánh lại bao gồm các anh em cùng bố mẹ, ông bà. Quan hệ họ nội được truyền giữ
bền chắc qua nhiều đời. Anh em họ hàng (kể cả họ nội và họ ngoại đều yêu thương giúp đỡ lẫn nhau). c. Lễ tết: 15 * Tết Nguyên Đán
Tết Nguyên Đán Việt Nam từ buổi "khai thiên lập địa" đã tiềm tàng những giá trị
nhân văn thể hiện mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên, vũ trụ. Tết còn là dịp
để mọi người Việt Nam tưởng nhớ, tri ân tổ tiên, nguồn cội; giao cảm nhân sinh trong
quan hệ đạo lý (ăn quả nhớ kẻ trồng cây) và tình nghĩa xóm làng... *Giao thừa
Dân tộc nào cũng coi phút giao thừa là thiêng liêng. Tục ta tin rằng mỗi năm có
một ông hành khiển coi việc nhân gian, hết năm thì thần nọ bàn giao công việc cho
thần kia, cho nên cúng tế để tiễn ông cũ và đón ông mới.
Lễ giao thừa được cúng ở ngoài trời là bởi vì các cụ xưa hình dung trong phút cựu
vương hành khiển bàn giao công việc cho tân vương luôn có quân đi, quân về đầy không
trung tấp nập, vội vã (nhưng mắt trần ta không nhìn thấy được), thậm chí có quan quân
còn chưa kịp ăn uống gì. Những phút ấy, các gia đình đưa xôi gà, bánh trái, hoa quả,
toàn đồ ăn nguội ra ngoài trời cúng, với lòng thành tiễn đưa người nhà trời đã cai quản
mình năm cũ và đón người nhà trời mới xuống làm nhiệm vụ cai quản hạ giới năm tới.
Vì việc bàn giao, tiếp quản công việc hết sức khẩn trương nên các vị không thể vào trong
nhà khề khà mâm bát mà chỉ có thể dừng vài giây ăn vội vàng hoặc mang theo, thậm chí
chỉ chứng kiến lòng thành của chủ nhà. * Lễ cúng Thổ Công
Sau khi cúng giao thừa xong, các gia chủ cũng khấn Thổ Công, tức là vị thần cai
quản trong nhà. Lễ vật cũng tương tự như lễ cúng giao thừa.
* Tết Thượng nguyên (Tết Nguyên tiêu)
Tết Thượng nguyên vào ngày rằm tháng giêng - ngày trăng tròn đầu tiên của
năm. Tết này phần lớn tổ chức tại chùa chiền, vì rằm tháng giêng còn là ngày vía của
Phật tổ. Ta có câu: "Lễ Phật quanh năm không bằng rằm tháng giêng". Tục ta tin rằng
ngày rằm tháng giêng, đức Phật giáng lâm tại các chùa để chứng độ lòng thành của các
tín đồ phật giáo. Trong dịp này chùa nào cũng đông người tới lễ bái. Sau khi đi chùa
mọi người về nhà họp mặt cúng gia tiên và ăn cỗ. * Tết Thanh minh
Là tiết thứ năm trong "nhị thập tứ khí" và đã được người phương Ðông coi là một
lễ tiết hàng năm. Tiết thanh minh đến sau ngày Lập Xuân 45 ngày. Theo nghĩa đen,
thanh là khí trong, còn minh là sáng sủa.
Cúng lễ trong ngày tết thanh minh: Tết thanh minh cũng là dịp để con cháu sửa lễ
cúng gia tiên sau khi viếng mộ về. Cũng có nhà sửa lễ mang ra mộ cúng, nhưng đó chỉ
là cúng riêng một ngôi mộ. Còn sau đó người ta vẫn cúng ở bàn thờ tổ tiên và khấn tất
cả gia tiên nội ngoại về phối hưởng. Người ta thường cúng mặn trong ngày thanh
minh, nghĩa là có làm cỗ, hoặc không làm cỗ thì cũng có đĩa xôi, con gà cùng với 16
hương hoa, trà rượu, vàng mã. Và đồng thời với việc cúng tổ tiên cũng có cúng Thổ Công như trong mọi dịp. * Tết Ðoan Ngọ
Tết Đoan Ngọ còn gọi là tết Ðoan Dương còn nhiều tục truyền đến nay. Sáng
sớm cho trẻ ăn hoa quả, rượu nếp, trứng luộc, bôi hồng hoàng vào thóp đầu, vào ngực,
vào rốn để giết sâu bọ. Người lớn thì giết sâu bọ bằng uống rượu hoặc ăn rượu nếp.
* Tết Trung nguyên (Rằm tháng bảy)
Rằm tháng bảy theo tín ngưỡng là ngày xá tội vong nhân, nghĩa là bao nhiêu tội
nhân ở dưới âm phủ ngày hôm đó đều được tha tội. Bởi vậy trên dương thế mọi gia
đình đều làm cỗ bàn, đốt vàng mã cúng gia tiên và đồng thời cúng những linh hồn bơ
vơ không được ai chăm sóc. Người ta cũng thả chim lên trời, thả cá xuống sông, để làm điều phúc đức.
* Tết Trung thu (Rằm tháng Tám)
Trung thu là giữa mùa thu, tết Trung Thu như tên gọi đến với chúng ta vào đúng
giữa mùa thu tức là vào rằm tháng tám âm lịch. Tết Trung Thu là tết của trẻ em. * Tết Táo quân
Tết Táo quân vào ngày 23 tháng chạp - người ta coi đây là ngày "vua bếp" lên
chầu trời để tâu lại việc bếp núc, làm ăn, cư xử của gia đình trong năm qua.
Bởi thế nên, trong ngày này, mọi gia đình người Việt Nam đều làm mâm cơm
đạm bạc tiễn đưa "ông Táo". Cứ phiên chợ 23 tháng chạp, mỗi gia đình thường mua 2
mũ ông Táo, 1 mũ bà Táo bằng giấy và 3 con cá chép làm "ngựa" (chuyện cá chép hoá
rồng) đế Táo quân lên chầu trời. Sau khi cúng trong bếp, mũ được đốt và cá chép được
mang ra thả ở ao, hồ, sông...
Ngày ông Táo về chầu trời được xem như ngày đầu tiên của Tết Nguyên đán. Sau
khi tiễn đưa ông Táo người ta bắt đầu dọn dẹp nhà cửa, lau chùi đồ cúng ông bà tổ
tiên, treo tranh, câu đối, và cắm hoa ở những nơi trang trọng để chuẩn bị đón tết. IV.
Phát triển du lịch cộng đồng gắn với giá trị văn hoá tộc người Việt IV.1. Trực trạng
Trên cơ sở phát huy những lợi thế về tài nguyên và vị trí về du lịch, vừa qua
Chính quyền các địa phương trên địa bàn Tiểu vùng đã có những định hướng và giải
pháp quản lý phát triển du lịch cho riêng mình.
Cùng với tiến trình phát triển của du lịch cả nước, du lịch các địa phương trong
Tiểu vùng phát triển với tốc độ tăng trưởng nhanh về mọi mặt và đã đạt được những
thành tựu đáng kể, có những đóng góp nhất định trong sự phát triển kinh tế – xã hội
của địa phương và đối với sự phát triển du lịch chung của cả nước. Du lịch các tỉnh 17
trong Tiểu vùng đang từng bước trở thành một trong những ngành kinh tế có vị trí
quan trọng trong cơ cấu kinh tế của địa phương.
Những kết quả đánh giá thông qua các chỉ tiêu về lượng khách, thu nhâp và việ
c ̣ làm đã khẳng định vai trò của ngành du lịch trong nền kinh tế quốc dân. Ngành du
lịch của các địa phương trong Tiểu vùng đã có đóng góp quan trọng vào tăng trưởng
kinh tế, xoá đói, giảm nghèo, đảm bảo an sinh xã hôi, bảo tồn và phát huy giá trị văn
hoá, ̣ bảo vê môi trường và giữ vững quốc phòng, an ninh.̣
Trên địa bàn Tiểu vùng đã hình thành những trung tâm du lịch và địa bàn du lịch
trọng điểm như Quảng Ninh (thuộc Duyên hải Đông Bắc), Phú Thọ (thuộc trung du),
Lạng Sơn (thuộc cửa ngõ Đông Bắc)…
Các sản phẩm du lịch gắn với loại hình du lịch sinh thái, nghiên cứu địa chất,
tham quan cảnh quan, về nguồn, cộng đồng trải nghiệm văn hóa bản địa… đang dần
khẳng định được giá trị và thương hiệu của riêng mình.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, thực trạng phát triển cho thấy du
lịch các địa phương trong Tiểu vùng phát triển vẫn còn nhiều hạn chế và bất cập; nhiều
khó khăn, trở ngại vẫn chưa có giải pháp thoả đáng; phát triển chưa có bước đột phá để
khẳng định thực sự là ngành kinh tế mũi nhọn; sản phẩm du lịch mờ nhạt, nghèo nàn
chưa tạo được sức hấp dẫn cho du khách; chưa xây dựng được tuyến du lịch hoàn
chỉnh mang tính đặc sắc, độc đáo. Chất lượng sản phẩm du lịch còn thấp, thiếu các
doanh nghiệp có thương hiệu; kết quả chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế của
địa phương và vẫn ẩn chứa nhiều rủi ro, thiếu bền vững. Tốc độ phát triển chung tuy
nhanh nhưng do điểm xuất phát thấp nên kết quả cuối cùng vẫn thấp. Ngoại trừ Quảng
Ninh, Phú Thọ, Lạng Sơn có tổng thu từ du lịch đạt ở mức cao (Quảng Ninh), khá
(Phú Thọ), trung bình (Lạng Sơn) so với mặt bằng chung của cả nước, còn lại các tỉnh
vùng núi Đông Bắc đều đứng ở vị trí thấp.
Có thể nêu một số nguyên nhân cơ bản dẫn đến kết quả còn thấp trong phát triển du lịch như sau:
- Là khu vực miền núi nghèo, cơ sở hạ tầng còn nhiều bất cập, cơ sở vật chất kỹ
thuật du lịch còn thiếu, chất lượng thấp.
- Ảnh hưởng của tính thời vụ đối với du lịch cao.
- Ảnh hưởng của các yếu tố khách quan như thời tiết, dịch bệnh, trong đó đặc
biệt là sự bất lợi về thời tiết.
- Nhận thức trong cấp ủy, chính quyền, quần chúng một số địa phương chưa đầy
đủ về vai trò, ý nghĩa, vị trí của du lịch trong nền kinh tế; chưa ý thức được
tiềm năng để phát huy có hiệu quả kinh tế du lịch… 18
- Hiệu lực quản lý nhà nước về du lịch chưa cao. Sự phối hợp giữa các ngành để
phát triển du lịch còn yếu; thiếu liên kết chặt chẽ giữa các ngành sản xuất nông,
lâm nghiệp, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp trong sản xuất cung cấp các sản phẩm phục vụ du lịch.
Môi trường đầu tư chưa thực sự hấp dẫn để thu hút được các doanh nghiệp
trong tỉnh có nguồn vốn lớn đầu tư phát triển du lịch.
- Bố trí nguồn lực đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng các khu du lịch không tương
ứng, không tạo được sức hấp dẫn thu hút đầu tư. Các dự án du lịch triển khai
chậm, không tạo được cơ sở vật chất kỹ thuật và sản phẩm du lịch cần thiết để
thu hút khách tạo động lực cho phát triển du lịch.
- Thiếu các doanh nhân giỏi và đội ngũ lao động có tay nghề, tính chuyên nghiệp
cao trong hoạt động du lịch.
- Công tác tuyên truyền, quảng bá, xúc tiến du lịch hiệu quả thấp, nội dung còn
chung chung, thiếu tính chuyên nghiệp; chưa gắn với các khu, điểm và sản
phẩm du lịch để thu hút các doanh nghiệp lữ hành lớn trong nước và quốc tế.
Các doanh nghiệp du lịch của tỉnh chưa tích cực tham gia vào công tác xúc tiến du lịch.
- Phát triển du lịch còn ẩn chứa nhiều yếu tố thiếu bền vững (kinh doanh mang
tính chộp giật, cạnh tranh thiếu lành mạnh…). IV.2. Giải pháp
Về quan điểm phát triển
Cần tập trung phát triển các sản phẩm du lịch dựa trên các giá trị nổi bật của tài
nguyên du lịch để tạo nên sự khác biệt nét đặc trưng về sản phẩm du lịch, tăng cường
thu hút khách cho Tiểu vùng nói riêng và toàn vùng nói chung.
Phát triển du lịch có chiều sâu, theo hướng nâng cao chất lượng và tính chuyên nghiệp
để bảo đảm sản phẩm du lịch ngày càng khẳng định thương hiệu và tính cạnh tranh cao.
Phát triển nhanh để hòa nhập với phát triển du lịch khu vực và cả nước.
Về mục tiêu phát triển
Phải đặt ra mục tiêu phấn đấu để đến năm 2020, du lịch các tỉnh Tiểu vùng Đông
Bắc nói riêng và vùng Trung du miền núi Bắc Bộ nói chung có hệ thống sản phẩm du
lịch chất lượng cao, đa dạng, có thương hiêu, có sức cạnh tranh; mang đậm bản sắc ̣
văn hoá các dân tộc thiểu số vùng Đông Bắc Việt Nam, hấp dẫn khách du lịch góp
phần bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa các dân tộc vùng núi cao. 19
Về phát triển loại hình và sản phẩm
a. Tập trung phát triển loại hình du lịch đặc trưng nhất để phát huy thế mạnh về tài
nguyên du lịch của Tiểu vùng, cụ thể: - Về tự nhiên:
+ Đẩy mạnh phát triển du lịch sinh thái, khám phá thiên nhiên gắn với hang động,
núi cao và vùng trung du, gắn với các điểm cảnh quan.
+ Phát triển loại hình du lịch sinh thái biển, tham quan cảnh quan vịnh, đảo; nghỉ
dưỡng biển ở phía Đông.
+ Phát triển du lịch địa chất gắn với khoa học và giáo dục ở khu vực phía Bắc.
+ Chú trọng gắn kết phát triển du lịch sinh thái núi và trung du ở phía Tây, phía
Bắc với du lịch biển thuộc phía Đông.
- Về văn hóa-lịch sử: Khai thác đặc điểm nổi trội của nguồn tài nguyên văn hóa –
lịch sử nhằm đẩy mạnh phát triển thị trường khách du lịch văn hóa, về nguồn, lễ hội
tâm linh với những dòng sản phẩm sau :
+ Du lịch tham quan nghiên cứu, tìm hiểu: Tập trung khai thác dựa trên quần thể
di tích lịch sử – văn hóa và bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Bắc. Đây là sản
phẩm du lịch nổi trội và là thế mạnh của du lịch Tiểu vùng. Cần tạo ra nhiều chương
trình tham quan, nghiên cứu đa dạng kết hợp với nghỉ dưỡng phục vụ du khách. Phát
triển các bản văn hóa Việt Bắc gắn với làng nghề truyền thống, văn hóa ẩm thực… Du
lịch về nguồn, tâm linh: Chủ yếu khai thác hệ thống di tích lịch sử cách mạng về với
Thủ đô kháng chiến, thủ đô cách mạng Việt Nam.
+ Du lịch cộng đồng, trải nghiệm văn hóa bản địa: Tại các bản văn hóa dân tộc
thiểu số vùng núi, các làng chài ven biển.
+ Ngoài ra, để phát huy thế mạnh vị trí “địa đầu” với hệ thống cửa khẩu và khu
kinh tế cửa khẩu biên giới Tiểu vùng cũng cần phát triển mạnh du lịch biên giới gắn
với thương mại cửa khẩu, công vụ…
Về tổ chức không gian lãnh thổ
Tập trung ưu tiên phát triển các khu, điểm du lịch quốc gia và địa phương quan
trọng theo hướng của Chiến lược và Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam
đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 đã định ra trên địa bàn vùng để làm động lực
phát triển các khu, điểm du lịch khác trên bình diện tổng thể.
Dựa trên sự phân bố và các điểm tài nguyên du lịch có thể hình thành tuyến du
lịch theo chuyên đề về sinh thái, văn hóa để trải nghiệm, khám phá các đặc điểm tự
nhiên như núi cao, hang động, các đặc trưng văn hóa vùng núi Đông Bắc Việt Nam.
Chú trọng phát triển tuyến du lịch đường bộ dọc biên giới. 20