Phép biện chứng duy vật - Triết học Mác - Lênin | Đại học Tôn Đức Thắng

Trình bày tư tưởng cơ bản của “chính sách kinh tế mới” (NEP) của Lênin. Từ đó nêubật lên phương pháp kết hợp biện chứng các mặt đối lập để giải quyết mâu thuẫn của nước Nga Xô viết thời kỳ đó. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

Trình bày tư tưởng cơ bản của “chính sách kinh tế mới” (NEP) của Lênin. Từ đó nêu
bật lên phương pháp kết hợp biện chứng các mặt đối lập để giải quyết mâu thuẫn
của nước Nga Xô viết thời kỳ đó
GIỚI THIỆU VỀ BÀI THUYẾT TRÌNH
1. Mục đich, nhiệm vụ, giới hạn của bài
1.1 Mục đích
Nắm vững quy luâ t này là cơ sở đ hiu biĀt tất cả các phạm trù và quy luâ t
khác của phép biện chứng duy vâ t. Nghiên cứu quy luâ t này giúp mi người hình
thành phương pháp, hình thành tư duy khoa hc, biĀt khám phá bản chất của các
sự vâ t và giải quyĀt các mâu thuẫn nảy sinh
1.2 Nhiệm vụ
Trình bày tư tưởng cơ bản của “chính sách kinh tĀ mới” (NEP) của Lênin
Nghiên cứu về quy luật mâu thuẫn và tư tưởng kĀt hợp các mặt đối lập.
Phân tích việc V.I.Lênin vận dụng sự kĀt hợp các mặt đối lập đ giải quyĀt
mâu thuẫn của nước Nga Xô viĀt thời bấy giờ.
1.3 Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
-Những nguyên ý cua chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
- Những quan đim của V.I.Lênin về chính sách kinh tĀ mới.
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: NỘI DUNG QUY LUẬT MÂU THUẪN VÀ TƯ TƯỞNG KẾT
HỢP CÁC MẶT ĐỐI LẬP.
1.1 Định nghĩa
- Mâu thuẫn: là hiện tượng khách quan và phổ biĀn, chỉ mối liên hệ tác động qua lại
giữa các mặt đối lâ p trong cùng một sự vâ t
( là hiện tượng khách quan và phổ biĀn, chỉ mối liên hệ tác động qua lại giữa các
mặt đối lâ #p trong cùng một sự vâ #t. Như vâ #y, mâu thuẫn là cái vốn có ở mi sự vâ #t
hiện tượng. Khi sự vâ #t hay hiện tượng được hình thành và phát tri2n sẽ xuất hiện
mâu thuẫn, là do cấu trúc tự nhiên của sự vâ #t quy định, không phụ thuộc vào bất kỳ
một lực lượng siêu nhiên nào, không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của con người.
Mâu thuẫn tồn tại từ khi sự vâ #t xuất hiện cho đĀn khi kĀt thúc, ở mi không gian,
thời gian, mi giai đoạn phát tri2n. Mâu thuẫn này mất đi thì mâu thuẫn khác được
hình thành)
- Các hình thức mâu thuẫn:
Mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài
Mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản
Mâu thuẫn chủ yĀu và mâu thuẫn thứ yĀu
Mâu thuẫn đối kháng và không đối kháng
- Mặt đối lập: theo Giáo trình TriĀt hc Mác-Lênin: “Khi nói tới những nhân tố cấu
thành mâu thuẫn biện chứng, “mặt đối lâ #p” là phạm trù dùng đ2 chỉ những mặt có
những đặc đi2m, những thuộc tính, những tính quy định có khuynh hướng biĀn đổi
trái ngược nhau tồn tại một cách khách quan trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Chính
những mặt như vâ #y nằm trong sự liên hệ, tác động qua lại với nhau tạo thành mâu
thuẫn biện chứng.”
- Trong tư duy thông thường, khi nói đĀn hai mặt đối lâ p là nói đĀn mâu thuẫn. Còn
trong tư duy biện chứng, không phải là hai mặt đối lâ p nào cũng tạo nên mâu thuẫn
mà chỉ những mặt đối lâ p tác động biện chứng với nhau tạo nên sự vâ t hiện tượng và
tạo nên sự phát trin mới được gi là mâu thuẫn – mâu thuẫn biện chứng.
1.2. Sự kết hợp các mặt đối lập
Theo tư tưởng của Mác – Lênin về sự kĀt hợp giữa các mặt đối lâ p
- Vấn đề kĀt hợp các mặt đốt lâ p được đặt ra với tư cách là hình thức hoạt động tích
cực, tự giác của chủ th trên cơ sở nhâ n thức và vâ n dụng mối quan hệ khách quan,
vừa thống nhất vừa đấu tranh giữa các mặt đối lâ p nảy sinh trong đời sống xã hội.
Xuất phát trừ sự thống nhất vốn có giữa các mặt đối lâ p, chủ th hoạt động có th
thực hiện việc kĀt hợp chúng lại một cách đúng đắn, khoa hc nhằm đem lại lợi ích
nhất định cho chủ th đó
- Việc kĀt hợp các mặt đối lâ p ở đây, với tư cách là hoạt động tích cực của hoạt động
chủ quan, phải được dựa trên cơ sở khách quan cụ th, đó là những đòi hỏi tất yĀu
của việc kĀt hợp và ở cả những điều kiện khách quan cho phép đ có th tiĀn hành
việc kĀt hợp này
- Khi khẳng định kĀt hợp các mặt đối lâ p là biu hiện các hoạt động tích cực của chủ
th trong hoạt động thực tiễn xã hội, tư tưởng biện chứng mác xít lưu ý rằng, đây
không phải là hành động có tính chủ quan thuần túy, có th áp dụng đối với bất kỳ
mặt đối lâ p nào một cách vô điều kiện
Trái lại, việc thực hiện kĀt hợp các mặt đối lâ p phải tuân theo những yêu cầu khách quan
nhất định, cụ th như sau:
Thứ nhất, về mặt khách quan, giữa các nhân tố, các lực lượng xã hội, tồn tại với tư
cách là những mặt đối lâ p của nhau phải có những đim chung, tương đồng có th đi tới
sự điều hòa, thỏa hiệp trong một giớ hạn nhất định. Với những thỏa hiệp nhất định ở đây
không phải là hoạt động xóa bỏ nguyên tắc đấu tranh giữa các mặt đối lâ p, mâu thuẫn xã
hội này hoàn toàn mang tính đối kháng thì việc kĀt hợp không th thực hiện được một
cách đúng đắn và đem lại hiệu quả mong muốn cho chủ th.
Thứ hai, về mặt chủ quan, việc kĀt hợp các mặt đối lâ p chỉ thực hiện được và đạt kĀt
quả mong muốn khi chủ th có đủ năng lực và bản lĩnh chính trị cần thiĀt đáp ứng được
yêu cầu của sự kĀt hợp này. Đòi hỏi chủ th ở đây phải có đủ khả năng sớm nắm bắt
được yêu cầu khách quan cũng như thời cơ thuâ n lợi của việc kĀt hợp, từ đó tiĀn hành tổ
chức kĀt hợp một cách khéo léo, khoa hc nhằm hướng có lợi cho chủ th.
Thứ ba, việc kĀ hợp các mặt đối lâ p đó phải th hiện được tính định hướng rõ rang,
phải góp phần thúc đầy sự phát trin xủa xã hội
Thứ tư, việc kĀt hợp các mặt đối lâ p phải đảm bảo quá trính đấu tranh giữa các mặt
đối lâ p đó. Bởi vì, sự phát trin chính là “quá trình đấu tranh của các mặt đối lâ p”
1.3. Kết luận
Nhìn từ góc độ tư tưởng biện chứng, sự kĀt hợp các mặt đối lâ p chính là một quá trính
tác động biện chứng giữa chủ th và khách th, giữa nhân tố chủ quan và điều kiện
khách quan. Trong đó, vai trò của chủ th, của nhân tố chủ quan được phát huy cao độ
đ có th thúc đẩy lịch sử phát trin.
CHƯƠNG 2: TƯ TƯỞNG CỦA CHÍNH SÁCH KINH TẾ MỚ
Tháng 3-1921, V.I. Lê-nin đã vạch ra Chính sách Kinh tế mới (NEP) thay cho Chính sách cộng
sản thời chiến, được trình bày đầu tiên trong tác phẩm “ ”. V.I. Lê-nin đã xuất Bàn về thuế lương thực
phát từ đặc điểm cơ bản về kinh tế - xã hội của nước Nga lúc bấy giờ:
Một là, sự tồn tại của một cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, như: kinh tế kiểu gia trưởng - kinh tế
tự nhiên, tự cung, tự cấp của nông dân; sản xuất hàng hóa nhỏ; chủ nghĩa tư bản tư nhân; chủ nghĩa
tư bản nhà nước; chủ nghĩa xã hội. Trong đó, kinh tế tiểu nông sản xuất hàng hóa nhỏ chiếm ưu
thế, đây là đặc điểm quan trọng nhất.
Hai là, nền đại công nghiệp cơ khí, cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội còn vô cùng
non yếu; các quan hệ hàng hóa - tiền tệ chưa phát triển.
Ba là, sự khủng hoảng về kinh tế, chính trị, xã hội trầm trọng sau nội chiến mới kết thúc.
Bốn là, nước Nga là nước làm cách mạng xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới, phải tự khai
phá con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện vô cùng khó khăn, bị chủ nghĩa tư bản quốc tế
bao vây chống phá.
Từ sự phân tích này, khắc phục sự nóng vội chủ quan muốn trực tiếp đi thẳng lên chủ
nghĩa xã hội và khủng hoảng kinh tế, xã hội trong nước, V.I. Lê-nin đã đề ra NEP trong giai đoạn
nước Nga chuyển từ thời chiến sang thời bình.
2.1.1. Các mâu thuẫn đang tồn tại trước thời điểm chính sách kinh tế mới ra đời
- Mâu thuẫn giai cấp: Xô Viết trước đó là một xã hội với sự chia rẽ rõ ràng giữa giai cấp tư sản
và giai cấp nông dân. Giai cấp tư sản sở hữu các phương tiện sản xuất và khai thác lao động
của giai cấp nông dân. Trong khi đó, giai cấp nông dân chịu nặng nề của tình trạng thấp kém và
bóc lột của giai cấp tư sản.
- Mâu thuẫn giữa các dân tộc: Nước Nga Xô Viết trước khi NEP được thực hiện là một quốc gia
đa dân tộc với nhiều vùng đất và ngôn ngữ khác nhau. Sự đa dạng văn hóa này đã dẫn đến mâu
thuẫn giữa các dân tộc và thường xuyên phát sinh các cuộc nổi dậy.
- Mâu thuẫn giữa cánh tả và cánh hữu trong Đảng Cộng sản: Trong Đảng Cộng sản Nga, cánh
tả và cánh hữu đều có quan điểm khác nhau về cách tiếp cận với cách mạng và xây dựng nền
kinh tế mới. Cánh tả ủng hộ sự cách mạng xã hội chủ nghĩa toàn diện, trong khi cánh hữu ủng
hộ việc tập trung vào phát triển kinh tế.
2.2. Các tư tưởng cơ bản trong chính sách kinh tế mới NEP
- Tạo cơ hội cho doanh nghiệp tư nhân: NEP cho phép các doanh nghiệp tư nhân được thành
lập và hoạt động, tạo cơ hội cho các nhà sản xuất tư nhân phát triển kinh doanh và thúc đẩy sản
xuất.
- Tăng cường sự phân chia lao động: NEP cho phép người dân sở hữu đất đai, chăn nuôi và
sản xuất nông nghiệp, tăng cường sự phân chia lao động và thúc đẩy sản xuất nông nghiệp.
- Tăng cường sự tập trung của chính phủ: Chính phủ Xô Viết vẫn giữ quyền kiểm soát các
doanh nghiệp lớn và các ngành công nghiệp chính để đảm bảo sự ổn định kinh tế và phát triển
nền kinh tế Xô Viết.
2.3. Biểu hiện của việc vận dụng sự kết hợp các mặt đối lập để giải quyết mâu thuẫn của nước
Nga Xô viết thời bấy giờ.
Phương pháp kết hợp biện chứng các mặt đối lập được áp dụng trong chính sách NEP
của Xô Viết được biểu hiện rõ ràng ở việc kết hợp giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản.
Chính sách kinh tế mới (New Economic Policy - NEP) được áp dụng tại Liên
Xô trong thập niên 1920 kết hợp giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư
bản để thúc đẩy sự phát triển kinh tế của đất nước. Tuy nhiên, sự kết hợp
này không đơn giản là việc chỉ đơn giản kết hợp hai thể chế kinh tế khác
nhau, mà là một sự phát triển mới của chủ nghĩa xã hội trong điều kiện
mới.
NEP đánh dấu sự thay đổi cách tiếp cận của chính quyền Liên Xô đối với
kinh tế, chuyển từ chính sách chủ nghĩa cộng sản truyền thống sang chính
sách mang tính đa dạng hóa với các hoạt động kinh tế có tính thị trường.
Điều này được thực hiện bằng cách cho phép tư nhân sản xuất, buôn bán
và trao đổi hàng hóa. Tuy nhiên, các ngành công nghiệp chiến lược vẫn
được chủ trương và điều hành bởi nhà nước.
Sự kết hợp giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản trong NEP được thể
hiện qua việc cho phép các tư nhân sản xuất, mua bán, vay nợ và có
quyền sở hữu tài sản. Tuy nhiên, đồng thời chính phủ vẫn giữ vai trò điều
chỉnh và điều hành các ngành sản xuất chiến lược, cũng như phân phối
nguồn lực trong xã hội để đảm bảo sự phát triển đồng đều và hợp lý của
kinh tế.
Tóm lại, sự kết hợp giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản trong chính
sách kinh tế mới của Liên Xô là một sự đan xen linh hoạt giữa những yếu
tố khác nhau trong một bối cảnh kinh tế phức tạp. Tuy nhiên, phương pháp
này không được duy trì lâu dài và sau đó Liên Xô đã chuyển sang chính
sách kinh tế hoàn toàn chủ nghĩa cộng sản.
Chính sách NEP đưa ra một số thay đổi cần thiết nhằm giải quyết các mâu thuẫn này.
Đầu tiên, chính sách này cho phép các doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã và cá nhân thực hiện
các hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, nhà nước tiếp tục giữ quyền kiểm soát những ngành kinh
tế chiến lược và thực hiện các chính sách tài chính, tiền tệ và thuế để đảm bảo sự ổn định của
nền kinh tế.
Thứ hai, NEP cũng cải cách hệ thống chính trị bằng cách tăng cường quyền lực của các địa
phương và cho phép các hoạt động tư nhân tự do hơn. Điều này giúp tạo ra một môi trường
kinh doanh thuận lợi và khuyến khích sự phát triển của kinh tế.
Qua hai điều trên, chính sách NEP đã có những đóng góp quan trọng cho sự phát triển kinh tế
của Xô Viết. Nó đã giúp khôi phục lại sản xuất nông nghiệp và công nghiệp, tăng cường sự ổn
định xã hội và tạo ra một môi trường kinh doanh thuận lợi. Đặc biệt, NEP đã cho phép Xô Viết
tiếp cận với các công nghệ và văn hóa phương Tây, điều này đã có tác động tích cực đến việc
phát triển nền kinh tế, khoa học và văn hóa của Xô Viết.
Bên cạnh đó, kết hợp giữa các mặt đối lập chính là Trước khi NEP được triển khai, nước
Nga Xô Viết đã trải qua một thời kỳ khủng hoảng kinh tế, với sự suy tàn của nền kinh tế và
những căng thẳng xã hội nghiêm trọng.
Trong Đảng Cộng sản Xô Viết, hai phái cánh hữu và cánh tả đã xung đột
về chiến lược kinh tế và chính trị của đất nước.
Các lực lượng cánh hữu đặt ưu tiên cho phát triển nông nghiệp và khuyến
khích việc giải phóng lực lượng sản xuất nhỏ và tư nhân. Họ cho rằng đây
là cách để đảm bảo sự ổn định kinh tế và đáp ứng nhu cầu của các tầng
lớp nông dân. Tuy nhiên, cánh hữu thường bị chỉ trích là có khuynh hướng
bảo vệ lợi ích của các tầng lớp truyền thống và chậm tiến hóa về mặt kinh
tế.
Ngược lại, các lực lượng cánh tả tập trung vào phát triển công nghiệp và
tập trung tài nguyên vào các ngành sản xuất chủ chốt. Họ tin rằng đây là
cách để nước Xô Viết có thể cạnh tranh được với các nước phương Tây
trong lĩnh vực công nghiệp và trở thành một cường quốc kinh tế. Tuy
nhiên, cánh tả cũng bị chỉ trích là quá chú trọng vào phát triển công
nghiệp và thiếu quan tâm đến nhu cầu của các tầng lớp nông dân và các
tầng lớp lao động khác.
Tuy nhiên, Lênin đã sử dụng phương pháp kết hợp biện chứng các mặt đối lập để giải quyết
mâu thuẫn giữa các lực lượng này. Ông nhận thức rằng, trong thời điểm hiện tại, không thể tập
trung hết các tài nguyên vào nền công nghiệp mà cần phải đảm bảo cho sự phát triển của nền
nông nghiệp và giải phóng các lực lượng sản xuất nhỏ và tư nhân.
Do đó, NEP đã cho phép các nông dân và doanh nghiệp nhỏ hoạt động tự do, trong khi chính
phủ tiếp tục kiểm soát các doanh nghiệp lớn và các ngành công nghiệp chính. Qua đó, Lênin đã
giải quyết được mâu thuẫn giữa các lực lượng cánh tả và cánh hữu trong Đảng, tạo ra một sự
kết hợp mới giữa những yếu tố này.
Tóm lại, phương pháp kết hợp biện chứng các mặt đối lập đã được áp dụng rộng rãi trong chính
sách NEP của Lênin, giúp giải quyết các mâu thuẫn và tạo ra sự kết hợp mới giữa chủ nghĩa xã
hội và chủ nghĩa tư bản, cũng như giữa các lực lượng cánh tả và cánh hữu trong Đảng.
Tuy nhiên, chính sách NEP không chỉ tập trung vào kinh tế, mà còn chú trọng đến các mặt
khác của đời sống xã hội. Ví dụ, chính sách này cũng thúc đẩy sự đa dạng hóa văn hóa và sự tự
do trong lĩnh vực giáo dục, văn hóa, nghệ thuật và truyền thông.
Phương pháp kết hợp biện chứng các mặt đối lập trong chính sách NEP giúp giải quyết
mâu thuẫn xã hội bằng cách tạo ra một sự cân bằng giữa các yếu tố khác nhau và tạo ra sự
thích ứng với tình hình thực tế. Tuy nhiên, phương pháp này không hoàn toàn giải quyết được
mọi mâu thuẫn và sau đó, chính sách NEP đã được thay thế bởi chính sách kinh tế định hướng
trung ương (tên gọi tiếng Nga là "Plan") do Stalin khởi xướng.
| 1/7

Preview text:

Trình bày tư tưởng cơ bản của “chính sách kinh tế mới” (NEP) của Lênin. Từ đó nêu
bật lên phương pháp kết hợp biện chứng các mặt đối lập để giải quyết mâu thuẫn
của nước Nga Xô viết thời kỳ đó
GIỚI THIỆU VỀ BÀI THUYẾT TRÌNH
1. Mục đich, nhiệm vụ, giới hạn của bài 1.1 Mục đích
Nắm vững quy luâ t này là cơ sở đ hiu bi Āt tất cả các phạm trù và quy luâ t 
khác của phép biện chứng duy vâ t. Nghiên cứu quy luâ t này giúp m漃⌀i người hình
thành phương pháp, hình thành tư duy khoa h漃⌀c, bi Āt khám phá bản chất của các
sự vâ t và giải quy Āt các mâu thuẫn nảy sinh 1.2 Nhiệm vụ
Trình bày tư tưởng cơ bản của “chính sách kinh t Ā mới” (NEP) của Lênin 
Nghiên cứu về quy luật mâu thuẫn và tư tưởng k Āt hợp các mặt đối lập. 
Phân tích việc V.I.Lênin vận dụng sự k Āt hợp các mặt đối lập đ giải quy Āt
mâu thuẫn của nước Nga Xô vi Āt thời bấy giờ.
1.3 Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
-Những nguyên ý cua chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
- Những quan đim của V.I.Lênin về chính sách kinh t Ā mới. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: NỘI DUNG QUY LUẬT MÂU THUẪN VÀ TƯ TƯỞNG KẾT
HỢP CÁC MẶT ĐỐI LẬP. 1.1 Định nghĩa -
Mâu thuẫn: là hiện tượng khách quan và phổ bi Ān, chỉ mối liên hệ tác động qua lại
giữa các mặt đối lâ p trong cùng một sự vâ t
( là hiện tượng khách quan và phổ bi Ān, chỉ mối liên hệ tác động qua lại giữa các
mặt đối lâ #p trong cùng một sự vâ #t. Như vâ #y, mâu thuẫn là cái vốn có ở m
漃⌀i sự vâ t #
hiện tượng. Khi sự vâ #t hay hiện tượng được hình thành và phát tri2n sẽ xuất hiện
mâu thuẫn, là do cấu trúc tự nhiên của sự vâ #t quy định, không phụ thuộc vào bất kỳ
một lực lượng siêu nhiên nào, không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của con người.
Mâu thuẫn tồn tại từ khi sự vâ #t xuất hiện cho đ
Ān khi k Āt thúc, ở m漃⌀i không gian,
thời gian, m
漃⌀i giai đoạn phát tri2n. Mâu thuẫn này mất đi thì mâu thuẫn khác được hình thành) -
Các hình thức mâu thuẫn:
Mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài 
Mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản 
Mâu thuẫn chủ y Āu và mâu thuẫn thứ y Āu 
Mâu thuẫn đối kháng và không đối kháng -
Mặt đối lập: theo Giáo trình Tri Āt h漃⌀c Mác-Lênin: “Khi nói tới những nhân tố cấu
thành mâu thuẫn biện chứng, “mặt đối lâ #p” là phạm trù dùng đ2 chỉ những mặt có
những đặc đi2m, những thuộc tính, những tính quy định có khuynh hướng bi
Ān đổi
trái ngược nhau tồn tại một cách khách quan trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Chính
những mặt như vâ #y nằm trong sự liên hệ, tác động qua lại với nhau tạo thành mâu thuẫn biện chứng.”
-
Trong tư duy thông thường, khi nói đ Ān hai mặt đối lâ 
p là nói đ Ān mâu thuẫn. Còn
trong tư duy biện chứng, không phải là hai mặt đối lâ p nào cũng tạo nên mâu thuẫn
mà chỉ những mặt đối lâ p tác động biện chứng với nhau tạo nên sự vâ t hiện tượng và
tạo nên sự phát trin mới được g漃⌀i là mâu thuẫn – mâu thuẫn biện chứng.
1.2. Sự kết hợp các mặt đối lập
Theo tư tưởng của Mác – Lênin về sự k Āt hợp giữa các mặt đối lâ p  -
Vấn đề k Āt hợp các mặt đốt lâ 
p được đặt ra với tư cách là hình thức hoạt động tích
cực, tự giác của chủ th trên cơ sở nhâ n thức và vâ n dụng mối quan hệ khách quan,
vừa thống nhất vừa đấu tranh giữa các mặt đối lâ p nảy sinh trong đời sống xã hội.
Xuất phát trừ sự thống nhất vốn có giữa các mặt đối lâ p, chủ th hoạt động có th
thực hiện việc k Āt hợp chúng lại một cách đúng đắn, khoa h漃⌀c nhằm đem lại lợi ích
nhất định cho chủ th đó -
Việc k Āt hợp các mặt đối lâ 
p ở đây, với tư cách là hoạt động tích cực của hoạt động
chủ quan, phải được dựa trên cơ sở khách quan cụ th, đó là những đòi hỏi tất y Āu
của việc k Āt hợp và ở cả những điều kiện khách quan cho phép đ có th ti Ān hành việc k Āt hợp này -
Khi khẳng định k Āt hợp các mặt đối lâ 
p là biu hiện các hoạt động tích cực của chủ
th trong hoạt động thực tiễn xã hội, tư tưởng biện chứng mác xít lưu ý rằng, đây
không phải là hành động có tính chủ quan thuần túy, có th áp dụng đối với bất kỳ
mặt đối lâ p nào một cách vô điều kiện
Trái lại, việc thực hiện k Āt hợp các mặt đối lâ 
p phải tuân theo những yêu cầu khách quan
nhất định, cụ th như sau:
Thứ nhất, về mặt khách quan, giữa các nhân tố, các lực lượng xã hội, tồn tại với tư
cách là những mặt đối lâ p của nhau phải có những đim chung, tương đồng có th đi tới
sự điều hòa, thỏa hiệp trong một giớ hạn nhất định. Với những thỏa hiệp nhất định ở đây
không phải là hoạt động xóa bỏ nguyên tắc đấu tranh giữa các mặt đối lâ p, mâu thuẫn xã
hội này hoàn toàn mang tính đối kháng thì việc k Āt hợp không th thực hiện được một
cách đúng đắn và đem lại hiệu quả mong muốn cho chủ th.
Thứ hai, về mặt chủ quan, việc k Āt hợp các mặt đối lâ 
p chỉ thực hiện được và đạt k Āt
quả mong muốn khi chủ th có đủ năng lực và bản lĩnh chính trị cần thi Āt đáp ứng được
yêu cầu của sự k Āt hợp này. Đòi hỏi chủ th ở đây phải có đủ khả năng sớm nắm bắt
được yêu cầu khách quan cũng như thời cơ thuâ n lợi của việc k Āt hợp, từ đó ti Ān hành tổ
chức k Āt hợp một cách khéo léo, khoa h漃⌀c nhằm hướng có lợi cho chủ th.
Thứ ba, việc k Ā hợp các mặt đối lâ 
p đó phải th hiện được tính định hướng rõ rang,
phải góp phần thúc đầy sự phát trin xủa xã hội
Thứ tư, việc k Āt hợp các mặt đối lâ 
p phải đảm bảo quá trính đấu tranh giữa các mặt
đối lâ p đó. Bởi vì, sự phát trin chính là “quá trình đấu tranh của các mặt đối lâ p” 1.3. Kết luận
Nhìn từ góc độ tư tưởng biện chứng, sự k Āt hợp các mặt đối lâ  p chính là một quá trính
tác động biện chứng giữa chủ th và khách th, giữa nhân tố chủ quan và điều kiện
khách quan. Trong đó, vai trò của chủ th, của nhân tố chủ quan được phát huy cao độ
đ có th thúc đẩy lịch sử phát trin.
CHƯƠNG 2: TƯ TƯỞNG CỦA CHÍNH SÁCH KINH TẾ MỚ
Tháng 3-1921, V.I. Lê-nin đã vạch ra Chính sách Kinh tế mới (NEP) thay cho Chính sách cộng
sản thời chiến, được trình bày đầu tiên trong tác phẩm “Bàn về thuế lương thực”. V.I. Lê-nin đã xuất
phát từ đặc điểm cơ bản về kinh tế - xã hội của nước Nga lúc bấy giờ:
Một là, sự tồn tại của một cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, như: kinh tế kiểu gia trưởng - kinh tế
tự nhiên, tự cung, tự cấp của nông dân; sản xuất hàng hóa nhỏ; chủ nghĩa tư bản tư nhân; chủ nghĩa
tư bản nhà nước; chủ nghĩa xã hội. Trong đó, kinh tế tiểu nông sản xuất hàng hóa nhỏ chiếm ưu
thế, đây là đặc điểm quan trọng nhất.
Hai là, nền đại công nghiệp cơ khí, cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội còn vô cùng
non yếu; các quan hệ hàng hóa - tiền tệ chưa phát triển.
Ba là, sự khủng hoảng về kinh tế, chính trị, xã hội trầm trọng sau nội chiến mới kết thúc.
Bốn là, nước Nga là nước làm cách mạng xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới, phải tự khai
phá con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện vô cùng khó khăn, bị chủ nghĩa tư bản quốc tế bao vây chống phá.
Từ sự phân tích này, khắc phục sự nóng vội chủ quan muốn trực tiếp đi thẳng lên chủ
nghĩa xã hội và khủng hoảng kinh tế, xã hội trong nước, V.I. Lê-nin đã đề ra NEP trong giai đoạn
nước Nga chuyển từ thời chiến sang thời bình.
2.1.1. Các mâu thuẫn đang tồn tại trước thời điểm chính sách kinh tế mới ra đời
- Mâu thuẫn giai cấp: Xô Viết trước đó là một xã hội với sự chia rẽ rõ ràng giữa giai cấp tư sản
và giai cấp nông dân. Giai cấp tư sản sở hữu các phương tiện sản xuất và khai thác lao động
của giai cấp nông dân. Trong khi đó, giai cấp nông dân chịu nặng nề của tình trạng thấp kém và
bóc lột của giai cấp tư sản.
- Mâu thuẫn giữa các dân tộc: Nước Nga Xô Viết trước khi NEP được thực hiện là một quốc gia
đa dân tộc với nhiều vùng đất và ngôn ngữ khác nhau. Sự đa dạng văn hóa này đã dẫn đến mâu
thuẫn giữa các dân tộc và thường xuyên phát sinh các cuộc nổi dậy.
- Mâu thuẫn giữa cánh tả và cánh hữu trong Đảng Cộng sản: Trong Đảng Cộng sản Nga, cánh
tả và cánh hữu đều có quan điểm khác nhau về cách tiếp cận với cách mạng và xây dựng nền
kinh tế mới. Cánh tả ủng hộ sự cách mạng xã hội chủ nghĩa toàn diện, trong khi cánh hữu ủng
hộ việc tập trung vào phát triển kinh tế.
2.2. Các tư tưởng cơ bản trong chính sách kinh tế mới NEP
- Tạo cơ hội cho doanh nghiệp tư nhân: NEP cho phép các doanh nghiệp tư nhân được thành
lập và hoạt động, tạo cơ hội cho các nhà sản xuất tư nhân phát triển kinh doanh và thúc đẩy sản xuất.
- Tăng cường sự phân chia lao động: NEP cho phép người dân sở hữu đất đai, chăn nuôi và
sản xuất nông nghiệp, tăng cường sự phân chia lao động và thúc đẩy sản xuất nông nghiệp.
- Tăng cường sự tập trung của chính phủ: Chính phủ Xô Viết vẫn giữ quyền kiểm soát các
doanh nghiệp lớn và các ngành công nghiệp chính để đảm bảo sự ổn định kinh tế và phát triển nền kinh tế Xô Viết.
2.3. Biểu hiện của việc vận dụng sự kết hợp các mặt đối lập để giải quyết mâu thuẫn của nước
Nga Xô viết thời bấy giờ.
Phương pháp kết hợp biện chứng các mặt đối lập được áp dụng trong chính sách NEP
của Xô Viết được biểu hiện rõ ràng ở việc kết hợp giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản.
Chính sách kinh tế mới (New Economic Policy - NEP) được áp dụng tại Liên
Xô trong thập niên 1920 kết hợp giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư
bản để thúc đẩy sự phát triển kinh tế của đất nước. Tuy nhiên, sự kết hợp
này không đơn giản là việc chỉ đơn giản kết hợp hai thể chế kinh tế khác
nhau, mà là một sự phát triển mới của chủ nghĩa xã hội trong điều kiện mới.
NEP đánh dấu sự thay đổi cách tiếp cận của chính quyền Liên Xô đối với
kinh tế, chuyển từ chính sách chủ nghĩa cộng sản truyền thống sang chính
sách mang tính đa dạng hóa với các hoạt động kinh tế có tính thị trường.
Điều này được thực hiện bằng cách cho phép tư nhân sản xuất, buôn bán
và trao đổi hàng hóa. Tuy nhiên, các ngành công nghiệp chiến lược vẫn
được chủ trương và điều hành bởi nhà nước.
Sự kết hợp giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản trong NEP được thể
hiện qua việc cho phép các tư nhân sản xuất, mua bán, vay nợ và có
quyền sở hữu tài sản. Tuy nhiên, đồng thời chính phủ vẫn giữ vai trò điều
chỉnh và điều hành các ngành sản xuất chiến lược, cũng như phân phối
nguồn lực trong xã hội để đảm bảo sự phát triển đồng đều và hợp lý của kinh tế.
Tóm lại, sự kết hợp giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản trong chính
sách kinh tế mới của Liên Xô là một sự đan xen linh hoạt giữa những yếu
tố khác nhau trong một bối cảnh kinh tế phức tạp. Tuy nhiên, phương pháp
này không được duy trì lâu dài và sau đó Liên Xô đã chuyển sang chính
sách kinh tế hoàn toàn chủ nghĩa cộng sản.
Chính sách NEP đưa ra một số thay đổi cần thiết nhằm giải quyết các mâu thuẫn này.
Đầu tiên, chính sách này cho phép các doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã và cá nhân thực hiện
các hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, nhà nước tiếp tục giữ quyền kiểm soát những ngành kinh
tế chiến lược và thực hiện các chính sách tài chính, tiền tệ và thuế để đảm bảo sự ổn định của nền kinh tế.
Thứ hai, NEP cũng cải cách hệ thống chính trị bằng cách tăng cường quyền lực của các địa
phương và cho phép các hoạt động tư nhân tự do hơn. Điều này giúp tạo ra một môi trường
kinh doanh thuận lợi và khuyến khích sự phát triển của kinh tế.
Qua hai điều trên, chính sách NEP đã có những đóng góp quan trọng cho sự phát triển kinh tế
của Xô Viết. Nó đã giúp khôi phục lại sản xuất nông nghiệp và công nghiệp, tăng cường sự ổn
định xã hội và tạo ra một môi trường kinh doanh thuận lợi. Đặc biệt, NEP đã cho phép Xô Viết
tiếp cận với các công nghệ và văn hóa phương Tây, điều này đã có tác động tích cực đến việc
phát triển nền kinh tế, khoa học và văn hóa của Xô Viết.
Bên cạnh đó, kết hợp giữa các mặt đối lập chính là Trước khi NEP được triển khai, nước
Nga Xô Viết đã trải qua một thời kỳ khủng hoảng kinh tế, với sự suy tàn của nền kinh tế và
những căng thẳng xã hội nghiêm trọng.
Trong Đảng Cộng sản Xô Viết, hai phái cánh hữu và cánh tả đã xung đột
về chiến lược kinh tế và chính trị của đất nước.
Các lực lượng cánh hữu đặt ưu tiên cho phát triển nông nghiệp và khuyến
khích việc giải phóng lực lượng sản xuất nhỏ và tư nhân. Họ cho rằng đây
là cách để đảm bảo sự ổn định kinh tế và đáp ứng nhu cầu của các tầng
lớp nông dân. Tuy nhiên, cánh hữu thường bị chỉ trích là có khuynh hướng
bảo vệ lợi ích của các tầng lớp truyền thống và chậm tiến hóa về mặt kinh tế.
Ngược lại, các lực lượng cánh tả tập trung vào phát triển công nghiệp và
tập trung tài nguyên vào các ngành sản xuất chủ chốt. Họ tin rằng đây là
cách để nước Xô Viết có thể cạnh tranh được với các nước phương Tây
trong lĩnh vực công nghiệp và trở thành một cường quốc kinh tế. Tuy
nhiên, cánh tả cũng bị chỉ trích là quá chú trọng vào phát triển công
nghiệp và thiếu quan tâm đến nhu cầu của các tầng lớp nông dân và các
tầng lớp lao động khác.
Tuy nhiên, Lênin đã sử dụng phương pháp kết hợp biện chứng các mặt đối lập để giải quyết
mâu thuẫn giữa các lực lượng này. Ông nhận thức rằng, trong thời điểm hiện tại, không thể tập
trung hết các tài nguyên vào nền công nghiệp mà cần phải đảm bảo cho sự phát triển của nền
nông nghiệp và giải phóng các lực lượng sản xuất nhỏ và tư nhân.
Do đó, NEP đã cho phép các nông dân và doanh nghiệp nhỏ hoạt động tự do, trong khi chính
phủ tiếp tục kiểm soát các doanh nghiệp lớn và các ngành công nghiệp chính. Qua đó, Lênin đã
giải quyết được mâu thuẫn giữa các lực lượng cánh tả và cánh hữu trong Đảng, tạo ra một sự
kết hợp mới giữa những yếu tố này.
Tóm lại, phương pháp kết hợp biện chứng các mặt đối lập đã được áp dụng rộng rãi trong chính
sách NEP của Lênin, giúp giải quyết các mâu thuẫn và tạo ra sự kết hợp mới giữa chủ nghĩa xã
hội và chủ nghĩa tư bản, cũng như giữa các lực lượng cánh tả và cánh hữu trong Đảng.
Tuy nhiên, chính sách NEP không chỉ tập trung vào kinh tế, mà còn chú trọng đến các mặt
khác của đời sống xã hội. Ví dụ, chính sách này cũng thúc đẩy sự đa dạng hóa văn hóa và sự tự
do trong lĩnh vực giáo dục, văn hóa, nghệ thuật và truyền thông.
Phương pháp kết hợp biện chứng các mặt đối lập trong chính sách NEP giúp giải quyết
mâu thuẫn xã hội bằng cách tạo ra một sự cân bằng giữa các yếu tố khác nhau và tạo ra sự
thích ứng với tình hình thực tế. Tuy nhiên, phương pháp này không hoàn toàn giải quyết được
mọi mâu thuẫn và sau đó, chính sách NEP đã được thay thế bởi chính sách kinh tế định hướng
trung ương (tên gọi tiếng Nga là "Plan") do Stalin khởi xướng.