/30
lOMoARcPSD| 61265515
CHƯƠNG 2: ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN
d, KH CN phát triển tác động đến các lĩnh vực KTXH e,
Vai trò của KH – CN đối với tăng trưởng phát triển kinh tế
PHẦN 1: Đầu tư tác động tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế
1. Tác động của đầu tư tới chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
2. Tác động của đầu tư tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng lãnh thổ
3. Tác động của đầu tư tới chuyển dịch cơ cấu theo thành phần kinh tế
Phần 4: Ảnh hưởng của đầu tư đến tăng trưởng kinh tế
1. Đầu tư đã đóng góp tích cực đến tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam
A. THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN THEO CÁC NỘI DUNG ĐẦU TƯ CỦA VIỆT NAM GIAI
ĐOẠN 2016 - 2021.
I. Đầu tư phát triển sản xuất
II. Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng - kỹ thuật
III. Đầu tư phát triển văn hóa, giáo dục, y tế và các dịch vụ xã hội
IV. Đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật
V. Đầu tư tác động đến Môi trường
B, HỆ SỐ ICOR + ĐẦU TƯ CÔNG
I. Nguồn vốn đầu tư trong nước
1. Nguồn vốn nhà nước:
2.1. Ngân sách nhà nước
2.2. Vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước
2.3. Vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhà nước
2. Nguồn vốn của doanh nghiệp tư nhân
3. Nguồn vốn tiết kiệm dân cư
II. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài 1. Nguồn vốn ODA
I. VAI TRÒ CỦA NGUỒN VỐN ODA ĐỐI VỚI CÁC QUỐC GIA ĐANG PHÁT TRIỂN
1. Nhu cầu của các nước đang và kém phát triển đối với nguồn vốn ODA
2. Lợi ích ODA mang lại cho các nước đang và kém phát triển
II. Sự thay đổi của nguồn vốn ODA từ năm 2016-2020
1. ODA ở Việt Nam kể từ khi Việt Nam trở thành nước có thu nhập trung bình (2010)
2. ODA trong phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế Việt Nam
- Mối quan hệ giữa đầu tư ODA và tăng trưởng GDP
2. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI
1. Tình hình thu hút đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 2021 tại Việt Nam
1.1. Tác động của FDI vào tăng trưởng kinh tế
1.2. Tác động của FDI vào chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
1.3. Tác động đến tiến bộ xã hội: phát triển và tạo việc làm cho nguồn nhân lực
1.4. Tác động đến phát triển khoa học – công nghệ
1.5. Tác động đến môi trường
2. Các chính sách, hướng đi, hành động cần có để thích ứng với xu hướng thế giới về FDI
2.1. Các biện pháp để thu hút nguồn vốn FDI
2.1.1. Các điều kiện cần chuẩn bị để phát triển môi trường đầu tư ở Việt Nam
2.1.2. Một số chính sách cụ thể để cải thiện môi trường đầu tư
2.2. Giảm thiểu các hạn chế do nguồn vốn FDI
CHƯƠNG 2: ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN
d, KH – CN phát triển tác động đến các lĩnh vực KT – XH
lOMoARcPSD| 61265515
- Công nghiệp, xd, giao thông: hoạt động khoa học - công nghệ đổi mới sáng tạo tiếp tục hỗ trợ
phát triển sản phẩm, ng hóa mang nhãn hiệu Việt Nam giá trị gia tăng nh cạnh tranh cao trên thị
trường; nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm; nâng cao tỷ lệ nội địa hóa, làm chủ công nghệ trong các
lĩnh vực cơ khí chế tạo, thiết bị điện, công nghiệp hỗ trợ...
- Trong lĩnh vực bảo vệ và chăm sóc sức khỏe cộng đồng: nhiều công nghkỹ thuật tiên tiến đã
được áp dụng trong chẩn đoán và điều trị, giúp nâng cao chất lượng dịch vụ khám, chữa bệnh, giảm chi phí
cho người dân hội. nước đang phát triển, nhưng Việt Nam đã nằm trong tốp 3 khu vực Đông
Nam Á 43 nước trên thế giới tự sản xuất được vắc-xin, rất thành công trong công tác phòng ngừa và thanh
toán các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm; làm chủ được các kỹ thuật công nghệ y học hiện đại ở trình độ
cao, như ghép tạng đa tạng,... Đặc biệt, trong đại dịch COVID-19, chúng ta đã kịp thời đặt hàng nghiên
cứu, phát triển kít xét nghiệm nhanh, hỗ trợ truy vết người tiếp xúc, thiết kế, sản xuất rô-bốt, máy thở, phác
đồ điều trị kháng thể đơn dòng để sản xuất thuốc đặc hiệu điều trị COVID-19, nghiên cứu đsản xuất
vắc-xin.
- quốc phòng và an ninh quốc gia: khoa học - công nghệ đã góp phần thiết kế, chế tạo mới và cải tiến
được nhiều loại vũ khí, trang thiết bị kỹ thuật công nghệ cao; xây dựng được các hệ thống giám sát và kiểm
soát an toàn, an ninh thông tin trên không gian mạng.
- Trong công nghiệp, hàng loạt kỹ thuật tiên tiến được áp dụng, tạo nhiều sản phẩm chất lượng cao :
hàngmay mặc, thuốc lá, đồ nhựa, cao su, đồ điện máy, điện tử… nhất là trong chế tạo máy móc, thiết bị phụ
tùng và đổi mới công nghệ, kinh doanh sản xuất ô tô, xe máy, nhằm giải quyết nguyên vật liệu, thiết bị thay
thế.
- Trong công nghiệp dầu khí: đội ngũ cán bộ khoa học trong nước, đã có khả năng tiếp thu và làm chủ
công nghệ mới. CN chế biến nông- lâm- hải sản cũng được đẩy mạnh một bước
- Trong lĩnh vực năng lượng: nhiều công trình, nghiên cứu KH&CN đã tập trung vào công tác quy
hoạch,sử dụng hợp các nguồn năng lượng. Đổi mới CN xây dựng các nhà máy thuỷ điện, nhiệt điện,
nghiên cứu các phương pháp giảm tổn thất năng lượng trong truyền tải điện và đổi mới CN. Hệ thống năng
lượng đã phát triển nhanh chóng : 80% địa bàn xã ở khu vực nông thôn, hơn 50% hộ gia đình đã có điện sử
dụng.
- Trong giao thông vận tải: KH&CN đã góp phần quan trọng vào việc nâng cấp phát triển mạng
lưới, đường bộ, đường sắt, đường thuỷ, đường sông… đã xây dựng một số công trình quan trọng bằng việc
áp dụng các CN mới : đóng tàu biển trọng tải 3.000 tấn, công trình hạ tầng cất cánh sân bay Tân Sơn Nhất,
thắng thầu nhiều công trình giao thông Lào, Campuchia… với việc áp dụng CN mới trong gia cố nền móng
và thi công mặt đường.
- Trong viễn thông: đã xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng thông tin hiện đại bằng việc áp dụng kỹ
thuật số, thông tin vệ tinh, cáp sợi quang… đủ mạnh để hoà nhập mạng thông tin quốc tế khu vực. Viễn
thông nước ta hiện được xếp vào một trong những nước có tốc độ phát triển nhanh nhất thế giới. Bên cạnh
mạng lưới hữu tuyến điện phát triển rộng khắp với các loại hình dịch vụ đa dạng, các hệ thống thông tin di
động, máy sóng ngắn, cực ngắn, cũng phát triển mạnh, được các tổ chức kinh tế, quan trong ngoài
nước sử dụng. Thị trường tin học nước ta những năm qua, tốc độ tăng trưởng trung bình hằng năm khoảng
40-50%. Hiện các quan Đảng, chính phủ đang sử dụng hàng vạn chiếc máy vi tính, trong đó lưu giữ nhiều
thông tin, số liệu mật quan trọng. Liên quan đến kinh tế, quốc phòng và an ninh quốc gia. Trên đà ấy, việc
sử dụng máy vi tính nước ta bắt đầu chuyển từ giai đoạn sử dụng riêng lẻ, sang hình thức sử dụng mạng
cục bộ và mạng diện rộng.
- Trong y tế: hàng loạt các thành tựu chăm sóc sức khỏe ban đầu, miễn dịch học, cắt giảm, tỷ lệ mắc
các chứng bệnh nguy hiểm : lao, phong, sốt rét, ho gà, bại liệt, sởi… Kết hợp y học truyền thống với y học
hiện đại, sản xuất nhiều mặt hàng thuốc mới. Nâng cao trình độ trong phòng chuẩn đoán bệnh, ngăn ngừa
bệnh truyền nhiễm : viêm gan, viêm não Nhật Bản… e, Vai trò của KH – CN đối với tăng trưởng phát triển
kinh tế
Khoa hoc, công nghệ đóng góp quan trọng cho tăng trưởng và phát triển kinh tế. Tăng trưởng kinh
tế của Việt Nam những năm gần đây giảm dần phụ thuộc vào khai thác tài nguyên, xuất khẩu thô mở
rộng tín dụng. Chất lượng tăng trưởng được cải thiện nét thể hiện qua tốc độ tăng năng suất lao động.
Đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) tăng từ 33.6% bình quân giai đoạn 2011-2015 lên
lOMoARcPSD| 61265515
khoảng 43.3% trong giai đoạn 3 năm 2016-2018; giai đoạn 2016-2020 ước tính đạt 43,5%. Tốc độ tăng
năng suất lao động bình quân giai đoạn 2016-2018 đã tăng lên 5,8%/năm. Đặc biệt, năm 2018, tốc độ tăng
trưởng kinh tế cao kỷ lục trong 10 năm qua, đạt trên 7% nhưng tăng trưởng tín dụng chỉ đạt dưới 14% so
với mức 17-18%, của các năm trước đó. Điều này chứng tỏ tăng trưởng kinh tế đã không phụ thuộc vào m
rộng tín dụng mà đã theo hướng thay đổi về chất lượng.
Những chỉ số nêu trên chứng minh rằng nền kinh tế Việt Nam đang sự chuyển dịch về hình
tăng trưởng sự thăng tiến cao hơn về chuỗi giá trị. thể khẳng định rằng khoa học công nghệ
nhiều tiến bộ, đạt được những thành tựu quan trọng, đóng góp đáng kể cho tăng trưởng và sức cạnh tranh
của nền kinh tế. Tổ chức sở hữu trí tuệ Thế giới (WIPO) đánh giá, trong những năm gần đây, Việt Nam luôn
tăng hạng trong xếp hạng Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu, dẫn đầu nhóm quốc gia có thu nhập trung bình
thấp. Theo đó, năm 2017 tăng 12 bậc, năm 2018 tăng tiếp 2 bậc, xếp thứ 45/126 quốc gia, trong đó, nhóm
chỉ số về tri thức – công nghệ của Việt Nam có thứ hạng rất cao, thứ 28. KH – CN đã thể hiện rõ vai trò là
nguồn lực quan trọng trong phát triển kinh tế của đất nước. Giai đoạn 2015 - 2020, năng suất lao động được
nâng lên thể hiện qua chỉ số năng suất các yếu tố tổng hợp TFP (tăng từ 33,6% giai đoạn 2011 - 2015 lên
44,46% giai đoạn 2016 - 2019), tỉ trọng giá trị xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao trong tổng giá trị hàng
hóa xuất khẩu đạt 50% năm 2020.
Vai trò của doanh nghiệp trong chuỗi hoạt động nghiên cứu đổi mới sáng tạo ngày càng trở nên
quan trọng. Thị trường ng nghệ được thúc đẩy phát triển, cả nước có 15 sàn giao dịch công nghệ, 50 vườn
ươm công nghệ, 186 tổ chức đại diện sở hữu công nghiệp và mạng lưới các trung tâm ứng dụng và chuyển
giao tiến bộ KH&CN trên toàn quốc. Những đóng góp của KH&CN còn thể hiện qua chỉ số đổi mới sáng
tạo của Việt Nam liên tục tăng. Năm 2017 tăng 12 bậc, năm 2018 tăng 2 bậc, năm 2019 tăng tiếp 3 bậc, xếp
thứ 42 trên 129 quốc gia, đưa Việt Nam vươn lên dẫn đầu nhóm 26 quốc gia thu nhập trung bình thấp
đứng thứ 3 ASEAN.
PHẦN 1: Đầu tư tác động tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế
1. Tác động của đầu tư tới chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
Đầu tư tác động làm thay đổi tỷ trọng đóng góp vào GDP của các ngành, Đầu tư vào ngành nào càng
nhiều thì ngành đó càng khả năng đóng góp lớn hơn vào GDP. Việc tập trung đầu tư vào ngành nào phụ
thuộc vào chính sách chiến lược phát triển của mỗi quốc gia. Thông qua c chính sách chiến lược,
nhà nước có thể tăng cường khuyến khích hoặc hạn chế đầu tư đối với các ngành cho phù hợp với từng giai
đoạn phát triển. Dẫn đến sự tăng đầu vào 1 ngành sẽ kéo theo sự tăng trưởng kinh tế của ngành đó và thúc
đẩy sự phát triển của các ngành, các khu vực có liên quan. Vì vậy sẽ tạo ra sự tăng trưởng kinh tế chung của
đất nước. Việc xác định nên tập trung đầu vào ngành nào có tính chất quyết định sự phát triển của quốc
gia. Nhưng kinh nghiệm của các nước trên thế giới đã cho thấy con đường tất yếu có thể tăng trưởng nhanh
với tốc độ mong muốn là tăng cường đầu tư nhằm tạo ra sự phát triển ở khu vực công nghiệp và dịch vụ. Do
đó, để thực hiện được các mục tiêu đã định, Việt Nam cũng không thể nằm ngoài sự phát triển.
Đầu tư đã tác động đến chuyển dịch cơ cấu ngành theo hướng tích cực phù hợp với tiến trình CNH, HĐH đất
nước. Cụ thể được thể hiện thông qua bảng số liệu sau:
2016
2017
2019
2020
2021
Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản
16,32
15,34
13,96
14,85
12,36
Khu vực công nghiệp và xây dựng
32,72
33,4
34,49
33,72
37,86
Khu vực dịch vụ
40,92
41,26
41,64
41,63
40,95
Tỉ trọng GDP các ngành kinh tế giai đoạn 2016-2021 (%)
Việc chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế cũng phụ thuộc vào đầu nước ngoài. Trong giai đoạn 20162021,
đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tập trung nhiều nhất vào 4 ngành kinh tế tính theo số vốn đăng ký, gồm:
lOMoARcPSD| 61265515
1. Ngành công nghiệp chế biến chế tạo vẫn lĩnh vực thu hút nhiều sự quan tâm của nhà đầu nước
ngoài nhất với 5.281 dự án, chiếm 35,1% số dự án và 54,5% số vốn đăng ký;
2. Kinh doanh bất động sản 428 dự án, chiếm 2,8% số dự án và 13% số vốn;
3. Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí chỉ có 71 dự án được
cấp phép, chiếm 0,47% số dự án nhưng chiếm tới 9,9% số vốn, trong đó ngành điện thu hút lượng lớn
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài;
4. Bán buôn bán lẻ và sửa chữa ô tô, xe máy với 3.765 dự án, chiếm 25% số dự án và 6% số vốn. (Nguồn:
Tổng cục thống kê)
2. Tác động của đầu tư tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng lãnh thổ
Đối với cấu kinh tế vùng lãnh thổ, đầu tác dụng giải quyết những vấn đề mất cân đối về
phát triển giữa các vùng lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng đói nghèo, phát huy
tối đa những lợi thế so sánh về tài nguyên, địa thế, kinh tế, chính trị…của những vùng khnăng phát
triển nhanh hơn.
cấu vốn đầu tập trung vào 2 vùng kinh tế lớn vùng Đồng bằng sông Hồng vùng Đông
Nam Bộ. Trong 5 năm qua, Vùng Đông Nam Bộ vẫn vùng thu hút được nhiều dự án đầu tư trực tiếp nước
ngoài lớn nhất cả nước với 7.232 dự án với 64,8 tỷ USD vốn đăng ký cấp mới, tăng thêm và góp vốn mua
cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài, chiếm 48% tổng số dự án và 38,6% tổng số vốn; đứng thứ hai là Vùng
Đồng bằng sông Hồng với 5.466 dự án với 61,5 tỷ USD, chiếm 36,3% tổng số dự án và 36,6% tổng số vốn.
Vùng Trung du miền núi phía Bắc và vùng Tây Nguyên là hai vùng thu hút được ít nhất các dự án đầu tư,
đặc biệt vùng Tây Nguyên chỉ thu hút được 39 dự án với 543 triệu USD chiếm 0,26% tổng số dự án
0,32% tổng số vốn. Hai vùng này cũng không có sự cải thiện về thu hút đầu tư nước ngoài so với giai đoạn
2011-2015.
thể thấy nguồn vốn đầu thường được tập trung tại những vùng kinh tế trọng điểm của đất nước. Các
vùng kinh tế trọng điểm được đầu tư phát huy thế mạnh của mình, góp phần lớn vào sự phát triển chung của
cả nước, làm đầu tàu kéo kinh tế chung của đất ớc đi lên.Về đầu tư bằng nguồn vốn nước ngoài, vốn FDI
thường đầu tư vào các vùng kinh tế phát triển, do đó các vùng kinh tế trọng điểm đã chiếm tới 80% vốn FDI.
Ngược lại, vốn ODA lại thường được ưu tiên hỗ trợ các vùng kinh tế kém phát triển, giúp nâng cao đời sống,
thoát khỏi đói nghèo cho vùng.
3. Tác động của đầu tư tới chuyển dịch cơ cấu theo thành phần kinh tế
Đối với mỗi quốc gia, việc tổ chức các thành phần kinh tế chủ yếu phụ thuộc vào chiến lược phát triển
của chính phủ. Các chính sách kinh tế sẽ quyết định thành phần nào chủ đạo, thành phần nào được ưu
tiên phát triển, vai trò, nhiệm vụ của các thành phần trong nền kinh tế. đây, đầu đóng vai trò nhân tố thực
hiện.
Đầu tư tạo ra sự phong phú, đa dạng về nguồn vốn đầu tư. Cùng với sự xuất hiện của các thành phần kinh tế
mới là sự bổ sung một lượng vốn không nhỏ vào tổng vốn đầu của toàn xã hội, tạo nên nguồn lực mạnh mẽ
hơn trước để nâng cao tăng trưởng và phát triển kinh tế. Việc có thêm các thành phần kinh tế đã huy động và
tận dụng được các nguồn lực trong hội một cách hiệu quả hơn, khuyến khích mọi các nhân tham gia đầu
tư vào kinh tế.
2017
2018
2019
2020
Kinh tế nhà nước
35,7
33,3
31,1
33,7
Kinh tế ngoài Nhà nước
40,6
43,3
46,0
44,9
Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài
23,7
23,4
22,9
21,44
Cơ cấu đầu tư theo thành phần kinh tế ( Nguồn: Tổng cục thống kế)
Từ bảng trên, ta thấy, trong giai đoạn trước khu vực kinh tế Nhà nước luôn chiếm lượng đầu lớn
nhất nhưng đến những năm gần đây đã giảm đi đáng kể, lượng đầu tư đã tập trung nhiều hơn vào 2 khu vực
lOMoARcPSD| 61265515
còn lại. Vì thế GDP các khu vực cũng có sự thay đổi cùng chiều với đầu tư. Hiện nay, khu vực kinh tế ngoài
Nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đang vươn lên mạnh mẽ bởi sự năng động, sáng tạo và ngày
càng thu hút nhiều nguồn lực.
Phần 4: Ảnh hưởng của đầu tư đến tăng trưởng kinh tế
1. Đầu tư đã đóng góp tích cực đến tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam
ng trưởng phát triển kinh tế luôn mục tiêu hướng tới của nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt
Nam. Để đạt được mục tiêu trên thì đầu một yếu tố cực kỳ quan trọng không những làm gia tăng tài
sản của cá nhân, mà còn trực tiếp làm gia tăng tài sản vật chất cho nền kinh tế, có tác động rất mạnh mẽ đến phát
triển kinh tế.
- Giai đoạn 2016-2020 là một trong những giai đoạn thành công của kinh tế Việt Nam kể từ khi bước
vào công cuộc đổi mới nền kinh tế. Khởi đầu thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - hội 5 năm
2016-2020, tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2016 đạt 6,21%, tuy thấp hơn tốc độ
tăng của năm 2015 (6,68%) do ảnh hưởng của nh trạng xâm nhập mặn nghiêm trọng tại các tỉnh
vùng Đồng bằng sông Cửu Long nhưng cao hơn các năm trong giai đoạn 2012- 2014. Trong ba năm
tiếp theo, nền kinh tế đã có sự bứt phá, tốc độ tăng GDP năm sau cao hơn năm trước vượt mục tiêu
Quốc hội đề ra trong Nghị quyết phát triển kinh tế - xã hội hằng năm, trong đó tốc độ tăng GDP năm
2017 đạt 6,81%; năm 2018 tăng 7,08% mức tăng cao nhất kể từ năm 2008; năm 2019 tăng
7,02%. Bình quân giai đoạn 2016-2019, tốc độ ng GDP đạt 6,78%/năm, cao hơn 0,87 điểm phần
trăm so với mức tăng bình quân 5,91%/năm của giai đoạn 2011-2015. Riêng năm 2020, tăng trưởng
kinh tế ước tính đạt 2,91%, tuy mức tăng thấp nhất của các năm trong giai đoạn 20112020 nhưng
trong bối cảnh dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, ảnh hưởng tiêu cực tới mọi lĩnh vực kinh tế - hội
của các quốc gia trên thế giới thì đây thành công lớn của Việt Nam. Bình quân giai đoạn 2016-
2020, tốc độ tăng GDP đạt 5,99%/năm. Bình quân vào năm 2021, GDP của Việt Nam tăng ước khoảng
2,58%.
- Trong nhiều năm qua, nền kinh tế nước ta vận hành theo mô hình tăng trưởng chủ yếu dựa vào yếu tố
vốn. Việc huy động được nguồn vốn lớn đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế - xã hội, hiệu qu
đầu tư được cải thiện đáng kể trong những năm gần đây với nhiều năng lực sản xuất mới bổ sung cho
nền kinh tế. Chỉ số hiệu quả sử dụng vốn đầu (Hệ số ICOR) giảm từ 6,42 năm 2016 xuống 6,11
năm 2017; 5,98 năm 2018 và 6,08 năm 2019. Bình quân giai đoạn 2016-2019, hệ số ICOR đạt 6,13,
thấp hơn so với hệ số 6,25 của giai đoạn 2011- 2015. Năm 2020, do ảnh hưởng tiêu cực của dịch
Covid-19, hoạt động sản xuất kinh doanh của nền kinh tế bị đình trệ, các dự án công trình hoàn thành
đưa vào sử dụng chưa phát huy đượcng lực như nền kinh tế khi trạng thái bình thường nên ICOR
năm 2020 đạt 14,2815; bình quân giai đoạn 2016-2020 hệ số ICOR đạt 7,04. Trong giai đoạn 2016-
2020, vốn đầuvào khu vực nông, lâm nghiệp thủy sản chỉ chiếm khoảng 5,7%-6,3% tổng vốn
đầu tư thực hiện toàn xã hội nhưng khu vực này tạo ra 14%-16% GDP của cả nước; trong khi đó, khu
vực công nghiệp và xây dựng tuy tạo ra 32%-34% GDP nhưng vốn đầu tư của khu vực này chiếm tới
43,5%-46% tổng vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội; khu vực dịch vụ tạo ra 41%-42% GDP nhưng vốn
đầu chiếm tới 48,1%-50,3%. Điều này cho thấy, khu vực nông, lâm nghiệp thủy sản đầu ít
nhưng mang lại hiệu quả cao nhất, trong khi khu vực công nghiệp, xây dựng và khu vực dịch vụ tuy
có đóng góp lớn đối với tăng trưởng kinh tế nhưng lượng vốn đầu tư vào khu vực này ở mức rất cao.
A. THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN THEO CÁC NỘI DUNG ĐẦU TƯ CỦA VIỆT NAM GIAI
ĐOẠN 2016 - 2021.
I. Đầu tư phát triển sản xuất
1. Tổng quan:
Năm 2021, mặc dù sự kết nối giữa doanh nghiệp sản xuất trong nước và thị trường toàn cầu cùng chuỗi
giá trị trải qua một thời gian gián đoạn do ảnh ởng của đại dịch, tỷ trọng hàng hóa sản xuất vẫn duy
trì mức đóng góp hơn 85% vào tổng giá trị xuất khẩu, chủ yếu nhờ sự tăng trưởng tốt của nhóm hàng
công nghệ cao như điện thoại và linh kiện tăng 12,4%; điện tử, máy tính và linh kiện tăng 14,4%; máy
móc và thiết bị tăng 41%.
Bên cạnh đó, sản xuất cũng là ngành thu hút được nhiều vốn đầu nước ngoài (FDI). Cho đến nay, dòng
tiền nước ngoài đã đầu o 18 trong số 21 ngành kinh tế của Việt Nam. Cũng như những năm trước,
lOMoARcPSD| 61265515
ngành sản xuất dẫn đầu, chiếm hơn 18,1 tỷ USD vốn đầu tư, tương đương 58,2% tổng vốn đầu tư. Sự
vượt trội của ngành sản xuất cho thấy hiệu quả mức tăng năng suất Việt Nam mang đến cho các
nhà đầu tư.
Miền Bắc miền Nam Việt Nam thu hút các lĩnh vực sản xuất khác nhau với nguồn lao động, cấu
công nghiệp cùng sở htầng riêng biệt. Miền Bắc được biết đến như trung tâm của các ngành sản xuất
nặng, dầu khí, điện tử công nghệ cao bao gồm sản xuất ô tô. Mặt khác, các ngành công nghiệp sản
xuất truyền thống như may mặc dệt may được thu hút vào khu vực phía nam. Số lượng dự án cho thấy
các nhà đầu tư nước ngoài vẫn đang tập trung vào các thành phố lớn với cơ sở hạ tầng được trang bị đầy
đủ.
2. Sản xuất nông nghiệp:
Trong những năm đầu, nguồn vốn FDI trong lĩnh vực nông nghiệp chủ yếu hướng vào lĩnh vực chế biến
gỗ và các loại lâm sản, sau những năm 2000, nguồn vốn ĐTNN được thu hút khá đồng đều vào lĩnh vực
trồng trọt, lâm sản, mía đường, chăn nuôi gia súc, gia cầm, trồng rừng, sản xuất nguyên liệu giấy. Đa số
các nhà đầu tư chú trọng vào việc lựa chọn địa bàn đầu tư là vùng nguyên liệu truyền thống, phù hợp
thuận lợi về thổ nhưỡng, khí hậu cho việc phát triển nguồn nguyên liệu cung cấp cho các nhà máy. Phần
lớn các ngành trong nh vực nông-lâm-ngư nghiệp không thuộc danh mục đầu điều kiện nên
đến ¾ số dự án là doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài, hình thức này phù hợp với yêu cầu điều
hành hoạt động của doanh nghiệp cũng như về độ rủi ro cao của lĩnh vực này. Nguồn vốn ĐTNN đầu
vào lĩnh vực nông-lâm- ngư nghiệp theo 4 hình thức là: hình thức 100% vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài,
liên doanh, công ty cổ phần và hợp đồng hợp tác kinh doanh trong đó hình thức 100% vốn đầu tư chiếm
đa số với 390 dự án với tổng vốn đăng trên 2,5 tỷ USD, chiếm 76,6% số dự án 73,9% tổng vốn
đăng ký.
Trong thời gian qua ĐTNN vào nông nghiệp đã bước đầu đạt được một số thành tựu đáng khích lệ. Các
dự án ĐTNN đã đem vào Việt Nam nhiều thiết bị, công nghệ tiên tiến, nhiều giống cây, giống con
năng suất chất lượng cao, đạt tiêu chuẩn quốc tế, nhiều dán đã những hình làm ăn kiểu mới
có hiệu quả cao để nông dân và các doanh nghiệp Việt Nam noi theo. Các doanh nghiệp vốn ĐTNN
đã tạo thêm việc làm cho hàng chục ngàn lao động nông nghiệp hàng chục vạn lao động sản xuất
nguyên liệu cho công nghiệp chế biến nhiều loại hình dịch vụ khác. Sản phẩm của doanh nghiệp
vốn ĐTNN được tiếp thị thị trường quốc tế một cách khá thuận lợi; đã góp phần đáng ktrong việc
giới thiệu nông sản hàng hóa của Việt Nam trên thị trường thế giới tạo điều kiện cho nông sản Việt Nam
thâm nhập thị trường, góp phần nâng cao kim ngạch xuất khẩu chung của ngành.
3. Sản xuất công nghiệp:
Sản xuất công nghiệp gặp nhiều khó khăn nhưng vẫn đạt mức tăng trưởng dương. Trong mức tăng
trưởng của toàn nền kinh tế năm 2020, giá trị tăng thêm toàn ngành công nghiệp cả năm tăng 3,36% so
với năm trước, cao hơn tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế. (Quý I tăng 5,1%; quý II tăng 1,1%;
quý III tăng 2,34%; quý IV tăng 4,80%). Tốc độ tăng trưởng bình quân giá trị gia tăng (VA) trong công
nghiệp giai đoạn 2016 - 2020 ước tăng 7,16%, cao hơn nhiều so với mục tiêu đặt ra cho giai đoạn đến
năm 2020 là 6,5 - 7,0%/năm.
Quy sản xuất công nghiệp liên tục được mở rộng. Hạ tầng khu công nghiệp, cụm công nghiệp phát
triển, góp phần thu hút các nhà đầu trong ngoài nước phát triển sản xuất công nghiệp, nhất các
ngành, lĩnh vực tiềm năng, lợi thế, giá trị gia tăng cao. Chỉ số sản xuất công nghiệp IIP của toàn
ngành công nghiệp tăng từ 7,4% năm 2016 lên 9,1% năm 2019. Bước sang năm 2020, ngành công nghiệp
Việt Nam chịu ảnh hưởng nặng nề từ dịch Covid-19, IIP cả năm 2020 tăng 3,4% so với năm 2019. Trong
đó: ngành khai khoáng giảm 7,8%; ngành chế biến, chế tạo tăng 4,9%; ngành sản xuất phân phối điện
tăng 3,1%; ngành cung cấp nước và hoạt động quản lý, xử lý rác thải, nước thải tăng 4,3%.
II. Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng - kỹ thuật
Hiện nay, việc đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng đang là ưu tiên của nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam.
Với quan điểm “Cơ sở hạ tầng đi trước một bước”, trong những năm qua, Chính phủ Việt Nam đã dành
một mức đầu tư cao cho phát triển cơ sở hạ tầng.
Theo Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB), trong giai đoạn 2016-2020, đầu tư vào cơ sở hạ tầng ở c
khu vực nhà nước khu vực nhân của Việt Nam đều mức trung bình 5,7% trên tổng sản phẩm
lOMoARcPSD| 61265515
quốc nội mỗi năm, cao nhất trong khu vực Đông Nam Á; các quốc gia như Indonesia hay Philippines
chỉ chi tiêu ít hơn 3%, còn Thái Lan và Malaysia, mức chi dưới 2%. Xét trong phạm vi toàn lãnh
thổ châu Á, Việt Nam chỉ đứng sau Trung Quốc, với con số đầu tư 6,8% GDP. Theo Báo cáo Năng lực
Cạnh tranh Tn cầu năm 2019, Việt Nam xếp thứ 77 trong tổng số 141 quốc gia về cơ sở hạ tầng tổng
thể, với thứ hạng thấp trên hầu hết các lĩnh vực giao thông, đặc biệt là về chất lượng vận tải đường bộ
và hàng không. Ngoài ra, báo cáo của World Bank cho biết chi phí logistics Việt Nam lên tới 20%, cao
hơn nhiều so với các quốc gia láng giềng như Trung Quốc (14,3%), Singapore (9,5%), n Quốc
(9,5%)… và gấp đôi mức trung bình của thế giới.
Hạ tầng giao thông quốc gia: Đã đưa một số công trình, dự án giao thông quan trọng vào sử
dụng trong những năm đầu giai đoạn 2016 - 2020 như: Các dự án cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 1A
và đường Hồ Chí Minh đoạn qua Tây Nguyên, các dự án đường cao tốc hướng tâm có tác động
lớn trong việc nâng cao năng lực vận tải. Nhiều công trình, dự án quan trọng, quy lớn được
tập trung đầu tư hoàn thành trong giai đoạn 2016 - 2020. Khởi công nhiều đoạn của cao tốc Bắc
- Nam.
Hệ thống hạ tầng kỹ thuật đô thị, nhất là tại các đô thị lớn đang từng bước được đầu tư, mở rộng
hoàn thiện theo hướng hiện đại hoá, đồng bộ hoá với các hình thức đầu tư đa dạng, các nguồn
vốn đầu được mở rộng hơn. Nhiều công trình tuyến chính ra vào thành phố, các trục giao
thông hướng tâm, các tuyến tránh đô thị, các cầu lớn nút giao lập thể được đầu xây dựng.
Chất lượng phục vụ của hạ tầng kỹ thuật đô thị được cải thiện rệt. Tỷ lệ đô thị hóa tăng từ
35,7% năm 2015 lên khoảng 40% năm 2020.
Kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn được đầu nâng cấp từng bước hiện đại hoá; hạ
tầng thuỷ lợi đồng bộ theo hướng đa mục tiêu; nhiều dự án trọng điểm, quy mô lớn được đầu tư
nâng cấp, sửa chữa hoàn thành góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển nông nghiệp, nông
thôn tăng năng lực ới tiêu, tạo nguồn cấp nước tiêu thuỷ, ngăn mặn... Củng cố, hoàn
thiện, phát triển tổ chức quản lý khai thác hệ thống thuỷ lợi nhỏ, thuỷ lợi nội đồng.
Hạ tầng năng lượng đã được đầu tư tăng thêm, nhiều công trình lớn (trên 1.000 MW) được hoàn
thành, bản đáp ứng được yêu cầu phát triển và bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia. Hạ tầng
khu kinh tế, khu công nghiệp, cụm công nghiệp được hoàn thiện góp phần thu hút các nhà đầu
trong ngoài nước, phát triển sản xuất công nghiệp, nhất các ngành, lĩnh vực tiềm năng,
lợi thế, có giá trị gia tăng cao.
Hạ tầng thông tin truyền thông phát triển khá hiện đại, rộng khắp, kết nối với quốc tế và bước
đầu hình thành siêu xa lộ thông tin. Từng bước xây dựng hệ thống thông tin, sở dữ liệu lớn;
ứng dụng công nghệ thông tin trong cơ quan quản lý nhà nước ngày càng được hoàn thiện mang
lại hiệu quả thiết thực. Hạ tầng bưu chính chuyển dịch nhanh chóng, chuyển dần từ các dịch vụ
bưu chính truyền thống sang tham gia phát triển dịch vụ chuyển phát hàng cho thương mại điện
tử và hỗ trợ các dịch vụ công.
Thực tế cho thấy, nước ta trong thời gian qua hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật còn tồn tại sự mất cân
đối giữa các vùng, miền. Hệ thống các công trình cơ sở hạ tầng kỹ thuật mang tính kỹ thuật cao, quy
lớn nó không chỉ đáp ứng nhu cầu cuộc sống, sản xuất, dịch vụ, đời sống con người... trong hiện tại và
cả trong tương lai nữa. Mặt khác thời gian tồn tại của các công trình sở hạ tầng trên lãnh thổ rất
lâu dài. Vì thế những sai lầm trong bố trí địa điểm, áp dụng công nghệ sẽ đều phải trả giá rất đắt. Do đó,
yêu cầu khi xây dựng cơ sở hạ tầng bên cạnh việc áp dụng những thành tựu tiến bộ của khoa học kỹ
thuật, phải căn cứ vào quy hoạch phát triển vùng và dự kiến được những biến động trong tương lai.
Giải pháp: Theo thống của Dragon Capital, một thập niên qua tỷ lệ vốn đầu tư FDI/GDP vào Việt Nam
luôn mức 5–7%, vượt trội so với các quốc gia láng giềng với tỉ lệ 0,5%4%, nằm nhóm cao nhất thế
giới. Nhưng hạ tầng giao thông yếu kém là một điểm nghẽn của kinh tế Việt Nam.
Vào năm 2020 tầng lớp trung lưu của Việt Nam khoảng 32 triệu người dự báo tăng lên 67 triệu người
vào năm 2030. Đi kèm với các thành tựu kinh tế Việt Nam cũng đứng trước nguy cơ già hóa dân số và
thể rơi vào bẫy thu nhập trung bình nếu tăng trưởng GDP không bứt tốc vượt khỏi giới hạn tỉ lệ 6
7%.
lOMoARcPSD| 61265515
Thứ nhất, đầu sở hạ tầng hiện có sự chồng chéo bởi các bộ luật khác nhau. Đây là lý do các dự
án sở hạ tầng không thể đẩy nhanh tốc độ. vậy, nếu chúng ta đã có một tổ chuyên trách đặc biệt
phòng chống COVID-19 thì cũng cần một tổ chuyên trách tương tự để đẩy nhanh tiến độ đầu tư các dự
án hạ tầng. Thành phần không ai khác là Thủ tướng, đại diện Quốc hội và đại diện các bộ, ban ngành.
Thứ hai, ưu tiên trước mắt phát triển đường bộ, tập trung kết nối giữa các vùng kinh tế trọng điểm,
các thành phố lớn với các địa điểm du lịch. Thực tế cho thấy phát triển đường bộ có ý nghĩa lan tỏa lớn
nhanh nhất đến nền kinh tế khi số doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm gần 97% tổng số doanh nghiệp tại
Việt Nam.
Thứ ba, tận dụng mọi nguồn vốn xã hội, trong đó nguồn vốn tư nhân để phát triển hạ tầng. Các
nhà điều hành nên duy “win-win” giữa ba chủ thliên quan: Nhà nước doanh nghiệp hội. Dòng
vốn nhân đầu vào hạ tầng tắc nghẽn vài năm qua nên được sớm khơi thông trở lại. III. Đầu
phát triển văn hóa, giáo dục, y tế và các dịch vụ xã hội
1. Giáo dục:
Trong những m gần đây, Việt Nam được đánh giá quốc gia mức chi tiêu cho giáo dục
đào tạo vào loại cao trên thế giới, người dân rất quan tâm đến tương lai giáo dục của con em nên sẵn
sàng đầu tư cho giáo dục với mức chi ngày một tăng cao. Đồng thời, Chính phủ luôn quan tâm, chú trọng
phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động và hội nhập quốc tế.
Đầu cho giáo dục đã trở thành vấn đề được quan tâm nh vực đầy tiềm năng, thu hút nhiều
nguồn lực cả trong nước quốc tế. Như chúng ta thấy việc nhà nước chi ngân sách tăng dần qua các
năm: năm 2021 ước tính 249.471 tỷ đồng tăng 3.11% so với năm 2020 tăng 40.12% so với năm
2016 cho thấy sự quan tâm đặc biệt của nhà nước đến lĩnh vực giáo dục và đào tạo, bởi việc đầu tư cho
giáo dục - đầu tư phát triển, là “ chìa khóa vàng” để xây dựng một nguồn nhân lực dồi dào, chất lượng,
tạo tính cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế dựa trên sự tăng trưởng kinh tế - hội của
quốc gia.
Về đầu tư vào trường học và nhân lực ngành giáo dục: năm học 2021 cả nước có 15.422 trường mẫu
giáo, giảm 63 trường so với năm học 2020 và tăng 599 trường so với năm học 2016.
Cũng trong năm học 2021 cả nước có 26.247 trường phổ thông, giảm 156 trường so với năm học
2020, bao gồm: 12.527 trường tiểu học, giảm 166 trường; 8.744 trường trung học sở, giảm 102
trường; 2.380 trường trung học phổ thông, tăng 7 trường; 2.035 trường phổ thông sở, tăng 73 trường
561 trường trung học, tăng 32 trường. Năm học 2020-2021 số giáo viên phổ thông trực tiếp giảng
dạy 817 nghìn người, tăng 0,6% so với năm học 2019-2020, bao gồm: 385,2 nghìn giáo viên tiểu học,
tăng 0,9%; 287,2 nghìn giáo viên trung học sở, tăng 0,1% 144,6 nghìn giáo viên trung học phổ
thông, tăng 0,8%.
Năm 2019, cả nước có 237 trường đại học, bao gồm 172 trường công lập và 65 trường ngoài công
lập. Số giảng viên đại học là 73,1 nghìn người, giảm 0,2% so với năm 2018, trong đó có 57 nghìn giảng
viên công lập, tương đương năm 2018; 16,1 nghìn giảng viên ngoài công lập, giảm 1,1%.
Giáo dục nghề nghiệp có vai trò quan trọng phát triển kinh tế đất nước, là nơi cung ứng nhân lực
lao động qua đào tạo cho thị trường lao động cho nên cũng rất được chú trọng để đầu phát triển.
Năm 2020, cả nước có 3.010 cơ sở giáo dục nghề nghiệp, bao gồm 1.428 cơ sở công lập và 1.582 cơ sở
ngoài công lập. Mạng lưới trường nghề chất lượng cao và các nghề trọng điểm quốc gia, khu vực, quốc
tế đã quy hoạch theo từng cơ sở giáo dục nghề nghiệp, từng vùng, địa phương và trình độ đào tạo; hình
thành phát triển được một số trường nghề đặc thù để đào tạo cho người khuyết tật, người dân tộc
thiểu số trường đào tạo c ngành năng khiếu (văn hóa, nghệ thuật, thể dục thể thao), trường chính
trị.
2. Y tế:
Giai đoạn 2016-2021, công tác đầu vào y tế chăm sóc sức khỏe nhân dân ngày càng được
tăng cường đặc biệt phát triển mạnh trong bối cảnh Covid 19 hoành hành. Bên cạnh đó việc đầu tư,
ứng dụng công nghệ thông tin trong khám chữa bệnh chăm sóc sức khỏe nhân dân được ứng dụng
rộng rãi, nhiều dịch vụ y tế kỹ thuật cao, tiên tiến được áp dụng. Các chính sách về tài chính cho y tế cơ
sở được ban hành, bao gồm các chính sách tăng đầu tư ngân sách nhà nước cho y tế, phân bổ ngân sách
lOMoARcPSD| 61265515
qua các chương trình mục tiêu quốc gia cũng như ban hành luật Bảo hiểm xã hội để đảm bảo cho người
dân được tiếp cận dịch vụ y tế khi có nhu cầu.
Mạng lưới y tế cơ sở được tiếp tục củng cố và phát triển. Năm 2018, cả nước có 13.547 cơ sở y tế
do Nhà nước quản lý, trong đó có 1.354 bệnh viện, 308 phòng khám đa khoa khu vực và 11.815 trạm y
tế xã, phường, quan, nghiệp. Năm 2019 khi dịch bệnh Covid bùng phát nhà nước đã đầu rất
nhiều về trang thiết bị, các bệnh viện chiến, vaccine,... nhằm đáp ứng nhu cầu đặt ra cho hệ thống y
tế Việt Nam là nâng cao chất lượng khám, ngăn ngừa dịch bệnh, cải tiến môi trường bệnh viện; đổi mới
cơ chế tài chính; phát triển công tác khám chữa bệnh, đặc biệt là y tế dự phòng.
Công nghiệp dược phát triển khá, đã cung ứng được thuốc đủ về số lượng, kiểm soát về chất
lượng giá cả hợp cho khám, chữa bệnh phòng, chống dịch bệnh đặc biệt là Covid, thiên tai.
Thuốc sản xuất trong nước chiếm 74% mặt hàng, đáp ứng được trên 50% về lượng và 40% về giá trị; đã
sản xuất được 11/12 loại vắc-xin sử dụng trong Chương trình tiêm chủng mở rộng quốc gia, đã sản xuất
được nhiều loại thuốc đòi hỏi công nghệ cao. Triển khai thí điểm quản bán thuốc theo đơn, quản
các nhà thuốc bằng công nghệ thông tin.
3. Văn hoá:
Văn hóa vừa là trụ cột, vừa là nền tảng tinh thần của xã hội. Phát triển sự nghiệp văn hóa đòi hỏi
phải nguồn lực đầu tư. Đầu cho văn a trở thành giải pháp để “văn hóa thực sự trở thành sức
mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước bảo vệ tổ quốc” (Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng Cộng
sản Việt Nam). Trong đó nổi bật là Hội nghị lần thứ X của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX
đã ban hành Kết luận 30 – KL/TW ngày 20.7.2004 về đầu tư văn hóa: “Tăng đầu tư cho văn hóa, phấn
đấu đến năm 2010 ít nhất đạt 1,8% tổng chi ngân sách văn hóa nhà nước”. Nhưng thực tế thì mãi đến
năm 2020, hầu hết các tỉnh chỉ đạt được từ 50-60% định mức tỷ lệ chi cho sự nghiệp văn hóa thông tin.
Ví dụ như Hà Nội: trong 5 năm từ 2015 – 2020, mức chi cho sự nghiệp văn hóa thông tin chưa bao giờ
đạt 0,8% tổng chi ngân sách địa phương. Cụ thể năm 2015, Hà Nội chi cho sự nghiệp văn hóa thông tin
812 tỷ đồng, chiếm 0,72% tổng chi ngân sách, nhưng đến 2018, mức chi chỉ 127 tỷ đồng chiếm
0,095% tổng chi ngân sách. Năm 2020, Hà Nội mới chi cho sự nghiệp văn hóa thông tin với tỉ lệ cao
nhất là 0,767% tổng chi ngân sách. Mức chi cho ngành văn hóa thông tin thấp, khiến cho hoạt động của
lĩnh vực này chậm phát triển, dẫn đến hậu quả nghiêm trọng khi xét đến chức năng của nó.
IV. Đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật
Tổng dự toán chi NSNN sự nghiệp khoa học công nghệ giai đoạn 2016 - 2019 đã được Quốc hội
thông qua tại các nghị quyết về phân bổ ngân sách hàng năm là 46.729 tỷ đồng. Trong đó, năm 2016 là
10.471 tỷ đồng; năm 2017 là 11.243 tỷ đồng; năm 2018 là 12.190 tỷ đồng; năm 2019 là 12.825 tỷ đồng.
Năm gần nhất 2021, chi cho khoa học công nghệ của Việt Nam là 7.732 tỷ đồng, tính trên tổng chi Ngân
sách Trung ương của năm là 827.550 tỷ đồng thì chỉ chiếm 0,934%.
Theo báo cáo của Bộ KH&CN , năm 2021 kinh phí sự nghiệp KH&CN do Trung ương cân đối
3.106 tỷ đồng, UBND tỉnh/thành phố phê duyệt 4.095 tỷ đồng (đạt 131,8% so với kinh phí Trung ương
cân đối), kinh phí thực hiện đạt 3.581 tỷ đồng (chiếm 115,3% so với kinh phí Trung ương cân đối
87,4% so với kinh phí UBND tỉnh, thành phố phê duyệt). Đáng chú ý, ngân sách do các tỉnh/thành phố
dành cho đầu tư phát triển KH&CN 888 tỷ đồng (thống kê được 26 tỉnh/thành phố), kinh phí thực hiện
đạt 841 tỷ đồng (chiếm 94,7%).
→ Như vậy có thể thấy, trong giai đoạn 2016-2021, toàn xã hội, đặc biệt là nhà nước đã nhận thức được
một cách rõ ràng vai trò của vốn đầu tư cho khoa học - công nghệ. Điều đó đã được thể hiện rõ ràng qua
lượng vốn xu hướng tăng qua từng năm sự phân bổ vốn cho rất nhiều dự án, cả dự án lớn lẫn dự
án, và hơn hết là trong những dự án trọng điểm quốc gia theo từng năm.
KẾT QUẢ THỰC HIỆN
Tính đến cuối năm 2019, theo tiêu chí doanh nghiệp khoa học và công nghệ (KHCN), cnước có hơn
3.000 doanh nghiệp đủ điều kiện chứng nhận doanh nghiệp khoa học công nghệ. Trong đó, 468
doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận doanh nghiệp khoa học công nghệ tính đến tháng 8/2019; 36
doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận hoạt động công nghệ cao (19 doanh nghiệp được cấp giấy chứng
nhận dự án ứng dụng công nghệ cao 17 doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận doanh nghiệp công
nghệ cao); hơn 800 doanh nghiệp đã được cấp bằng độc quyền sáng chế; có hơn 1.400 doanh nghiệp phần
lOMoARcPSD| 61265515
mềm trong lĩnh vực công nghệ thông tin; hơn 400 doanh nghiệp đang hoạt động tại các khu công nghệ
cao, khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao…
Theo Viện Khoa học nông nghiệp Việt Nam (Bộ NN&PTNT), các tiến bộ về KHCN đóng góp trên
30% giá trị gia tăng trong sản xuất nông nghiệp, 38% trong sản xuất giống cây trồng, vật nuôi. Mức độ
tổn thất của nông sản đã giảm đáng kể (lúa gạo còn dưới 10%...). Mức độ cơ giới hóa khâu làm đất đối
với các loại cây hằng năm (lúa, mía, ngô, rau màu) đạt khoảng 94%; khâu thu hoạch lúa đạt 50% (các
tỉnh đồng bằng đạt 90%)…
Khoa học bản đạt được nhiều thành tựu, thể hiện qua các chỉ số xếp hạng, công bố quốc tế. Số
lượng bài báo công bố quốc tế ISI của Việt Nam trong giai đoạn 2016 - 2020 tăng trung bình 20%. Riêng
trong năm 2020, công bố quốc tế của Việt Nam tăng 45% so với năm 2019.
Khoa học - công nghệ ứng dụng thể hiện những bước tiến rõ nét về trình độ công nghệ. Chỉ số đóng
góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng tăng từ 33,6% bình quân giai đoạn 2011
- 2015 lên 45,2% giai đoạn 2016 - 2020. Khoa học - công nghệ ngày càng đóng góp nhiều vào gtrị
gia tăng của sản phẩm hàng hóa.
Nguồn lực tài chính từ xã hội cho khoa học - công nghệ tăng mạnh. Tỷ trọng đầu tư giữa Nhà nước
doanh nghiệp được cải thiện theo chiều hướng tích cực. Nếu 10 năm trước đây, kinh phí hoạt động
khoa học-công nghệ chủ yếu dựa vào ngân sách nnước (chiếm khoảng 70% - 80% tổng đầu cho
khoa học - công nghệ), thì nay đầu tư từ ngân sách nhà nước và từ doanh nghiệp đã tương đối cân bằng,
với tỷ lệ tương ứng là 52% và 48%.
`Hệ thống các tổ chức khoa học - công nghệ phát triển mạnh, đội ngũ nhân lực khoa học - công
nghệ phát triển cả về số lượng và chất lượng với khoảng 72.990 cán bộ nghiên cứu tương đương toàn
thời gian (đạt 7,6 người/vạn dân), trong đó, có nhiều nhà khoa học uy tín, được thế giới công nhận. Hệ
thống sở hữu trí tuệ và tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng ngày càng hoàn thiện, góp phần khuyến khích
hoạt động nghiên cứu sáng tạo trong nước, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, nâng cao chất lượng,
khả năng cạnh tranh của sản phẩm, hàng hóa. V. Đầu tư tác động đến Môi trường a, Tích cực
Năm 2019, ngân sách sự nghiệp BVMT trung ương là 2.290 tỷ đồng nhưng đến tháng 9/2019 mới phân bổ
1.51,922 tỷ đồng, đạt 50,3%. Theo quy định hiện hành, vốn điều lệ của QuBVMT Việt Nam 1.000 tỷ
đồng từ nguồn NSNN cấp. Đối tượng cho vay của Quỹ là các tổ chức, cá nhân có dự án đầu tư BVMT với
mức lãi suất ưu đãi cố định trong suốt thời gian cho vay từ 2,6 % – 3,6%, cùng thời hạn vay lên đến 10 năm.
FDI tác động tích cực tới môi trường thông qua việc ra đời những sản phẩm mới tiết kiệm năng lượng,
giảm bớt sự phụ thuộc vào những nguyên liệu, hoặc nguồn năng lượng truyền thống các giải pháp nâng
cao hiệu quả hoạt động sản xuất hoặc các kinh nghiệm tốt về bảo vệ môi trường. Ngoài ra, sự có mặt của các
công ty đa quốc gia cũng có tác động lan tỏa đối với các công ty trong nước thông qua việc chuyển giao công
nghệ tiên tiến, kỹ năng chuyên môn và những yêu cầu áp dụng tiêu chuẩn môi trường nghiêm ngặt.
Như vậy, khu vực FDI đã đang ch cực tham gia o quá trình chuyển giao công nghệ xanh, thực hiện
đầy đủ trách nhiệm hội, xây dựng nâng cao nhận thức về nền kinh tế xanh cho người lao động người
tiêu dùng. Một số dự án có công nghệ tiêu biểu như: Dự án hệ thống xửnước thải y tế tại Bệnh viện Chợ
Rẫy; Công ty Điện lực Phú Mỹ 3 với việc cài đặt hệ thống phát hiện rỉ tự động và trồng 4.000 cây xanh
xung quanh công ty…; Tập đoàn SCG (Top 50 doanh nghiệp FDI tiêu biểu hàng đầu tại Việt Nam v tăng
trưởng xanh), xây dựng chiến lược ESG 4 Plus với 4 lộ trình chính, gồm: “Hướng đến phát thải ròng bằng
không (Set Net Zero) - Phát triển xanh (Go Green) - Giảm bất bình đẳng (Reduce Inequality) - Thúc đẩy sự
hợp tác (Embrace Collaboration) đồng thời chú trọng quản trị minh bạch (Harnessing Good Governance),
giúp loại bỏ các nguy cơ khủng hoảng, duy trì sự ổn định xã hội và giúp doanh nghiệp đạt được các mục tiêu
phát triển xanh và bền vững, tiếp tục đóng góp cho các cộng đồng địa phương tại Việt Nam.
b, Tiêu cực
Bộ Tài nguyên và Môi trường vừabáo cáo tổng hợp tại Hội nghị toàn quốc bảo vệ môi trường hàng năm
như sau: Cả nước tiêu thụ hơn 100.000 tấn hóa chất bảo vệ thực vật; hơn 23 triệu tấn rác thải sinh hoạt, hơn
7 triệu tấn chất thải rắn công nghiệp, hơn 630.000 tấn chất thải nguy hại trong khi việc xử lý chất thải, nước
thải còn rất hạn chế. Tác hại hơn, trên cả nước hiện 283 khu công nghiệp (KCN) với hơn 550.000m3
nước thải/ngày đêm; 615 cụm công nghiệp nhưng trong đó chỉ khoảng hơn 5% có hệ
lOMoARcPSD| 61265515
thống xử lý nước thải tập trung. Hơn 500.000 cơ sở sản xuất trong đó có nhiều loại hình sản xuất ô nhiễm
môi trường, công nghệ sản xuất lạc hậu. Đây là những con số thống kê cho thấy nguy cơ và hiện tượng ô
nhiễm đến môi trường đất, nước và không khí đang ở mức báo động.
Tính đến tháng 6/2012, ô nhiễm môi trường nước do nước thải từ KCN trong những năm gần đây rất
lớn, có khoảng 62% các KCN đã xây dựng hệ thống xử lý nước thải tập trung nhưng hiệu quả không cao,
dẫn đến tình trạng 75% nước thải KCN thải ra ngoài với lượng ô nhiễm cao. Điển hình là Khu vực kinh
tế trọng điểm phía Nam gồm: Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai Bình Dương được xem khu vực
tập trung nhiều KCN và dự án FDI lớn nhất cả nước, mặc dù tỷ lệ xây dựng hệ thống xử lý nước thải tập
trung ở khu vực này khá cao, nhưng tình trạng vi phạm các qui định về môi trường vẫn thường xuyên xảy
ra. Đa số các doanh nghiệp hiện nay đều dùng các thủ đoạn tương tự nhau, xây dựng hệ thống ngầm kiên
cố xả thẳng ra sông, rạch, hoặc lợi dụng thủy triều lên xuống để pha loãng nước thải chưa qua xử đưa
ra môi trường mà gần đây nhất chính là sự kiện của Công ty Cổ phần Sonadezi Long Thành - Đồng Nai.
Ô nhiễm môi trường, không khí, thường chủ yếu tập trung tại các KCN cũ, do các KCN này đang sử dụng
công nghệ sản xuất lạc hậu hoặc chưa được đầu tư hệ thống xử lý khí thải trước khi thải ra môi trường. Ô
nhiễm không khí tại các KCN chủ yếu bụi, một số KCN có biểu hiện ô nhiễm CO2, SO2 tiếng ồn.
Trong khi đó tại các KCN mới, do được đầu tư công nghệ hiện đại, hệ thống xử lý khí thải đồng bộ trước
khi xả thải ra môi trường, dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường không khí tại các KCN này đã được cải
thiện một cách rõ rệt. Thống kê cho thấy, năm 2011, mỗi ngày, các KCN nước ta thải ra khoảng 8.000 tấn
chất thải rắn (CTR), tương đương khoảng 3 triệu tấn/năm.
- Kết quả điều tra 150 doanh nghiệp FDI năm 2016, 45% doanh nghiệp chưa áp dụng quy trình sản
xuất ít phát thải, 69% doanh nghiệp cho rằng họ sẽ không thực hiện quy trình giảm phát thải nếu như
đó không phải là yêu cầu bắt buộc, tương tự như thế 57,7% lấy do chi phí cao… Trên thực tế, nhiều
khu công nghiệp đi vào hoạt động nhưng chưa triển khai xây dựng hệ thống xử nước thải cục bộ
hoặc nhưng không vận hành, hay vận hành không hiệu quả hoặc xuống cấp; hiện chỉ khoảng
66% trong số 289 khu công nghiệp trên cả nước có trạm xử lý nước thải tập trung. Đặc biệt, tại đồng
bằng sông Cửu Long có 75% khu và 85% cụm công nghiệp chưa có xử lý nước thải tập trung.
B, HỆ SỐ ICOR + ĐẦU TƯ CÔNG
NHÌN LẠI KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC TRONG LĨNH VỰC ĐẦU TƯ CÔNG GIAI ĐOẠN 2016-2020
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, năm 2020 là năm kết thúc Kế hoạch đầu tư công giai đoạn 5 năm 2016-2020,
cũng là Kế hoạch đầu tư công trung hạn đầu tiên được lập theo Luật Đầu tư công năm 2014, trong bối cảnh
chịu ảnh hưởng nặng nề từ dịch Covid-19, đầu tư công đã có sự khác biệt rất lớn so với các năm trước, đó
từ nguồn vốn “mồi” chuyển thành nguồn lực chính để thúc đẩy phục hồi kinh tế trong đại dịch Covid-19.
Điều đáng mừng trong giai đoạn 2016-2020, nguồn vốn đầu công được tập trung bố trí cho các dự án
hạ tầng chiến lược, thiết yếu, quan trọng, then chốt, như: đường bộ, sân bay, bến cảng, các công trình thủy
lợi đầu mối, điện, thông tin liên lạc, kết cấu hạ tầng các khu đô thị, khu công nghiệp, bệnh viện, trường học,
văn hóa thể thao, các chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới và giảm nghèo bền vững. Kế
hoạch đầu tư công trung hạn 2016-2020 cũng đã ưu tiên đầu tư cho miền núi, biên giới, hải đảo, vùng đồng
bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, vùng thường xuyên bị thiên tai, o các vùng có điều kiện kinh
tế - hội đặc biệt khó khăn; các nhiệm vụ ứng phó biến đổi khí hậu, phòng, chống, khắc phục tình trạng
hạn hán, xâm nhập mặn ở các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long, sự cố ô nhiễm môi trường biển ở 4 tỉnh miền
Trung; ưu tiên bố trí vốn các dự án quan trọng, cấp bách, liên kết vùng, có tính chất lan tỏa, tạo động lực thu
hút vốn đầu khu vực tư nhân nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - hội. Trong đó, nguồn vốn ngân sách
trung ương (NSTW) giai đoạn 2016-2020 bố trí cho các vùng, như: Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung
27%, vùng miền núi phía Bắc là 24%, Đồng bằng sông Cửu Long 17%, Đồng bằng sông Hồng 13%, Đông
Nam Bộ 12% và Tây Nguyên 7%.
Đặc biệt hiệu quả đầu công từng bước được cải thiện, bản khắc phục được tình trạng đầu phân
tán, dàn trải, manh mún; tỷ lệ dự án hoàn thành đạt khá và hiệu quả sử dụng vốn đầu tư (Hệ số ICOR) giảm,
góp phần huy động một số lượng lớn vốn đầu toàn hội; số dự án khởi công mới từng năm trong giai
đoạn 2016-2020 giảm dần. Cụ thể, giai đoạn 2016-2020, số dự án sử dụng vốn NSTW triển khai trong kỳ
còn khoảng 11.100 dự án, giảm một nửa so với giai đoạn 2011-2015; trong đó, dự án hoàn thành trong giai
đoạn 2016-2020 là 7.354 dự án, bằng 66,2% tổng số dự án (số dự án chuyển tiếp từ giai đoạn 20112015 hoàn
thành trong giai đoạn 2016-2020 là 4.547 dự án, dự án khởi công mới hoàn thành ngay trong giai đoạn 2016-
lOMoARcPSD| 61265515
2020 là 2.807 dự án), khởi công mới 4.208 dự án. Số dự án khởi công mới từng năm trong giai đoạn 2016-
2020 giảm dần
[1]
. Số vốn bố trí bình quân cho một dự án kế hoạch năm sau cao hơn năm trước, khắc phục
tình trạng đầu tư dàn trải, lãng phí, kém hiệu quả [1].
Hiệu quả kinh tế - xã hội của đầu tư nói chung và đầu tư công nói riêng đã từng bước được cải thiện. Hệ số
ICOR giảm dần: ICOR giai đoạn 2016-2019
[2]
là 6,1 thấp hơn so với mức gần 6,3 của giai đoạn 2011-2015.
Do ảnh hưởng của dịch Covid-19, GDP năm 2020 giảm mạnh so với kế hoạch dẫn đến hệ số ICOR m 2020
là 18,07, tác động mạnh đến hệ số ICOR của cả giai đoạn 2016-2020 khoảng 8,5. Tổng vốn đầu tư phát triển
toàn hội giai đoạn 2016-2020 đạt khoảng 9,2 triệu tỷ đồng, bằng 33,7% GDP, đạt mục tiêu bình quân 5
năm (32%-34%) và cao hơn giai đoạn 2011-2015 (31,7% GDP) [1].
Tỷ trọng vốn đầu tư nhà nước trong tổng đầu tư xã hội giảm dần, từ mức bình quân 39,11% trong giai đoạn
2011-2015 xuống mức bình quân 34% [1]. Cơ cấu huy động vốn đầu chuyển dịch tích cực, phù hợp với
định hướng cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi hình tăng trưởng; khuyến khích các thành phần kinh tế
ngoài nhà nước bỏ vốn đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, phát triển hạ tầng kinh tế kỹ thuật.
CHƯƠNG 3: NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ
I. Nguồn vốn đầu tư trong nước
1. Nguồn vốn nhà nước:
Nguồn vốn đầu của nhà nước bao gồm nguồn vốn của ngân sách nhà nước, nguồn vốn tín dụng
đầu tư phát triển của nhà nước và nguồn vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhà nước.
Trong cơ cấu đầu toàn xã hội, nguồn vốn đầu tư của nhà nước có một vị trí khá quan trọng. Bình
quân giai đoạn 2001-2010, chiếm 45.7% tổng vốn đầu phát triển toàn xã hội. Nguồn vốn đầu tư của khu
vực nhà nước bao gồm các nguồn chính là: nguồn vốn đầu từ ngân sách nhà nước (NSNN), nguồn vốn
đầu tín dụng Nhà nước, nguồn vốn đầu từ các doanh nghiệp nhà nước (DNNN), trong đó nguồn vốn
đầu tư của NSNN và từ các DNNN chiếm trên 75% nguồn vốn đầu tư của nhà nước.
2.1. Ngân sách nhà nước
nguồn chi của ngân sách nhà nước dành cho đầu tư, là nguồn vốn quan trọng trong chiến lược phát
triển kinh tế hội của mỗi quốc gia. Vốn đầu thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước tính chung hai
tháng đầu năm 2023 ước đạt 56,9 nghìn tỷ đồng, bằng 8,3% kế hoạch năm tăng 18,3% so với cùng kỳ
năm trước. Cụ thể: Vốn đầu tư thực hiện do Trung ương quản lý ước đạt 10,5 nghìn tỷ đồng, bằng 7,9% kế
hoạch năm và tăng 40,1% so với cùng kỳ năm trước; Vốn đầu thực hiện do địa phương quản ước đạt
gần 46,4 nghìn tỷ đồng, bằng 8,4% kế hoạch năm và tăng 14,3% so với cùng kỳ năm trước;
Tuy nhiên, nguồn vốn từ ngân sách nhà nước thường mang tính chất “cấp phát” không hoàn lại, “cơ
chế xin cho” dựa trên sở nhu cầu, tình hình thực tế rồi các cơ quan xem xét từ chủ trương, đánh giá,
thẩm định. Ngoài ra thì nguồn vốn y còn gặp vấn đề về tiến độ giải ngân chậm. Theo Bộ Tài chính, hiện
7 bộ 20 địa phương tỷ lệ giải ngân đạt trên 15%; Bộ nhận định tỷ lệ giải ngân kế hoạch vốn hai
tháng đầu năm 2022 tuy cao hơn cùng kỳ năm 2021 nhưng vẫn đạt thấp so với tổng kế hoạch vốn được giao.
Mặc dù các Bộ, cơ quan Trung ương, địa phương đã chủ động, tích cực triển khai giao kế hoạch đầu tư vốn
NSNN năm 2022 kịp thời, đáp ứng yêu cầu dự án có thể giải ngân kế hoạch đầu tư vốn NSNN 2022 ngay từ
đầu năm. Tuy nhiên, đến nay số vốn các Bộ, cơ quan Trung ương và địa phương chưa phân bổ còn khá lớn,
(94.493) tỷ đồng, bằng 18% kế hoạch Thủ tướng giao.
Tại kỳ họp thứ 4 Quốc hội khóa XV (tháng 10, 11/2022), Chính phủ đã báo cáo Quốc hội khả năng
thực hiện thu, chi và bội chi NSNN năm 2022, với:
- Tổng thu NSNN ước đạt 1.614,1 nghìn tỷ đồng, tăng 202,4 nghìn tỷ đồng (+14,3%) so dự toán.
- Tổng chi NSNN ước đạt 2.035,4 nghìn tỷ đồng, ng 250,8 nghìn tỷ đồng (+14,1%) so dự toán; bôị
chi NSNN ước đạt 421,3 nghìn tỷ đồng, tương đương 4,5%GDP.
- Chi đầu tư phát triển :
+ Dự toán chi 557,5 nghìn tỷ đồng; thực hiện (bao gồm cả số vốn được chuyển nguồn sang
năm 2023) ước đạt 638,1 nghìn tỷ đồng, tăng 80,6 nghìn tỷ đồng (+14,5%) so với dự toán.
+ Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nhiều giải pháp, tổ chức các đoàn công c của
Chính phủ chỉ đạo tháo gỡ khó khăn, đôn đốc thực hiện, thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công.
lOMoARcPSD| 61265515
- Chi trả nợ lãi:
+ Dự toán chi là 103,7 nghìn tỷ đồng; thực hiên ước đạt gần 94,8 nghìn tỷ đồng, giảm 8,9 nghìn
tỷ đồng (-8,6%) so dự toán
+ Chủ yếu do công tác phát hành trái phiếu Chính phủ phù hợp với tiến đô thu ngân sách
giải
ngân vốn đầu tư, giảm số dư nợ vay và trả lãi so dự kiến tại thời điểm xây dựng dự toán
NSNN năm 2022
+ Giải ngân vốn ODA đạt thấp, giảm chi trả lãi vay nước ngoài so dự toán.
- Chi thường xuyên:
+ Dự toán chi là 1.111,2 nghìn tỷ đồng; thực hiện ước đạt 1.101,9 nghìn tỷ đồng, giảm 9,3 nghìn
tỷ đồng (-0,8%) so dự toán.
+ Công tác điều hành chi NSNN năm 2022 được thực hiên chủ độ ng, chặ t chẽ, đảm bảo đúng
chính sách, chế đô, triệt để tiết kiệm chi thường xuyên, cắt giảm những nhiệ m vụ chi
chưạ thực sự cần thiết, châm triển khai, tập trung ưu tiên nguồn lực thực hiện Chương trình
phục
hồi và phát triển kinh tế - xã hội.
+ Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, công khai tài chính - ngân sách, nâng cao
kỷ luật, kỷ cương, nâng cao hiệu quả sử dụng kinh phí NSNN quản lý, sử dụng tài sản
công. Các nhiệm vụ chi được thực hiện theo dự toán, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã
hội, quản lý nhà nước, khắc phục hậu quả thiên tai dịch bệnh, đảm bảo an sinh xã hội.
- Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước năm 2022 của một số tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương như sau: thành phố Hà Nội đạt 36377.3 tỷ đồng tăng 12,3%; thành phố Hồ Chí Minh đạt
23274.3 tỷ đồng tăng 56,2%; thành phố Hải Phòng đạt 12498 tỷ đồng tăng 19,6%;…
- Tổng cục Thống cho biết, 5 Bộ vốn đầu thực hiện từ NSNN cao nhất năm 2022, bao gồm:
Bộ Giao thông Vận tải ước tính hơn 4.509 tỷ đồng, lũy kế 9 tháng hơn 30.287 tỷ đồng; Bộ Nông
nghiệp Phát triển nông thôn với 578 tỷ đồng, lũy kế 9 tháng khoảng 3.260 tỷ đồng; Bộ Tài
nguyên và Môi trường ước tính 907 tỷ đồng, Bộ Xây dựng ước tính 821 tỷ đồng và Bộ Y tế ước tính
558 tỷ đồng.
2.2. Vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước
Vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước đang ngày một phát huy vai trò quan trọng cho phát triển kinh tế
quốc gia.
- Những năm qua, vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước được giải ngân cho các dự án chiếm gần 3% tổng
vốn đầu toàn hội, bằng khoảng 1,2% GDP chiếm bình quân khoảng 37% tổng mức đầu
các dự án
- Góp phần quan trọng thu hút các nguồn vốn dài hạn khác của tổ chức tín dụng trong ngoài nước
để tài trợ cho các dự án phát triển, trong đó nhiều dự án trọng điểm, then chốt của đất nước; qua
đó thực hiện tốt nhiệm vụ phát triển kinh tế - hội từng thời kỳ theo đúng định hướng của Nhà nước,
Chính phủ.
- Hơn nữa, tín dụng đầu của Nhà nước đã góp phần tập trung các nguồn vốn cần thiết cho đầu
phát triển quốc gia, giúp nâng cao hiệu quả sử dụng, bảo toàn và phát triển được nguồn vốn của Nhà
nước.
Thực trạng hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước thời gian qua
- Tại Việt Nam, chính sách tín dụng đầu phát triển (ĐTPT) của Nhà nước được triển khai từ m
2000, đến nay đã hơn 20 năm. Tùy từng giai đoạn và thời điểm khác nhau, để phù hợp với điều kiện
kinh doanh của doanh nghiệp (DN) trong nước và định hướng phát triển các ngành, vùng kinh tế cũng
như yêu cầu của quá trình hội nhập quốc tế, Chính phủ đưa ra những nội dung ưu đãi phù hợp để
khuyến khích đầu tư, thể hiện qua danh mục dự án vay vốn, điều kiện cho vay, thời gian vay vốn, lãi
suất vay vốn, bảo đảm tiền vay…
- Trước đây, hoạt động tín dụng ĐTPT của Nhà nước được thực hiện thông qua một tổ chức tài chính
nhà nước là Quỹ Hỗ trợ phát triển, được thành lập theo Nghị định số 50/1999/NĐ-CP của Chính phủ.
lOMoARcPSD| 61265515
Đến năm 2006, nhiệm vụ triển khai hoạt động này được chuyển giao cho Ngân hàng Phát triển Việt
Nam (VDB) - quan được Thủ tướng Chính phủ thành lập theo Quyết định số 108/2006/QĐTTg
trên cơ sở tổ chức lại Quỹ Hỗ trợ phát triển.
- Tính tới 2021, VDB đã huy động được nguồn vốn lớn (gần 610.000 tỷ đồng) đáp ứng nhu cầu vốn
đầu tư dự án của các doanh nghiệp, đặc biệt là các dự án trọng điểm của Chính phủ.
+ Vốn do VDB cho vay trong giai đoạn 2006 - 2021 chiếm khoảng 5% tổng vốn đầu toàn xã
hội, bằng khoảng 2% GDP.
+ Tốc độ tăng trưởng nợ TDĐT của Nhà nước bình quân giai đoạn 2006 - 2021 đạt khoảng
3%/năm, tốc độ tăng trưởng tổng nợ bình quân giai đoạn 2006 - 2021 đạt khoảng
3,15%/năm.
+ Việc tiếp cận được với nguồn vốn đầu của Nhà nước qua VDB đã góp phần giúp cho các chủ
đầu tư đủ sức thực hiện nhiều dự án lớn, quan trọng: Thuỷ điện Sơn La, Thuỷ điện Lai Châu,
Nhà máy Lọc dầu Dung Quất, Nhà máy đạm Cà Mau, Vệ tinh Vinasat 1 và 2, Đường ôtô cao
tốc Nội - Hải Phòng, Nhà máy điện gió Bạc Liêu, Nhà máy sữa TH, Hệ thống truyền tải
điện miền Trung, miền Nam…Trong lĩnh vực này, tính tới năm 2021, VDB hiện đang quản
cho vay: 183 dự án trọng điểm trên phạm vi cả nước (dự án Nhóm A - quy tăng gần 2
lần so thời điểm thành lập).
+ Tỷ lệ vốn tín dụng của VDB thực hiện trong 10 năm qua đối với lĩnh vực công nghiệp, xây
dựng luôn tăng nhanh, duy trì mức bình quân hơn 70% nợ luôn cao hơn tỷ lệ vốn đầu
của toàn hội trong lĩnh vực này, thu hút các nguồn vốn khác trên thị trường cùng cho vay
đầu tư các dự án thuộc lĩnh vực công nghiệp, xây dựng.
+ Đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, VDB cho vay 230 dự án, góp phần quan trọng nâng
cao năng lực chế biến và bảo quản sau thu hoạch. 642 dự án với số vốn vay theo hợp đồng tín
dụng (HĐTD) gần 53.000 tỷ đồng đầu vào một số lĩnh vực trồng rừng nguyên liệu trồng
cây công nghiệp dài ngày, cây ăn quả, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản chế biến các sản
phẩm nông nghiệp, sản phẩm cây công nghiệp, lâm sản, thuỷ hải sản và thực phẩm, kiên cố
hoá kênh mương và đường giao thông nông thôn, xây dựng mới trạm bơm nông nghiệp, xây
dựng hạ tầng cụm tuyến dân cư vùng lũ. 307 dự án an sinh xã hội (trường học, bệnh viện, xử
rác thải, cấp nước sạch, nhà hội,…) với số vốn vay theo HĐTD đạt hơn 50.000 tỷ
đồng.
=> Thông qua những chính sách ưu đãi, nhiều DN tổ chức kinh tế đã tiếp cận được nguồn vốn tín dụng
ĐTPT của Nhà nước để triển khai các dự án đầu tư mà các tổ chức tín dụng thông thường không muốn cho
vay e ngại về khả năng thu hồi vốn hoặc không thu xếp được lượng vốn lớn thời hạn phù hợp với
nhu cầu của dự án.
2.3. Vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhà nước
Hoạt động đầu tư của DNNN trong các ngành, lĩnh vực, địa bàn then chốt, quan trọng của nền kinh
tế đã giúp giảm bớt đầu tư từ ngân sách Nhà nước trong thực hiện các dự án đầu tư phát triển kinh tế xã hội
quan trọng của đất nước; góp phần thực hiện tiến trình cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới hình tăng
trưởng. Đến cuối năm 2022, cả nước 827 doanh nghiệp vốn góp của nhà nước. Trong số đó, 478 doanh
nghiệp nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ 198 doanh nghiệp do nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều
lệ; 151 doanh nghiệp do nhà nước nắm giữ từ 50% vốn điều lệ trở xuống.
Tổng tài sản doanh nghiệp nhà nước lên tới 3.821.459 tỷ đồng, tăng 4% so với năm 2021, còn vốn
chủ sở hữu là 1.807.999 tỷ đồng.
- Các DNNN đã hoàn thành nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh; tổng doanh thu, lợi nhuận, nộp ngân sách,
giá trị vốn đầu tư phát triển thực hiện và thu nhập bình quân của người lao động tăng lên, một số tập
đoàn, tổng công ty đạt kim ngạch xuất khẩu lớn.
- Các DNNN (trọng tâm các tập đoàn, tổng công ty) đã đóng vai trò quan trọng của nền kinh tế,
DN đầu tàu, chủ chốt trong các lĩnh vực sản xuất
+ DNNN có vai trò lớn trong bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia như Tập đoàn Điện lực Việt
Nam (EVN), Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN), Tập đoàn Công nghiệp Than Khoáng sản
Việt Nam (TKV)...
lOMoARcPSD| 61265515
+ Đối với lĩnh vực viễn thông: Viettel, VNPT và Mobifone đã thể hiện rõ nét vai trò dẫn dắt trong
chuyển đổi số, xây dựng hạ tầng số cho các quan của Chính phủ và nhiều địa phương, tổ
chức, DN.
+ Một số DNNN xây dựng được các thương hiệu sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ uy tín, ảnh
hưởng lớn trong khu vực quốc tế về nhiều lĩnh vực như dịch vụ vận tải (Vietnam Airlines),
cảng biển và logistics (Saigonnewport), cao su...
- Năm 2022, tổng tài sản của 827 DNNN đạt 3.927.466 tỷ đồng, tăng 4% so với năm 2021. Vốn chủ sở
hữu 1.845.505 tỷ đồng, tăng 3%; tổng doanh thu đạt 2.752.607 tỷ đồng, tăng 29%; lãi phát sinh
trước thuế đạt 247.905 tỷ đồng, tăng 23%; nộp ngân sách nhà nước (NSNN) 391.550 tỷ đồng tỷ
đồng, tăng 21% so với năm 2021.
- Liên quan đến tình hình đầu tư ngoài nước, báo cáo của Chính phủ nêu rõ đến hết 2022, có 30 doanh
nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn nhà nước thực hiện đầu ra nước ngoài theo hình thức trực
tiếp đầu tư và đầu tư thông qua các công ty con cấp 1, cấp 2. Cũng trong năm 2022, số vốn đầu tư ra
nước ngoài thực hiện là 61,55 triệu USD tại 14 dự án, chủ yếu tại các dự án của các công ty con của
Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN); các dự án của Tập đoàn công nghiệp Viễn thông Quân đội
(Viettel).
2. Nguồn vốn của doanh nghiệp tư nhân
Nguồn vốn từ doanh nghiệp nhân bao gồm phần tích luỹ của các doanh nghiệp dân doanh, các hợp
tác xã. Theo kết quả Tổng điều tra kinh tế năm 2021, nguồn vốn đầu trong ngoài nước vào doanh nghiệp
duy trì nhịp tăng trưởng nhanh qua các năm, quy doanh nghiệp được mở rộng chủ yếu dựa trên sự phát
triển của nhân tố vốn thay vì nhân tố lao động.
Nguồn vốn thu hút vào doanh nghiệp tăng trưởng nhanh qua các năm, với tổng nguồn vốn sử dụng
cho SXKD của toàn bộ doanh nghiệp tại thời điểm 31/12/2020 đạt 48,7 triệu tỷ đồng, tăng 12,3% so với
cùng thời điểm năm 2019 và tăng 73,5% so với cùng thời điểm m 2016. Bình quân giai đoạn 20162020,
nguồn vốn thu hút đạt bình quân 38,4 triệu tỷ đồng/năm, với tốc độ tăng bình quân giai đoạn đạt 14,8%/năm,
tăng 104,1% so với bình quân giai đoạn 2011-2015.
Tốc độ tăng trưởng nguồn vốn luôn ở mức tăng trưởng cao hơn so tăng trưởng về số lượng lao động,
cho thấy quy mô về lao động bình quân của các doanh nghiệp có xu hướng thu hẹp nhưng quy mô về nguồn
vốn bình quân của các doanh nghiệp lại xu hướng mở rộng. Điều này cho thấy Việt Nam một thị trường
tiềm năng để thu hút vốn đầu tư, là tiền đề thúc đẩy các nguồn lực cho tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu.
3. Nguồn vốn tiết kiệm dân cư
Nguồn vốn trong dân cư phụ thuộc vào thu nhập và chi tiêu của các hộ gia đình. Quy mô của nguồn
tiết kiệm này phụ thuộc vào: Trình độ phát triển của đất nước (ở những nước trình độ phát triển thấp
thường có quy tỷ lệ tiết kiệm thấp); tập quán tiêu dùng của dân cư; chính sách động viên của nhà nước
thông qua chính sách thuế thu nhập và các khoản đóng góp xã hội….
Cùng với sự phát triển kinh tế của đất nước, một bộ phận không nhỏ trong dân tiềm năng v
vốn do có nguồn thu nhập gia tăng hay do tích luỹ truyền thống. Nhìn tổng quan nguồn vốn tiềm năng trong
dân cư không phải là nhỏ, tồn tại dưới dạng vàng, ngoại tệ, tiền mặt … nguồn vốn này xấp xỉ bằng 80% tổng
nguồn vốn huy động của toàn bộ hệ thống ngân hàng, Tuy nhiên, sự vận động nguồn vốn lớn đang nằm trong
dân còn nhiều hạn chế, tạo ra các xu hướng gây lãng phí tiềm ng nguồn vốn như ch trữ. Tiền tiết kiệm,
theo tập quán của người dân Việt Nam, thì thường sẽ mua vàng hoặc ngoại tệ để tích trữ. Theo thông tin báo
chí, n cứ vào con số do Hiệp hội Kinh doanh vàng thế giới công bố dựa trên số liệu nhập vàng của Việt
Nam thời gian qua, trong dân cư có khoảng trên dưới 500 tấn vàng. Nếu một phần lượng vàng này tách khỏi
cất trữ, chuyển hóa thành tiền, đưa vào lưu thông sẽ đem lại lượng vốn lớn cho nền kinh tế.
Ngoài ra, một phần không nhỏ của tiết kiệm dân cư bị lãng phí hàng năm là do được đưa vào các sàn cá độ,
đánh bạc, hoặc người dân bị dụ dỗ tham gia “đầu tư ảo” dẫn đến bị lừa chiếm đoạt tài sản. Trong những năm
qua, các quan chức năng đã phát hiện triệt phá được nhiều đường dây đánh bạc, độ bóng đá hàng
ngàn tỷ đồng, chủ yếu có hình thức online, máy chủ đặt tại nước ngoài. Công ty Cá cược Ladbrokes tại Anh
quốc cho rằng, doanh số của thị trường cá cược bóng đá bất hợp pháp tại Việt Nam ước tính từ 3-5% GDP
(khoảng 10 tỷ USD). Thêm nữa, gần đây xuất hiện các sàn giao dịch tài chính hình thức đa cấp, tiền ảo đã dụ
dỗ rất nhiều người dân tham gia “đầu tư” với cam kết lơi nhuận “không tưởng”. Tất cả những hoạt động này
lOMoARcPSD| 61265515
đều không được sự cho phép của Nhà nước nhưng lại thu hút được rất nhiều tiền của người dân đổ vào. Phần
lớn số tiền khổng lồ này đang “chảy” bất hợp pháp ra nước ngoài mỗi năm. II. Nguồn vốn đầu tư nước
ngoài
1. Nguồn vốn ODA
I. VAI TRÒ CỦA NGUỒN VỐN ODA ĐỐI VỚI CÁC QUỐC GIA ĐANG PHÁT TRIỂN
1. Nhu cầu của các nước đang và kém phát triển đối với nguồn vốn ODA
Nguồn vốn ODA nguồn vốn phát triển do các tchức quốc tế các chính phủ nước ngoài cung cấp
với các mục tiêu trợ giúp các nước đang phát triển. So với các hình thức tài trợ khác, ODA mang tính ưu
đãi cao hơn bất cứ nguồn ODF nào khác. Ngoài các điều kiện ưu đãi về lãi suất, thời hạn cho vay dài, khối
lượng vốn cho vay lớn, bao giờ trong ODA cũng có yếu tố không hoàn lại (còn gọi là thành tố tài trợ) đạt
ít nhất 25%.
Trên thực tế hiện nay, Việt Nam cũng đang có nhu cầu lớn trong việc sử dụng vốn ODA để phát triển
sở hạ tầng. Bước vào năm 2012, năm bản lề cho việc hoàn tất kế hoạch Phát triển KT - XH 5 năm (2011-
2015), Việt Nam càng cần nhiều hơn nữa sự hỗ trợ về ODA, trong đó đối tác chính yếu là Nhật Bản trong
việc cung cấp nguồn vốn vay này, nhằm phát triển sở hạ tầng, đáp ứng nhu cầu tăng trưởng kinh tế,
đặc biệt là công tác xóa đói giảm nghèo.
Hiện nay với các dự án đang giải ngân thực hiện bằng nguồn vốn ODA từ Nhật Bản như: Dự án Phát triển
cơ sở hạ tầng Cảng quốc tế Cái Mép - Thị Vải, đường cao tốc Bắc Nam (đoạn TP HCM – Dầu Giây), nhà
máy nhiệt điện Ô Môn II, đại lộ Đông Tây TP HCM, dự án cải thiện môi trường nước TP HCM vẫn đang
cần thêm nguồn vốn bổ sung để hoàn tất. Bên cạnh đó, còn hàng loạt công trình cơ sở hạ tầng quy mô lớn
thiết yếu như dự án phát triển cơ sở hạ tầng cảng cửa ngõ quốc tế Hải Phòng (cảng Lạch Huyện), đường
cao tốc Bắc Nam (đoạn Đà Nẵng - Quảng Ngãi), Trung tâm trụ Việt Nam, dự án cấp nước xử
nước thải Đồng Nai ,… cũng đang được chính phủ Việt Nam đề nghị chính phủ Nhật Bản cung cấp vốn
ODA.
Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng nguồn vốn vay ODA chủ yếu được dung vào các dán phúc lợi
phát triển cộng đồng tại các quốc gia đang và kém phát triển và đây cũng là nhu cầu cấp thiết nhất tại các
quốc gia này. Trong đó lĩnh vực giáo dục là một trong những ưu tiên hàng đầu để các nước đồng ý hỗ trợ
cho các nước đang kém phát triển vay bằng nh thức ODA. Chẳng hạn, vào ngày 21/08/2009, ngân
hàng Nhà nước và WB tại Việt Nam đã Hiệp định tài trợ cho chương trình đảm bảo chất lượng giáo
dục trường học Chính sách phát triển giáo dục đại học giai đoạn 1. Tổng số vốn ODA WB cho vay
trong hai dự án này là 177 triệu USD. Chương trình được thực hiện tại 35 tỉnh thành phố trên cả nước từ
2009-2015.
2. Lợi ích ODA mang lại cho các nước đang và kém phát triển
2.1. ODA là nguồn vốn bổ sung giúp cho các nước nghèo đảm bảo chi đầu phát triển, giảm gánh nặng
cho ngân sách nhà nước
Vốn ODA với đặc tính ưu việt là thời hạn cho vay dài thường là 10 - 30 năm, lãi suất thấp khoảng từ
0,25% đến 2%/năm. Chỉ nguồn vốn lớn với điều kiện cho vay ưu đãi như vậy Chính phủ các nước mới có
thể tập trung đầu tư cho các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế như đường sá, điện, nước, thuỷ lợi và các
hạ tầng hội như giáo dục, y tế. Những sở hạ tầng kinh tế xã hội được xây dựng mới hoặc cải tạo nhờ
nguồn vốn ODAđiều kiện quan trọng thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế của các nước nghèo. Theo tính toán
của các chuyên gia của WB, đối với các nước có thể chế chính sách tốt, khi ODA tăng lên 1% GDP thì tốc
độ tăng thêm 0.5%.
2.2. ODA giúp các nước phát triển nguồn nhân lực, bảo vệ môi trường
Một lượng ODA lớn được các nhà tài trợ các nước tiếp nhận ưu tiên dành cho đầu phát triển
giáo dục, đào tạo, nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả của nh vực này, tăng cường một bước cơ sở vật
chất kỹ thuật cho việc dạy và học của các nước. Bên cạnh đó, một lượng ODA khá lớn cũng được dành cho
các chương trình hỗ trợ lĩnh vực y tế, đảm bảo sức khỏe cộng đồng. Nhờ có sự tài trợ của cộng đồng quốc tế,
các nước đã gia tăng đáng kể chỉ số phát triển con người của quốc gia mình.
lOMoARcPSD| 61265515
Về phát triển nguồn nhân lực, tại Indonesia, mỗi năm có khoảng 7000 người được đưa đi đào tạo
tại Nhật Bản trong chương trình đào tạo đối tác của JICA. Trong năm tài chính 2000, 12 khóa học đã được
tổ chức tại Indo và 131 học viên từ châu Á và châu Phi đã đến Indo học tập.
Tại Trung Quốc, từ năm 1990 đến năm 1997, có khoảng 16 dự án gìn giữ môi trường sử dụng vốn
ODA của Nhật Bản. Các khoản vay ODA cam kết cho năm tài chính 2000 có 20 trong số 23 dự án là các
dự án nhằm bảo vệ môi trường. Bên cạnh đó, việc hợp tác cũng mở rộng sang lĩnh vực chống ô nhiễm
công nghiệp, các biện pháp chống ô nhiễm nước và không khí, quản lý môi trường, trồng rừng, chống sa
mạc hóa...
2.3. ODA giúp các nước xóa đói giảm nghèo
Xoá đói giảm nghèo một trong những tôn chỉ đầu tiên được các nhà tài trợ quốc tế đưa ra khi
hình thành phương thức hỗ trợ phát triển chính thức. Mục tiêu này biểu hiện tính nhân đạo của ODA.
Trong bối cảnh sử dụng có hiệu quả, tăng ODA một lượng bằng 1% GDP sẽ làm giảm 1% nghèo khổ, và
giảm 0,9% tỷ lệ tử vong trẻ sinh. Và nếu như c nước giàu tăng 10 tỷ USD viện trợ hằng năm sẽ
cứu được 25 triệu người thoát khỏi cảnh đói nghèo. Nhật dành nhiều vốn ODA cho việc xóa đói giảm
nghèo tại Indonesia, đất nước chịu nhiều thiên tai và dịch bệnh.
Tuy nhiên thực tế cho thấy nghèo vẫn còn vấn đề lớn nhất cần được giải quyết tại nước này, đặc
biệt trong nh hình khó khăn do cuộc khủng hoảng kinh tế và sự bất ổn trong nước trong những năm
gần đây. Tại Trung Quốc, nhờ sử dụng vốn ODA hiệu quả, số nông thôn nghèo khó Trung Quốc từ 94,22
triệu người tính đến cuối năm 2000, giảm xuống còn 26,88 triệu người năm 2010. Tỷ lệ dân số nông thôn
nghèo khó trong tổng số dân nông thôn Trung Quốc từ 10,2% năm 2000, giảm xuống còn 2,8% năm 2010.
Trung Quốc đã thực hiện trước thời hạn mục tiêu giảm 50% dân số nghèo khó theo Mục tiêu phát triển
thiên niên kỷ của LHQ, góp phần quan trọng cho sự nghiệp xóa giảm đói nghèo của toàn thế giới.
2.4 ODA là nguổn bổ sung ngoại tệ và làm lành mạnh cán cân thanh toán quốc tế của các nước
Đối với các nước đang phát triển, khó khăn kinh tế là điều không thể tránh khỏi, trong đó nợ nước
ngoài thâm hụt cán cân thanh toán quốc tế ngày một gia tăng tình trạng phổ biến. Vì vậy ODA
nguồn bổ sung ngoại tlàm lành mạnh cán cân thanh toán quốc tế của các nước đang phát triển... ODA,
đặc biệt các khoản trợ giúp của IMF có chức năng làm lành mạnh hoá cán cân vãng lai cho các nước tiếp
nhận, từ đó ổn định đồng bản tệ.
Bên cạnh đó, việc chuyển chính sách kinh tế nhà nước đóng vai trò trung tâm sang chính sách
khuyến khích nền kinh tế phát triển theo định hướng phát triển khu vực kinh tế tư nhân cần phải có một
lượng vốn lớn, do vậy mà các chính phủ lại dựa vào nguồn hỗ trợ ODA.
Ngày 14 tháng 5 ngày 15 tháng 5 năm 1997, đồng Baht Thái bị tấn ng đầu quy lớn
mất giá gần 50%. Vào tháng 1 năm 1998, đã xuống đến mức 56 Baht mới đổi được 1 dollar Mỹ. Chỉ
số thị trường chứng khoán Thái Lan đã tụt từ mức 1.280 cuối năm 1995 xuống còn 372 cuối năm 1997.
Đồng thời, mức vốn hóa thị trường vốn giảm từ 141,5 tỷ USD xuống còn 23,5 tỷ USD. Finance One, công
ty tài chính lớn nhất của Thái Lan bị phá sản. Ngày 11 tháng 8, IMF tuyên bố sẽ cung cấp một gói cứu trợ
trị giá 16 tỷ dollar Mcho Thái Lan. Ngày 20 tháng 8, IMF thông qua một gói cứu trợ nữa trị giá 3,9 tỷ
đôla Mỹ.
Kết quả: đồng Bath Thái Lan đã tăng giá trở lại sau 1 năm sụt giá thảm hại (55 Baht/USD vào
tháng 12/1997 tăng lên khoảng 38 Baht/USD tháng 11/1998).
2.5. ODA được sử dụng có hiệu quả sẽ trở thành nguồn nhân lực bổ sung cho đầu tư tư nhân
Ở những quốc gia có cơ chế quản lý kinh tế tốt, ODA đóng vai trò như nam châm “hút” đầu tư tư
nhân theo tỷ lệ xấp xỉ 2 USD trên 1 USD viện trợ. Đối với những nước đang trong tiến trình cải cách thể
chế, ODA còn góp phần củng cố niềm tin của khu vực tư nhân vào công cuộc đổi mới của Chính phủ.Tuy
nhiên, không phải lúc nào ODA cũng phát huy tác dụng đối với đầu tư nhân. những nền kinh tế có
môi trường bị bóp méo nghiêm trọng thì viện trợ không những không bổ sung mà còn “loại trừ” đầu tư tư
nhân. Điều này giải thích tại sao các nước ĐPT mắc nợ nhiều, mặc dù nhận được một lượng ODA lớn của
cộng đồng quốc tế song lại không hoặc tiếp nhận được rất ít vốn FDI.
lOMoARcPSD| 61265515
2.6. ODA giúp các nước tăng cường năng lực thể chế thông qua các chương trình, dự án hỗ trợ
công cuộc cải cách pháp luật, cải cách hành chính và xây dựng chính sách quản lý kinh tế phù hợp với
thông lệ quốc tế
Lượng vốn ODA nhận được từ các tổ chức tài chính quốc tế càng cao, càng chứng tỏ độ tin cậy
của cộng đồng quốc tế nước tiếp nhận càng lớn. Ngược lại nước nhận viện trợ phải nỗ lực cải cách thể
chế, tích cực chống thể chế, tích cực chống tham nhũng và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn quốc gia, đây
những điều khoản tiên quyết để được nhận htrợ nhiều hơn từ các nhà tài trợ song phương đa
phương.
ODA giúp các nước nghèo cải cách hành chính, kinh tế thông qua các chương trình viện trợ dự án,
làm cho chế quản kinh tế những nước này tiếp cận với những chuẩn mực chung quốc tế; góp phần
cải tiến cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa và đưa nền kinh tế tham gia phân công lao động quốc
tế một cách mạnh mẽ.
2.7. ODA dưới dạng viện trợ không hoàn lại giúp các nước nhận viện trợ tiếp thu những thành
tựu khoa học, công nghệ hiện đại và phát triển nguồn nhân lực
Dù cho các nước tài trợ thường không muốn chuyển giao những công nghệ cao nhưng trên thực
tế cũng công nghệ ơng đối cao được chuyển giao làm tăng thêm tiềm lực khoa học công nghệ của
nước tiếp nhận. Khả năng này thường được chuyển giao qua các dự án hỗ trợ kỹ thuật với nhiều loại hình
khác nhau và gắn với các dự án khác nhau, như các dự án về huấn luyện đào tạo chuyên môn, các chương
trình về tuyển cử quốc gia, c dự án về cung cấp thiết bị vật liệu độc lập; các chương trình cử các
đoàn khảo sát về phát triển… Bên cạnh đó, ODA giúp c nước đang phát triển phát triển nguồn nhân
lực, bảo vệ môi trường. Một lượng ODA lớn được các nhà tài trợ và các nước tiếp nhận ưu tiên dành cho
đầu tư phát triển giáo dục, đào tạo, nhằm nâng cao chất lượng và hiệu qu của lĩnh vực này, tăng cường
một bước sở vật chất kỹ thuật cho việc dạy học của các nước đang phát triển. Bên cạnh đó, một
lượng ODA khá lớn cũng được dành cho các chương trình hỗ trợ lĩnh vực y tế, đảm bảo sức khỏe cộng
đồng. Nhờ có sự tài trợ của cộng đồng quốc tế, các nước đang phát triển đã gia tăng đáng kể chỉ số phát
triển con người của quốc gia mình.
II. Sự thay đổi của nguồn vốn ODA từ năm 2016-2020 1. ODA Việt Nam kể từ khi Việt Nam
trở thành nước có thu nhập trung bình (2010)
ODA là một nguồn ngoại lực quan trọng ở Việt Nam. Kể từ khi Việt Nam trở thành nước thu
nhập trung bình thấp vào năm 2010, đến năm 2017 thì tổng số vốn ODA cam kết là gần 39,15 tỷ USD và
Việt Nam đã giải ngân được hơn 33,13 tỷ USD (tương đương với 84,64% tổng vốn ODA cam kết), (xem
Hình 1 để hơn chi tiết ODA theo các năm). Một điểm cần lưu ý là, do vốn ODA cam kết theo sliệu
của OECD chính số tiền các nhà tài trợ đã tạm ứng để thực hiện các dự án ODA nên mức độ giải
ngân vốn ODA của Việt Nam theo cách hiểu này là cao hơn so với các số liệu về tỷ lệ giải ngân/cam kết
vốn ODA do Bộ Kế hoạch và Đầu tư công bố.
Số ODA giải ngân ở Việt Nam có xu hướng tăng lên từ năm 2010 đến năm 2014 nhưng bắt đầu suy
giảm từ năm 2015 đến 2017 do các nhà tài trợ bắt đầu cắt giảm ODA cho Việt Nam. Thêm vào đó, bắt
đầu từ 01/7/2017, Việt Nam đã chính thức tốt nghiệp ODA theo tiêu chuẩn của WB. Điều đó có nghĩa là
Việt Nam không còn nhận được các khoản vay vốn ưu đãi từ IDA của WB phải chịu các khoản vay
kém ưu đãi, dần tiến tới vay theo điều kiện thị trường. Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) cũng xếp Việt
Nam vào nhóm B, nhóm đối tượng vay hỗn hợp chứ không thuộc diện chỉ nhận được các khoản vay ưu
đãi.
Tỷ lệ ODA trên tổng thu nhập quốc dân (GNI) liên tục giảm ở Việt Nam nhưng ODA bình quân
đầu người ở Việt Nam lại liên tục tăng. Năm 2010, vốn ODA giải ngân đạt 2,64% GNI nhưng đến năm
2017 thì chỉ còn đạt 1,11% GNI của Việt Nam. ODA bình quân đầu người năm 2014 45,55 USD nhưng
đến năm 2017 chỉ còn 24,87 USD. Mặc dù được xác định là một nguồn ngoại lực quan trọng và có quy
hoạch, định hướng thu hút và sử dụng ODA định kỳ 5 năm một lần song sự đóng góp của ODA cho GNI
của Việt Nam chỉ ở mức độ khiêm tốn. Tuy nhiên, nguồn vốn này có vị trí quan trọng đối với đầu tư phát
triển trong bối cảnh ngân sách nhà nước còn hạn hẹp nhu cầu phát triển sở hạ tầng kinh tế,
hội lại rất lớn.
lOMoARcPSD| 61265515
ODA vào Việt Nam chủ yếu dưới hai hình thức là ODA viện trợ và ODA vay trong đó vốn vay
ODA xu hướng ngày càng tăng ngày càng chiếm tỷ trọng lớn so với ODA viện trợ. Trong giai
đoạn 2010 - 2017, Việt Nam đã phải trả hơn 5,83 tỷ USD tiền nợ gốc vay ODA hơn 2,3 tỷ lãi vay
ODA, tổng cộng gần 8,15 tỷ USD (tương đương với 24,6% tổng vốn ODA giải ngân cho cả giai đoạn)2
. Bên cạnh 2 hình thức ODA viện trợ và ODA vay thì còn có một hình thức ODA vào Việt Nam
lOMoARcPSD| 61265515
nữa ODA đầu tư vào tài sản (Equity Investment) tuy nhiên hình thức này chiếm tỷ trọng rất nhỏ (0,43%
tổng ODA vào Việt Nam cho cả giai đoạn 2010 - 2017) với giá trị khoảng 142,54 triệu USD cho cả giai
đoạn
Các nước thuộc Uỷ ban Hỗ trợ phát triển của OECD - DAC và các tổ chức đa phương quốc
tế là các nhà tài trợ ODA chủ yếu cho Việt Nam trong đó ODA từ các nước DAC chiếm 62,2%, từ các
tổ chức đa phương chiếm 37,56% tổng số ODA giải ngân cho cả giai đoạn 2010 - 2017. Tuy nhiên, số
ODA từ các nước DAC hiện đang có tỷ trọng giảm so với số ODA từ các tổ chức đa phương tài trcho
Việt Nam. Điều này cho thấy xu hướng của các đối tác tài trợ cho Việt Nam trong thời gian tới là các tổ
chức đa phương chứ không phải các nước riêng rẽ. Đối với các nhà tài trợ các tổ chức đa phương thì
vốn ODA từ IDA chiếm tỷ trọng lớn nhất (24,63% tổng vốn ODA cho cả giai đoạn). Tuy nhiên một điểm
đáng lưu ý là mức độ giải ngân ODA qua khu vực công chỉ đạt 84,66% ODA cam kết (thấp thứ hai trong
nhóm các kênh chuyển giao vốn ODA vào Việt Nam). Mức độ giải ngân thấp nhất là qua kênh các tổ chức
đa phương (đạt 72,83% vốn ODA cam kết)2 . Bên cạnh đó, xét theo hình thức ODA thì 98,86% ODA vay
là thông qua khu vực công hay nói cách khác, chỉ khu vực công mới có khả năng tiếp cận nguồn vốn
vay ODA (Hình 8). Còn đối với ODA viện trợ, 57,56% ODA viện trợ vào Việt Nam là qua kênh chuyển
giao từ khu vực công; 12,41% qua các tổ chức đa phương; 7,8% qua c tổ chức giáo dục, nghiên
cứu và nhóm think-tanks. Đây chính là một điểm mà Việt Nam cần lưu ý khi lập đề án thu hút vốn ODA
viện trợ
Theo OECD, căn cứ vào mục tiêu thực hiện mà các dự án ODA được phân bổ vào 11 nhóm lĩnh vực.Đó là:
- Nhóm 1: Các dịch vụ và cơ sở hạ tầng xã hội
- Nhóm 2: Các dịch vụ và cơ sở hạ tầng kinh tế
- Nhóm 3: Nhóm ngành sản xuất
- Nhóm 4: Nhóm đa ngành, đa lĩnh vực
- Nhóm 5: Nhóm hỗ trợ chương trình chung và hỗ trợ hàng hóa
- Nhóm 6: Các hoạt động liên quan đến nợ
- Nhóm 7: Nhóm hỗ trợ nhân đạo
- Nhóm 8: Chi phí hành chính của nhà tài trợ
- Nhóm 9: Hỗ trợ các tổ chức phi chính phủ
- Nhóm 10: Hỗ trợ người tị nạn ở nước tài trợ
- Nhóm 11: Các lĩnh vực khác
Từ năm 2010 đến 2017, tỷ trọng ODA cho nhóm Các dịch vụ sở hạ tầng kinh tế chiếm tỷ lệ cao
nhất với giá trị gần 15,77 tỷ USD (chiếm 47,6% tổng số vốn ODA giải ngân cho cả giai đoạn); tiếp đến
nhóm Các dịch vụ sở hạ tầng hội (9,3 tỷ USD, chiếm 28,11%) (3). Nhóm Đa ngành, đa lĩnh
vực xếp vị trí thứ ba với 3,89 tỷ USD (11,76%); xếp thứ tư là nhóm ngành sản xuất với 2,67 tỷ USD (8%).
ODA đã hỗ trợ xây dựng và phát triển một số ngành và lĩnh vực trọng yếu của Việt Nam như Giao thông
- vận tải kho bãi; năng lượng (chính sách năng lượng, năng lượng tái tạo, chính sách phân phối năng
lượng); cấp nước và vệ sinh; giáo dục; các lĩnh vực đa ngành; bảo vệ môi trường; nông lâm ngư nghiệp;
Chính phủ hội dân sự; y tế; hỗ trợ ngân sách; Dịch vụ tài chính ngân hàng; công nghiệp, khai
khoáng và xây dựng…
Tuy nhiên, một điểm rất đáng lưu ý vốn ODA phân bổ cho lĩnh vực Giao thông - vận tải và kho
bãi và lĩnh vực Năng lượng chủ yếu là vốn ODA vay với số lượng vay vốn ngày càng tăng. Nếu như năm
2010, 93,94% vốn ODA cho lĩnh vực Giao thông - vận tải là vốn vay thì đến năm 2017, tỷ trọng này
97,95%. Tương tự như vậy, vốn vay ODA của ngành Năng lượng vào năm 2010 95,57% và đến m
2017 là 96,73%. Vốn ODA cho lĩnh vực Cấp nước vệ sinh cũng tới 82,62% là vốn vay. Riêng đối
với lĩnh vực Giáo dục thì vốn ODA cho lĩnh vực này gần một nửa từ nguồn ODA viện trợ (47,74%).
Lĩnh vực Bảo vệ môi trường nói chung và Các lĩnh vực đa ngành có hơn 30% vốn ODA là từ ODA viện
trợ.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 61265515
CHƯƠNG 2: ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN
d, KH – CN phát triển tác động đến các lĩnh vực KT – XH e,
Vai trò của KH – CN đối với tăng trưởng phát triển kinh tế
PHẦN 1: Đầu tư tác động tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế
1. Tác động của đầu tư tới chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
2. Tác động của đầu tư tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng lãnh thổ
3. Tác động của đầu tư tới chuyển dịch cơ cấu theo thành phần kinh tế
Phần 4: Ảnh hưởng của đầu tư đến tăng trưởng kinh tế
1. Đầu tư đã đóng góp tích cực đến tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam
A. THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN THEO CÁC NỘI DUNG ĐẦU TƯ CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2016 - 2021.
I. Đầu tư phát triển sản xuất
II. Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng - kỹ thuật
III. Đầu tư phát triển văn hóa, giáo dục, y tế và các dịch vụ xã hội
IV. Đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật
V. Đầu tư tác động đến Môi trường
B, HỆ SỐ ICOR + ĐẦU TƯ CÔNG
I. Nguồn vốn đầu tư trong nước
1. Nguồn vốn nhà nước: 2.1. Ngân sách nhà nước
2.2. Vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước
2.3. Vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhà nước
2. Nguồn vốn của doanh nghiệp tư nhân
3. Nguồn vốn tiết kiệm dân cư
II. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài 1. Nguồn vốn ODA
I. VAI TRÒ CỦA NGUỒN VỐN ODA ĐỐI VỚI CÁC QUỐC GIA ĐANG PHÁT TRIỂN
1. Nhu cầu của các nước đang và kém phát triển đối với nguồn vốn ODA
2. Lợi ích ODA mang lại cho các nước đang và kém phát triển
II. Sự thay đổi của nguồn vốn ODA từ năm 2016-2020
1. ODA ở Việt Nam kể từ khi Việt Nam trở thành nước có thu nhập trung bình (2010)
2. ODA trong phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế Việt Nam
- Mối quan hệ giữa đầu tư ODA và tăng trưởng GDP
2. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI
1. Tình hình thu hút đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 2021 tại Việt Nam
1.1. Tác động của FDI vào tăng trưởng kinh tế
1.2. Tác động của FDI vào chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
1.3. Tác động đến tiến bộ xã hội: phát triển và tạo việc làm cho nguồn nhân lực
1.4. Tác động đến phát triển khoa học – công nghệ
1.5. Tác động đến môi trường
2. Các chính sách, hướng đi, hành động cần có để thích ứng với xu hướng thế giới về FDI
2.1. Các biện pháp để thu hút nguồn vốn FDI
2.1.1. Các điều kiện cần chuẩn bị để phát triển môi trường đầu tư ở Việt Nam
2.1.2. Một số chính sách cụ thể để cải thiện môi trường đầu tư
2.2. Giảm thiểu các hạn chế do nguồn vốn FDI
CHƯƠNG 2: ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN
d, KH – CN phát triển tác động đến các lĩnh vực KT – XH lOMoAR cPSD| 61265515 -
Công nghiệp, xd, giao thông: hoạt động khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo tiếp tục hỗ trợ
phát triển sản phẩm, hàng hóa mang nhãn hiệu Việt Nam có giá trị gia tăng và tính cạnh tranh cao trên thị
trường; nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm; nâng cao tỷ lệ nội địa hóa, làm chủ công nghệ trong các
lĩnh vực cơ khí chế tạo, thiết bị điện, công nghiệp hỗ trợ... -
Trong lĩnh vực bảo vệ và chăm sóc sức khỏe cộng đồng: nhiều công nghệ và kỹ thuật tiên tiến đã
được áp dụng trong chẩn đoán và điều trị, giúp nâng cao chất lượng dịch vụ khám, chữa bệnh, giảm chi phí
cho người dân và xã hội. Dù là nước đang phát triển, nhưng Việt Nam đã nằm trong tốp 3 khu vực Đông
Nam Á và 43 nước trên thế giới tự sản xuất được vắc-xin, rất thành công trong công tác phòng ngừa và thanh
toán các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm; làm chủ được các kỹ thuật và công nghệ y học hiện đại ở trình độ
cao, như ghép tạng và đa tạng,... Đặc biệt, trong đại dịch COVID-19, chúng ta đã kịp thời đặt hàng nghiên
cứu, phát triển kít xét nghiệm nhanh, hỗ trợ truy vết người tiếp xúc, thiết kế, sản xuất rô-bốt, máy thở, phác
đồ điều trị và kháng thể đơn dòng để sản xuất thuốc đặc hiệu điều trị COVID-19, nghiên cứu để sản xuất vắc-xin. -
quốc phòng và an ninh quốc gia: khoa học - công nghệ đã góp phần thiết kế, chế tạo mới và cải tiến
được nhiều loại vũ khí, trang thiết bị kỹ thuật công nghệ cao; xây dựng được các hệ thống giám sát và kiểm
soát an toàn, an ninh thông tin trên không gian mạng. -
Trong công nghiệp, hàng loạt kỹ thuật tiên tiến được áp dụng, tạo nhiều sản phẩm chất lượng cao :
hàngmay mặc, thuốc lá, đồ nhựa, cao su, đồ điện máy, điện tử… nhất là trong chế tạo máy móc, thiết bị phụ
tùng và đổi mới công nghệ, kinh doanh sản xuất ô tô, xe máy, nhằm giải quyết nguyên vật liệu, thiết bị thay thế. -
Trong công nghiệp dầu khí: đội ngũ cán bộ khoa học trong nước, đã có khả năng tiếp thu và làm chủ
công nghệ mới. CN chế biến nông- lâm- hải sản cũng được đẩy mạnh một bước -
Trong lĩnh vực năng lượng: nhiều công trình, nghiên cứu KH&CN đã tập trung vào công tác quy
hoạch,sử dụng hợp lý các nguồn năng lượng. Đổi mới CN xây dựng các nhà máy thuỷ điện, nhiệt điện,
nghiên cứu các phương pháp giảm tổn thất năng lượng trong truyền tải điện và đổi mới CN. Hệ thống năng
lượng đã phát triển nhanh chóng : 80% địa bàn xã ở khu vực nông thôn, hơn 50% hộ gia đình đã có điện sử dụng. -
Trong giao thông vận tải: KH&CN đã góp phần quan trọng vào việc nâng cấp và phát triển mạng
lưới, đường bộ, đường sắt, đường thuỷ, đường sông… đã xây dựng một số công trình quan trọng bằng việc
áp dụng các CN mới : đóng tàu biển trọng tải 3.000 tấn, công trình hạ tầng cất cánh sân bay Tân Sơn Nhất,
thắng thầu nhiều công trình giao thông ở Lào, Campuchia… với việc áp dụng CN mới trong gia cố nền móng
và thi công mặt đường. -
Trong viễn thông: đã xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng thông tin hiện đại bằng việc áp dụng kỹ
thuật số, thông tin vệ tinh, cáp sợi quang… đủ mạnh để hoà nhập mạng thông tin quốc tế và khu vực. Viễn
thông nước ta hiện được xếp vào một trong những nước có tốc độ phát triển nhanh nhất thế giới. Bên cạnh
mạng lưới hữu tuyến điện phát triển rộng khắp với các loại hình dịch vụ đa dạng, các hệ thống thông tin di
động, máy sóng ngắn, cực ngắn, cũng phát triển mạnh, được các tổ chức kinh tế, cơ quan trong và ngoài
nước sử dụng. Thị trường tin học nước ta những năm qua, có tốc độ tăng trưởng trung bình hằng năm khoảng
40-50%. Hiện các cơ quan Đảng, chính phủ đang sử dụng hàng vạn chiếc máy vi tính, trong đó lưu giữ nhiều
thông tin, số liệu bí mật quan trọng. Liên quan đến kinh tế, quốc phòng và an ninh quốc gia. Trên đà ấy, việc
sử dụng máy vi tính ở nước ta bắt đầu chuyển từ giai đoạn sử dụng riêng lẻ, sang hình thức sử dụng mạng
cục bộ và mạng diện rộng. -
Trong y tế: hàng loạt các thành tựu chăm sóc sức khỏe ban đầu, miễn dịch học, cắt giảm, tỷ lệ mắc
các chứng bệnh nguy hiểm : lao, phong, sốt rét, ho gà, bại liệt, sởi… Kết hợp y học truyền thống với y học
hiện đại, sản xuất nhiều mặt hàng thuốc mới. Nâng cao trình độ trong phòng và chuẩn đoán bệnh, ngăn ngừa
bệnh truyền nhiễm : viêm gan, viêm não Nhật Bản… e, Vai trò của KH – CN đối với tăng trưởng phát triển kinh tế
Khoa hoc, công nghệ đóng góp quan trọng cho tăng trưởng và phát triển kinh tế. Tăng trưởng kinh
tế của Việt Nam những năm gần đây giảm dần phụ thuộc vào khai thác tài nguyên, xuất khẩu thô và mở
rộng tín dụng. Chất lượng tăng trưởng được cải thiện rõ nét thể hiện qua tốc độ tăng năng suất lao động.
Đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) tăng từ 33.6% bình quân giai đoạn 2011-2015 lên lOMoAR cPSD| 61265515
khoảng 43.3% trong giai đoạn 3 năm 2016-2018; giai đoạn 2016-2020 ước tính đạt 43,5%. Tốc độ tăng
năng suất lao động bình quân giai đoạn 2016-2018 đã tăng lên 5,8%/năm. Đặc biệt, năm 2018, tốc độ tăng
trưởng kinh tế cao kỷ lục trong 10 năm qua, đạt trên 7% nhưng tăng trưởng tín dụng chỉ đạt dưới 14% so
với mức 17-18%, của các năm trước đó. Điều này chứng tỏ tăng trưởng kinh tế đã không phụ thuộc vào mở
rộng tín dụng mà đã theo hướng thay đổi về chất lượng.
Những chỉ số nêu trên chứng minh rằng nền kinh tế Việt Nam đang có sự chuyển dịch về mô hình
tăng trưởng và sự thăng tiến cao hơn về chuỗi giá trị. Và có thể khẳng định rằng khoa học công nghệ có
nhiều tiến bộ, đạt được những thành tựu quan trọng, đóng góp đáng kể cho tăng trưởng và sức cạnh tranh
của nền kinh tế. Tổ chức sở hữu trí tuệ Thế giới (WIPO) đánh giá, trong những năm gần đây, Việt Nam luôn
tăng hạng trong xếp hạng Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu, dẫn đầu nhóm quốc gia có thu nhập trung bình
thấp. Theo đó, năm 2017 tăng 12 bậc, năm 2018 tăng tiếp 2 bậc, xếp thứ 45/126 quốc gia, trong đó, nhóm
chỉ số về tri thức – công nghệ của Việt Nam có thứ hạng rất cao, thứ 28. KH – CN đã thể hiện rõ vai trò là
nguồn lực quan trọng trong phát triển kinh tế của đất nước. Giai đoạn 2015 - 2020, năng suất lao động được
nâng lên thể hiện qua chỉ số năng suất các yếu tố tổng hợp TFP (tăng từ 33,6% giai đoạn 2011 - 2015 lên
44,46% giai đoạn 2016 - 2019), tỉ trọng giá trị xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao trong tổng giá trị hàng
hóa xuất khẩu đạt 50% năm 2020.
Vai trò của doanh nghiệp trong chuỗi hoạt động nghiên cứu và đổi mới sáng tạo ngày càng trở nên
quan trọng. Thị trường công nghệ được thúc đẩy phát triển, cả nước có 15 sàn giao dịch công nghệ, 50 vườn
ươm công nghệ, 186 tổ chức đại diện sở hữu công nghiệp và mạng lưới các trung tâm ứng dụng và chuyển
giao tiến bộ KH&CN trên toàn quốc. Những đóng góp của KH&CN còn thể hiện qua chỉ số đổi mới sáng
tạo của Việt Nam liên tục tăng. Năm 2017 tăng 12 bậc, năm 2018 tăng 2 bậc, năm 2019 tăng tiếp 3 bậc, xếp
thứ 42 trên 129 quốc gia, đưa Việt Nam vươn lên dẫn đầu nhóm 26 quốc gia thu nhập trung bình thấp và đứng thứ 3 ASEAN.
PHẦN 1: Đầu tư tác động tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế
1. Tác động của đầu tư tới chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
Đầu tư tác động làm thay đổi tỷ trọng đóng góp vào GDP của các ngành, Đầu tư vào ngành nào càng
nhiều thì ngành đó càng có khả năng đóng góp lớn hơn vào GDP. Việc tập trung đầu tư vào ngành nào phụ
thuộc vào chính sách và chiến lược phát triển của mỗi quốc gia. Thông qua các chính sách và chiến lược,
nhà nước có thể tăng cường khuyến khích hoặc hạn chế đầu tư đối với các ngành cho phù hợp với từng giai
đoạn phát triển. Dẫn đến sự tăng đầu tư vào 1 ngành sẽ kéo theo sự tăng trưởng kinh tế của ngành đó và thúc
đẩy sự phát triển của các ngành, các khu vực có liên quan. Vì vậy sẽ tạo ra sự tăng trưởng kinh tế chung của
đất nước. Việc xác định nên tập trung đầu tư vào ngành nào có tính chất quyết định sự phát triển của quốc
gia. Nhưng kinh nghiệm của các nước trên thế giới đã cho thấy con đường tất yếu có thể tăng trưởng nhanh
với tốc độ mong muốn là tăng cường đầu tư nhằm tạo ra sự phát triển ở khu vực công nghiệp và dịch vụ. Do
đó, để thực hiện được các mục tiêu đã định, Việt Nam cũng không thể nằm ngoài sự phát triển.
Đầu tư đã tác động đến chuyển dịch cơ cấu ngành theo hướng tích cực phù hợp với tiến trình CNH, HĐH đất
nước. Cụ thể được thể hiện thông qua bảng số liệu sau: 2016 2017 2019 2020 2021
Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản 16,32 15,34 13,96 14,85 12,36
Khu vực công nghiệp và xây dựng 32,72 33,4 34,49 33,72 37,86 Khu vực dịch vụ 40,92 41,26 41,64 41,63 40,95
Tỉ trọng GDP các ngành kinh tế giai đoạn 2016-2021 (%)
Việc chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế cũng phụ thuộc vào đầu tư nước ngoài. Trong giai đoạn 20162021,
đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tập trung nhiều nhất vào 4 ngành kinh tế tính theo số vốn đăng ký, gồm: lOMoAR cPSD| 61265515
1. Ngành công nghiệp chế biến chế tạo vẫn là lĩnh vực thu hút nhiều sự quan tâm của nhà đầu tư nước
ngoài nhất với 5.281 dự án, chiếm 35,1% số dự án và 54,5% số vốn đăng ký;
2. Kinh doanh bất động sản 428 dự án, chiếm 2,8% số dự án và 13% số vốn;
3. Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí chỉ có 71 dự án được
cấp phép, chiếm 0,47% số dự án nhưng chiếm tới 9,9% số vốn, trong đó ngành điện thu hút lượng lớn
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài;
4. Bán buôn bán lẻ và sửa chữa ô tô, xe máy với 3.765 dự án, chiếm 25% số dự án và 6% số vốn. (Nguồn: Tổng cục thống kê)
2. Tác động của đầu tư tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng lãnh thổ
Đối với cơ cấu kinh tế vùng lãnh thổ, đầu tư có tác dụng giải quyết những vấn đề mất cân đối về
phát triển giữa các vùng lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng đói nghèo, phát huy
tối đa những lợi thế so sánh về tài nguyên, địa thế, kinh tế, chính trị…của những vùng có khả năng phát triển nhanh hơn.
Cơ cấu vốn đầu tư tập trung vào 2 vùng kinh tế lớn là vùng Đồng bằng sông Hồng và vùng Đông
Nam Bộ. Trong 5 năm qua, Vùng Đông Nam Bộ vẫn là vùng thu hút được nhiều dự án đầu tư trực tiếp nước
ngoài lớn nhất cả nước với 7.232 dự án với 64,8 tỷ USD vốn đăng ký cấp mới, tăng thêm và góp vốn mua
cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài, chiếm 48% tổng số dự án và 38,6% tổng số vốn; đứng thứ hai là Vùng
Đồng bằng sông Hồng với 5.466 dự án với 61,5 tỷ USD, chiếm 36,3% tổng số dự án và 36,6% tổng số vốn.
Vùng Trung du miền núi phía Bắc và vùng Tây Nguyên là hai vùng thu hút được ít nhất các dự án đầu tư,
đặc biệt là vùng Tây Nguyên chỉ thu hút được 39 dự án với 543 triệu USD chiếm 0,26% tổng số dự án và
0,32% tổng số vốn. Hai vùng này cũng không có sự cải thiện về thu hút đầu tư nước ngoài so với giai đoạn 2011-2015.
Có thể thấy nguồn vốn đầu tư thường được tập trung tại những vùng kinh tế trọng điểm của đất nước. Các
vùng kinh tế trọng điểm được đầu tư phát huy thế mạnh của mình, góp phần lớn vào sự phát triển chung của
cả nước, làm đầu tàu kéo kinh tế chung của đất nước đi lên.Về đầu tư bằng nguồn vốn nước ngoài, vốn FDI
thường đầu tư vào các vùng kinh tế phát triển, do đó các vùng kinh tế trọng điểm đã chiếm tới 80% vốn FDI.
Ngược lại, vốn ODA lại thường được ưu tiên hỗ trợ các vùng kinh tế kém phát triển, giúp nâng cao đời sống,
thoát khỏi đói nghèo cho vùng.
3. Tác động của đầu tư tới chuyển dịch cơ cấu theo thành phần kinh tế
Đối với mỗi quốc gia, việc tổ chức các thành phần kinh tế chủ yếu phụ thuộc vào chiến lược phát triển
của chính phủ. Các chính sách kinh tế sẽ quyết định thành phần nào là chủ đạo, thành phần nào là được ưu
tiên phát triển, vai trò, nhiệm vụ của các thành phần trong nền kinh tế. Ở đây, đầu tư đóng vai trò nhân tố thực hiện.
Đầu tư tạo ra sự phong phú, đa dạng về nguồn vốn đầu tư. Cùng với sự xuất hiện của các thành phần kinh tế
mới là sự bổ sung một lượng vốn không nhỏ vào tổng vốn đầu tư của toàn xã hội, tạo nên nguồn lực mạnh mẽ
hơn trước để nâng cao tăng trưởng và phát triển kinh tế. Việc có thêm các thành phần kinh tế đã huy động và
tận dụng được các nguồn lực trong xã hội một cách hiệu quả hơn, khuyến khích mọi các nhân tham gia đầu tư vào kinh tế. 2016 2017 2018 2019 2020 Kinh tế nhà nước 37,5 35,7 33,3 31,1 33,7 Kinh tế ngoài Nhà nước 38,9 40,6 43,3 46,0 44,9
Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 23,6 23,7 23,4 22,9 21,44
Cơ cấu đầu tư theo thành phần kinh tế ( Nguồn: Tổng cục thống kế)
Từ bảng trên, ta thấy, trong giai đoạn trước khu vực kinh tế Nhà nước luôn chiếm lượng đầu tư lớn
nhất nhưng đến những năm gần đây đã giảm đi đáng kể, lượng đầu tư đã tập trung nhiều hơn vào 2 khu vực lOMoAR cPSD| 61265515
còn lại. Vì thế GDP các khu vực cũng có sự thay đổi cùng chiều với đầu tư. Hiện nay, khu vực kinh tế ngoài
Nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đang vươn lên mạnh mẽ bởi sự năng động, sáng tạo và ngày
càng thu hút nhiều nguồn lực.
Phần 4: Ảnh hưởng của đầu tư đến tăng trưởng kinh tế
1. Đầu tư đã đóng góp tích cực đến tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam

Tăng trưởng và phát triển kinh tế luôn là mục tiêu hướng tới của nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt
Nam. Để đạt được mục tiêu trên thì đầu tư là một yếu tố cực kỳ quan trọng vì nó không những làm gia tăng tài
sản của cá nhân, mà còn trực tiếp làm gia tăng tài sản vật chất cho nền kinh tế, có tác động rất mạnh mẽ đến phát triển kinh tế.
- Giai đoạn 2016-2020 là một trong những giai đoạn thành công của kinh tế Việt Nam kể từ khi bước
vào công cuộc đổi mới nền kinh tế. Khởi đầu thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm
2016-2020, tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2016 đạt 6,21%, tuy thấp hơn tốc độ
tăng của năm 2015 (6,68%) do ảnh hưởng của tình trạng xâm nhập mặn nghiêm trọng tại các tỉnh
vùng Đồng bằng sông Cửu Long nhưng cao hơn các năm trong giai đoạn 2012- 2014. Trong ba năm
tiếp theo, nền kinh tế đã có sự bứt phá, tốc độ tăng GDP năm sau cao hơn năm trước và vượt mục tiêu
Quốc hội đề ra trong Nghị quyết phát triển kinh tế - xã hội hằng năm, trong đó tốc độ tăng GDP năm
2017 đạt 6,81%; năm 2018 tăng 7,08% và là mức tăng cao nhất kể từ năm 2008; năm 2019 tăng
7,02%. Bình quân giai đoạn 2016-2019, tốc độ tăng GDP đạt 6,78%/năm, cao hơn 0,87 điểm phần
trăm so với mức tăng bình quân 5,91%/năm của giai đoạn 2011-2015. Riêng năm 2020, tăng trưởng
kinh tế ước tính đạt 2,91%, tuy là mức tăng thấp nhất của các năm trong giai đoạn 20112020 nhưng
trong bối cảnh dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, ảnh hưởng tiêu cực tới mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội
của các quốc gia trên thế giới thì đây là thành công lớn của Việt Nam. Bình quân giai đoạn 2016-
2020, tốc độ tăng GDP đạt 5,99%/năm. Bình quân vào năm 2021, GDP của Việt Nam tăng ước khoảng 2,58%.
- Trong nhiều năm qua, nền kinh tế nước ta vận hành theo mô hình tăng trưởng chủ yếu dựa vào yếu tố
vốn. Việc huy động được nguồn vốn lớn đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế - xã hội, hiệu quả
đầu tư được cải thiện đáng kể trong những năm gần đây với nhiều năng lực sản xuất mới bổ sung cho
nền kinh tế. Chỉ số hiệu quả sử dụng vốn đầu tư (Hệ số ICOR) giảm từ 6,42 năm 2016 xuống 6,11
năm 2017; 5,98 năm 2018 và 6,08 năm 2019. Bình quân giai đoạn 2016-2019, hệ số ICOR đạt 6,13,
thấp hơn so với hệ số 6,25 của giai đoạn 2011- 2015. Năm 2020, do ảnh hưởng tiêu cực của dịch
Covid-19, hoạt động sản xuất kinh doanh của nền kinh tế bị đình trệ, các dự án công trình hoàn thành
đưa vào sử dụng chưa phát huy được năng lực như nền kinh tế khi ở trạng thái bình thường nên ICOR
năm 2020 đạt 14,2815; bình quân giai đoạn 2016-2020 hệ số ICOR đạt 7,04. Trong giai đoạn 2016-
2020, vốn đầu tư vào khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chỉ chiếm khoảng 5,7%-6,3% tổng vốn
đầu tư thực hiện toàn xã hội nhưng khu vực này tạo ra 14%-16% GDP của cả nước; trong khi đó, khu
vực công nghiệp và xây dựng tuy tạo ra 32%-34% GDP nhưng vốn đầu tư của khu vực này chiếm tới
43,5%-46% tổng vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội; khu vực dịch vụ tạo ra 41%-42% GDP nhưng vốn
đầu tư chiếm tới 48,1%-50,3%. Điều này cho thấy, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản đầu tư ít
nhưng mang lại hiệu quả cao nhất, trong khi khu vực công nghiệp, xây dựng và khu vực dịch vụ tuy
có đóng góp lớn đối với tăng trưởng kinh tế nhưng lượng vốn đầu tư vào khu vực này ở mức rất cao.
A. THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN THEO CÁC NỘI DUNG ĐẦU TƯ CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2016 - 2021.
I. Đầu tư phát triển sản xuất 1. Tổng quan:
Năm 2021, mặc dù sự kết nối giữa doanh nghiệp sản xuất trong nước và thị trường toàn cầu cùng chuỗi
giá trị trải qua một thời gian gián đoạn do ảnh hưởng của đại dịch, tỷ trọng hàng hóa sản xuất vẫn duy
trì mức đóng góp hơn 85% vào tổng giá trị xuất khẩu, chủ yếu nhờ sự tăng trưởng tốt của nhóm hàng
công nghệ cao như điện thoại và linh kiện tăng 12,4%; điện tử, máy tính và linh kiện tăng 14,4%; máy
móc và thiết bị tăng 41%.
Bên cạnh đó, sản xuất cũng là ngành thu hút được nhiều vốn đầu tư nước ngoài (FDI). Cho đến nay, dòng
tiền nước ngoài đã đầu tư vào 18 trong số 21 ngành kinh tế của Việt Nam. Cũng như những năm trước, lOMoAR cPSD| 61265515
ngành sản xuất dẫn đầu, chiếm hơn 18,1 tỷ USD vốn đầu tư, tương đương 58,2% tổng vốn đầu tư. Sự
vượt trội của ngành sản xuất cho thấy hiệu quả và mức tăng năng suất mà Việt Nam mang đến cho các nhà đầu tư.
Miền Bắc và miền Nam Việt Nam thu hút các lĩnh vực sản xuất khác nhau với nguồn lao động, cơ cấu
công nghiệp cùng cơ sở hạ tầng riêng biệt. Miền Bắc được biết đến như trung tâm của các ngành sản xuất
nặng, dầu khí, điện tử và công nghệ cao bao gồm sản xuất ô tô. Mặt khác, các ngành công nghiệp sản
xuất truyền thống như may mặc và dệt may được thu hút vào khu vực phía nam. Số lượng dự án cho thấy
các nhà đầu tư nước ngoài vẫn đang tập trung vào các thành phố lớn với cơ sở hạ tầng được trang bị đầy đủ.
2. Sản xuất nông nghiệp:
Trong những năm đầu, nguồn vốn FDI trong lĩnh vực nông nghiệp chủ yếu hướng vào lĩnh vực chế biến
gỗ và các loại lâm sản, sau những năm 2000, nguồn vốn ĐTNN được thu hút khá đồng đều vào lĩnh vực
trồng trọt, lâm sản, mía đường, chăn nuôi gia súc, gia cầm, trồng rừng, sản xuất nguyên liệu giấy. Đa số
các nhà đầu tư chú trọng vào việc lựa chọn địa bàn đầu tư là vùng nguyên liệu truyền thống, phù hợp và
thuận lợi về thổ nhưỡng, khí hậu cho việc phát triển nguồn nguyên liệu cung cấp cho các nhà máy. Phần
lớn các ngành trong lĩnh vực nông-lâm-ngư nghiệp không thuộc danh mục đầu tư có điều kiện nên có
đến ¾ số dự án là doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài, hình thức này phù hợp với yêu cầu điều
hành hoạt động của doanh nghiệp cũng như về độ rủi ro cao của lĩnh vực này. Nguồn vốn ĐTNN đầu tư
vào lĩnh vực nông-lâm- ngư nghiệp theo 4 hình thức là: hình thức 100% vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài,
liên doanh, công ty cổ phần và hợp đồng hợp tác kinh doanh trong đó hình thức 100% vốn đầu tư chiếm
đa số với 390 dự án với tổng vốn đăng ký trên 2,5 tỷ USD, chiếm 76,6% số dự án và 73,9% tổng vốn đăng ký.
Trong thời gian qua ĐTNN vào nông nghiệp đã bước đầu đạt được một số thành tựu đáng khích lệ. Các
dự án ĐTNN đã đem vào Việt Nam nhiều thiết bị, công nghệ tiên tiến, nhiều giống cây, giống con có
năng suất và chất lượng cao, đạt tiêu chuẩn quốc tế, nhiều dự án đã là những mô hình làm ăn kiểu mới
có hiệu quả cao để nông dân và các doanh nghiệp Việt Nam noi theo. Các doanh nghiệp có vốn ĐTNN
đã tạo thêm việc làm cho hàng chục ngàn lao động nông nghiệp và hàng chục vạn lao động sản xuất
nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và nhiều loại hình dịch vụ khác. Sản phẩm của doanh nghiệp có
vốn ĐTNN được tiếp thị ở thị trường quốc tế một cách khá thuận lợi; đã góp phần đáng kể trong việc
giới thiệu nông sản hàng hóa của Việt Nam trên thị trường thế giới tạo điều kiện cho nông sản Việt Nam
thâm nhập thị trường, góp phần nâng cao kim ngạch xuất khẩu chung của ngành.
3. Sản xuất công nghiệp:
Sản xuất công nghiệp gặp nhiều khó khăn nhưng vẫn đạt mức tăng trưởng dương. Trong mức tăng
trưởng của toàn nền kinh tế năm 2020, giá trị tăng thêm toàn ngành công nghiệp cả năm tăng 3,36% so
với năm trước, cao hơn tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế. (Quý I tăng 5,1%; quý II tăng 1,1%;
quý III tăng 2,34%; quý IV tăng 4,80%). Tốc độ tăng trưởng bình quân giá trị gia tăng (VA) trong công
nghiệp giai đoạn 2016 - 2020 ước tăng 7,16%, cao hơn nhiều so với mục tiêu đặt ra cho giai đoạn đến
năm 2020 là 6,5 - 7,0%/năm.
Quy mô sản xuất công nghiệp liên tục được mở rộng. Hạ tầng khu công nghiệp, cụm công nghiệp phát
triển, góp phần thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước phát triển sản xuất công nghiệp, nhất là các
ngành, lĩnh vực có tiềm năng, lợi thế, có giá trị gia tăng cao. Chỉ số sản xuất công nghiệp IIP của toàn
ngành công nghiệp tăng từ 7,4% năm 2016 lên 9,1% năm 2019. Bước sang năm 2020, ngành công nghiệp
Việt Nam chịu ảnh hưởng nặng nề từ dịch Covid-19, IIP cả năm 2020 tăng 3,4% so với năm 2019. Trong
đó: ngành khai khoáng giảm 7,8%; ngành chế biến, chế tạo tăng 4,9%; ngành sản xuất và phân phối điện
tăng 3,1%; ngành cung cấp nước và hoạt động quản lý, xử lý rác thải, nước thải tăng 4,3%.
II. Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng - kỹ thuật
Hiện nay, việc đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng đang là ưu tiên của nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam.
Với quan điểm “Cơ sở hạ tầng đi trước một bước”, trong những năm qua, Chính phủ Việt Nam đã dành
một mức đầu tư cao cho phát triển cơ sở hạ tầng.
Theo Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB), trong giai đoạn 2016-2020, đầu tư vào cơ sở hạ tầng ở cả
khu vực nhà nước và khu vực tư nhân của Việt Nam đều ở mức trung bình 5,7% trên tổng sản phẩm lOMoAR cPSD| 61265515
quốc nội mỗi năm, cao nhất trong khu vực Đông Nam Á; các quốc gia như Indonesia hay Philippines
chỉ chi tiêu ít hơn 3%, còn ở Thái Lan và Malaysia, mức chi là dưới 2%. Xét trong phạm vi toàn lãnh
thổ châu Á, Việt Nam chỉ đứng sau Trung Quốc, với con số đầu tư 6,8% GDP. Theo Báo cáo Năng lực
Cạnh tranh Toàn cầu năm 2019, Việt Nam xếp thứ 77 trong tổng số 141 quốc gia về cơ sở hạ tầng tổng
thể, với thứ hạng thấp trên hầu hết các lĩnh vực giao thông, đặc biệt là về chất lượng vận tải đường bộ
và hàng không. Ngoài ra, báo cáo của World Bank cho biết chi phí logistics Việt Nam lên tới 20%, cao
hơn nhiều so với các quốc gia láng giềng như Trung Quốc (14,3%), Singapore (9,5%), Hàn Quốc
(9,5%)… và gấp đôi mức trung bình của thế giới.
Hạ tầng giao thông quốc gia: Đã đưa một số công trình, dự án giao thông quan trọng vào sử
dụng trong những năm đầu giai đoạn 2016 - 2020 như: Các dự án cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 1A
và đường Hồ Chí Minh đoạn qua Tây Nguyên, các dự án đường cao tốc hướng tâm có tác động
lớn trong việc nâng cao năng lực vận tải. Nhiều công trình, dự án quan trọng, quy mô lớn được
tập trung đầu tư hoàn thành trong giai đoạn 2016 - 2020. Khởi công nhiều đoạn của cao tốc Bắc - Nam.
Hệ thống hạ tầng kỹ thuật đô thị, nhất là tại các đô thị lớn đang từng bước được đầu tư, mở rộng
và hoàn thiện theo hướng hiện đại hoá, đồng bộ hoá với các hình thức đầu tư đa dạng, các nguồn
vốn đầu tư được mở rộng hơn. Nhiều công trình tuyến chính ra vào thành phố, các trục giao
thông hướng tâm, các tuyến tránh đô thị, các cầu lớn và nút giao lập thể được đầu tư xây dựng.
Chất lượng phục vụ của hạ tầng kỹ thuật đô thị được cải thiện rõ rệt. Tỷ lệ đô thị hóa tăng từ
35,7% năm 2015 lên khoảng 40% năm 2020.
Kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn được đầu tư nâng cấp và từng bước hiện đại hoá; hạ
tầng thuỷ lợi đồng bộ theo hướng đa mục tiêu; nhiều dự án trọng điểm, quy mô lớn được đầu tư
nâng cấp, sửa chữa và hoàn thành góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển nông nghiệp, nông
thôn và tăng năng lực tưới tiêu, tạo nguồn cấp nước và tiêu thuỷ, ngăn mặn... Củng cố, hoàn
thiện, phát triển tổ chức quản lý khai thác hệ thống thuỷ lợi nhỏ, thuỷ lợi nội đồng.
Hạ tầng năng lượng đã được đầu tư tăng thêm, nhiều công trình lớn (trên 1.000 MW) được hoàn
thành, cơ bản đáp ứng được yêu cầu phát triển và bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia. Hạ tầng
khu kinh tế, khu công nghiệp, cụm công nghiệp được hoàn thiện góp phần thu hút các nhà đầu
tư trong và ngoài nước, phát triển sản xuất công nghiệp, nhất là các ngành, lĩnh vực có tiềm năng,
lợi thế, có giá trị gia tăng cao.
Hạ tầng thông tin và truyền thông phát triển khá hiện đại, rộng khắp, kết nối với quốc tế và bước
đầu hình thành siêu xa lộ thông tin. Từng bước xây dựng hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu lớn;
ứng dụng công nghệ thông tin trong cơ quan quản lý nhà nước ngày càng được hoàn thiện mang
lại hiệu quả thiết thực. Hạ tầng bưu chính chuyển dịch nhanh chóng, chuyển dần từ các dịch vụ
bưu chính truyền thống sang tham gia phát triển dịch vụ chuyển phát hàng cho thương mại điện
tử và hỗ trợ các dịch vụ công.
Thực tế cho thấy, ở nước ta trong thời gian qua hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật còn tồn tại sự mất cân
đối giữa các vùng, miền. Hệ thống các công trình cơ sở hạ tầng kỹ thuật mang tính kỹ thuật cao, quy mô
lớn nó không chỉ đáp ứng nhu cầu cuộc sống, sản xuất, dịch vụ, đời sống con người... trong hiện tại và
cả trong tương lai nữa. Mặt khác thời gian tồn tại của các công trình cơ sở hạ tầng trên lãnh thổ là rất
lâu dài. Vì thế những sai lầm trong bố trí địa điểm, áp dụng công nghệ sẽ đều phải trả giá rất đắt. Do đó,
yêu cầu khi xây dựng cơ sở hạ tầng bên cạnh việc áp dụng những thành tựu tiến bộ của khoa học kỹ
thuật, phải căn cứ vào quy hoạch phát triển vùng và dự kiến được những biến động trong tương lai.
Giải pháp: Theo thống kê của Dragon Capital, một thập niên qua tỷ lệ vốn đầu tư FDI/GDP vào Việt Nam
luôn ở mức 5–7%, vượt trội so với các quốc gia láng giềng với tỉ lệ 0,5%–4%, nằm ở nhóm cao nhất thế
giới. Nhưng hạ tầng giao thông yếu kém là một điểm nghẽn của kinh tế Việt Nam.
Vào năm 2020 tầng lớp trung lưu của Việt Nam khoảng 32 triệu người và dự báo tăng lên 67 triệu người
vào năm 2030. Đi kèm với các thành tựu kinh tế Việt Nam cũng đứng trước nguy cơ già hóa dân số và
có thể rơi vào bẫy thu nhập trung bình nếu tăng trưởng GDP không bứt tốc vượt khỏi giới hạn tỉ lệ 6– 7%. lOMoAR cPSD| 61265515
Thứ nhất, đầu tư cơ sở hạ tầng hiện có sự chồng chéo bởi các bộ luật khác nhau. Đây là lý do các dự
án cơ sở hạ tầng không thể đẩy nhanh tốc độ. Vì vậy, nếu chúng ta đã có một tổ chuyên trách đặc biệt
phòng chống COVID-19 thì cũng cần một tổ chuyên trách tương tự để đẩy nhanh tiến độ đầu tư các dự
án hạ tầng. Thành phần không ai khác là Thủ tướng, đại diện Quốc hội và đại diện các bộ, ban ngành.
Thứ hai, ưu tiên trước mắt phát triển đường bộ, tập trung kết nối giữa các vùng kinh tế trọng điểm,
các thành phố lớn với các địa điểm du lịch. Thực tế cho thấy phát triển đường bộ có ý nghĩa lan tỏa lớn
và nhanh nhất đến nền kinh tế khi số doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm gần 97% tổng số doanh nghiệp tại Việt Nam.
Thứ ba, tận dụng mọi nguồn vốn xã hội, trong đó có nguồn vốn tư nhân để phát triển hạ tầng. Các
nhà điều hành nên tư duy “win-win” giữa ba chủ thể liên quan: Nhà nước – doanh nghiệp – xã hội. Dòng
vốn tư nhân đầu tư vào hạ tầng tắc nghẽn vài năm qua nên được sớm khơi thông trở lại. III. Đầu tư
phát triển văn hóa, giáo dục, y tế và các dịch vụ xã hội
1. Giáo dục:
Trong những năm gần đây, Việt Nam được đánh giá là quốc gia có mức chi tiêu cho giáo dục và
đào tạo vào loại cao trên thế giới, người dân rất quan tâm đến tương lai giáo dục của con em nên sẵn
sàng đầu tư cho giáo dục với mức chi ngày một tăng cao. Đồng thời, Chính phủ luôn quan tâm, chú trọng
phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động và hội nhập quốc tế.
Đầu tư cho giáo dục đã trở thành vấn đề được quan tâm và là lĩnh vực đầy tiềm năng, thu hút nhiều
nguồn lực cả trong nước và quốc tế. Như chúng ta thấy việc nhà nước chi ngân sách tăng dần qua các
năm: năm 2021 ước tính là 249.471 tỷ đồng tăng 3.11% so với năm 2020 và tăng 40.12% so với năm
2016 cho thấy sự quan tâm đặc biệt của nhà nước đến lĩnh vực giáo dục và đào tạo, bởi việc đầu tư cho
giáo dục - đầu tư phát triển, là “ chìa khóa vàng” để xây dựng một nguồn nhân lực dồi dào, chất lượng,
tạo tính cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế dựa trên sự tăng trưởng kinh tế - xã hội của quốc gia.
Về đầu tư vào trường học và nhân lực ngành giáo dục: năm học 2021 cả nước có 15.422 trường mẫu
giáo, giảm 63 trường so với năm học 2020 và tăng 599 trường so với năm học 2016.
Cũng trong năm học 2021 cả nước có 26.247 trường phổ thông, giảm 156 trường so với năm học
2020, bao gồm: 12.527 trường tiểu học, giảm 166 trường; 8.744 trường trung học cơ sở, giảm 102
trường; 2.380 trường trung học phổ thông, tăng 7 trường; 2.035 trường phổ thông cơ sở, tăng 73 trường
và 561 trường trung học, tăng 32 trường. Năm học 2020-2021 số giáo viên phổ thông trực tiếp giảng
dạy là 817 nghìn người, tăng 0,6% so với năm học 2019-2020, bao gồm: 385,2 nghìn giáo viên tiểu học,
tăng 0,9%; 287,2 nghìn giáo viên trung học cơ sở, tăng 0,1% và 144,6 nghìn giáo viên trung học phổ thông, tăng 0,8%.
Năm 2019, cả nước có 237 trường đại học, bao gồm 172 trường công lập và 65 trường ngoài công
lập. Số giảng viên đại học là 73,1 nghìn người, giảm 0,2% so với năm 2018, trong đó có 57 nghìn giảng
viên công lập, tương đương năm 2018; 16,1 nghìn giảng viên ngoài công lập, giảm 1,1%.
Giáo dục nghề nghiệp có vai trò quan trọng phát triển kinh tế đất nước, là nơi cung ứng nhân lực
lao động qua đào tạo cho thị trường lao động cho nên cũng rất được chú trọng để đầu tư và phát triển.
Năm 2020, cả nước có 3.010 cơ sở giáo dục nghề nghiệp, bao gồm 1.428 cơ sở công lập và 1.582 cơ sở
ngoài công lập. Mạng lưới trường nghề chất lượng cao và các nghề trọng điểm quốc gia, khu vực, quốc
tế đã quy hoạch theo từng cơ sở giáo dục nghề nghiệp, từng vùng, địa phương và trình độ đào tạo; hình
thành và phát triển được một số trường nghề đặc thù để đào tạo cho người khuyết tật, người dân tộc
thiểu số và trường đào tạo các ngành năng khiếu (văn hóa, nghệ thuật, thể dục thể thao), trường chính trị. 2. Y tế:
Giai đoạn 2016-2021, công tác đầu tư vào y tế và chăm sóc sức khỏe nhân dân ngày càng được
tăng cường đặc biệt là phát triển mạnh trong bối cảnh Covid 19 hoành hành. Bên cạnh đó việc đầu tư,
ứng dụng công nghệ thông tin trong khám chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe nhân dân được ứng dụng
rộng rãi, nhiều dịch vụ y tế kỹ thuật cao, tiên tiến được áp dụng. Các chính sách về tài chính cho y tế cơ
sở được ban hành, bao gồm các chính sách tăng đầu tư ngân sách nhà nước cho y tế, phân bổ ngân sách lOMoAR cPSD| 61265515
qua các chương trình mục tiêu quốc gia cũng như ban hành luật Bảo hiểm xã hội để đảm bảo cho người
dân được tiếp cận dịch vụ y tế khi có nhu cầu.
Mạng lưới y tế cơ sở được tiếp tục củng cố và phát triển. Năm 2018, cả nước có 13.547 cơ sở y tế
do Nhà nước quản lý, trong đó có 1.354 bệnh viện, 308 phòng khám đa khoa khu vực và 11.815 trạm y
tế xã, phường, cơ quan, xí nghiệp. Năm 2019 khi dịch bệnh Covid bùng phát nhà nước đã đầu tư rất
nhiều về trang thiết bị, các bệnh viện dã chiến, vaccine,... nhằm đáp ứng nhu cầu đặt ra cho hệ thống y
tế Việt Nam là nâng cao chất lượng khám, ngăn ngừa dịch bệnh, cải tiến môi trường bệnh viện; đổi mới
cơ chế tài chính; phát triển công tác khám chữa bệnh, đặc biệt là y tế dự phòng.
Công nghiệp dược phát triển khá, đã cung ứng được thuốc đủ về số lượng, kiểm soát về chất
lượng và giá cả hợp lý cho khám, chữa bệnh và phòng, chống dịch bệnh đặc biệt là Covid, thiên tai.
Thuốc sản xuất trong nước chiếm 74% mặt hàng, đáp ứng được trên 50% về lượng và 40% về giá trị; đã
sản xuất được 11/12 loại vắc-xin sử dụng trong Chương trình tiêm chủng mở rộng quốc gia, đã sản xuất
được nhiều loại thuốc đòi hỏi công nghệ cao. Triển khai thí điểm quản lý bán thuốc theo đơn, quản lý
các nhà thuốc bằng công nghệ thông tin. 3. Văn hoá:
Văn hóa vừa là trụ cột, vừa là nền tảng tinh thần của xã hội. Phát triển sự nghiệp văn hóa đòi hỏi
phải có nguồn lực đầu tư. Đầu tư cho văn hóa trở thành giải pháp để “văn hóa thực sự trở thành sức
mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ tổ quốc” (Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng Cộng
sản Việt Nam). Trong đó nổi bật là Hội nghị lần thứ X của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX
đã ban hành Kết luận 30 – KL/TW ngày 20.7.2004 về đầu tư văn hóa: “Tăng đầu tư cho văn hóa, phấn
đấu đến năm 2010 ít nhất đạt 1,8% tổng chi ngân sách văn hóa nhà nước”. Nhưng thực tế thì mãi đến
năm 2020, hầu hết các tỉnh chỉ đạt được từ 50-60% định mức tỷ lệ chi cho sự nghiệp văn hóa thông tin.
Ví dụ như Hà Nội: trong 5 năm từ 2015 – 2020, mức chi cho sự nghiệp văn hóa thông tin chưa bao giờ
đạt 0,8% tổng chi ngân sách địa phương. Cụ thể năm 2015, Hà Nội chi cho sự nghiệp văn hóa thông tin
là 812 tỷ đồng, chiếm 0,72% tổng chi ngân sách, nhưng đến 2018, mức chi chỉ có 127 tỷ đồng chiếm
0,095% tổng chi ngân sách. Năm 2020, Hà Nội mới chi cho sự nghiệp văn hóa thông tin với tỉ lệ cao
nhất là 0,767% tổng chi ngân sách. Mức chi cho ngành văn hóa thông tin thấp, khiến cho hoạt động của
lĩnh vực này chậm phát triển, dẫn đến hậu quả nghiêm trọng khi xét đến chức năng của nó.
IV. Đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật
Tổng dự toán chi NSNN sự nghiệp khoa học công nghệ giai đoạn 2016 - 2019 đã được Quốc hội
thông qua tại các nghị quyết về phân bổ ngân sách hàng năm là 46.729 tỷ đồng. Trong đó, năm 2016 là
10.471 tỷ đồng; năm 2017 là 11.243 tỷ đồng; năm 2018 là 12.190 tỷ đồng; năm 2019 là 12.825 tỷ đồng.
Năm gần nhất 2021, chi cho khoa học công nghệ của Việt Nam là 7.732 tỷ đồng, tính trên tổng chi Ngân
sách Trung ương của năm là 827.550 tỷ đồng thì chỉ chiếm 0,934%.
Theo báo cáo của Bộ KH&CN , năm 2021 kinh phí sự nghiệp KH&CN do Trung ương cân đối là
3.106 tỷ đồng, UBND tỉnh/thành phố phê duyệt là 4.095 tỷ đồng (đạt 131,8% so với kinh phí Trung ương
cân đối), kinh phí thực hiện đạt 3.581 tỷ đồng (chiếm 115,3% so với kinh phí Trung ương cân đối và
87,4% so với kinh phí UBND tỉnh, thành phố phê duyệt). Đáng chú ý, ngân sách do các tỉnh/thành phố
dành cho đầu tư phát triển KH&CN là 888 tỷ đồng (thống kê được 26 tỉnh/thành phố), kinh phí thực hiện
đạt 841 tỷ đồng (chiếm 94,7%).
→ Như vậy có thể thấy, trong giai đoạn 2016-2021, toàn xã hội, đặc biệt là nhà nước đã nhận thức được
một cách rõ ràng vai trò của vốn đầu tư cho khoa học - công nghệ. Điều đó đã được thể hiện rõ ràng qua
lượng vốn có xu hướng tăng qua từng năm và sự phân bổ vốn cho rất nhiều dự án, cả dự án lớn lẫn dự
án, và hơn hết là trong những dự án trọng điểm quốc gia theo từng năm.
KẾT QUẢ THỰC HIỆN
Tính đến cuối năm 2019, theo tiêu chí doanh nghiệp khoa học và công nghệ (KHCN), cả nước có hơn
3.000 doanh nghiệp đủ điều kiện chứng nhận doanh nghiệp khoa học và công nghệ. Trong đó, có 468
doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận doanh nghiệp khoa học và công nghệ tính đến tháng 8/2019; 36
doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận hoạt động công nghệ cao (19 doanh nghiệp được cấp giấy chứng
nhận dự án ứng dụng công nghệ cao và 17 doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận doanh nghiệp công
nghệ cao); hơn 800 doanh nghiệp đã được cấp bằng độc quyền sáng chế; có hơn 1.400 doanh nghiệp phần lOMoAR cPSD| 61265515
mềm trong lĩnh vực công nghệ thông tin; hơn 400 doanh nghiệp đang hoạt động tại các khu công nghệ
cao, khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao…
Theo Viện Khoa học nông nghiệp Việt Nam (Bộ NN&PTNT), các tiến bộ về KHCN đóng góp trên
30% giá trị gia tăng trong sản xuất nông nghiệp, 38% trong sản xuất giống cây trồng, vật nuôi. Mức độ
tổn thất của nông sản đã giảm đáng kể (lúa gạo còn dưới 10%...). Mức độ cơ giới hóa ở khâu làm đất đối
với các loại cây hằng năm (lúa, mía, ngô, rau màu) đạt khoảng 94%; khâu thu hoạch lúa đạt 50% (các
tỉnh đồng bằng đạt 90%)…
Khoa học cơ bản đạt được nhiều thành tựu, thể hiện qua các chỉ số xếp hạng, công bố quốc tế. Số
lượng bài báo công bố quốc tế ISI của Việt Nam trong giai đoạn 2016 - 2020 tăng trung bình 20%. Riêng
trong năm 2020, công bố quốc tế của Việt Nam tăng 45% so với năm 2019.
Khoa học - công nghệ ứng dụng thể hiện những bước tiến rõ nét về trình độ công nghệ. Chỉ số đóng
góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng tăng từ 33,6% bình quân giai đoạn 2011
- 2015 lên 45,2% giai đoạn 2016 - 2020. Khoa học - công nghệ ngày càng đóng góp nhiều vào giá trị
gia tăng của sản phẩm hàng hóa.
Nguồn lực tài chính từ xã hội cho khoa học - công nghệ tăng mạnh. Tỷ trọng đầu tư giữa Nhà nước
và doanh nghiệp được cải thiện theo chiều hướng tích cực. Nếu 10 năm trước đây, kinh phí hoạt động
khoa học-công nghệ chủ yếu dựa vào ngân sách nhà nước (chiếm khoảng 70% - 80% tổng đầu tư cho
khoa học - công nghệ), thì nay đầu tư từ ngân sách nhà nước và từ doanh nghiệp đã tương đối cân bằng,
với tỷ lệ tương ứng là 52% và 48%.
`Hệ thống các tổ chức khoa học - công nghệ phát triển mạnh, đội ngũ nhân lực khoa học - công
nghệ phát triển cả về số lượng và chất lượng với khoảng 72.990 cán bộ nghiên cứu tương đương toàn
thời gian (đạt 7,6 người/vạn dân), trong đó, có nhiều nhà khoa học uy tín, được thế giới công nhận. Hệ
thống sở hữu trí tuệ và tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng ngày càng hoàn thiện, góp phần khuyến khích
hoạt động nghiên cứu sáng tạo trong nước, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, nâng cao chất lượng,
khả năng cạnh tranh của sản phẩm, hàng hóa. V. Đầu tư tác động đến Môi trường a, Tích cực
Năm 2019, ngân sách sự nghiệp BVMT trung ương là 2.290 tỷ đồng nhưng đến tháng 9/2019 mới phân bổ
1.51,922 tỷ đồng, đạt 50,3%. Theo quy định hiện hành, vốn điều lệ của Quỹ BVMT Việt Nam là 1.000 tỷ
đồng từ nguồn NSNN cấp. Đối tượng cho vay của Quỹ là các tổ chức, cá nhân có dự án đầu tư BVMT với
mức lãi suất ưu đãi cố định trong suốt thời gian cho vay từ 2,6 % – 3,6%, cùng thời hạn vay lên đến 10 năm.
FDI có tác động tích cực tới môi trường thông qua việc ra đời những sản phẩm mới tiết kiệm năng lượng,
giảm bớt sự phụ thuộc vào những nguyên liệu, hoặc nguồn năng lượng truyền thống và các giải pháp nâng
cao hiệu quả hoạt động sản xuất hoặc các kinh nghiệm tốt về bảo vệ môi trường. Ngoài ra, sự có mặt của các
công ty đa quốc gia cũng có tác động lan tỏa đối với các công ty trong nước thông qua việc chuyển giao công
nghệ tiên tiến, kỹ năng chuyên môn và những yêu cầu áp dụng tiêu chuẩn môi trường nghiêm ngặt.
Như vậy, khu vực FDI đã và đang tích cực tham gia vào quá trình chuyển giao công nghệ xanh, thực hiện
đầy đủ trách nhiệm xã hội, xây dựng và nâng cao nhận thức về nền kinh tế xanh cho người lao động và người
tiêu dùng. Một số dự án có công nghệ tiêu biểu như: Dự án hệ thống xử lý nước thải y tế tại Bệnh viện Chợ
Rẫy; Công ty Điện lực Phú Mỹ 3 với việc cài đặt hệ thống phát hiện rò rỉ tự động và trồng 4.000 cây xanh
xung quanh công ty…; Tập đoàn SCG (Top 50 doanh nghiệp FDI tiêu biểu hàng đầu tại Việt Nam về tăng
trưởng xanh), xây dựng chiến lược ESG 4 Plus với 4 lộ trình chính, gồm: “Hướng đến phát thải ròng bằng
không (Set Net Zero) - Phát triển xanh (Go Green) - Giảm bất bình đẳng (Reduce Inequality) - Thúc đẩy sự
hợp tác (Embrace Collaboration) đồng thời chú trọng quản trị minh bạch (Harnessing Good Governance),
giúp loại bỏ các nguy cơ khủng hoảng, duy trì sự ổn định xã hội và giúp doanh nghiệp đạt được các mục tiêu
phát triển xanh và bền vững, tiếp tục đóng góp cho các cộng đồng địa phương tại Việt Nam. b, Tiêu cực
Bộ Tài nguyên và Môi trường vừa có báo cáo tổng hợp tại Hội nghị toàn quốc bảo vệ môi trường hàng năm
như sau: Cả nước tiêu thụ hơn 100.000 tấn hóa chất bảo vệ thực vật; hơn 23 triệu tấn rác thải sinh hoạt, hơn
7 triệu tấn chất thải rắn công nghiệp, hơn 630.000 tấn chất thải nguy hại trong khi việc xử lý chất thải, nước
thải còn rất hạn chế. Tác hại hơn, trên cả nước hiện có 283 khu công nghiệp (KCN) với hơn 550.000m3
nước thải/ngày đêm; 615 cụm công nghiệp nhưng trong đó chỉ khoảng hơn 5% có hệ lOMoAR cPSD| 61265515
thống xử lý nước thải tập trung. Hơn 500.000 cơ sở sản xuất trong đó có nhiều loại hình sản xuất ô nhiễm
môi trường, công nghệ sản xuất lạc hậu. Đây là những con số thống kê cho thấy nguy cơ và hiện tượng ô
nhiễm đến môi trường đất, nước và không khí đang ở mức báo động.
Tính đến tháng 6/2012, ô nhiễm môi trường nước do nước thải từ KCN trong những năm gần đây là rất
lớn, có khoảng 62% các KCN đã xây dựng hệ thống xử lý nước thải tập trung nhưng hiệu quả không cao,
dẫn đến tình trạng 75% nước thải KCN thải ra ngoài với lượng ô nhiễm cao. Điển hình là Khu vực kinh
tế trọng điểm phía Nam gồm: Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai và Bình Dương được xem là khu vực
tập trung nhiều KCN và dự án FDI lớn nhất cả nước, mặc dù tỷ lệ xây dựng hệ thống xử lý nước thải tập
trung ở khu vực này khá cao, nhưng tình trạng vi phạm các qui định về môi trường vẫn thường xuyên xảy
ra. Đa số các doanh nghiệp hiện nay đều dùng các thủ đoạn tương tự nhau, xây dựng hệ thống ngầm kiên
cố xả thẳng ra sông, rạch, hoặc lợi dụng thủy triều lên xuống để pha loãng nước thải chưa qua xử lý đưa
ra môi trường mà gần đây nhất chính là sự kiện của Công ty Cổ phần Sonadezi Long Thành - Đồng Nai.
Ô nhiễm môi trường, không khí, thường chủ yếu tập trung tại các KCN cũ, do các KCN này đang sử dụng
công nghệ sản xuất lạc hậu hoặc chưa được đầu tư hệ thống xử lý khí thải trước khi thải ra môi trường. Ô
nhiễm không khí tại các KCN chủ yếu là bụi, một số KCN có biểu hiện ô nhiễm CO2, SO2 và tiếng ồn.
Trong khi đó tại các KCN mới, do được đầu tư công nghệ hiện đại, hệ thống xử lý khí thải đồng bộ trước
khi xả thải ra môi trường, dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường không khí tại các KCN này đã được cải
thiện một cách rõ rệt. Thống kê cho thấy, năm 2011, mỗi ngày, các KCN nước ta thải ra khoảng 8.000 tấn
chất thải rắn (CTR), tương đương khoảng 3 triệu tấn/năm.
- Kết quả điều tra 150 doanh nghiệp FDI năm 2016, có 45% doanh nghiệp chưa áp dụng quy trình sản
xuất ít phát thải, 69% doanh nghiệp cho rằng họ sẽ không thực hiện quy trình giảm phát thải nếu như
đó không phải là yêu cầu bắt buộc, tương tự như thế 57,7% lấy lý do chi phí cao… Trên thực tế, nhiều
khu công nghiệp đi vào hoạt động nhưng chưa triển khai xây dựng hệ thống xử lý nước thải cục bộ
hoặc có nhưng không vận hành, hay vận hành không hiệu quả hoặc xuống cấp; hiện chỉ có khoảng
66% trong số 289 khu công nghiệp trên cả nước có trạm xử lý nước thải tập trung. Đặc biệt, tại đồng
bằng sông Cửu Long có 75% khu và 85% cụm công nghiệp chưa có xử lý nước thải tập trung.
B, HỆ SỐ ICOR + ĐẦU TƯ CÔNG
NHÌN LẠI KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC TRONG LĨNH VỰC ĐẦU TƯ CÔNG GIAI ĐOẠN 2016-2020
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, năm 2020 là năm kết thúc Kế hoạch đầu tư công giai đoạn 5 năm 2016-2020,
cũng là Kế hoạch đầu tư công trung hạn đầu tiên được lập theo Luật Đầu tư công năm 2014, trong bối cảnh
chịu ảnh hưởng nặng nề từ dịch Covid-19, đầu tư công đã có sự khác biệt rất lớn so với các năm trước, đó là
từ nguồn vốn “mồi” chuyển thành nguồn lực chính để thúc đẩy phục hồi kinh tế trong đại dịch Covid-19.
Điều đáng mừng là trong giai đoạn 2016-2020, nguồn vốn đầu tư công được tập trung bố trí cho các dự án
hạ tầng chiến lược, thiết yếu, quan trọng, then chốt, như: đường bộ, sân bay, bến cảng, các công trình thủy
lợi đầu mối, điện, thông tin liên lạc, kết cấu hạ tầng các khu đô thị, khu công nghiệp, bệnh viện, trường học,
văn hóa thể thao, các chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới và giảm nghèo bền vững. Kế
hoạch đầu tư công trung hạn 2016-2020 cũng đã ưu tiên đầu tư cho miền núi, biên giới, hải đảo, vùng đồng
bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, vùng thường xuyên bị thiên tai, bão lũ và các vùng có điều kiện kinh
tế - xã hội đặc biệt khó khăn; các nhiệm vụ ứng phó biến đổi khí hậu, phòng, chống, khắc phục tình trạng
hạn hán, xâm nhập mặn ở các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long, sự cố ô nhiễm môi trường biển ở 4 tỉnh miền
Trung; ưu tiên bố trí vốn các dự án quan trọng, cấp bách, liên kết vùng, có tính chất lan tỏa, tạo động lực thu
hút vốn đầu tư khu vực tư nhân nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Trong đó, nguồn vốn ngân sách
trung ương (NSTW) giai đoạn 2016-2020 bố trí cho các vùng, như: Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung
27%, vùng miền núi phía Bắc là 24%, Đồng bằng sông Cửu Long 17%, Đồng bằng sông Hồng 13%, Đông
Nam Bộ 12% và Tây Nguyên 7%.
Đặc biệt là hiệu quả đầu tư công từng bước được cải thiện, cơ bản khắc phục được tình trạng đầu tư phân
tán, dàn trải, manh mún; tỷ lệ dự án hoàn thành đạt khá và hiệu quả sử dụng vốn đầu tư (Hệ số ICOR) giảm,
góp phần huy động một số lượng lớn vốn đầu tư toàn xã hội; số dự án khởi công mới từng năm trong giai
đoạn 2016-2020 giảm dần. Cụ thể, giai đoạn 2016-2020, số dự án sử dụng vốn NSTW triển khai trong kỳ
còn khoảng 11.100 dự án, giảm một nửa so với giai đoạn 2011-2015; trong đó, dự án hoàn thành trong giai
đoạn 2016-2020 là 7.354 dự án, bằng 66,2% tổng số dự án (số dự án chuyển tiếp từ giai đoạn 20112015 hoàn
thành trong giai đoạn 2016-2020 là 4.547 dự án, dự án khởi công mới hoàn thành ngay trong giai đoạn 2016- lOMoAR cPSD| 61265515
2020 là 2.807 dự án), khởi công mới 4.208 dự án. Số dự án khởi công mới từng năm trong giai đoạn 2016-
2020 giảm dần[1]. Số vốn bố trí bình quân cho một dự án kế hoạch năm sau cao hơn năm trước, khắc phục
tình trạng đầu tư dàn trải, lãng phí, kém hiệu quả [1].
Hiệu quả kinh tế - xã hội của đầu tư nói chung và đầu tư công nói riêng đã từng bước được cải thiện. Hệ số
ICOR giảm dần: ICOR giai đoạn 2016-2019[2] là 6,1 thấp hơn so với mức gần 6,3 của giai đoạn 2011-2015.
Do ảnh hưởng của dịch Covid-19, GDP năm 2020 giảm mạnh so với kế hoạch dẫn đến hệ số ICOR năm 2020
là 18,07, tác động mạnh đến hệ số ICOR của cả giai đoạn 2016-2020 khoảng 8,5. Tổng vốn đầu tư phát triển
toàn xã hội giai đoạn 2016-2020 đạt khoảng 9,2 triệu tỷ đồng, bằng 33,7% GDP, đạt mục tiêu bình quân 5
năm (32%-34%) và cao hơn giai đoạn 2011-2015 (31,7% GDP) [1].
Tỷ trọng vốn đầu tư nhà nước trong tổng đầu tư xã hội giảm dần, từ mức bình quân 39,11% trong giai đoạn
2011-2015 xuống mức bình quân 34% [1]. Cơ cấu huy động vốn đầu tư chuyển dịch tích cực, phù hợp với
định hướng cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng; khuyến khích các thành phần kinh tế
ngoài nhà nước bỏ vốn đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, phát triển hạ tầng kinh tế kỹ thuật.
CHƯƠNG 3: NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ I.
Nguồn vốn đầu tư trong nước
1. Nguồn vốn nhà nước:
Nguồn vốn đầu tư của nhà nước bao gồm nguồn vốn của ngân sách nhà nước, nguồn vốn tín dụng
đầu tư phát triển của nhà nước và nguồn vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhà nước.
Trong cơ cấu đầu tư toàn xã hội, nguồn vốn đầu tư của nhà nước có một vị trí khá quan trọng. Bình
quân giai đoạn 2001-2010, chiếm 45.7% tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội. Nguồn vốn đầu tư của khu
vực nhà nước bao gồm các nguồn chính là: nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước (NSNN), nguồn vốn
đầu tư tín dụng Nhà nước, nguồn vốn đầu tư từ các doanh nghiệp nhà nước (DNNN), trong đó nguồn vốn
đầu tư của NSNN và từ các DNNN chiếm trên 75% nguồn vốn đầu tư của nhà nước.
2.1. Ngân sách nhà nước
Là nguồn chi của ngân sách nhà nước dành cho đầu tư, là nguồn vốn quan trọng trong chiến lược phát
triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước tính chung hai
tháng đầu năm 2023 ước đạt 56,9 nghìn tỷ đồng, bằng 8,3% kế hoạch năm và tăng 18,3% so với cùng kỳ
năm trước. Cụ thể: Vốn đầu tư thực hiện do Trung ương quản lý ước đạt 10,5 nghìn tỷ đồng, bằng 7,9% kế
hoạch năm và tăng 40,1% so với cùng kỳ năm trước; Vốn đầu tư thực hiện do địa phương quản lý ước đạt
gần 46,4 nghìn tỷ đồng, bằng 8,4% kế hoạch năm và tăng 14,3% so với cùng kỳ năm trước;
Tuy nhiên, nguồn vốn từ ngân sách nhà nước thường mang tính chất “cấp phát” không hoàn lại, “cơ
chế xin cho” dựa trên cơ sở có nhu cầu, tình hình thực tế rồi các cơ quan xem xét từ chủ trương, đánh giá,
thẩm định. Ngoài ra thì nguồn vốn này còn gặp vấn đề về tiến độ giải ngân chậm. Theo Bộ Tài chính, hiện
có 7 bộ và 20 địa phương có tỷ lệ giải ngân đạt trên 15%; Bộ nhận định tỷ lệ giải ngân kế hoạch vốn hai
tháng đầu năm 2022 tuy cao hơn cùng kỳ năm 2021 nhưng vẫn đạt thấp so với tổng kế hoạch vốn được giao.
Mặc dù các Bộ, cơ quan Trung ương, địa phương đã chủ động, tích cực triển khai giao kế hoạch đầu tư vốn
NSNN năm 2022 kịp thời, đáp ứng yêu cầu dự án có thể giải ngân kế hoạch đầu tư vốn NSNN 2022 ngay từ
đầu năm. Tuy nhiên, đến nay số vốn các Bộ, cơ quan Trung ương và địa phương chưa phân bổ còn khá lớn,
(94.493) tỷ đồng, bằng 18% kế hoạch Thủ tướng giao.
Tại kỳ họp thứ 4 Quốc hội khóa XV (tháng 10, 11/2022), Chính phủ đã báo cáo Quốc hội khả năng
thực hiện thu, chi và bội chi NSNN năm 2022, với:
- Tổng thu NSNN ước đạt 1.614,1 nghìn tỷ đồng, tăng 202,4 nghìn tỷ đồng (+14,3%) so dự toán.
- Tổng chi NSNN ước đạt 2.035,4 nghìn tỷ đồng, tăng 250,8 nghìn tỷ đồng (+14,1%) so dự toán; bôị
chi NSNN ước đạt 421,3 nghìn tỷ đồng, tương đương 4,5%GDP.
- Chi đầu tư phát triển :
+ Dự toán chi là 557,5 nghìn tỷ đồng; thực hiện (bao gồm cả số vốn được chuyển nguồn sang
năm 2023) ước đạt 638,1 nghìn tỷ đồng, tăng 80,6 nghìn tỷ đồng (+14,5%) so với dự toán.
+ Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nhiều giải pháp, tổ chức các đoàn công tác của
Chính phủ chỉ đạo tháo gỡ khó khăn, đôn đốc thực hiện, thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công. lOMoAR cPSD| 61265515 - Chi trả nợ lãi:
+ Dự toán chi là 103,7 nghìn tỷ đồng; thực hiên ước đạt gần 94,8 nghìn tỷ đồng, giảm 8,9̣ nghìn
tỷ đồng (-8,6%) so dự toán
+ Chủ yếu do công tác phát hành trái phiếu Chính phủ phù hợp với tiến đô thu ngân sách và ̣ giải
ngân vốn đầu tư, giảm số dư nợ vay và trả lãi so dự kiến tại thời điểm xây dựng dự toán NSNN năm 2022
+ Giải ngân vốn ODA đạt thấp, giảm chi trả lãi vay nước ngoài so dự toán. - Chi thường xuyên:
+ Dự toán chi là 1.111,2 nghìn tỷ đồng; thực hiện ước đạt 1.101,9 nghìn tỷ đồng, giảm 9,3 nghìn
tỷ đồng (-0,8%) so dự toán.
+ Công tác điều hành chi NSNN năm 2022 được thực hiên chủ độ ng, chặ t chẽ, đảm bảo đúng ̣
chính sách, chế đô, triệt để tiết kiệm chi thường xuyên, cắt giảm những nhiệ m vụ chi
chưạ thực sự cần thiết, châm triển khai, tập trung ưu tiên nguồn lực thực hiện Chương trình
phục ̣ hồi và phát triển kinh tế - xã hội.
+ Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, công khai tài chính - ngân sách, nâng cao
kỷ luật, kỷ cương, nâng cao hiệu quả sử dụng kinh phí NSNN và quản lý, sử dụng tài sản
công. Các nhiệm vụ chi được thực hiện theo dự toán, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã
hội, quản lý nhà nước, khắc phục hậu quả thiên tai dịch bệnh, đảm bảo an sinh xã hội.
- Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước năm 2022 của một số tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương như sau: thành phố Hà Nội đạt 36377.3 tỷ đồng tăng 12,3%; thành phố Hồ Chí Minh đạt
23274.3 tỷ đồng tăng 56,2%; thành phố Hải Phòng đạt 12498 tỷ đồng tăng 19,6%;…
- Tổng cục Thống kê cho biết, 5 Bộ có vốn đầu tư thực hiện từ NSNN cao nhất năm 2022, bao gồm:
Bộ Giao thông Vận tải ước tính hơn 4.509 tỷ đồng, lũy kế 9 tháng hơn 30.287 tỷ đồng; Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn với 578 tỷ đồng, lũy kế 9 tháng là khoảng 3.260 tỷ đồng; Bộ Tài
nguyên và Môi trường ước tính 907 tỷ đồng, Bộ Xây dựng ước tính 821 tỷ đồng và Bộ Y tế ước tính 558 tỷ đồng.
2.2. Vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước
Vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước đang ngày một phát huy vai trò quan trọng cho phát triển kinh tế quốc gia.
- Những năm qua, vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước được giải ngân cho các dự án chiếm gần 3% tổng
vốn đầu tư toàn xã hội, bằng khoảng 1,2% GDP và chiếm bình quân khoảng 37% tổng mức đầu tư các dự án
- Góp phần quan trọng thu hút các nguồn vốn dài hạn khác của tổ chức tín dụng trong và ngoài nước
để tài trợ cho các dự án phát triển, trong đó có nhiều dự án trọng điểm, then chốt của đất nước; qua
đó thực hiện tốt nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội từng thời kỳ theo đúng định hướng của Nhà nước, Chính phủ.
- Hơn nữa, tín dụng đầu tư của Nhà nước đã góp phần tập trung các nguồn vốn cần thiết cho đầu tư
phát triển quốc gia, giúp nâng cao hiệu quả sử dụng, bảo toàn và phát triển được nguồn vốn của Nhà nước.
● Thực trạng hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước thời gian qua
- Tại Việt Nam, chính sách tín dụng đầu tư phát triển (ĐTPT) của Nhà nước được triển khai từ năm
2000, đến nay đã hơn 20 năm. Tùy từng giai đoạn và thời điểm khác nhau, để phù hợp với điều kiện
kinh doanh của doanh nghiệp (DN) trong nước và định hướng phát triển các ngành, vùng kinh tế cũng
như yêu cầu của quá trình hội nhập quốc tế, Chính phủ đưa ra những nội dung ưu đãi phù hợp để
khuyến khích đầu tư, thể hiện qua danh mục dự án vay vốn, điều kiện cho vay, thời gian vay vốn, lãi
suất vay vốn, bảo đảm tiền vay…
- Trước đây, hoạt động tín dụng ĐTPT của Nhà nước được thực hiện thông qua một tổ chức tài chính
nhà nước là Quỹ Hỗ trợ phát triển, được thành lập theo Nghị định số 50/1999/NĐ-CP của Chính phủ. lOMoAR cPSD| 61265515
Đến năm 2006, nhiệm vụ triển khai hoạt động này được chuyển giao cho Ngân hàng Phát triển Việt
Nam (VDB) - cơ quan được Thủ tướng Chính phủ thành lập theo Quyết định số 108/2006/QĐTTg
trên cơ sở tổ chức lại Quỹ Hỗ trợ phát triển.
- Tính tới 2021, VDB đã huy động được nguồn vốn lớn (gần 610.000 tỷ đồng) đáp ứng nhu cầu vốn
đầu tư dự án của các doanh nghiệp, đặc biệt là các dự án trọng điểm của Chính phủ.
+ Vốn do VDB cho vay trong giai đoạn 2006 - 2021 chiếm khoảng 5% tổng vốn đầu tư toàn xã
hội, bằng khoảng 2% GDP.
+ Tốc độ tăng trưởng dư nợ TDĐT của Nhà nước bình quân giai đoạn 2006 - 2021 đạt khoảng
3%/năm, tốc độ tăng trưởng tổng dư nợ bình quân giai đoạn 2006 - 2021 đạt khoảng 3,15%/năm.
+ Việc tiếp cận được với nguồn vốn đầu tư của Nhà nước qua VDB đã góp phần giúp cho các chủ
đầu tư đủ sức thực hiện nhiều dự án lớn, quan trọng: Thuỷ điện Sơn La, Thuỷ điện Lai Châu,
Nhà máy Lọc dầu Dung Quất, Nhà máy đạm Cà Mau, Vệ tinh Vinasat 1 và 2, Đường ôtô cao
tốc Hà Nội - Hải Phòng, Nhà máy điện gió Bạc Liêu, Nhà máy sữa TH, Hệ thống truyền tải
điện miền Trung, miền Nam…Trong lĩnh vực này, tính tới năm 2021, VDB hiện đang quản
lý cho vay: 183 dự án trọng điểm trên phạm vi cả nước (dự án Nhóm A - quy mô tăng gần 2
lần so thời điểm thành lập).
+ Tỷ lệ vốn tín dụng của VDB thực hiện trong 10 năm qua đối với lĩnh vực công nghiệp, xây
dựng luôn tăng nhanh, duy trì mức bình quân hơn 70% dư nợ luôn cao hơn tỷ lệ vốn đầu tư
của toàn xã hội trong lĩnh vực này, thu hút các nguồn vốn khác trên thị trường cùng cho vay
đầu tư các dự án thuộc lĩnh vực công nghiệp, xây dựng.
+ Đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, VDB cho vay 230 dự án, góp phần quan trọng nâng
cao năng lực chế biến và bảo quản sau thu hoạch. 642 dự án với số vốn vay theo hợp đồng tín
dụng (HĐTD) gần 53.000 tỷ đồng đầu tư vào một số lĩnh vực trồng rừng nguyên liệu và trồng
cây công nghiệp dài ngày, cây ăn quả, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản và chế biến các sản
phẩm nông nghiệp, sản phẩm cây công nghiệp, lâm sản, thuỷ hải sản và thực phẩm, kiên cố
hoá kênh mương và đường giao thông nông thôn, xây dựng mới trạm bơm nông nghiệp, xây
dựng hạ tầng cụm tuyến dân cư vùng lũ. 307 dự án an sinh xã hội (trường học, bệnh viện, xử
lý rác thải, cấp nước sạch, nhà ở xã hội,…) với số vốn vay theo HĐTD đạt hơn 50.000 tỷ đồng.
=> Thông qua những chính sách ưu đãi, nhiều DN và tổ chức kinh tế đã tiếp cận được nguồn vốn tín dụng
ĐTPT của Nhà nước để triển khai các dự án đầu tư mà các tổ chức tín dụng thông thường không muốn cho
vay vì e ngại về khả năng thu hồi vốn hoặc vì không thu xếp được lượng vốn lớn và thời hạn phù hợp với nhu cầu của dự án.
2.3. Vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhà nước
Hoạt động đầu tư của DNNN trong các ngành, lĩnh vực, địa bàn then chốt, quan trọng của nền kinh
tế đã giúp giảm bớt đầu tư từ ngân sách Nhà nước trong thực hiện các dự án đầu tư phát triển kinh tế xã hội
quan trọng của đất nước; góp phần thực hiện tiến trình cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng
trưởng. Đến cuối năm 2022, cả nước có 827 doanh nghiệp có vốn góp của nhà nước. Trong số đó, 478 doanh
nghiệp nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ và 198 doanh nghiệp do nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều
lệ; 151 doanh nghiệp do nhà nước nắm giữ từ 50% vốn điều lệ trở xuống.
Tổng tài sản doanh nghiệp nhà nước lên tới 3.821.459 tỷ đồng, tăng 4% so với năm 2021, còn vốn
chủ sở hữu là 1.807.999 tỷ đồng.
- Các DNNN đã hoàn thành nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh; tổng doanh thu, lợi nhuận, nộp ngân sách,
giá trị vốn đầu tư phát triển thực hiện và thu nhập bình quân của người lao động tăng lên, một số tập
đoàn, tổng công ty đạt kim ngạch xuất khẩu lớn.
- Các DNNN (trọng tâm là các tập đoàn, tổng công ty) đã đóng vai trò quan trọng của nền kinh tế, là
DN đầu tàu, chủ chốt trong các lĩnh vực sản xuất
+ DNNN có vai trò lớn trong bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia như Tập đoàn Điện lực Việt
Nam (EVN), Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN), Tập đoàn Công nghiệp Than Khoáng sản Việt Nam (TKV)... lOMoAR cPSD| 61265515
+ Đối với lĩnh vực viễn thông: Viettel, VNPT và Mobifone đã thể hiện rõ nét vai trò dẫn dắt trong
chuyển đổi số, xây dựng hạ tầng số cho các cơ quan của Chính phủ và nhiều địa phương, tổ chức, DN.
+ Một số DNNN xây dựng được các thương hiệu sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ có uy tín, có ảnh
hưởng lớn trong khu vực và quốc tế về nhiều lĩnh vực như dịch vụ vận tải (Vietnam Airlines),
cảng biển và logistics (Saigonnewport), cao su...
- Năm 2022, tổng tài sản của 827 DNNN đạt 3.927.466 tỷ đồng, tăng 4% so với năm 2021. Vốn chủ sở
hữu là 1.845.505 tỷ đồng, tăng 3%; tổng doanh thu đạt 2.752.607 tỷ đồng, tăng 29%; lãi phát sinh
trước thuế đạt 247.905 tỷ đồng, tăng 23%; nộp ngân sách nhà nước (NSNN) là 391.550 tỷ đồng tỷ
đồng, tăng 21% so với năm 2021.
- Liên quan đến tình hình đầu tư ngoài nước, báo cáo của Chính phủ nêu rõ đến hết 2022, có 30 doanh
nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn nhà nước thực hiện đầu tư ra nước ngoài theo hình thức trực
tiếp đầu tư và đầu tư thông qua các công ty con cấp 1, cấp 2. Cũng trong năm 2022, số vốn đầu tư ra
nước ngoài thực hiện là 61,55 triệu USD tại 14 dự án, chủ yếu tại các dự án của các công ty con của
Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN); các dự án của Tập đoàn công nghiệp Viễn thông Quân đội (Viettel).
2. Nguồn vốn của doanh nghiệp tư nhân
Nguồn vốn từ doanh nghiệp tư nhân bao gồm phần tích luỹ của các doanh nghiệp dân doanh, các hợp
tác xã. Theo kết quả Tổng điều tra kinh tế năm 2021, nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước vào doanh nghiệp
duy trì nhịp tăng trưởng nhanh qua các năm, quy mô doanh nghiệp được mở rộng chủ yếu dựa trên sự phát
triển của nhân tố vốn thay vì nhân tố lao động.
Nguồn vốn thu hút vào doanh nghiệp tăng trưởng nhanh qua các năm, với tổng nguồn vốn sử dụng
cho SXKD của toàn bộ doanh nghiệp tại thời điểm 31/12/2020 đạt 48,7 triệu tỷ đồng, tăng 12,3% so với
cùng thời điểm năm 2019 và tăng 73,5% so với cùng thời điểm năm 2016. Bình quân giai đoạn 20162020,
nguồn vốn thu hút đạt bình quân 38,4 triệu tỷ đồng/năm, với tốc độ tăng bình quân giai đoạn đạt 14,8%/năm,
tăng 104,1% so với bình quân giai đoạn 2011-2015.
Tốc độ tăng trưởng nguồn vốn luôn ở mức tăng trưởng cao hơn so tăng trưởng về số lượng lao động,
cho thấy quy mô về lao động bình quân của các doanh nghiệp có xu hướng thu hẹp nhưng quy mô về nguồn
vốn bình quân của các doanh nghiệp lại có xu hướng mở rộng. Điều này cho thấy Việt Nam là một thị trường
tiềm năng để thu hút vốn đầu tư, là tiền đề thúc đẩy các nguồn lực cho tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu.
3. Nguồn vốn tiết kiệm dân cư
Nguồn vốn trong dân cư phụ thuộc vào thu nhập và chi tiêu của các hộ gia đình. Quy mô của nguồn
tiết kiệm này phụ thuộc vào: Trình độ phát triển của đất nước (ở những nước có trình độ phát triển thấp
thường có quy mô và tỷ lệ tiết kiệm thấp); tập quán tiêu dùng của dân cư; chính sách động viên của nhà nước
thông qua chính sách thuế thu nhập và các khoản đóng góp xã hội….
Cùng với sự phát triển kinh tế của đất nước, một bộ phận không nhỏ trong dân cư có tiềm năng về
vốn do có nguồn thu nhập gia tăng hay do tích luỹ truyền thống. Nhìn tổng quan nguồn vốn tiềm năng trong
dân cư không phải là nhỏ, tồn tại dưới dạng vàng, ngoại tệ, tiền mặt … nguồn vốn này xấp xỉ bằng 80% tổng
nguồn vốn huy động của toàn bộ hệ thống ngân hàng, Tuy nhiên, sự vận động nguồn vốn lớn đang nằm trong
dân còn nhiều hạn chế, tạo ra các xu hướng gây lãng phí tiềm năng nguồn vốn như tích trữ. Tiền tiết kiệm,
theo tập quán của người dân Việt Nam, thì thường sẽ mua vàng hoặc ngoại tệ để tích trữ. Theo thông tin báo
chí, căn cứ vào con số do Hiệp hội Kinh doanh vàng thế giới công bố dựa trên số liệu nhập vàng của Việt
Nam thời gian qua, trong dân cư có khoảng trên dưới 500 tấn vàng. Nếu một phần lượng vàng này tách khỏi
cất trữ, chuyển hóa thành tiền, đưa vào lưu thông sẽ đem lại lượng vốn lớn cho nền kinh tế.
Ngoài ra, một phần không nhỏ của tiết kiệm dân cư bị lãng phí hàng năm là do được đưa vào các sàn cá độ,
đánh bạc, hoặc người dân bị dụ dỗ tham gia “đầu tư ảo” dẫn đến bị lừa chiếm đoạt tài sản. Trong những năm
qua, các cơ quan chức năng đã phát hiện và triệt phá được nhiều đường dây đánh bạc, cá độ bóng đá hàng
ngàn tỷ đồng, chủ yếu có hình thức online, máy chủ đặt tại nước ngoài. Công ty Cá cược Ladbrokes tại Anh
quốc cho rằng, doanh số của thị trường cá cược bóng đá bất hợp pháp tại Việt Nam ước tính từ 3-5% GDP
(khoảng 10 tỷ USD). Thêm nữa, gần đây xuất hiện các sàn giao dịch tài chính hình thức đa cấp, tiền ảo đã dụ
dỗ rất nhiều người dân tham gia “đầu tư” với cam kết lơi nhuận “không tưởng”. Tất cả những hoạt động này lOMoAR cPSD| 61265515
đều không được sự cho phép của Nhà nước nhưng lại thu hút được rất nhiều tiền của người dân đổ vào. Phần
lớn số tiền khổng lồ này đang “chảy” bất hợp pháp ra nước ngoài mỗi năm. II.
Nguồn vốn đầu tư nước ngoài 1. Nguồn vốn ODA
I. VAI TRÒ CỦA NGUỒN VỐN ODA ĐỐI VỚI CÁC QUỐC GIA ĐANG PHÁT TRIỂN
1. Nhu cầu của các nước đang và kém phát triển đối với nguồn vốn ODA
Nguồn vốn ODA là nguồn vốn phát triển do các tổ chức quốc tế và các chính phủ nước ngoài cung cấp
với các mục tiêu trợ giúp các nước đang phát triển. So với các hình thức tài trợ khác, ODA mang tính ưu
đãi cao hơn bất cứ nguồn ODF nào khác. Ngoài các điều kiện ưu đãi về lãi suất, thời hạn cho vay dài, khối
lượng vốn cho vay lớn, bao giờ trong ODA cũng có yếu tố không hoàn lại (còn gọi là thành tố tài trợ) đạt ít nhất 25%.
Trên thực tế hiện nay, Việt Nam cũng đang có nhu cầu lớn trong việc sử dụng vốn ODA để phát triển cơ
sở hạ tầng. Bước vào năm 2012, năm bản lề cho việc hoàn tất kế hoạch Phát triển KT - XH 5 năm (2011-
2015), Việt Nam càng cần nhiều hơn nữa sự hỗ trợ về ODA, trong đó đối tác chính yếu là Nhật Bản trong
việc cung cấp nguồn vốn vay này, nhằm phát triển cơ sở hạ tầng, đáp ứng nhu cầu tăng trưởng kinh tế,
đặc biệt là công tác xóa đói giảm nghèo.
Hiện nay với các dự án đang giải ngân thực hiện bằng nguồn vốn ODA từ Nhật Bản như: Dự án Phát triển
cơ sở hạ tầng Cảng quốc tế Cái Mép - Thị Vải, đường cao tốc Bắc Nam (đoạn TP HCM – Dầu Giây), nhà
máy nhiệt điện Ô Môn II, đại lộ Đông Tây TP HCM, dự án cải thiện môi trường nước TP HCM vẫn đang
cần thêm nguồn vốn bổ sung để hoàn tất. Bên cạnh đó, còn hàng loạt công trình cơ sở hạ tầng quy mô lớn
thiết yếu như dự án phát triển cơ sở hạ tầng cảng cửa ngõ quốc tế Hải Phòng (cảng Lạch Huyện), đường
cao tốc Bắc Nam (đoạn Đà Nẵng - Quảng Ngãi), Trung tâm vũ trụ Việt Nam, dự án cấp nước và xử lý
nước thải Đồng Nai ,… cũng đang được chính phủ Việt Nam đề nghị chính phủ Nhật Bản cung cấp vốn ODA.
Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng nguồn vốn vay ODA chủ yếu được dung vào các dự án phúc lợi và
phát triển cộng đồng tại các quốc gia đang và kém phát triển và đây cũng là nhu cầu cấp thiết nhất tại các
quốc gia này. Trong đó lĩnh vực giáo dục là một trong những ưu tiên hàng đầu để các nước đồng ý hỗ trợ
cho các nước đang và kém phát triển vay bằng hình thức ODA. Chẳng hạn, vào ngày 21/08/2009, ngân
hàng Nhà nước và WB tại Việt Nam đã ký Hiệp định tài trợ cho chương trình đảm bảo chất lượng giáo
dục trường học và Chính sách phát triển giáo dục đại học giai đoạn 1. Tổng số vốn ODA mà WB cho vay
trong hai dự án này là 177 triệu USD. Chương trình được thực hiện tại 35 tỉnh thành phố trên cả nước từ 2009-2015.
2. Lợi ích ODA mang lại cho các nước đang và kém phát triển
2.1. ODA là nguồn vốn bổ sung giúp cho các nước nghèo đảm bảo chi đầu tư phát triển, giảm gánh nặng
cho ngân sách nhà nước
Vốn ODA với đặc tính ưu việt là thời hạn cho vay dài thường là 10 - 30 năm, lãi suất thấp khoảng từ
0,25% đến 2%/năm. Chỉ có nguồn vốn lớn với điều kiện cho vay ưu đãi như vậy Chính phủ các nước mới có
thể tập trung đầu tư cho các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế như đường sá, điện, nước, thuỷ lợi và các
hạ tầng xã hội như giáo dục, y tế. Những cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội được xây dựng mới hoặc cải tạo nhờ
nguồn vốn ODA là điều kiện quan trọng thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế của các nước nghèo. Theo tính toán
của các chuyên gia của WB, đối với các nước có thể chế và chính sách tốt, khi ODA tăng lên 1% GDP thì tốc độ tăng thêm 0.5%.
2.2. ODA giúp các nước phát triển nguồn nhân lực, bảo vệ môi trường
Một lượng ODA lớn được các nhà tài trợ và các nước tiếp nhận ưu tiên dành cho đầu tư phát triển
giáo dục, đào tạo, nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả của lĩnh vực này, tăng cường một bước cơ sở vật
chất kỹ thuật cho việc dạy và học của các nước. Bên cạnh đó, một lượng ODA khá lớn cũng được dành cho
các chương trình hỗ trợ lĩnh vực y tế, đảm bảo sức khỏe cộng đồng. Nhờ có sự tài trợ của cộng đồng quốc tế,
các nước đã gia tăng đáng kể chỉ số phát triển con người của quốc gia mình. lOMoAR cPSD| 61265515
Về phát triển nguồn nhân lực, tại Indonesia, mỗi năm có khoảng 7000 người được đưa đi đào tạo
tại Nhật Bản trong chương trình đào tạo đối tác của JICA. Trong năm tài chính 2000, 12 khóa học đã được
tổ chức tại Indo và 131 học viên từ châu Á và châu Phi đã đến Indo học tập.
Tại Trung Quốc, từ năm 1990 đến năm 1997, có khoảng 16 dự án gìn giữ môi trường sử dụng vốn
ODA của Nhật Bản. Các khoản vay ODA cam kết cho năm tài chính 2000 có 20 trong số 23 dự án là các
dự án nhằm bảo vệ môi trường. Bên cạnh đó, việc hợp tác cũng mở rộng sang lĩnh vực chống ô nhiễm
công nghiệp, các biện pháp chống ô nhiễm nước và không khí, quản lý môi trường, trồng rừng, chống sa mạc hóa...
2.3. ODA giúp các nước xóa đói giảm nghèo
Xoá đói giảm nghèo là một trong những tôn chỉ đầu tiên được các nhà tài trợ quốc tế đưa ra khi
hình thành phương thức hỗ trợ phát triển chính thức. Mục tiêu này biểu hiện tính nhân đạo của ODA.
Trong bối cảnh sử dụng có hiệu quả, tăng ODA một lượng bằng 1% GDP sẽ làm giảm 1% nghèo khổ, và
giảm 0,9% tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh. Và nếu như các nước giàu tăng 10 tỷ USD viện trợ hằng năm sẽ
cứu được 25 triệu người thoát khỏi cảnh đói nghèo. Nhật dành nhiều vốn ODA cho việc xóa đói giảm
nghèo tại Indonesia, đất nước chịu nhiều thiên tai và dịch bệnh.
Tuy nhiên thực tế cho thấy nghèo vẫn còn là vấn đề lớn nhất cần được giải quyết tại nước này, đặc
biệt là trong tình hình khó khăn do cuộc khủng hoảng kinh tế và sự bất ổn trong nước trong những năm
gần đây. Tại Trung Quốc, nhờ sử dụng vốn ODA hiệu quả, số nông thôn nghèo khó ở Trung Quốc từ 94,22
triệu người tính đến cuối năm 2000, giảm xuống còn 26,88 triệu người năm 2010. Tỷ lệ dân số nông thôn
nghèo khó trong tổng số dân nông thôn Trung Quốc từ 10,2% năm 2000, giảm xuống còn 2,8% năm 2010.
Trung Quốc đã thực hiện trước thời hạn mục tiêu giảm 50% dân số nghèo khó theo Mục tiêu phát triển
thiên niên kỷ của LHQ, góp phần quan trọng cho sự nghiệp xóa giảm đói nghèo của toàn thế giới.
2.4 ODA là nguổn bổ sung ngoại tệ và làm lành mạnh cán cân thanh toán quốc tế của các nước
Đối với các nước đang phát triển, khó khăn kinh tế là điều không thể tránh khỏi, trong đó nợ nước
ngoài và thâm hụt cán cân thanh toán quốc tế ngày một gia tăng là tình trạng phổ biến. Vì vậy ODA là
nguồn bổ sung ngoại tệ và làm lành mạnh cán cân thanh toán quốc tế của các nước đang phát triển... ODA,
đặc biệt các khoản trợ giúp của IMF có chức năng làm lành mạnh hoá cán cân vãng lai cho các nước tiếp
nhận, từ đó ổn định đồng bản tệ.
Bên cạnh đó, việc chuyển chính sách kinh tế nhà nước đóng vai trò trung tâm sang chính sách
khuyến khích nền kinh tế phát triển theo định hướng phát triển khu vực kinh tế tư nhân cần phải có một
lượng vốn lớn, do vậy mà các chính phủ lại dựa vào nguồn hỗ trợ ODA.
Ngày 14 tháng 5 và ngày 15 tháng 5 năm 1997, đồng Baht Thái bị tấn công đầu cơ quy mô lớn
mất giá gần 50%. Vào tháng 1 năm 1998, nó đã xuống đến mức 56 Baht mới đổi được 1 dollar Mỹ. Chỉ
số thị trường chứng khoán Thái Lan đã tụt từ mức 1.280 cuối năm 1995 xuống còn 372 cuối năm 1997.
Đồng thời, mức vốn hóa thị trường vốn giảm từ 141,5 tỷ USD xuống còn 23,5 tỷ USD. Finance One, công
ty tài chính lớn nhất của Thái Lan bị phá sản. Ngày 11 tháng 8, IMF tuyên bố sẽ cung cấp một gói cứu trợ
trị giá 16 tỷ dollar Mỹ cho Thái Lan. Ngày 20 tháng 8, IMF thông qua một gói cứu trợ nữa trị giá 3,9 tỷ đôla Mỹ.
Kết quả: đồng Bath Thái Lan đã tăng giá trở lại sau 1 năm sụt giá thảm hại (55 Baht/USD vào
tháng 12/1997 tăng lên khoảng 38 Baht/USD tháng 11/1998).
2.5. ODA được sử dụng có hiệu quả sẽ trở thành nguồn nhân lực bổ sung cho đầu tư tư nhân
Ở những quốc gia có cơ chế quản lý kinh tế tốt, ODA đóng vai trò như nam châm “hút” đầu tư tư
nhân theo tỷ lệ xấp xỉ 2 USD trên 1 USD viện trợ. Đối với những nước đang trong tiến trình cải cách thể
chế, ODA còn góp phần củng cố niềm tin của khu vực tư nhân vào công cuộc đổi mới của Chính phủ.Tuy
nhiên, không phải lúc nào ODA cũng phát huy tác dụng đối với đầu tư tư nhân. Ở những nền kinh tế có
môi trường bị bóp méo nghiêm trọng thì viện trợ không những không bổ sung mà còn “loại trừ” đầu tư tư
nhân. Điều này giải thích tại sao các nước ĐPT mắc nợ nhiều, mặc dù nhận được một lượng ODA lớn của
cộng đồng quốc tế song lại không hoặc tiếp nhận được rất ít vốn FDI. lOMoAR cPSD| 61265515
2.6. ODA giúp các nước tăng cường năng lực và thể chế thông qua các chương trình, dự án hỗ trợ
công cuộc cải cách pháp luật, cải cách hành chính và xây dựng chính sách quản lý kinh tế phù hợp với thông lệ quốc tế
Lượng vốn ODA nhận được từ các tổ chức tài chính quốc tế càng cao, càng chứng tỏ độ tin cậy
của cộng đồng quốc tế nước tiếp nhận càng lớn. Ngược lại nước nhận viện trợ phải nỗ lực cải cách thể
chế, tích cực chống thể chế, tích cực chống tham nhũng và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn quốc gia, đây
là những điều khoản tiên quyết để được nhận hỗ trợ nhiều hơn từ các nhà tài trợ song phương và đa phương.
ODA giúp các nước nghèo cải cách hành chính, kinh tế thông qua các chương trình viện trợ dự án,
làm cho cơ chế quản lý kinh tế những nước này tiếp cận với những chuẩn mực chung quốc tế; góp phần
cải tiến cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa và đưa nền kinh tế tham gia phân công lao động quốc tế một cách mạnh mẽ.
2.7. ODA dưới dạng viện trợ không hoàn lại giúp các nước nhận viện trợ tiếp thu những thành
tựu khoa học, công nghệ hiện đại và phát triển nguồn nhân lực
Dù cho các nước tài trợ thường không muốn chuyển giao những công nghệ cao nhưng trên thực
tế cũng có công nghệ tương đối cao được chuyển giao làm tăng thêm tiềm lực khoa học công nghệ của
nước tiếp nhận. Khả năng này thường được chuyển giao qua các dự án hỗ trợ kỹ thuật với nhiều loại hình
khác nhau và gắn với các dự án khác nhau, như các dự án về huấn luyện đào tạo chuyên môn, các chương
trình về tuyển cử quốc gia, các dự án về cung cấp thiết bị và vật liệu độc lập; các chương trình cử các
đoàn khảo sát về phát triển… Bên cạnh đó, ODA giúp các nước đang phát triển phát triển nguồn nhân
lực, bảo vệ môi trường. Một lượng ODA lớn được các nhà tài trợ và các nước tiếp nhận ưu tiên dành cho
đầu tư phát triển giáo dục, đào tạo, nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả của lĩnh vực này, tăng cường
một bước cơ sở vật chất kỹ thuật cho việc dạy và học của các nước đang phát triển. Bên cạnh đó, một
lượng ODA khá lớn cũng được dành cho các chương trình hỗ trợ lĩnh vực y tế, đảm bảo sức khỏe cộng
đồng. Nhờ có sự tài trợ của cộng đồng quốc tế, các nước đang phát triển đã gia tăng đáng kể chỉ số phát
triển con người của quốc gia mình.
II. Sự thay đổi của nguồn vốn ODA từ năm 2016-2020 1. ODA ở Việt Nam kể từ khi Việt Nam
trở thành nước có thu nhập trung bình (2010)
ODA là một nguồn ngoại lực quan trọng ở Việt Nam. Kể từ khi Việt Nam trở thành nước có thu
nhập trung bình thấp vào năm 2010, đến năm 2017 thì tổng số vốn ODA cam kết là gần 39,15 tỷ USD và
Việt Nam đã giải ngân được hơn 33,13 tỷ USD (tương đương với 84,64% tổng vốn ODA cam kết), (xem
Hình 1 để rõ hơn chi tiết ODA theo các năm). Một điểm cần lưu ý là, do vốn ODA cam kết theo số liệu
của OECD chính là số tiền mà các nhà tài trợ đã tạm ứng để thực hiện các dự án ODA nên mức độ giải
ngân vốn ODA của Việt Nam theo cách hiểu này là cao hơn so với các số liệu về tỷ lệ giải ngân/cam kết
vốn ODA do Bộ Kế hoạch và Đầu tư công bố.
Số ODA giải ngân ở Việt Nam có xu hướng tăng lên từ năm 2010 đến năm 2014 nhưng bắt đầu suy
giảm từ năm 2015 đến 2017 do các nhà tài trợ bắt đầu cắt giảm ODA cho Việt Nam. Thêm vào đó, bắt
đầu từ 01/7/2017, Việt Nam đã chính thức tốt nghiệp ODA theo tiêu chuẩn của WB. Điều đó có nghĩa là
Việt Nam không còn nhận được các khoản vay vốn ưu đãi từ IDA của WB mà phải chịu các khoản vay
kém ưu đãi, dần tiến tới vay theo điều kiện thị trường. Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) cũng xếp Việt
Nam vào nhóm B, nhóm đối tượng vay hỗn hợp chứ không thuộc diện chỉ nhận được các khoản vay ưu đãi.
Tỷ lệ ODA trên tổng thu nhập quốc dân (GNI) liên tục giảm ở Việt Nam nhưng ODA bình quân
đầu người ở Việt Nam lại liên tục tăng. Năm 2010, vốn ODA giải ngân đạt 2,64% GNI nhưng đến năm
2017 thì chỉ còn đạt 1,11% GNI của Việt Nam. ODA bình quân đầu người năm 2014 là 45,55 USD nhưng
đến năm 2017 chỉ còn 24,87 USD. Mặc dù được xác định là một nguồn ngoại lực quan trọng và có quy
hoạch, định hướng thu hút và sử dụng ODA định kỳ 5 năm một lần song sự đóng góp của ODA cho GNI
của Việt Nam chỉ ở mức độ khiêm tốn. Tuy nhiên, nguồn vốn này có vị trí quan trọng đối với đầu tư phát
triển trong bối cảnh ngân sách nhà nước còn hạn hẹp mà nhu cầu phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội lại rất lớn.
lOMoAR cPSD| 61265515
ODA vào Việt Nam chủ yếu dưới hai hình thức là ODA viện trợ và ODA vay trong đó vốn vay
ODA có xu hướng ngày càng tăng và ngày càng chiếm tỷ trọng lớn so với ODA viện trợ. Trong giai
đoạn 2010 - 2017, Việt Nam đã phải trả hơn 5,83 tỷ USD tiền nợ gốc vay ODA và hơn 2,3 tỷ lãi vay
ODA, tổng cộng là gần 8,15 tỷ USD (tương đương với 24,6% tổng vốn ODA giải ngân cho cả giai đoạn)2
. Bên cạnh 2 hình thức ODA viện trợ và ODA vay thì còn có một hình thức ODA vào Việt Nam lOMoAR cPSD| 61265515
nữa là ODA đầu tư vào tài sản (Equity Investment) tuy nhiên hình thức này chiếm tỷ trọng rất nhỏ (0,43%
tổng ODA vào Việt Nam cho cả giai đoạn 2010 - 2017) với giá trị khoảng 142,54 triệu USD cho cả giai đoạn
Các nước thuộc Uỷ ban Hỗ trợ phát triển của OECD - DAC và các tổ chức đa phương quốc
tế là các nhà tài trợ ODA chủ yếu cho Việt Nam trong đó ODA từ các nước DAC chiếm 62,2%, từ các
tổ chức đa phương chiếm 37,56% tổng số ODA giải ngân cho cả giai đoạn 2010 - 2017. Tuy nhiên, số
ODA từ các nước DAC hiện đang có tỷ trọng giảm so với số ODA từ các tổ chức đa phương tài trợ cho
Việt Nam. Điều này cho thấy xu hướng của các đối tác tài trợ cho Việt Nam trong thời gian tới là các tổ
chức đa phương chứ không phải các nước riêng rẽ. Đối với các nhà tài trợ là các tổ chức đa phương thì
vốn ODA từ IDA chiếm tỷ trọng lớn nhất (24,63% tổng vốn ODA cho cả giai đoạn). Tuy nhiên một điểm
đáng lưu ý là mức độ giải ngân ODA qua khu vực công chỉ đạt 84,66% ODA cam kết (thấp thứ hai trong
nhóm các kênh chuyển giao vốn ODA vào Việt Nam). Mức độ giải ngân thấp nhất là qua kênh các tổ chức
đa phương (đạt 72,83% vốn ODA cam kết)2 . Bên cạnh đó, xét theo hình thức ODA thì 98,86% ODA vay
là thông qua khu vực công hay nói cách khác, chỉ có khu vực công mới có khả năng tiếp cận nguồn vốn
vay ODA (Hình 8). Còn đối với ODA viện trợ, 57,56% ODA viện trợ vào Việt Nam là qua kênh chuyển
giao từ khu vực công; 12,41% là qua các tổ chức đa phương; 7,8% là qua các tổ chức giáo dục, nghiên
cứu và nhóm think-tanks. Đây chính là một điểm mà Việt Nam cần lưu ý khi lập đề án thu hút vốn ODA viện trợ
Theo OECD, căn cứ vào mục tiêu thực hiện mà các dự án ODA được phân bổ vào 11 nhóm lĩnh vực.Đó là:
- Nhóm 1: Các dịch vụ và cơ sở hạ tầng xã hội
- Nhóm 2: Các dịch vụ và cơ sở hạ tầng kinh tế
- Nhóm 3: Nhóm ngành sản xuất
- Nhóm 4: Nhóm đa ngành, đa lĩnh vực
- Nhóm 5: Nhóm hỗ trợ chương trình chung và hỗ trợ hàng hóa
- Nhóm 6: Các hoạt động liên quan đến nợ
- Nhóm 7: Nhóm hỗ trợ nhân đạo
- Nhóm 8: Chi phí hành chính của nhà tài trợ
- Nhóm 9: Hỗ trợ các tổ chức phi chính phủ
- Nhóm 10: Hỗ trợ người tị nạn ở nước tài trợ
- Nhóm 11: Các lĩnh vực khác
Từ năm 2010 đến 2017, tỷ trọng ODA cho nhóm Các dịch vụ và cơ sở hạ tầng kinh tế chiếm tỷ lệ cao
nhất với giá trị gần 15,77 tỷ USD (chiếm 47,6% tổng số vốn ODA giải ngân cho cả giai đoạn); tiếp đến
là nhóm Các dịch vụ và cơ sở hạ tầng xã hội (9,3 tỷ USD, chiếm 28,11%) (3). Nhóm Đa ngành, đa lĩnh
vực xếp vị trí thứ ba với 3,89 tỷ USD (11,76%); xếp thứ tư là nhóm ngành sản xuất với 2,67 tỷ USD (8%).
ODA đã hỗ trợ xây dựng và phát triển một số ngành và lĩnh vực trọng yếu của Việt Nam như Giao thông
- vận tải và kho bãi; năng lượng (chính sách năng lượng, năng lượng tái tạo, chính sách phân phối năng
lượng); cấp nước và vệ sinh; giáo dục; các lĩnh vực đa ngành; bảo vệ môi trường; nông lâm ngư nghiệp;
Chính phủ và xã hội dân sự; y tế; hỗ trợ ngân sách; Dịch vụ tài chính và ngân hàng; công nghiệp, khai khoáng và xây dựng…
Tuy nhiên, một điểm rất đáng lưu ý vốn ODA phân bổ cho lĩnh vực Giao thông - vận tải và kho
bãi và lĩnh vực Năng lượng chủ yếu là vốn ODA vay với số lượng vay vốn ngày càng tăng. Nếu như năm
2010, 93,94% vốn ODA cho lĩnh vực Giao thông - vận tải là vốn vay thì đến năm 2017, tỷ trọng này là
97,95%. Tương tự như vậy, vốn vay ODA của ngành Năng lượng vào năm 2010 là 95,57% và đến năm
2017 là 96,73%. Vốn ODA cho lĩnh vực Cấp nước và vệ sinh cũng có tới 82,62% là vốn vay. Riêng đối
với lĩnh vực Giáo dục thì vốn ODA cho lĩnh vực này có gần một nửa là từ nguồn ODA viện trợ (47,74%).
Lĩnh vực Bảo vệ môi trường nói chung và Các lĩnh vực đa ngành có hơn 30% vốn ODA là từ ODA viện trợ.