TIỀN ĐỀ KINH TẾ - HỘI CỦA TRIẾT HỌC
C
Những năm 40 của thế kỷ XIX, phương thức sản xuất bản chủ nghĩa
thống trị Anh, Pháp, Đức. Lực lượng sản xuất pháp triển mạnh mẽ làm
cho phương thức sản xất bản chủ nghĩa được củng cố, phát triển mạnh
trên sở vật chất-kỷ thuật. Tuy nhiên sự phát triển của chủ nghĩa bản
làm cho mâu thuẫn xã hội càng thêm gay gắt.
Giai cấp sản sản ra đời, cùng đấu tranh lật đổ phong kiến. Khi
chế độ bản chủ nghĩa được xác lập, giai cấp sản chở thành giai cấp
thống trị hội giai cấp sản giai cấp bị trị thì mâu thuẫn giữa
sản với sản vốn mang tính đối kháng phát triển, trở thành đấu tranh
giai cấp.
Phong trào hiến chương Anh (1838-1848)
Phong trào hiến chương một phong trào đấu tranh chống lại sự áp bức
của giai cấp sản giành lại quyền lợi, xuất phát từ tầng lớp công nhân tại
Anh vào những năm 30 - 40 của thế kỷ XIX. Trong phong trào này,
những người công nhân đấu tranh cho các quyền lợi bản của mình.
Sau khi phong trào hiến chương bùng nổ Anh, đã lan rộng ra các
nước trên khắp thế giới.
Nguyên nhân:
- Hệ quả của Cách mạng công nghiệm: Cách mạng công nghiệp thu hút
nhiều người từ nông thôn đến thành phố để làm việc trong các nhà máy,
dẫn đến gia tăng dân số. Tuy nhiên, điều kiện sống thành phố cùng
tồi tệ, thiếu thốn nhà ở, y tế giáo dục...
-Điều kiện làm việc tồi tệ:
Công nhân vẫn phải làm việc 12-14 tiếng mỗi ngày trong môi trường
nguy hiểm, thiếu an toàn, với mức lương thấp.
sản tìm mọi cách để bóc lột người công nhân: hạ lương, s dụng
rộng rãi phụ nữ trẻ em, kéo dài thời gian làm việc....
-Thiếu quyền lợi:
Chính phủ anh thực hiện nhiều chính sách, biện pháp nhằm bảo vệ
quyền lợi của giai cấp sản: bỏ thuế thu nhập, tăng thuế gián thu làm giá
hàng hóa tăng, thực hiện luật ngũ cốc” làm đời sống nhân dân khốn
kh.
Sau cuộc cải cách tuyển cử năm 1832, giai cấp sản tham gia vào
cuộc đấu tranh t không được hưởng một chút quyền chính trị nào: Công
nhân không quyền bầu cử, không được tham gia vào các hoạt động
chính trị, không được hưởng các chế độ bảo hiểm hội.
Diễn biến
Phong trào Hiến chương do hiệp hội Công nhân London tổ chức, lãnh
đạo. Trung tâm chủ yếu Birmingham Manchester, trước kia
London.
Tháng 5/1835, một ủy ban của Tổng hội liên hiệp công nhân London,
do William Lovett đứng đầu, đã thảo ra Hiến chương quốc dân gồm "sáu
điểm", gọi Hiến chương quốc dân. Hiến chương ý nghĩa trong đấu
tranh đòi dân chủ.
Phong trào trải qua mấy đợt cao trào mạnh m.
Cao trào hiến chương lần 1 (tháng 5 năm 1839):
Tại các trung tâm công nghiệp của Anh, công nhân biểu tình, thu thập
chữ kí. Đồi quốc hội thi hành Hiến chương. “Những người Hiến chương”
đã thành lập “Liên minh dân chủ những người Hiến chương”, 400 chi
nhánh. Sau 2 năm 40.000 hội viên.
Năm 1839, đơn gồm 1.200.000 chữ gửi đến Quốc hội đòi thi hành
phổ thông đầu phiếu, nhưng Quốc hội không chấp nhận yêu cầu này.
Chính phủ ra sức đàn áp, nhân dân chuyển vào hoạt động mật, chuẩn
bị khởi nghĩa trang.
Ngày 12/6 một cuộc khởi nghĩa bùng lên Birmingham nhưng hai ngày
sau đã bị đàn áp. Trước tình hình đó. Hiệp hội kêu gọi tổng bãi công trên
toàn quốc vào ngày 12/8 được gọi là "tháng thiêng liêng".
Đến cuối năm 1839 khi phong trào bắt đầu dịu đi Tháng Giêng năm
1840, Yoócsia đã nổ ra nhiều cuộc xung đột giữa phải Hiến chương
cảnh sát dẫn tới nhiều vụ bắt bớ các vụ lãnh tụ thành viên phong trào.
Sau đó phong trào dần dần lắng xuống.
Mặc Chính phủ đàn áp những cuộc vận động công nhân vẫn tiến tục.
Tháng 7/1840 một cuộc Đại hội Manchester quyết định thống nhất tất
cả các nhóm địa phương thành một tổ chức toàn quốc gọi Đảng Hiến
chương.
Cao trào Hiến chương lần hai từ 1842 đến 1847:
Bước vào năm 1842, nước Anh làm vào cuộc khủng hoảng, kinh tế sa sút,
đời sống quần chúng cực khổ, con số thất nghiệp tăng lên, tới hơn một
triệu người thất nghiệp.
Trong tình hình đó, phong trào lại bùng lên, công tác cổ động lại bùng lên
như hồi năm 1839.
Nhưng lần này giai cấp sản công nghiệp cũng tham gia.
Ngày 15/2/1842 Hội nghị liên tịch t chức Manchester Đảng tự do
phái Hiến chương thảo một đơn thình nguyện yêu cầu hủy bỏ các đạo
luật ngũ cốc thực hành Hiến chương, ngày hôm sau hai Đảng đều
thông qua đơn thỉnh nguyện ấy.
Lần y đã thu hút được 3.315.752 chữ vào bản kiến nghị, trình Quốc
hội. Nghị viện bác bỏ bản kiến nghị, công nhân phẫn nộ, rời khỏi nhà
máy, kêu gọi bãi công.
Một đại hội quần chúng được tổ chức vào ngày 5/8/1842. Sau đó họ tổ
chức những cuộc mít tinh khắp nơi.
Ngày 9/8 họ kéo đến Manchester khiến mọi công xương đó đều nghỉ
việc, cuộc bãi công lan ra cả nước bị đàn áp, 1.500 người bị bắt, trong
đó 700 người bị đưa ra xét xử.
Phong trào Hiến chương lâm vào cảnh thoái trào, nhiều công nhân từ bỏ
đấu tranh, lúc chỉ còn 4.000 hội viên của Hiệp hội Hiến chương.
Cao trào Hiến chương lần thứ ba năm 1847-1948:
Tháng 11/1847 trong số nghị Quốc hội mới những đại biểu nổi
tiếng của Đảng công nhân, gây ra sự sôi động lạ thường trong hàng ngũ
dân chủ. Các tổ chức địa phương của phái Hiến chương đã được cải tổ
khắp mọi nơi, số cuộc mít tinh tăng n.
Năm 1848, nước Anh lại một lần nữa lâm vào tình hình khó khăn do ảnh
hưởng của các cuộc khủng hoảng đường sắt, khủng hoảng lúa mì, khủng
hoảng tiền tệ, đồng thời do ảnh hưởng của cao trào cách mạng Pháp 1848,
những người thuộc phái Hiến chương lại tổ chức cuộc đấu tranh lần thứ
ba.
Ngày 20/4/1848 những người Hiến chương đưa lên quốc hội bản kiến
nghị mới gồm hơn 5 triệu chữ ký. Nhưng một lần nữa nghị viện lại bác bỏ
bản kiến nghị đó.Một s cuộc khởi nghĩa của những người Hiến chương
nổ ra, nhưng bị đàn áp.
Đầu những năm 50 của thế kỉ XIX, phong trào Hiến chương b dập tắt.
Nguyên nhân thất bi
Thành phần công nhân tham gia không thống nhất, thiếu sự lãnh đạo,
không kinh nghiệm đấu tranh, giai cấp sản vừa nhượng bộ vừa đàn
áp mạnh mẽ.
Ý nghĩa
-Giai cấp sản đã nhượng bộ: Thông qua đạo luật làm 10 giờ, thi
hành chế độ 5 giờ cho trẻ em (1844); Quy định lại chế độ ngày nghỉ chủ
nhật (1860, xóa bỏ thuế đánh vào lương thực nhập khẩu (1846).
-Phong trào hiến chương đã đóng góp vào sự phát triển của phong trào
dân chủ Anh trên thế giới, đặc biệt trong việc tăng cường quyền
lợi quyền tự do của người lao động.
-Nó đã tạo ra sự nhận thức về bất công hội chính trị, đóng vai trò
quan trọng trong việc hình thành các phong trào lao động dân chủ
Anh trên toàn thế giới.
-Những kinh nghiệm của phong trào Hiến chương cung cấp cho Mác
Ăngghen nhiều tài liệu xây dựng luận về chủ nghĩa hội khoa học về
sau.
Lênin đánh giá phong trào Hiến chương phong trào quần chúng tính
chất chính trị đầu tiên của giai cấp công nhân Anh.

Preview text:

TIỀN ĐỀ KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA TRIẾT HỌC MÁC
Những năm 40 của thế kỷ XIX, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
thống trị ở Anh, Pháp, Đức. Lực lượng sản xuất pháp triển mạnh mẽ làm
cho phương thức sản xất tư bản chủ nghĩa được củng cố, phát triển mạnh
trên cơ sở vật chất-kỷ thuật. Tuy nhiên sự phát triển của chủ nghĩa tư bản
làm cho mâu thuẫn xã hội càng thêm gay gắt.
Giai cấp vô sản và tư sản ra đời, cùng đấu tranh lật đổ phong kiến. Khi
chế độ tư bản chủ nghĩa được xác lập, giai cấp tư sản chở thành giai cấp
thống trị xã hội và giai cấp vô sản là giai cấp bị trị thì mâu thuẫn giữa vô
sản với tư sản vốn mang tính đối kháng phát triển, trở thành đấu tranh giai cấp.
Phong trào hiến chương ở Anh (1838-1848)
Phong trào hiến chương là một phong trào đấu tranh chống lại sự áp bức
của giai cấp tư sản giành lại quyền lợi, xuất phát từ tầng lớp công nhân tại
Anh vào những năm 30 - 40 của thế kỷ XIX. Trong phong trào này,
những người công nhân đấu tranh cho các quyền lợi cơ bản của mình.
Sau khi phong trào hiến chương bùng nổ ở Anh, nó đã lan rộng ra các
nước trên khắp thế giới. Nguyên nhân:
- Hệ quả của Cách mạng công nghiệm: Cách mạng công nghiệp thu hút
nhiều người từ nông thôn đến thành phố để làm việc trong các nhà máy,
dẫn đến gia tăng dân số. Tuy nhiên, điều kiện sống ở thành phố vô cùng
tồi tệ, thiếu thốn nhà ở, y tế và giáo dục. .
-Điều kiện làm việc tồi tệ:
Công nhân vẫn phải làm việc 12-14 tiếng mỗi ngày trong môi trường
nguy hiểm, thiếu an toàn, với mức lương thấp.
Tư sản tìm mọi cách để bóc lột người công nhân: hạ lương, sử dụng
rộng rãi phụ nữ và trẻ em, kéo dài thời gian làm việc. . -Thiếu quyền lợi:
Chính phủ anh thực hiện nhiều chính sách, biện pháp nhằm bảo vệ
quyền lợi của giai cấp tư sản: bỏ thuế thu nhập, tăng thuế gián thu làm giá
hàng hóa tăng, thực hiện luật ngũ cốc” … làm đời sống nhân dân khốn khổ.
Sau cuộc cải cách tuyển cử năm 1832, giai cấp vô sản tham gia vào
cuộc đấu tranh thì không được hưởng một chút quyền chính trị nào: Công
nhân không có quyền bầu cử, không được tham gia vào các hoạt động
chính trị, và không được hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội. Diễn biến
Phong trào Hiến chương do hiệp hội Công nhân London tổ chức, lãnh
đạo. Trung tâm chủ yếu là Birmingham và Manchester, trước kia là London.
Tháng 5/1835, một ủy ban của Tổng hội liên hiệp công nhân ở London,
do William Lovett đứng đầu, đã thảo ra Hiến chương quốc dân gồm "sáu
điểm", gọi là Hiến chương quốc dân. Hiến chương có ý nghĩa trong đấu tranh đòi dân chủ.
Phong trào trải qua mấy đợt cao trào mạnh mẽ.
Cao trào hiến chương lần 1 (tháng 5 năm 1839):
Tại các trung tâm công nghiệp của Anh, công nhân biểu tình, thu thập
chữ kí. Đồi quốc hội thi hành Hiến chương. “Những người Hiến chương”
đã thành lập “Liên minh dân chủ những người Hiến chương”, có 400 chi
nhánh. Sau 2 năm có 40.000 hội viên.
Năm 1839, lá đơn gồm 1.200.000 chữ kí gửi đến Quốc hội đòi thi hành
phổ thông đầu phiếu, nhưng Quốc hội không chấp nhận yêu cầu này.
Chính phủ ra sức đàn áp, nhân dân chuyển vào hoạt động bí mật, chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang.
Ngày 12/6 một cuộc khởi nghĩa bùng lên ở Birmingham nhưng hai ngày
sau đã bị đàn áp. Trước tình hình đó. Hiệp hội kêu gọi tổng bãi công trên
toàn quốc vào ngày 12/8 được gọi là "tháng thiêng liêng".
Đến cuối năm 1839 khi phong trào bắt đầu dịu đi Tháng Giêng năm
1840, ở Yoócsia đã nổ ra nhiều cuộc xung đột giữa phải Hiến chương và
cảnh sát dẫn tới nhiều vụ bắt bớ các vụ lãnh tụ và thành viên phong trào.
Sau đó phong trào dần dần lắng xuống.
Mặc dù Chính phủ đàn áp những cuộc vận động công nhân vẫn tiến tục.
Tháng 7/1840 một cuộc Đại hội ở Manchester quyết định thống nhất tất
cả các nhóm ở địa phương thành một tổ chức toàn quốc gọi là Đảng Hiến chương.
Cao trào Hiến chương lần hai từ 1842 đến 1847:
Bước vào năm 1842, nước Anh làm vào cuộc khủng hoảng, kinh tế sa sút,
đời sống quần chúng cực khổ, con số thất nghiệp tăng lên, có tới hơn một
triệu người thất nghiệp.
Trong tình hình đó, phong trào lại bùng lên, công tác cổ động lại bùng lên như hồi năm 1839.
Nhưng lần này giai cấp tư sản công nghiệp cũng tham gia.
Ngày 15/2/1842 Hội nghị liên tịch tổ chức ở Manchester Đảng tự do và
phái Hiến chương thảo một lá đơn thình nguyện yêu cầu hủy bỏ các đạo
luật ngũ cốc và thực hành Hiến chương, ngày hôm sau hai Đảng đều
thông qua đơn thỉnh nguyện ấy.
Lần này đã thu hút được 3.315.752 chữ ký vào bản kiến nghị, trình Quốc
hội. Nghị viện bác bỏ bản kiến nghị, công nhân phẫn nộ, rời khỏi nhà máy, kêu gọi bãi công.
Một đại hội quần chúng được tổ chức vào ngày 5/8/1842. Sau đó họ tổ
chức những cuộc mít tinh ở khắp nơi.
Ngày 9/8 họ kéo đến Manchester khiến mọi công xương ở đó đều nghỉ
việc, cuộc bãi công lan ra cả nước và bị đàn áp, 1.500 người bị bắt, trong
đó 700 người bị đưa ra xét xử.
Phong trào Hiến chương lâm vào cảnh thoái trào, nhiều công nhân từ bỏ
đấu tranh, có lúc chỉ còn 4.000 hội viên của Hiệp hội Hiến chương.
Cao trào Hiến chương lần thứ ba năm 1847-1948:
Tháng 11/1847 trong số nghị sĩ Quốc hội mới có những đại biểu nổi
tiếng của Đảng công nhân, gây ra sự sôi động lạ thường trong hàng ngũ
dân chủ. Các tổ chức địa phương của phái Hiến chương đã được cải tổ ở
khắp mọi nơi, số cuộc mít tinh tăng lên.
Năm 1848, nước Anh lại một lần nữa lâm vào tình hình khó khăn do ảnh
hưởng của các cuộc khủng hoảng đường sắt, khủng hoảng lúa mì, khủng
hoảng tiền tệ, đồng thời do ảnh hưởng của cao trào cách mạng Pháp 1848,
những người thuộc phái Hiến chương lại tổ chức cuộc đấu tranh lần thứ ba.
Ngày 20/4/1848 những người Hiến chương đưa lên quốc hội bản kiến
nghị mới gồm hơn 5 triệu chữ ký. Nhưng một lần nữa nghị viện lại bác bỏ
bản kiến nghị đó.Một số cuộc khởi nghĩa của những người Hiến chương
nổ ra, nhưng bị đàn áp.
Đầu những năm 50 của thế kỉ XIX, phong trào Hiến chương bị dập tắt.
Nguyên nhân thất bại
Thành phần công nhân tham gia không thống nhất, thiếu sự lãnh đạo,
không có kinh nghiệm đấu tranh, giai cấp tư sản vừa nhượng bộ vừa đàn áp mạnh mẽ. Ý nghĩa
-Giai cấp tư sản đã có nhượng bộ: Thông qua đạo luật làm 10 giờ, thi
hành chế độ 5 giờ cho trẻ em (1844); Quy định lại chế độ ngày nghỉ chủ
nhật (1860, xóa bỏ thuế đánh vào lương thực nhập khẩu (1846).
-Phong trào hiến chương đã đóng góp vào sự phát triển của phong trào
dân chủ ở Anh và trên thế giới, đặc biệt là trong việc tăng cường quyền
lợi và quyền tự do của người lao động.
-Nó đã tạo ra sự nhận thức về bất công xã hội và chính trị, đóng vai trò
quan trọng trong việc hình thành các phong trào lao động và dân chủ ở
Anh và trên toàn thế giới.
-Những kinh nghiệm của phong trào Hiến chương cung cấp cho Mác và
Ăngghen nhiều tài liệu xây dựng lí luận về chủ nghĩa xã hội khoa học về sau.
Lênin đánh giá phong trào Hiến chương là phong trào quần chúng có tính
chất chính trị đầu tiên của giai cấp công nhân Anh.
Document Outline

  • Phong trào hiến chương ở Anh (1838-1848)
  • Nguyên nhân:
  • Diễn biến
    • Cao trào hiến chương lần 1 (tháng 5 năm 1839):
    • Cao trào Hiến chương lần hai từ 1842 đến 1847:
    • Cao trào Hiến chương lần thứ ba năm 1847-1948:
    • Nguyên nhân thất bại
    • Ý nghĩa