lOMoARcPSD| 57855709
I. Mở đầu
“Phong” là nền nếp đã lan truyền rộng rãi,Tục” là thói quen lâu đời. Nội dung phong tục
bao hàm mọi mặt sinh hoạt xã hội. Phong tục có thứ trở thành luật tục, ăn sâu, bén rễ trong
nhân dân rât bền chặt, có sức mạnh hơn cả những đạo luật. Trong truyền thống văn hoá của
dân tộc Việt Nam, có nhiều thuần phong mỹ tục cần cho đạo lý làm người, kỷ cương xã hội.
Tết Nguyên Đán là lễ hội lớn nhất trong các lễ hội truyền thống Việt Nam từ hàng nghìn đời
nay, là thời điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới, Tết từ ngày xưa đã ềm tàng những giá
trị nhân văn thể hiện mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên qua bốn mùa. Tết còn là cơ
hội để mọi người Việt tưởng nhớ về tổ ên, cội nguồn, gặp gỡ bà con họ hàng, thắt chặt mối
quan hệ thân nh trong gia đình, bạn bè. Ngoài ra nó còn là dịp để mọi người nghỉ ngơi, thư
giãn, giải trí với các hoạt động lễ hội, du xuân vui vẻ và hấp dẫn.
II. Nội dung 1. Nguồn gốc ra đời
Ch“Tết” do chữ “Tiết” mà thành. Hai chữ “Nguyên đán” có gốc chữ Hán; “nguyên” có
nghĩa là sự khởi đầu hay sơ khai và “đán” có nghĩa là buổi sáng sớm, cho nên đọc đúng
phiên âm phải là “Tiết Nguyên Đán.
Tết Nguyên Đán có từ đời Ngũ Đế, Tam Vương. Đời Tam Vương, nhà Hạ, chuộng mẫu đen,
nên chọn tháng đầu năm, tức tháng Giêng, nhằm tháng . Nhà Thương, thích màu trắng, ly
tháng Sửu (con trâu), tháng chạp làm tháng đầu năm. Qua nhà Chu (1050-256 trước công
nguyên), ưa sắc đỏ, chọn tháng Tý (con chuột), tháng mười một làm tháng Tết. Các vua chúa
nói trên, theo ngày giờ, lúc mới tạo thiên lập địa: nghĩa là giờ Tý thì có trời, giờ Sửu thì có
đất, giờ Dần sinh loài người mà đặt ra ngày tết khác nhau. Đến đời Đông Chu, Khổng Phu T
ra đời, đổi ngày tết vào một tháng nhất định: tháng Dần. Mãi đến đời Tần (thế kỷ III trước
Công nguyên), Tần Thủy Hoàng lại đổi qua tháng Hợi (con lợn), tức tháng Mười. Cho đến khi
nhà Hán trị vì, Hán Vũ Đế (140 trước Công nguyên) lại đặt ngày Tết vào tháng Dần (tức tháng
Giêng) như đời nhà Hạ, và từ đó về sau, trải qua bao nhiêu thời đại, không còn nhà vua nào
thay đổi về tháng Tết nữa. Đến đời Đông Phương Sóc, ông cho rằng ngày tạo thiên lập địa có
thêm giống Gà, ngày thứ hai có thêm Chó, ngày thứ ba có Lợn, ngày thứ tư sinh Dê, ngày thứ
năm sinh Trâu, ngày thứ sáu sinh Ngựa, ngày thứ bảy sinh loại Người và ngày thứ tám mới
sinh ra ngũ cốc. Vì thế, ngày Tết thường được kể từ ngày mồng Một cho đến hết ngày mồng
bảy.
2. Quan niệm ngày tết
Người Việt n rằng vào ngày Tết mọi thứ đều phải mới, phải đổi khác, từ ngoại vật cho đến
lòng người, vì vậy khoảng mươi ngày trước Tết họ thường sơn, quét vôi nhà cửa lại. Họ cũng
tất bật đi sắm sửa quần áo mới để mặc trong dịp này. Trong những ngày Tết họ kiêng cữ
không nóng giận, cãi cọ. Tết là dịp để mọi người hàn gắn những hiềm khích đã qua và là dịp
để chuộc lỗi. Mọi người đi thăm viếng nhau và chúc nhau những lời đầy ý nghĩa. Trẻ em sau
khi chúc Tết người lớn còn được lì xì bằng một phong bì đỏ thắm có đựng ít ền dành cho
chúng êu xài ngày Tết. Tết 3 miền Bắc, Trung, Nam ở Việt Nam cũng có những điều khác
nhau.
lOMoARcPSD| 57855709
3. Các giai đoạn chính trong Tết 3.1Những ngày cuối năm
Người Việt Nam quan niệm rằng ngày Tết thì tất cả mọi thứ đều phải thật sớm và mới. Do đó
trước ngày Tết khoảng hơn 2 tuần, các gia đình đã sắm sửa cho ngày Tết. Họ thường quét
dọn, trang trí nhà cửa, mua hoa, sắm thức ăn… thật chu đáo cho ngày Tết. Ngoài ra, tất cả
những vật dụng không cần thiết hoặc bị cho là đem lại điềm gở cũng bị vứt bỏ.
3.1.1Trang trí, sắm tết 3.1.1.1 Mâm ngũ
quả:
Ngũ, con số 5 là con số chỉ trung tâm. Theo quan niệm cổ đại phổ biến trong khu vực chịu
ảnh hưởng văn hóa Trung Quốc, thường cho rằng các quy luật phổ biến đều gộp vào con số
5. Phổ biến, chúng ta có ngũ phương (Đông, Tây, Nam, Bắc và Trung ương), ngũ sắc, ngũ vị,
ngũ tạng, ngũ kim, ngũ quan, ngũ luân, ngũ cốc,… Như vậy, số 5 là biểu hiện chung của sự
sống và ở đây “ngũ quả” tự nó biểu trưng một tập thành được coi là đầy đủ của loại lễ vật
dâng cúng là quả.
Việc bày mâm ngũ quả xuất phát từ lý thuyết về ngũ hành: thuỷ – hỏa – mộc kim – th
những yếu tố tạo nên vũ trụ và sự vận hành của nó. Thông thường ngũ quả gồm 5 loại quả
có các màu khác nhau như chuối xanh, bưởi vàng, hồng đỏ, lê trắng, quýt da cam tượng
trưng cho mong ước: Phú (giàu có) – quý (sang trọng) – th(sống lâu) – khang (khỏe mạnh)
– ninh (bình yên). Mỗi một miền lại có một quan niệm riêng về ý nghĩa mâm ngũ quả.
Người Nam bộ có cách đọc chại âm hay đơn ết hóa một số từ, ví dụ chỉ tên trái mãng cầu
thì gọi đơn ết hóa là Cầu (mãng cầu: thoả mãn trong sự cầu xin) – Sung (sung: chỉ sự sung
túc, sung mãn) – Vừa (đọc chệch âm là dừa: quả dừa) – Đủ (đơn ết hóa của đu đủ và xài (là
cách đọc chệch của âm xoài).
Người miền Trung do chịu sự giao thoa văn hóa 2 miền Bắc – Nam nên mâm ngũ quả vẫn
bày biện đủ: chuối, mãng cầu, sung, dừa, đu đủ, xoài… Rất phong phú!
Trong khi đó, người miền Bắc hướng đến ý nghĩa biểu trưng nhiều hơn, quả phật thủ hay nải
chuối như bàn tay che chở của đức phật cho tất cả mọi người; quả ởi, dưa hấu thể hin
cho sự đầy đặn, trọn vẹn căng đầy sức sống; màu sắc thắm tươi của quýt, hồng tượng trưng
cho sự may mắn, phồn thịnh cát tường.
Ngày nay, mâm quả trên bàn thờ tết người Việt phong phú hơn về chủng loại bởi sự góp mặt
của những hoa quả ngoại nhập. Với nh dung hợp trong văn hóa, người Việt Nam luôn có
thể m thấy tất cả những yếu tố thích hợp, có giá trị ý nghĩa đối với đời sống tâm linh của
dân tộc mình. Cuối cùng, những sản vật đẹp mắt nhất, nh tuý nhất, được dâng bày với
những nh cảm hiếu kính, trang trọng và thiết thân nhất. Bàn thờ tết không chỉ là nơi mà
mọi người bày tỏ nh cảm gia đình, huyết thống mà đó còn là nơi chúng ta gửi gắm những
lời chúc may mắn và một năm mới an khang, thịnh vượng hơn.
3.1.1.2 Hoa Tết
Đã thành thông lệ, cứ mỗi độ Tết đến Xuân về người người, nhà nhà lại náo nức sắm sửa cho
gia đình mình những chậu hoa, cây cảnh vừa ý để đón năm mới thêm khí thế. Tết đến, xuân
lOMoARcPSD| 57855709
về cũng là dịp trăm hoa đua nở, khoe sắc làm đẹp cho đời. Hoa là thứ không thể thiếu trong
những ngày Tết cổ truyền của dân tộc, thế nên chắc cũng chẳng phải “ngoa” khi nói rằng
người Việt còn ăn Tết bằng hoa. Trong không khí giao hòa của trời đất vào xuân, hoa như
đem đến cho con người sức sống mới và những gì tươi đẹp nhất của một mùa xuân. Hoa
cho ngày Tết nhiều không kxiết.
Với miền Bắc, hoa đào được coi là biểu tượng thiêng liêng của ngày Tết. Nó không chỉ làm
cho nhà cửa thêm phần đẹp đẽ, ấm cúng, mà màu đỏ thắm của hoa theo quan niệm dân
gian còn đem lại sự may mắn cho cả năm. Ðào ở miền Bắc cũng có nhiều giống khác nhau
như: đào bích, đào phai, đào bạch và đào thất thốn hay còn gọi là đào thế.Còn người miền
Nam một cái Tết không thể thiếu nhành mai. Khác với đào, mai phương Nam dường như
mang một phong cách trẻ trung và năng động hơn, biểu tượng cho cái đẹp bừng nở, sự
hưng vượng trong năm mới
Ngược lên Tây Bắc, mùa xuân về cũng là thời điểm hoa mai, hoa mận đang nở trắng cả một
vùng trời. Sau đào và mai, lay ơn và cúc là các loại hoa được người dân ở cả 3 miền ưa thích
Một năm có 365 ngày, dù bận rộn đến đâu, người Việt Nam đều hướng về những ngày Tết
với ý nghĩa thiêng liêng, trang trọng nhất. Và tất nhiên, ai nấy cũng đều mong muốn m
chọn cho nhà mình một chậu hoa thật đẹp và rực rỡ để trưng bày trong những ngày này. Đó
ờng như là một nét đẹp truyền thống gắn với bản sắc văn hóa của dân tộc.
3.1.1.3 Bàn thờ tổ ên ngày tết
Chăm chút bàn thờ là cách để con cháu bày tỏ lòng yêu kính và tưởng nhớ đến ông bà tổ
ên, vì thế, mỗi độ năm hết, Tết đến công việc này được mọi người chú ý trước ên. Thờ
phụng tổ ên là một trách nhiệm có nh cách luân lý đối với người Việt Nam, nó thể hin
cho nhu cầu được phát lộ nh cảm và niềm n huyết thống trong môi trường gia đình.
Bàn thờ là nơi ngự vị của các bậc ền nhân trong gia đình, vì thế nó thường được đặt ở vị trí
trung tâm và cao nhất trong nhà. Điều này không chỉ để tránh sự va chạm mà còn tránh gió,
bụi bặm và côn trùng. Việc lau dọn sạch sẽ bàn thờ là công việc trước ên và được thực hiện
một cách cẩn thận, tỉ mỉ. Công việc chăm chút bàn thờ là cách để con cháu bày tỏ lòng yêu
kính và tưởng nhớ đế ông bà tổ ên.
Chổi quét hoặc khăn lau bàn thờ thường được dùng riêng, và rất hạn chế sự chung đụng.
ớc lau bàn thờ thường được dùng từ nguồn nước sạch sẽ, có người còn dùng nước mưa
thậm chí nước nấu từ lá trầu, lá bồ đề để lau.
Trong tâm thức người Việt, người đã khuất và người còn sống luôn có một mối quan hệ mật
thiết với nhau. Không gian thờ tự là không gian thiêng liêng trong gia đình, là nơi lưu giữ
nhiu n ức nh cảm giữa các thế hệ, chính vì thế việc giữ gìn bàn thờ luôn sạch sẽ, mát mẻ
không chỉ thhiện sự chăm sóc và tôn kính của con cháu đối với ông bà tổ ên mà còn là sự
chăm sóc đến cái tôi tâm linh ở mỗi con người.
Việc bày biện hay thắp hương (nhang) trên bàn thờ không phân biệt nam nữ, tuổi tác như ở
thôn quê. Tuy nhiên, để giữ nếp xưa, mọi nhà vẫn mời người lớn tuổi nhất họ hay nhất nhà
lOMoARcPSD| 57855709
ra khấn và thắp hương cho ông bà tổ ên trong những ngày quan trọng như: tất niên, đêm
giao thừa, mừng năm mới, cúng ễn…
3.2Ông Táo về tri
Táo Quân trong n ngưỡng dân gian Việt Nam có nguồn gốc từ ba vị thần Thổ Công, Thổ Địa,
Thổ K của Lão giáo Trung Quốc nhưng được Việt hóa thành huyền ch “2 ông 1 bà” – vị
thần Đất, vị thần Nhà, vthần Bếp núc.
Tuy vậy người dân vẫn quen gọi chung là Táo Quân hoặc Ông Táo do kết quả của thuyết tam
vị nhất thể (thuyết Ba ngôi) khá phổ biến trong các n ngưỡng, tôn giáo. Bếp là bản nguyên
của nhà khi người nguyên thủy có lửa và đều dựa trên nền móng là đất. Việt Nam, sự ch
Táo Quân được truyền khẩu, rồi ghi chép, do đó có những sự khác nhau về nh ết. Táo
Quân, còn gọi là Táo Công, là vị thần bảo vệ cho cuộc sống gia đình, thường được thờ ở nơi
nhà bếp, cho nên còn được gọi là Vua Bếp . Từ xa xưa, người dân Việt đã ngưỡng mộ lòng
chung thủy của Ông Táo và thờ cúng Ông Táo với hi vọng Táo Quân sẽ giúp họ gi“bếp lửa”
trong gia đình luôn nồng ấm và hạnh phúc. Theo tục lệ cổ truyền, người Việt n rằng, hàng
năm, cứ đến ngày 23 tháng Chạp âm lịch, Táo Quân lại cưỡi cá chép bay vtrời để trình báo
mọi việc xảy ra trong gia đình với Ngọc Hoàng. Cho đến đêm Giao thừa Táo Quân mới trở lại
trần gian để ếp tục công việc coi sóc bếp lửa của mình.Vị Táo Quân quanh năm ở trong bếp
nên biết hết mọi chuyện hay dở tốt xu của mọi người, cho nên để Vua Bếp “phù trợ” cho
mình được nhiều điều may mắn trong năm mới, người ta thường làm lễ ễn đưa Ông Táo về
chầu Ngọc Hoàng rất trọng thể.
Người ta thường mua hai mũ Ông Táo có hai cánh chuồn và một mũ dành cho Táo Bà không
có cánh chuồn, ba cái áo bằng giấy cùng một con cá chép (còn sống hoặc bằng giấy, hoặc
cũng có thể dùng loại vàng mã gọi là “cò bay ngựa chạy”) để làm phương ện cho “Vua Bếp”
lên chầu trời. Ông Táo sẽ tâu với Ngọc Hoàng về việc làm ăn, cư xử của mỗi gia đình dưới hạ
giới. Lễ cúng thường diễn ra trước 12h trưa, sau khi cúng xong, người ta sẽ hóa vàng đồ lễ,
nếu có cá sống thì sẽ đem thả xuống sông, hồ, biển hay giếng nước, tùy theo khu vực họ
sinh sống.
3.3Thăm mộ tổ ên
Từ ngày 23 đến ngày 30 tháng chạp con cái trong gia đình tề tựu đông đủ, tụ họp ở nghĩa địa
đi thăm, sửa sang quét dọn mồ mả tổ ên và những thân quyến quá cố, đem theo hương
đèn, hoa quả để cúng, mời vong linh, hương hồn tổ ên về ăn Tết cùng con cháu.
3.4Tất niên
Lễ tất niên được ến hành vào chiều ngày 30 Tết. Trong ngày 30 Tết, nhà nhà đều dọn dẹp
nhà cửa để chuẩn bị đón Tết. Đầu ên phải lau chùi, trang hoàng, bày biện bàn thờ, với
hương, hoa tươi, đèn nến đầy đủ. Sau đó, trang hoàng nhà cửa với hoa, cành đào, chậu quất
.Sau khi công việc chuẩn bị cho gia đình một cái Tết đầm ấm, thiêng liêng, vui vẻ xong thì gia
chphải chuẩn bị mâm cỗ cúng Tất niên.
lOMoARcPSD| 57855709
Theo quan niệm của người Việt, bữa cơm tất niên sẽ được tổ chức vào chiều ngày 30 tết, lúc
đó mọi công việc chuẩn bị cho ngày tết đã cơ bản xong, bánh chưng đã được vớt ra và bày
biện ngay ngắn trên bàn thờ, nhà cửa cũng đã gọn gàng, sạch sẽ. Ngoài ý nghĩa ễn biệt năm
cũ, việc các gia đình sửa soạn bữa cơm tất niên còn để mời ông Công, ông Táo trở về trn
thế ếp tục cai quản việc bếp núc tư gia. Đây cũng là bữa cơm để con cháu thể hiện tấm
lòng tôn kính, hiếu thảo với những người đã khuất trong gia đình. Một số nơi, chiều ngày 30,
trước lúc diễn ra bữa cơm tất niên, các gia đình thường ra mộ thắp hương mời ông bà, tổ
ên về ăn tết cùng con cháu, nhưng cũng có nhiều nơi không có phong tục này mà chỉ thp
hương tại nhà. Có thể nói, bữa cơm tất niên là nét văn hoá, in đậm trong tâm trí người Việt
và trở thành sợi dây vô hình, liên kết chặt chẽ giữa các thành viên trong gia đình, cộng đồng
mỗi khi tết đến, xuân về. Bữa cơm tất niên kết thúc, cũng là lúc mọi người chuẩn bị cho lễ
cúng giao thừa.
3.5 Giao thừa
Thời khắc chuyển giao năm cũ sang năm mới là thời điểm quan trọng, trời đất giao hoà, âm
dương hoà quyện để vạn vật bừng lên sức sống mới. Theo phong tục của người Việt Nam từ
cổ xưa, giao thừa nhà nhà đều cúng lễ ngoài trời và cúng lễ trong nhà chuẩn bị chu đáo để
đón người đến xông đất, mang tài thần vào nhà.
3.5.1Cúng ngoài trời
Theo như câu chuyện truyền miệng của các cụ ta kể lại, tục cúng giao thừa ngoài trời là thể
hiện tấm lòng thành kính của người hạ giới với các vị thần trên Thiên đình. Hàng năm sẽ có
một vị thần được cử xuống hạ giới để cai quản công việc và đến giờ phút cận knăm mới vị
thn ấy sẽ quay vtrời để vị thần khác xuống nhân gian ếp quản. Vì thế, lễ cúng giao thừa
chính là hình thức “ễn cũ, đón mới” các vị thần tôn kính ngự trị trên trời.
Việc bày biện mâm cỗ cúng ngoài trời theo các cụ hình dung là để quan quân “ện đường
ghé vào thưởng thức chút đồ ăn thức uống trong lúc quân đi, quân về tấp nập. Bàn giao việc
cũ, ếp quản việc mới diễn ra nhanh chóng và gấp rút, chính vì vậy các quan không thể vào
nhà mỗi người dân để “nhâm nhi” và “thưởng thức” hương vị của các món ăn do gia chủ
chế biến. Thậm chí có những vị chỉ đi ngang qua và chứng kiến tấm lòng thành của chủ nhà.
Vào những giờ phút giao thừa gần kề, mọi nhà chuẩn bị sắp lễ đưa ra ngoài trời để cúng.
Mâm cỗ đầy đặn và sinh động với rất nhiều màu sắc của đồ ăn thức uống như đĩa xôi, con gà
luộc, hoa quả, bánh kẹo… Và hơn lúc nào trong giờ phút ấy để người dân bày tỏ lòng thành
kính, sự biết ơn và ước nguyện về một năm mới sẽ tốt đẹp, may mắn. Với mâm cỗ cúng giao
thừa ngoài trời số lượng và chất lượng cũng phụ thuộc vào từng vùng miền khác nhau, vào
sự giàu có, sung túc hay khó khăn của mỗi gia đình. Những nhà khá giả sẽ sắm sửa mâm cỗ
cúng đầy đủ với các lễ vật, món ngon, sơn hào hải vị… để ếp đón các vị quan thần và mong
muốn sẽ có một cuộc sống giàu có hơn, phú quý hơn. Các gia đình cơ hàn, vất vả quanh năm
ruộng vườn, đồng áng thì chút “lễ mọn” như cây nhà lá vườn cũng là để gửi gắm c tấm
chân nh, sự tôn kính và ước nguyện cho năm mới với những điều may mắn, sức khỏe đến
với mọi thành viên trong gia đình.
lOMoARcPSD| 57855709
Cuộc sống ngày nay có nhiều thay đổi nhưng lễ cúng giao thừa ngoài trời từ thôn quê đến
thành thị vẫn được lưu giữ. Không chỉ là vấn đề tâm linh mà đó còn là nét đẹp trong văn hóa
cội nguồn dân tộc.
3.5.2Cúng trong nhà
Cúng Giao thừa trong nhà là lễ cúng tổ ên vào chính thời khắc giao thừa vừa tới, nhằm cu
xin Tổ ên phù hộ độ trì cho gia đình mình gặp những điều tốt lành trong năm mới sắp đến.
Mâm lễ bao gồm các món ăn mặn ngày Tết được chế biến nh khiết, trang nghiêm. Cỗ mặn
gồm: bánh chưng, giò- chả, xôi đậu xanh, thịt gà, các món mặn khác tùy nhu cầu gia đình. Cỗ
ngọt gm bánh kẹo, mức tết, các loại đồ uống Khi cúng Giao thừa trong nhà, tất cả các thành
viên trong gia đình đứng trang nghiêm trước bàn thờ, khấn tổ ên để xin được các cụ phù
hộ độ trì trong nhà mới, cầu an khang thịnh vượng, sức khỏe tốt. Trước khi khấn Tổ ên để
mời ền nhân về ăn Tết cùng với con cháu hậu thế, các gia chủ khấn Thổ Công, tức là vị thn
cai quản trong nhà (thường bàn thờ tổ ên ở giữa, bàn thờ Thổ Công ở bên trái) để xin phép
cho tổ ên về ăn Tết. . Sau khi cúng xong, xem như Tết thực sự đã đến với gia đình.
3.6Những ngày đầu năm 3.6.1Xông đất đầu năm
Xông đất: Miền Bắc gọi là “xông đất, nhưng miền Trung dùng đúng tên cổ tục này là “đạp
đất. Người Việt quan niệm ngày mồng Một Tết, nếu mọi việc xảy ra suôn sẻ, may mắn thì cả
năm cũng sẽ được tốt lành thuận lợi. Theo truyền thống, chủ nhà sẽ chọn một người làm
“nghi lễ” bước vào nhà mình đầu ên trong năm mới, vào đêm giao thừa hoặc sáng mùng 1
Tết. Đó phải là phải là tuổi “tam Xông đất đầu năm hợp” với chủ nhà, đặc biệt tránh tuổi “tứ
hành xung. Phong tục xem tuổi xông đất và hướng xuất hành đầu năm xuất phát từ mong
muốn của mọi người, trong năm mới gặp nhiều may mắn hạnh phúc, tránh được những
điều xui xo. Điều quan trọng nhất khi chọn người xông nhà đầu năm là người vui vẻ, rộng
rãi, hạnh phúc thì gia đình được họ “xông” sẽ luôn may mắn, sung túc trong năm mới.
Còn nếu không, kể ccó hợp tuổi, nhưng khó nh thì chưa chắc năm mới đã gặp may. Chọn
người thân nào trong nhà ngoan ngoãn, hiền lành, làm ăn tốt cũng là giải pháp. Người khách
đến thăm nhà đầu ên trong một năm cũng vì thế mà quan trng. Cho nên cứ cuối năm, mọi
người cố ý m xem những người trong bà con hay láng giềng có nh vui vẻ, linh hoạt, đạo
đức và thành công để nhờ sang thăm. Người đến xông đất thường chỉ đến thăm, chúc tết
chừng năm mười phút chứ không ở lại lâu, hầu cho mọi việc trong năm của chủ nhà cũng
được trôi chảy thông suốt. Người đi xông đất xong có niềm vui vì đã làm được việc phước,
người được xông đất cũng sung sướng vì n tưởng gia đạo mình sẽ may mn trong suốt
năm tới.
3.6.2Xuất hành- hái lộc- xin quẻ
Xuất hành là lần đi ra khỏi nhà đầu ên trong năm, thường được thực hiện vào ngày tốt đầu
ên của năm mới để đi m may mắn cho bản thân và gia đình. Tớc khi xuất hành, người ta
phải chọn ngày Hoàng đạo, giờ Hoàng đạo và các phương hướng tốt để mong gặp được các
quý thần, tài thần, hỉ thần
lOMoARcPSD| 57855709
Nếu xuất hành ra chùa hay đền, sau khi lễ bái, người Việt còn có tục bẻ lấy một “cành lộc” để
mang về nhà lấy may, lấy phước. Đó là tục “hái lộc”. Cành lộc là một cành đa nhỏ hay cành
đề, cành si… là những loại cây quanh năm tươi tốt và nẩy lc. Tục hái lộc ở các nơi đền, chùa
ngụ ý xin hưởng chút lộc của Thần, Phật ban cho nhân năm mới. Cành lộc thường Đi chùa
đầu năm đem về cắm bàn thờ. Rủ nhau đến chùa, miếu… xin lộc ngay sau thời khắc giao
thừa là một truyền thống đẹp của người Việt. Người xuất hành tờng chọn hướng và giờ
cẩn thận. Theo quan niệm của người xưa, giờ lúc ra đi phải được giờ Hoàng đạo, nếu hợp
với tuổi của người xuất hành thì càng tốt, không được kỵ, không được khắc. Nếu chẳng may
kỵ hay khắc, có thể còn gặp xui.
Mọi người sau khi xuất hành và hái lộc đầu năm để “triệu điềm may mắn” đầu năm xong,
mới thực hiện đến các việc khác như đi trực cơ quan, đi thăm bà con họ hàng hai bên nội
ngoại…Thăm viếng họ hàng là để gắn kết nh cảm già đình họ hàng v.v. Lời chúc tết thường
là sức khoẻ, phát tài phát lộc, gặp nhiều may mắn, mọi ước muốn đều thành công…
3.6.3Chúc Tết
Sáng mồng Một Tết, con cháu tụ họp ở nhà tộc trưởng để lễ Tổ ên và chúc tết ông bà, các
bậc huynh trưởng. Theo quan niệm, cứ năm mới tới, mỗi người tăng lên một tuổị, bởi vậy
ngày mồng Một Tết là ngày con cháu “chúc thọ” ông bà và các bậc cao niên (ngày xưa, các cụ
thường không nhớ rõ ngày tháng sinh nên chỉ biết Tết đến là tăng thêm một tuổi), trong ba
ngày Tết, những thân bằng quyến thuộc hoặc những người phải chịu ơn người khác thường
phải đi chúc Tết và mừng tuổi gia chủ; sau đó xin lễ ở bàn thờ Tổ ên của gia chủ.
3.6.4Lì xì
Ngoài những lời chúc Tết thông thường, thì người Việt Nam còn có phong tục đẹp xưa nay,
đó là mừng tuổi, mừng tuổi bằng lời nói và mừng tuổi bằng hiện vật, mà cụ thể là ền gọi là
ền mừng tuổi. Không ai mừng tuổi bằng hiện vật cồng knh khó mang như là mừng đám
ới, và nếu chỉ mừng tuổi bằng lời nói thôi cũng không hoàn toàn là mừng tuổi. Trước hết
mừng tuổi chủ yếu là những người thân nói với nhau, trong gia đình thì con cháu mừng tuổi
ông bà cao niên, rồi người cao niên lại mừng tuổi người dưới, mà ưu ên nhất là những
người bé tức tuổi thiếu niên và nhi đồng, với những lời tốt đẹp như hay ăn chóng lớn, học
hành tấn tới, khỏe mạnh…Tiền mừng tuổi không bao giờ là số ền lớn có mệnh giá quá to,
mà chỉ là những tờ bạc lẻ, mệnh giá thấp.
Tục lệ cho ền vào phong bao đỏ là lì xì của người Trung Quốc, người Hoa kiều lan truyền
sang người Việt Nam. Các cụ già mừng tuổi cho các con cháu thường là dùng những tờ giy
bạc thật mới, chưa có nếp gấp nào, và gồm nhiều loại ền có mệnh giá khác nhau để ngý
rằng sang năm mới, tuổi mới sẽ có nhiều loại ền như thế trong cuộc sống. Ông bà cao niên
được mời ngồi lên chỗ trang trọng nhất trong nhà để các con cháu quây quần xung quanh
mừng năm mới và mừng tuổi các cụ. Liền ngay sau đó là ông bà mừng tuổi lại cho con cháu,
vừa là lời chúc Tết vừa trao ền mừng tuổi. Khách đến xông nhà chúc Tết cũng thường
chuẩn bị một ít ền để mừng tuổi cho con chủ nhà và chủ nhà cũng đáp lễ, mừng tuổi cho
con nhỏ của khách đi theo.
lOMoARcPSD| 57855709
3.6.5Thăm viếng
Tục thăm viếng: là lúc chủ nhà ếp đón bạn bè quyến thuộc đến thăm, và cũng đi thăm tr
lễ. Thông thường ngày mùng một được dành để chúc thọ những bậc trưởng thượng, họ
hàng. Ngày mùng 2 dành cho thầy cô giáo, ngày mùng 3 là để thăm hỏi vui chơi với bạn bè.
Thăm viếng họ hàng là để gắn kết nh cảm gia đình họ hàng. Lời chúc tết thường là sức
khỏe, phát tài phát lộc, gặp nhiều may mắn, mọi ước muốn đều thành công Những người
năm cũ gặp rủi ro thì động viên nhau tai qua nạn khỏi hay của đi thay người nghĩa là trong
cái họa cũng m thấy cái phúc, hướng về sự tốt lành.
4. Ẩm thực ngày tết.
Thành ngữ Việt Nam có câu Đói giỗ cha, no ba ngày Tết. Tết đến, dù nghèo khó đến đâu thì
người ta cũng cố vay mượn, xoay xở để có đủ ăn trong ba ngày Tết. Hơn thế nữa, dù có đói
khát quanh năm thì đến Tết, mọi người mà nhất là trẻ em thường được ăn uống no đủ. Bữa
ăn ngày Tết thường có nhiều món, đủ chất hơn và sang trọng hơn bữa ăn ngày thường. Vì
vậy mà người ta cũng thường gọi là “ăn Tết. Ngoài cơm, ny Tết còn có nhiều món ngon
khác.
4.1Bánh truyền thống:
Bánh chưng, bánh dầy, bánh tét Đây là các loại bánh đặc trưng cho phong tục ăn uống ngày
Tết Việt Nam. Bánh chưng và bánh dầy còn được gắn với các sự ch cổ của các vua Hùng,
tổ ên của người Việt.
4.2Cỗ Tết:
Cỗ Tết: dịp Tết người Việt thường t chức ăn uống lớn, gọi là ăn cỗ. Các món cỗ trong nhiều
gia đình có thể có bóng bì, canh măng, chân giò có nấm hương, miến nấu lòng gà, nem rán,
xôi gấc ,xôi đỗ, thịt gà, thịt đông, món xào, giò lụa, giò mỡ, nộm, dưa hành muối…
4.3Trái Cây
Trái cây, mâm ngũ quả, và đặc biệt là dưa hấu đỏ không thể thiếu trong những gia đình miền
Nam. Dưa hấu được chưng cúng nơi bàn thờ Tổ ên, bên cạnh các loại mứt, mâm ngũ quả,
bánh kẹo…, và nhiều quả dưa còn được gắn thêm chữ Phước – Lộc Thọ. Sáng mồng một
Tết, người nhà cử người bổ quả dưa để bói cu may và lấy hên xui
4.4Mt:
Mứt Tết và các loại bánh kẹo khác để thờ cúng, sau đó dọn ra để đãi khách. Mứt có rất nhiều
loại như: mứt gừng, mứt bí, mứt cà chua, mứt táo, mứt dừa, mứt quất, mứt sầu riêng, mứt
mít, mứt khoai, mứt hạt sen, mứt chà-là, mứt lạc, mứt me Mứt tết
4.5Bánh ko:
Kẹo bánh thì đa dạng hơn như: Kẹo bột, kẹo dồi, kẹo vừng (mè), kẹo thèo èo, kẹo dừa, ko
cau, kẹo đậu phụng (kẹo cu-đơ), bánh chè lam Ngoài ra, Tết còn có hạt dưa, hạt bí, hạt
ớng dương, hạt điều, hạt dẻ rang.
lOMoARcPSD| 57855709
4.6 Thức uống:
Phbiến nhất vẫn là rượu. Các loại rượu truyền thống của dân tộc như rượu nếp thơm,nếp
cái hoa vàng (người Kinh), nếp nương (người Thái), nếp cẩm (người Mường), rượu San lùng,
ợu ngô (người H’Mong, người Dao), rượu Mẫu sơn (người Tày, nguời Nùng), ruợu Bàu đá
(Trung bộ), rượu đế (Nam Bộ) thường được dùng. Sau bữa ăn, người ta thường dùng trà
xanh. Ngày nay còn có thêm các loại ruợu của phương Tây, bia và các loại nước ngọt.
4.7Thực Phẩm Khác
Ngoài ra, các gia đình miền Nam thường có thêm nồi thịt kho nước dừa (thịt kho rệu) nồi
khổ qua hầm nem bì, dưa giá miền Nam, củ kiệu ngâm, để ăn mấy ngày tết. Ngày trước
miền Bắc có chè kho ngày Tết, hiện nay ít được biết đến, cơm rượu và thịt đông, dưa hành.
Miền Trung có dưa món và món tré, giống giò thủ của miền Bắc nhưng nhiều vị củ riềng, tht
chua và tai heo.
5. Tín Ngưỡng Ngày Tết 5.1Điềm lành
Hoa mai: sau Giao thừa, nếu hoa mai (loại 5 cánh) nở thêm nhiều và đầy đặn thì đó là một
điềm may. Và may mắn hơn nữa khi có một hoặc vài bông hoa 6 cánh.
Chó lạ vào nhà: Tc ngữ Mèo đến nhà thì khó, Chó đến nhà thì sang.
y đào: Nếu có nhiều cánh kép (hoa kép) 3 lớp (hàng) trên đài hoa và có hình dáng như
bông hồng thì sẽ có nhiều phúc lộc
y quất: Nếu cây có nhiều chồi xanh mọc thì năm đó sẽ có nhiều lộc. Nếu có đủ Tứ quý:
Quả chín, quả xanh, hoa và lộc thì sẽ may mắn và thành đạt cả năm
5.2Kiêng cữ
Theo quan niệm trong ngày đầu năm (Nguyên Đán) mà có nhiều điều tốt đẹp thì cả năm đó
chắc chắn sẽ có nhiều điều tốt đẹp đến cho mọi người, có sự giống và khác nhau giữa các
miền với niềm n chính để giđiều lành trong năm mới. Điển hình, người Việt có một số
kiêng kỵ như sau:
5.2.1Miền Bắc
Kỵ mai táng: Ngày Tết Nguyên Đán là ngày vui của toàn dân tộc, ngày mở đầu cho vận hội
hanh thông của cả một năm, có ý nghĩa rất thiêng liêng. Gia đình phải tạm gác mối sầu riêng
để hoà chung với niềm vui tn dân tộc. Vì vậy có tục lệ cất khăn tang trong ba ngày Tết. Nhà
có đại tang kiêng đi chúc Tết, mừng tuổi bà con, xóm giềng, ngược lại bà con xóm giềng lại
cần đến chúc Tết và an ủi gia đình bất hạnh.
Trường hợp gia đình có người chết vào ngày 30 tháng chạp mà gia đình có thể định liệu
được thì nên chôn cất cho kịp trong ngày đó, đa số các gia đình kiêng để sang ngày mùng
Một đầu năm. Trường hợp chết đúng ngày mùng Một Tết thì chưa phát tang vội nhưng phải
chuẩn bị mọi thứ để sáng mùng Hai làm lễ phát tang.
lOMoARcPSD| 57855709
Ngày mùng Một Tết người ta rất kỵ người khác đến xin lửa nhà mình, vì quan niệm lửa là đỏ
là may mắn. Cho người khác cái đỏ trong ngày mùng Một Tết thì c năm đó trong nhà sẽ gặp
nhiều điều không may như làm ăn thua lỗ, trong nhà lủng củng, ra đường hay gặp tai bay vạ
gió…Kiêng cho nước đầu năm vì nước được ví như nguồn tài lộc trong câu chúc ền vô như
ớc, nếu cho nước thì coi như mất lộc.Trong ngày này, người ta kiêng quét nhà vì theo một
điển ch của Trung Quốc, nếu quét nhà thì năm đó gia cảnh sẽ nghèo túng, khánh kiệt. Khi
hốt rác trong nhà đổ đi thì thần Tài sẽ đi mất.
Ngày đầu năm cũng như ngày đầu tháng, người ta rất kiêng kỵ việc vay mượn hay trả nợ, cho
vay. Người xưa quan niệm không nên vay ền hoặc đồ đạc vào những ngày đầu năm mới,
điều đó có thể làm chúng ta rơi vào cảnh túng thiếu cả năm, không may mắn.Trong ăn uống,
người ta kiêng ăn thịt chó, cá mè, thịt vịt… Nếu ăn những thứ này vào dịp đầu năm hay đầu
tháng sẽ “xúi quẩy”.Ngoài ra, người già cũng khuyên con cháu trong ngày này không đưc
đánh vỡ bát đĩa, ấm chén, cãi nhau, chửi nhau, kiêng những điều không vui xảy ra với gia
đình.Người ta thường kiêng khóc lóc, buồn tủi hoặc nói tới điều rủi ro hoặc xấu xa trong dịp
Tết.Kiêng mặc quần áo màu trắng và đen: Theo quan niệm của người xưa, màu trắng và đen
là màu của tang lễ, chết chóc, vì vậy những ngày đầu năm thì phải mặc trang phục với những
màu sắc sặc sỡ và thu hút sự chú ý, tạo nên sự phấn khởi và vui vẻ để đón chào năm mới,
như: màu hồng, đỏ, vàng, xanh…
Kiêng đi chúc Tết vào sáng Mồng Một Tết nếu không được gia chủ mời vì sợ sẽ mang đến
điều không tốt đẹp cho chủ nhà trong năm mới. Theo phong tục xông đất, người đầu ên
ớc vào nhà ai trong ngày mùng một Tết chính là người quyết định đem lại sự may mắn
hoặc xui xẻo cho gia đình ấy trong cả năm. Ngày mồng 5 tháng giêng Âm lịch là ngày nguyệt
kỵ, người Việt thường n rằng ngày này không thích hợp cho xuất hành.
5.2.2Miền Trung
Kiêng ăn các món chế biến từ tôm vì sợ năm mới đi giật lùi như tôm.
Kiêng ăn trứng vịt lộn, thịt vịt bởi đầu năm mà ăn món này thì sẽ xúi quẩy.
Một số vùng kiêng mặc đồ trắng suốt tháng Giêng vì đó là biểu tượng của tang tóc.
5.2.3Miền Nam
Kiêng để cối xay gạo trống vào ngày đầu năm vì đó là tượng trưng cho việc thất bát, mất
mùa năm tới. Người ta thường đổ một ít lúa vào cối xay, ngụ ý cầu mong năm mới lúa gạo
đầy tràn. Cũng như trên, kiêng kỵ để thùng gạo, hủ đường muối,… thiếu hụt vì sợ cả năm
đều bị thiếu thốn .Gia chủ hễ có khách đến là dọn cỗ, mời uống rượu, ăn bánh. Khách không
được từ chối bữa ăn, dù no cũng phải nhấm nháp chút ít. Kiêng các việc làm đổ bể hư hỏng,
hoặc tranh cãi to ếng lẫn nhau. Thường kiêng khóc lóc, buồn tủi hoặc nói tới điều rủi ro
hoặc xu xa trong dịp Tết. Kiêng cử quét nhà ngày đầu năm vì quan niệm quét ền tài tốt
đẹp ra ngoài. Ngoài ra người dân sẽ tắm gi cơ thể trước ngày đầu năm để tránh phải gột
rửa may mắn trong năm mới. III.TỔNG KẾT
lOMoARcPSD| 57855709
Tết là phong tục được truyền từ đời này sang đời khác, trải qua thời gian Tết càng khẳng
định vai trò không thể thiếu đối với người Việt, với những đặc trưng những phong tục phong
phú và đa dạng, phù hợp với nước ta, Tết mang một ý nghĩa to lớn đối với đời sống cộng
đồng, góp phần phong phú thêm phong tục tập quán quê hương.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 57855709 I. Mở đầu
“Phong” là nền nếp đã lan truyền rộng rãi, ‘Tục” là thói quen lâu đời. Nội dung phong tục
bao hàm mọi mặt sinh hoạt xã hội. Phong tục có thứ trở thành luật tục, ăn sâu, bén rễ trong
nhân dân rât bền chặt, có sức mạnh hơn cả những đạo luật. Trong truyền thống văn hoá của
dân tộc Việt Nam, có nhiều thuần phong mỹ tục cần cho đạo lý làm người, kỷ cương xã hội.
Tết Nguyên Đán là lễ hội lớn nhất trong các lễ hội truyền thống Việt Nam từ hàng nghìn đời
nay, là thời điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới, Tết từ ngày xưa đã tiềm tàng những giá
trị nhân văn thể hiện mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên qua bốn mùa. Tết còn là cơ
hội để mọi người Việt tưởng nhớ về tổ tiên, cội nguồn, gặp gỡ bà con họ hàng, thắt chặt mối
quan hệ thân tình trong gia đình, bạn bè. Ngoài ra nó còn là dịp để mọi người nghỉ ngơi, thư
giãn, giải trí với các hoạt động lễ hội, du xuân vui vẻ và hấp dẫn.
II. Nội dung 1. Nguồn gốc ra đời
Chữ “Tết” do chữ “Tiết” mà thành. Hai chữ “Nguyên đán” có gốc chữ Hán; “nguyên” có
nghĩa là sự khởi đầu hay sơ khai và “đán” có nghĩa là buổi sáng sớm, cho nên đọc đúng
phiên âm phải là “Tiết Nguyên Đán.
Tết Nguyên Đán có từ đời Ngũ Đế, Tam Vương. Đời Tam Vương, nhà Hạ, chuộng mẫu đen,
nên chọn tháng đầu năm, tức tháng Giêng, nhằm tháng . Nhà Thương, thích màu trắng, lấy
tháng Sửu (con trâu), tháng chạp làm tháng đầu năm. Qua nhà Chu (1050-256 trước công
nguyên), ưa sắc đỏ, chọn tháng Tý (con chuột), tháng mười một làm tháng Tết. Các vua chúa
nói trên, theo ngày giờ, lúc mới tạo thiên lập địa: nghĩa là giờ Tý thì có trời, giờ Sửu thì có
đất, giờ Dần sinh loài người mà đặt ra ngày tết khác nhau. Đến đời Đông Chu, Khổng Phu Tử
ra đời, đổi ngày tết vào một tháng nhất định: tháng Dần. Mãi đến đời Tần (thế kỷ III trước
Công nguyên), Tần Thủy Hoàng lại đổi qua tháng Hợi (con lợn), tức tháng Mười. Cho đến khi
nhà Hán trị vì, Hán Vũ Đế (140 trước Công nguyên) lại đặt ngày Tết vào tháng Dần (tức tháng
Giêng) như đời nhà Hạ, và từ đó về sau, trải qua bao nhiêu thời đại, không còn nhà vua nào
thay đổi về tháng Tết nữa. Đến đời Đông Phương Sóc, ông cho rằng ngày tạo thiên lập địa có
thêm giống Gà, ngày thứ hai có thêm Chó, ngày thứ ba có Lợn, ngày thứ tư sinh Dê, ngày thứ
năm sinh Trâu, ngày thứ sáu sinh Ngựa, ngày thứ bảy sinh loại Người và ngày thứ tám mới
sinh ra ngũ cốc. Vì thế, ngày Tết thường được kể từ ngày mồng Một cho đến hết ngày mồng bảy.
2. Quan niệm ngày tết
Người Việt tin rằng vào ngày Tết mọi thứ đều phải mới, phải đổi khác, từ ngoại vật cho đến
lòng người, vì vậy khoảng mươi ngày trước Tết họ thường sơn, quét vôi nhà cửa lại. Họ cũng
tất bật đi sắm sửa quần áo mới để mặc trong dịp này. Trong những ngày Tết họ kiêng cữ
không nóng giận, cãi cọ. Tết là dịp để mọi người hàn gắn những hiềm khích đã qua và là dịp
để chuộc lỗi. Mọi người đi thăm viếng nhau và chúc nhau những lời đầy ý nghĩa. Trẻ em sau
khi chúc Tết người lớn còn được lì xì bằng một phong bì đỏ thắm có đựng ít tiền dành cho
chúng tiêu xài ngày Tết. Tết ở 3 miền Bắc, Trung, Nam ở Việt Nam cũng có những điều khác nhau. lOMoAR cPSD| 57855709
3. Các giai đoạn chính trong Tết 3.1Những ngày cuối năm
Người Việt Nam quan niệm rằng ngày Tết thì tất cả mọi thứ đều phải thật sớm và mới. Do đó
trước ngày Tết khoảng hơn 2 tuần, các gia đình đã sắm sửa cho ngày Tết. Họ thường quét
dọn, trang trí nhà cửa, mua hoa, sắm thức ăn… thật chu đáo cho ngày Tết. Ngoài ra, tất cả
những vật dụng không cần thiết hoặc bị cho là đem lại điềm gở cũng bị vứt bỏ.
3.1.1Trang trí, sắm tết 3.1.1.1 Mâm ngũ quả:
Ngũ, con số 5 là con số chỉ trung tâm. Theo quan niệm cổ đại phổ biến trong khu vực chịu
ảnh hưởng văn hóa Trung Quốc, thường cho rằng các quy luật phổ biến đều gộp vào con số
5. Phổ biến, chúng ta có ngũ phương (Đông, Tây, Nam, Bắc và Trung ương), ngũ sắc, ngũ vị,
ngũ tạng, ngũ kim, ngũ quan, ngũ luân, ngũ cốc,… Như vậy, số 5 là biểu hiện chung của sự
sống và ở đây “ngũ quả” tự nó biểu trưng một tập thành được coi là đầy đủ của loại lễ vật dâng cúng là quả.
Việc bày mâm ngũ quả xuất phát từ lý thuyết về ngũ hành: thuỷ – hỏa – mộc – kim – thổ
những yếu tố tạo nên vũ trụ và sự vận hành của nó. Thông thường ngũ quả gồm 5 loại quả
có các màu khác nhau như chuối xanh, bưởi vàng, hồng đỏ, lê trắng, quýt da cam tượng
trưng cho mong ước: Phú (giàu có) – quý (sang trọng) – thọ (sống lâu) – khang (khỏe mạnh)
– ninh (bình yên). Mỗi một miền lại có một quan niệm riêng về ý nghĩa mâm ngũ quả.
Người Nam bộ có cách đọc chại âm hay đơn tiết hóa một số từ, ví dụ chỉ tên trái mãng cầu
thì gọi đơn tiết hóa là Cầu (mãng cầu: thoả mãn trong sự cầu xin) – Sung (sung: chỉ sự sung
túc, sung mãn) – Vừa (đọc chệch âm là dừa: quả dừa) – Đủ (đơn tiết hóa của đu đủ và xài (là
cách đọc chệch của âm xoài).
Người miền Trung do chịu sự giao thoa văn hóa 2 miền Bắc – Nam nên mâm ngũ quả vẫn
bày biện đủ: chuối, mãng cầu, sung, dừa, đu đủ, xoài… Rất phong phú!
Trong khi đó, người miền Bắc hướng đến ý nghĩa biểu trưng nhiều hơn, quả phật thủ hay nải
chuối như bàn tay che chở của đức phật cho tất cả mọi người; quả bưởi, dưa hấu thể hiện
cho sự đầy đặn, trọn vẹn căng đầy sức sống; màu sắc thắm tươi của quýt, hồng tượng trưng
cho sự may mắn, phồn thịnh cát tường.
Ngày nay, mâm quả trên bàn thờ tết người Việt phong phú hơn về chủng loại bởi sự góp mặt
của những hoa quả ngoại nhập. Với tính dung hợp trong văn hóa, người Việt Nam luôn có
thể tìm thấy tất cả những yếu tố thích hợp, có giá trị ý nghĩa đối với đời sống tâm linh của
dân tộc mình. Cuối cùng, những sản vật đẹp mắt nhất, tinh tuý nhất, được dâng bày với
những tình cảm hiếu kính, trang trọng và thiết thân nhất. Bàn thờ tết không chỉ là nơi mà
mọi người bày tỏ tình cảm gia đình, huyết thống mà đó còn là nơi chúng ta gửi gắm những
lời chúc may mắn và một năm mới an khang, thịnh vượng hơn. 3.1.1.2 Hoa Tết
Đã thành thông lệ, cứ mỗi độ Tết đến Xuân về người người, nhà nhà lại náo nức sắm sửa cho
gia đình mình những chậu hoa, cây cảnh vừa ý để đón năm mới thêm khí thế. Tết đến, xuân lOMoAR cPSD| 57855709
về cũng là dịp trăm hoa đua nở, khoe sắc làm đẹp cho đời. Hoa là thứ không thể thiếu trong
những ngày Tết cổ truyền của dân tộc, thế nên chắc cũng chẳng phải “ngoa” khi nói rằng
người Việt còn ăn Tết bằng hoa. Trong không khí giao hòa của trời đất vào xuân, hoa như
đem đến cho con người sức sống mới và những gì tươi đẹp nhất của một mùa xuân. Hoa
cho ngày Tết nhiều không kể xiết.
Với miền Bắc, hoa đào được coi là biểu tượng thiêng liêng của ngày Tết. Nó không chỉ làm
cho nhà cửa thêm phần đẹp đẽ, ấm cúng, mà màu đỏ thắm của hoa theo quan niệm dân
gian còn đem lại sự may mắn cho cả năm. Ðào ở miền Bắc cũng có nhiều giống khác nhau
như: đào bích, đào phai, đào bạch và đào thất thốn hay còn gọi là đào thế.Còn người miền
Nam một cái Tết không thể thiếu nhành mai. Khác với đào, mai phương Nam dường như
mang một phong cách trẻ trung và năng động hơn, biểu tượng cho cái đẹp bừng nở, sự
hưng vượng trong năm mới
Ngược lên Tây Bắc, mùa xuân về cũng là thời điểm hoa mai, hoa mận đang nở trắng cả một
vùng trời. Sau đào và mai, lay ơn và cúc là các loại hoa được người dân ở cả 3 miền ưa thích
Một năm có 365 ngày, dù bận rộn đến đâu, người Việt Nam đều hướng về những ngày Tết
với ý nghĩa thiêng liêng, trang trọng nhất. Và tất nhiên, ai nấy cũng đều mong muốn tìm
chọn cho nhà mình một chậu hoa thật đẹp và rực rỡ để trưng bày trong những ngày này. Đó
dường như là một nét đẹp truyền thống gắn với bản sắc văn hóa của dân tộc.
3.1.1.3 Bàn thờ tổ tiên ngày tết
Chăm chút bàn thờ là cách để con cháu bày tỏ lòng yêu kính và tưởng nhớ đến ông bà tổ
tiên, vì thế, mỗi độ năm hết, Tết đến công việc này được mọi người chú ý trước tiên. Thờ
phụng tổ tiên là một trách nhiệm có tính cách luân lý đối với người Việt Nam, nó thể hiện
cho nhu cầu được phát lộ tình cảm và niềm tin huyết thống trong môi trường gia đình.
Bàn thờ là nơi ngự vị của các bậc tiền nhân trong gia đình, vì thế nó thường được đặt ở vị trí
trung tâm và cao nhất trong nhà. Điều này không chỉ để tránh sự va chạm mà còn tránh gió,
bụi bặm và côn trùng. Việc lau dọn sạch sẽ bàn thờ là công việc trước tiên và được thực hiện
một cách cẩn thận, tỉ mỉ. Công việc chăm chút bàn thờ là cách để con cháu bày tỏ lòng yêu
kính và tưởng nhớ đế ông bà tổ tiên.
Chổi quét hoặc khăn lau bàn thờ thường được dùng riêng, và rất hạn chế sự chung đụng.
Nước lau bàn thờ thường được dùng từ nguồn nước sạch sẽ, có người còn dùng nước mưa
thậm chí nước nấu từ lá trầu, lá bồ đề để lau.
Trong tâm thức người Việt, người đã khuất và người còn sống luôn có một mối quan hệ mật
thiết với nhau. Không gian thờ tự là không gian thiêng liêng trong gia đình, là nơi lưu giữ
nhiều ẩn ức tình cảm giữa các thế hệ, chính vì thế việc giữ gìn bàn thờ luôn sạch sẽ, mát mẻ
không chỉ thể hiện sự chăm sóc và tôn kính của con cháu đối với ông bà tổ tiên mà còn là sự
chăm sóc đến cái tôi tâm linh ở mỗi con người.
Việc bày biện hay thắp hương (nhang) trên bàn thờ không phân biệt nam nữ, tuổi tác như ở
thôn quê. Tuy nhiên, để giữ nếp xưa, mọi nhà vẫn mời người lớn tuổi nhất họ hay nhất nhà lOMoAR cPSD| 57855709
ra khấn và thắp hương cho ông bà tổ tiên trong những ngày quan trọng như: tất niên, đêm
giao thừa, mừng năm mới, cúng tiễn…
3.2Ông Táo về trời
Táo Quân trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam có nguồn gốc từ ba vị thần Thổ Công, Thổ Địa,
Thổ Kỳ của Lão giáo Trung Quốc nhưng được Việt hóa thành huyền tích “2 ông 1 bà” – vị
thần Đất, vị thần Nhà, vị thần Bếp núc.
Tuy vậy người dân vẫn quen gọi chung là Táo Quân hoặc Ông Táo do kết quả của thuyết tam
vị nhất thể (thuyết Ba ngôi) khá phổ biến trong các tín ngưỡng, tôn giáo. Bếp là bản nguyên
của nhà khi người nguyên thủy có lửa và đều dựa trên nền móng là đất. Việt Nam, sự tích
Táo Quân được truyền khẩu, rồi ghi chép, do đó có những sự khác nhau về tình tiết. Táo
Quân, còn gọi là Táo Công, là vị thần bảo vệ cho cuộc sống gia đình, thường được thờ ở nơi
nhà bếp, cho nên còn được gọi là Vua Bếp . Từ xa xưa, người dân Việt đã ngưỡng mộ lòng
chung thủy của Ông Táo và thờ cúng Ông Táo với hi vọng Táo Quân sẽ giúp họ giữ “bếp lửa”
trong gia đình luôn nồng ấm và hạnh phúc. Theo tục lệ cổ truyền, người Việt tin rằng, hàng
năm, cứ đến ngày 23 tháng Chạp âm lịch, Táo Quân lại cưỡi cá chép bay về trời để trình báo
mọi việc xảy ra trong gia đình với Ngọc Hoàng. Cho đến đêm Giao thừa Táo Quân mới trở lại
trần gian để tiếp tục công việc coi sóc bếp lửa của mình.Vị Táo Quân quanh năm ở trong bếp
nên biết hết mọi chuyện hay dở tốt xấu của mọi người, cho nên để Vua Bếp “phù trợ” cho
mình được nhiều điều may mắn trong năm mới, người ta thường làm lễ tiễn đưa Ông Táo về
chầu Ngọc Hoàng rất trọng thể.
Người ta thường mua hai mũ Ông Táo có hai cánh chuồn và một mũ dành cho Táo Bà không
có cánh chuồn, ba cái áo bằng giấy cùng một con cá chép (còn sống hoặc bằng giấy, hoặc
cũng có thể dùng loại vàng mã gọi là “cò bay ngựa chạy”) để làm phương tiện cho “Vua Bếp”
lên chầu trời. Ông Táo sẽ tâu với Ngọc Hoàng về việc làm ăn, cư xử của mỗi gia đình dưới hạ
giới. Lễ cúng thường diễn ra trước 12h trưa, sau khi cúng xong, người ta sẽ hóa vàng đồ lễ,
nếu có cá sống thì sẽ đem thả xuống sông, hồ, biển hay giếng nước, tùy theo khu vực họ sinh sống.
3.3Thăm mộ tổ tiên
Từ ngày 23 đến ngày 30 tháng chạp con cái trong gia đình tề tựu đông đủ, tụ họp ở nghĩa địa
đi thăm, sửa sang quét dọn mồ mả tổ tiên và những thân quyến quá cố, đem theo hương
đèn, hoa quả để cúng, mời vong linh, hương hồn tổ tiên về ăn Tết cùng con cháu. 3.4Tất niên
Lễ tất niên được tiến hành vào chiều ngày 30 Tết. Trong ngày 30 Tết, nhà nhà đều dọn dẹp
nhà cửa để chuẩn bị đón Tết. Đầu tiên phải lau chùi, trang hoàng, bày biện bàn thờ, với
hương, hoa tươi, đèn nến đầy đủ. Sau đó, trang hoàng nhà cửa với hoa, cành đào, chậu quất
.Sau khi công việc chuẩn bị cho gia đình một cái Tết đầm ấm, thiêng liêng, vui vẻ xong thì gia
chủ phải chuẩn bị mâm cỗ cúng Tất niên. lOMoAR cPSD| 57855709
Theo quan niệm của người Việt, bữa cơm tất niên sẽ được tổ chức vào chiều ngày 30 tết, lúc
đó mọi công việc chuẩn bị cho ngày tết đã cơ bản xong, bánh chưng đã được vớt ra và bày
biện ngay ngắn trên bàn thờ, nhà cửa cũng đã gọn gàng, sạch sẽ. Ngoài ý nghĩa tiễn biệt năm
cũ, việc các gia đình sửa soạn bữa cơm tất niên còn để mời ông Công, ông Táo trở về trần
thế tiếp tục cai quản việc bếp núc tư gia. Đây cũng là bữa cơm để con cháu thể hiện tấm
lòng tôn kính, hiếu thảo với những người đã khuất trong gia đình. Một số nơi, chiều ngày 30,
trước lúc diễn ra bữa cơm tất niên, các gia đình thường ra mộ thắp hương mời ông bà, tổ
tiên về ăn tết cùng con cháu, nhưng cũng có nhiều nơi không có phong tục này mà chỉ thắp
hương tại nhà. Có thể nói, bữa cơm tất niên là nét văn hoá, in đậm trong tâm trí người Việt
và trở thành sợi dây vô hình, liên kết chặt chẽ giữa các thành viên trong gia đình, cộng đồng
mỗi khi tết đến, xuân về. Bữa cơm tất niên kết thúc, cũng là lúc mọi người chuẩn bị cho lễ cúng giao thừa. 3.5 Giao thừa
Thời khắc chuyển giao năm cũ sang năm mới là thời điểm quan trọng, trời đất giao hoà, âm
dương hoà quyện để vạn vật bừng lên sức sống mới. Theo phong tục của người Việt Nam từ
cổ xưa, giao thừa nhà nhà đều cúng lễ ngoài trời và cúng lễ trong nhà chuẩn bị chu đáo để
đón người đến xông đất, mang tài thần vào nhà.
3.5.1Cúng ngoài trời
Theo như câu chuyện truyền miệng của các cụ ta kể lại, tục cúng giao thừa ngoài trời là thể
hiện tấm lòng thành kính của người hạ giới với các vị thần trên Thiên đình. Hàng năm sẽ có
một vị thần được cử xuống hạ giới để cai quản công việc và đến giờ phút cận kề năm mới vị
thần ấy sẽ quay về trời để vị thần khác xuống nhân gian tiếp quản. Vì thế, lễ cúng giao thừa
chính là hình thức “tiễn cũ, đón mới” các vị thần tôn kính ngự trị trên trời.
Việc bày biện mâm cỗ cúng ngoài trời theo các cụ hình dung là để quan quân “tiện đường”
ghé vào thưởng thức chút đồ ăn thức uống trong lúc quân đi, quân về tấp nập. Bàn giao việc
cũ, tiếp quản việc mới diễn ra nhanh chóng và gấp rút, chính vì vậy các quan không thể vào
nhà mỗi người dân để “nhâm nhi” và “thưởng thức” hương vị của các món ăn do gia chủ
chế biến. Thậm chí có những vị chỉ đi ngang qua và chứng kiến tấm lòng thành của chủ nhà.
Vào những giờ phút giao thừa gần kề, mọi nhà chuẩn bị sắp lễ đưa ra ngoài trời để cúng.
Mâm cỗ đầy đặn và sinh động với rất nhiều màu sắc của đồ ăn thức uống như đĩa xôi, con gà
luộc, hoa quả, bánh kẹo… Và hơn lúc nào trong giờ phút ấy để người dân bày tỏ lòng thành
kính, sự biết ơn và ước nguyện về một năm mới sẽ tốt đẹp, may mắn. Với mâm cỗ cúng giao
thừa ngoài trời số lượng và chất lượng cũng phụ thuộc vào từng vùng miền khác nhau, vào
sự giàu có, sung túc hay khó khăn của mỗi gia đình. Những nhà khá giả sẽ sắm sửa mâm cỗ
cúng đầy đủ với các lễ vật, món ngon, sơn hào hải vị… để tiếp đón các vị quan thần và mong
muốn sẽ có một cuộc sống giàu có hơn, phú quý hơn. Các gia đình cơ hàn, vất vả quanh năm
ruộng vườn, đồng áng thì chút “lễ mọn” như cây nhà lá vườn cũng là để gửi gắm cả tấm
chân tình, sự tôn kính và ước nguyện cho năm mới với những điều may mắn, sức khỏe đến
với mọi thành viên trong gia đình. lOMoAR cPSD| 57855709
Cuộc sống ngày nay có nhiều thay đổi nhưng lễ cúng giao thừa ngoài trời từ thôn quê đến
thành thị vẫn được lưu giữ. Không chỉ là vấn đề tâm linh mà đó còn là nét đẹp trong văn hóa cội nguồn dân tộc. 3.5.2Cúng trong nhà
Cúng Giao thừa trong nhà là lễ cúng tổ tiên vào chính thời khắc giao thừa vừa tới, nhằm cầu
xin Tổ tiên phù hộ độ trì cho gia đình mình gặp những điều tốt lành trong năm mới sắp đến.
Mâm lễ bao gồm các món ăn mặn ngày Tết được chế biến tinh khiết, trang nghiêm. Cỗ mặn
gồm: bánh chưng, giò- chả, xôi đậu xanh, thịt gà, các món mặn khác tùy nhu cầu gia đình. Cỗ
ngọt gồm bánh kẹo, mức tết, các loại đồ uống Khi cúng Giao thừa trong nhà, tất cả các thành
viên trong gia đình đứng trang nghiêm trước bàn thờ, khấn tổ tiên để xin được các cụ phù
hộ độ trì trong nhà mới, cầu an khang thịnh vượng, sức khỏe tốt. Trước khi khấn Tổ tiên để
mời tiền nhân về ăn Tết cùng với con cháu hậu thế, các gia chủ khấn Thổ Công, tức là vị thần
cai quản trong nhà (thường bàn thờ tổ tiên ở giữa, bàn thờ Thổ Công ở bên trái) để xin phép
cho tổ tiên về ăn Tết. . Sau khi cúng xong, xem như Tết thực sự đã đến với gia đình.
3.6Những ngày đầu năm 3.6.1Xông đất đầu năm
Xông đất: Miền Bắc gọi là “xông đất”, nhưng miền Trung dùng đúng tên cổ tục này là “đạp
đất”. Người Việt quan niệm ngày mồng Một Tết, nếu mọi việc xảy ra suôn sẻ, may mắn thì cả
năm cũng sẽ được tốt lành thuận lợi. Theo truyền thống, chủ nhà sẽ chọn một người làm
“nghi lễ” bước vào nhà mình đầu tiên trong năm mới, vào đêm giao thừa hoặc sáng mùng 1
Tết. Đó phải là phải là tuổi “tam Xông đất đầu năm hợp” với chủ nhà, đặc biệt tránh tuổi “tứ
hành xung”. Phong tục xem tuổi xông đất và hướng xuất hành đầu năm xuất phát từ mong
muốn của mọi người, trong năm mới gặp nhiều may mắn hạnh phúc, tránh được những
điều xui xẻo. Điều quan trọng nhất khi chọn người xông nhà đầu năm là người vui vẻ, rộng
rãi, hạnh phúc thì gia đình được họ “xông” sẽ luôn may mắn, sung túc trong năm mới.
Còn nếu không, kể cả có hợp tuổi, nhưng khó tính thì chưa chắc năm mới đã gặp may. Chọn
người thân nào trong nhà ngoan ngoãn, hiền lành, làm ăn tốt cũng là giải pháp. Người khách
đến thăm nhà đầu tiên trong một năm cũng vì thế mà quan trọng. Cho nên cứ cuối năm, mọi
người cố ý tìm xem những người trong bà con hay láng giềng có tính vui vẻ, linh hoạt, đạo
đức và thành công để nhờ sang thăm. Người đến xông đất thường chỉ đến thăm, chúc tết
chừng năm mười phút chứ không ở lại lâu, hầu cho mọi việc trong năm của chủ nhà cũng
được trôi chảy thông suốt. Người đi xông đất xong có niềm vui vì đã làm được việc phước,
người được xông đất cũng sung sướng vì tin tưởng gia đạo mình sẽ may mắn trong suốt năm tới.
3.6.2Xuất hành- hái lộc- xin quẻ
Xuất hành là lần đi ra khỏi nhà đầu tiên trong năm, thường được thực hiện vào ngày tốt đầu
tiên của năm mới để đi tìm may mắn cho bản thân và gia đình. Trước khi xuất hành, người ta
phải chọn ngày Hoàng đạo, giờ Hoàng đạo và các phương hướng tốt để mong gặp được các
quý thần, tài thần, hỉ thần lOMoAR cPSD| 57855709
Nếu xuất hành ra chùa hay đền, sau khi lễ bái, người Việt còn có tục bẻ lấy một “cành lộc” để
mang về nhà lấy may, lấy phước. Đó là tục “hái lộc”. Cành lộc là một cành đa nhỏ hay cành
đề, cành si… là những loại cây quanh năm tươi tốt và nẩy lộc. Tục hái lộc ở các nơi đền, chùa
ngụ ý xin hưởng chút lộc của Thần, Phật ban cho nhân năm mới. Cành lộc thường Đi chùa
đầu năm đem về cắm ở bàn thờ. Rủ nhau đến chùa, miếu… xin lộc ngay sau thời khắc giao
thừa là một truyền thống đẹp của người Việt. Người xuất hành thường chọn hướng và giờ
cẩn thận. Theo quan niệm của người xưa, giờ lúc ra đi phải được giờ Hoàng đạo, nếu hợp
với tuổi của người xuất hành thì càng tốt, không được kỵ, không được khắc. Nếu chẳng may
kỵ hay khắc, có thể còn gặp xui.
Mọi người sau khi xuất hành và hái lộc đầu năm để “triệu điềm may mắn” đầu năm xong,
mới thực hiện đến các việc khác như đi trực cơ quan, đi thăm bà con họ hàng hai bên nội
ngoại…Thăm viếng họ hàng là để gắn kết tình cảm già đình họ hàng v.v. Lời chúc tết thường
là sức khoẻ, phát tài phát lộc, gặp nhiều may mắn, mọi ước muốn đều thành công… 3.6.3Chúc Tết
Sáng mồng Một Tết, con cháu tụ họp ở nhà tộc trưởng để lễ Tổ tiên và chúc tết ông bà, các
bậc huynh trưởng. Theo quan niệm, cứ năm mới tới, mỗi người tăng lên một tuổị, bởi vậy
ngày mồng Một Tết là ngày con cháu “chúc thọ” ông bà và các bậc cao niên (ngày xưa, các cụ
thường không nhớ rõ ngày tháng sinh nên chỉ biết Tết đến là tăng thêm một tuổi), trong ba
ngày Tết, những thân bằng quyến thuộc hoặc những người phải chịu ơn người khác thường
phải đi chúc Tết và mừng tuổi gia chủ; sau đó xin lễ ở bàn thờ Tổ tiên của gia chủ. 3.6.4Lì xì
Ngoài những lời chúc Tết thông thường, thì người Việt Nam còn có phong tục đẹp xưa nay,
đó là mừng tuổi, mừng tuổi bằng lời nói và mừng tuổi bằng hiện vật, mà cụ thể là tiền gọi là
tiền mừng tuổi. Không ai mừng tuổi bằng hiện vật cồng kềnh khó mang như là mừng đám
cưới, và nếu chỉ mừng tuổi bằng lời nói thôi cũng không hoàn toàn là mừng tuổi. Trước hết
mừng tuổi chủ yếu là những người thân nói với nhau, trong gia đình thì con cháu mừng tuổi
ông bà cao niên, rồi người cao niên lại mừng tuổi người dưới, mà ưu tiên nhất là những
người bé tức tuổi thiếu niên và nhi đồng, với những lời tốt đẹp như hay ăn chóng lớn, học
hành tấn tới, khỏe mạnh…Tiền mừng tuổi không bao giờ là số tiền lớn có mệnh giá quá to,
mà chỉ là những tờ bạc lẻ, mệnh giá thấp.
Tục lệ cho tiền vào phong bao đỏ là lì xì của người Trung Quốc, người Hoa kiều lan truyền
sang người Việt Nam. Các cụ già mừng tuổi cho các con cháu thường là dùng những tờ giấy
bạc thật mới, chưa có nếp gấp nào, và gồm nhiều loại tiền có mệnh giá khác nhau để ngụ ý
rằng sang năm mới, tuổi mới sẽ có nhiều loại tiền như thế trong cuộc sống. Ông bà cao niên
được mời ngồi lên chỗ trang trọng nhất trong nhà để các con cháu quây quần xung quanh
mừng năm mới và mừng tuổi các cụ. Liền ngay sau đó là ông bà mừng tuổi lại cho con cháu,
vừa là lời chúc Tết vừa trao tiền mừng tuổi. Khách đến xông nhà chúc Tết cũng thường
chuẩn bị một ít tiền để mừng tuổi cho con chủ nhà và chủ nhà cũng đáp lễ, mừng tuổi cho
con nhỏ của khách đi theo. lOMoAR cPSD| 57855709 3.6.5Thăm viếng
Tục thăm viếng: là lúc chủ nhà tiếp đón bạn bè quyến thuộc đến thăm, và cũng đi thăm trả
lễ. Thông thường ngày mùng một được dành để chúc thọ những bậc trưởng thượng, họ
hàng. Ngày mùng 2 dành cho thầy cô giáo, ngày mùng 3 là để thăm hỏi vui chơi với bạn bè.
Thăm viếng họ hàng là để gắn kết tình cảm gia đình họ hàng. Lời chúc tết thường là sức
khỏe, phát tài phát lộc, gặp nhiều may mắn, mọi ước muốn đều thành công Những người
năm cũ gặp rủi ro thì động viên nhau tai qua nạn khỏi hay của đi thay người nghĩa là trong
cái họa cũng tìm thấy cái phúc, hướng về sự tốt lành.
4. Ẩm thực ngày tết.
Thành ngữ Việt Nam có câu Đói giỗ cha, no ba ngày Tết. Tết đến, dù nghèo khó đến đâu thì
người ta cũng cố vay mượn, xoay xở để có đủ ăn trong ba ngày Tết. Hơn thế nữa, dù có đói
khát quanh năm thì đến Tết, mọi người mà nhất là trẻ em thường được ăn uống no đủ. Bữa
ăn ngày Tết thường có nhiều món, đủ chất hơn và sang trọng hơn bữa ăn ngày thường. Vì
vậy mà người ta cũng thường gọi là “ăn Tết”. Ngoài cơm, ngày Tết còn có nhiều món ngon khác.
4.1Bánh truyền thống:
Bánh chưng, bánh dầy, bánh tét Đây là các loại bánh đặc trưng cho phong tục ăn uống ngày
Tết ở Việt Nam. Bánh chưng và bánh dầy còn được gắn với các sự tích cổ của các vua Hùng,
tổ tiên của người Việt. 4.2Cỗ Tết:
Cỗ Tết: dịp Tết người Việt thường tổ chức ăn uống lớn, gọi là ăn cỗ. Các món cỗ trong nhiều
gia đình có thể có bóng bì, canh măng, chân giò có nấm hương, miến nấu lòng gà, nem rán,
xôi gấc ,xôi đỗ, thịt gà, thịt đông, món xào, giò lụa, giò mỡ, nộm, dưa hành muối… 4.3Trái Cây
Trái cây, mâm ngũ quả, và đặc biệt là dưa hấu đỏ không thể thiếu trong những gia đình miền
Nam. Dưa hấu được chưng cúng nơi bàn thờ Tổ tiên, bên cạnh các loại mứt, mâm ngũ quả,
bánh kẹo…, và nhiều quả dưa còn được gắn thêm chữ Phước – Lộc – Thọ. Sáng mồng một
Tết, người nhà cử người bổ quả dưa để bói cầu may và lấy hên xui 4.4Mứt:
Mứt Tết và các loại bánh kẹo khác để thờ cúng, sau đó dọn ra để đãi khách. Mứt có rất nhiều
loại như: mứt gừng, mứt bí, mứt cà chua, mứt táo, mứt dừa, mứt quất, mứt sầu riêng, mứt
mít, mứt khoai, mứt hạt sen, mứt chà-là, mứt lạc, mứt me Mứt tết 4.5Bánh kẹo:
Kẹo bánh thì đa dạng hơn như: Kẹo bột, kẹo dồi, kẹo vừng (mè), kẹo thèo èo, kẹo dừa, kẹo
cau, kẹo đậu phụng (kẹo cu-đơ), bánh chè lam Ngoài ra, Tết còn có hạt dưa, hạt bí, hạt
hướng dương, hạt điều, hạt dẻ rang. lOMoAR cPSD| 57855709 4.6 Thức uống:
Phổ biến nhất vẫn là rượu. Các loại rượu truyền thống của dân tộc như rượu nếp thơm,nếp
cái hoa vàng (người Kinh), nếp nương (người Thái), nếp cẩm (người Mường), rượu San lùng,
rượu ngô (người H’Mong, người Dao), rượu Mẫu sơn (người Tày, nguời Nùng), ruợu Bàu đá
(Trung bộ), rượu đế (Nam Bộ) thường được dùng. Sau bữa ăn, người ta thường dùng trà
xanh. Ngày nay còn có thêm các loại ruợu của phương Tây, bia và các loại nước ngọt. 4.7Thực Phẩm Khác
Ngoài ra, các gia đình miền Nam thường có thêm nồi thịt kho nước dừa (thịt kho rệu) nồi
khổ qua hầm và nem bì, dưa giá miền Nam, củ kiệu ngâm, để ăn mấy ngày tết. Ngày trước
miền Bắc có chè kho ngày Tết, hiện nay ít được biết đến, cơm rượu và thịt đông, dưa hành.
Miền Trung có dưa món và món tré, giống giò thủ của miền Bắc nhưng nhiều vị củ riềng, thịt chua và tai heo.
5. Tín Ngưỡng Ngày Tết 5.1Điềm lành
Hoa mai: sau Giao thừa, nếu hoa mai (loại 5 cánh) nở thêm nhiều và đầy đặn thì đó là một
điềm may. Và may mắn hơn nữa khi có một hoặc vài bông hoa 6 cánh.
Chó lạ vào nhà: Tục ngữ Mèo đến nhà thì khó, Chó đến nhà thì sang.
Cây đào: Nếu có nhiều cánh kép (hoa kép) 3 lớp (hàng) trên đài hoa và có hình dáng như
bông hồng thì sẽ có nhiều phúc lộc
Cây quất: Nếu cây có nhiều chồi xanh mọc thì năm đó sẽ có nhiều lộc. Nếu có đủ Tứ quý:
Quả chín, quả xanh, hoa và lộc thì sẽ may mắn và thành đạt cả năm 5.2Kiêng cữ
Theo quan niệm trong ngày đầu năm (Nguyên Đán) mà có nhiều điều tốt đẹp thì cả năm đó
chắc chắn sẽ có nhiều điều tốt đẹp đến cho mọi người, có sự giống và khác nhau giữa các
miền với niềm tin chính để giữ điều lành trong năm mới. Điển hình, người Việt có một số kiêng kỵ như sau: 5.2.1Miền Bắc
Kỵ mai táng: Ngày Tết Nguyên Đán là ngày vui của toàn dân tộc, ngày mở đầu cho vận hội
hanh thông của cả một năm, có ý nghĩa rất thiêng liêng. Gia đình phải tạm gác mối sầu riêng
để hoà chung với niềm vui toàn dân tộc. Vì vậy có tục lệ cất khăn tang trong ba ngày Tết. Nhà
có đại tang kiêng đi chúc Tết, mừng tuổi bà con, xóm giềng, ngược lại bà con xóm giềng lại
cần đến chúc Tết và an ủi gia đình bất hạnh.
Trường hợp gia đình có người chết vào ngày 30 tháng chạp mà gia đình có thể định liệu
được thì nên chôn cất cho kịp trong ngày đó, đa số các gia đình kiêng để sang ngày mùng
Một đầu năm. Trường hợp chết đúng ngày mùng Một Tết thì chưa phát tang vội nhưng phải
chuẩn bị mọi thứ để sáng mùng Hai làm lễ phát tang. lOMoAR cPSD| 57855709
Ngày mùng Một Tết người ta rất kỵ người khác đến xin lửa nhà mình, vì quan niệm lửa là đỏ
là may mắn. Cho người khác cái đỏ trong ngày mùng Một Tết thì cả năm đó trong nhà sẽ gặp
nhiều điều không may như làm ăn thua lỗ, trong nhà lủng củng, ra đường hay gặp tai bay vạ
gió…Kiêng cho nước đầu năm vì nước được ví như nguồn tài lộc trong câu chúc tiền vô như
nước, nếu cho nước thì coi như mất lộc.Trong ngày này, người ta kiêng quét nhà vì theo một
điển tích của Trung Quốc, nếu quét nhà thì năm đó gia cảnh sẽ nghèo túng, khánh kiệt. Khi
hốt rác trong nhà đổ đi thì thần Tài sẽ đi mất.
Ngày đầu năm cũng như ngày đầu tháng, người ta rất kiêng kỵ việc vay mượn hay trả nợ, cho
vay. Người xưa quan niệm không nên vay tiền hoặc đồ đạc vào những ngày đầu năm mới,
điều đó có thể làm chúng ta rơi vào cảnh túng thiếu cả năm, không may mắn.Trong ăn uống,
người ta kiêng ăn thịt chó, cá mè, thịt vịt… Nếu ăn những thứ này vào dịp đầu năm hay đầu
tháng sẽ “xúi quẩy”.Ngoài ra, người già cũng khuyên con cháu trong ngày này không được
đánh vỡ bát đĩa, ấm chén, cãi nhau, chửi nhau, kiêng những điều không vui xảy ra với gia
đình.Người ta thường kiêng khóc lóc, buồn tủi hoặc nói tới điều rủi ro hoặc xấu xa trong dịp
Tết.Kiêng mặc quần áo màu trắng và đen: Theo quan niệm của người xưa, màu trắng và đen
là màu của tang lễ, chết chóc, vì vậy những ngày đầu năm thì phải mặc trang phục với những
màu sắc sặc sỡ và thu hút sự chú ý, tạo nên sự phấn khởi và vui vẻ để đón chào năm mới,
như: màu hồng, đỏ, vàng, xanh…
Kiêng đi chúc Tết vào sáng Mồng Một Tết nếu không được gia chủ mời vì sợ sẽ mang đến
điều không tốt đẹp cho chủ nhà trong năm mới. Theo phong tục xông đất, người đầu tiên
bước vào nhà ai trong ngày mùng một Tết chính là người quyết định đem lại sự may mắn
hoặc xui xẻo cho gia đình ấy trong cả năm. Ngày mồng 5 tháng giêng Âm lịch là ngày nguyệt
kỵ, người Việt thường tin rằng ngày này không thích hợp cho xuất hành. 5.2.2Miền Trung
Kiêng ăn các món chế biến từ tôm vì sợ năm mới đi giật lùi như tôm.
Kiêng ăn trứng vịt lộn, thịt vịt bởi đầu năm mà ăn món này thì sẽ xúi quẩy.
Một số vùng kiêng mặc đồ trắng suốt tháng Giêng vì đó là biểu tượng của tang tóc. 5.2.3Miền Nam
Kiêng để cối xay gạo trống vào ngày đầu năm vì đó là tượng trưng cho việc thất bát, mất
mùa năm tới. Người ta thường đổ một ít lúa vào cối xay, ngụ ý cầu mong năm mới lúa gạo
đầy tràn. Cũng như trên, kiêng kỵ để thùng gạo, hủ đường muối,… thiếu hụt vì sợ cả năm
đều bị thiếu thốn .Gia chủ hễ có khách đến là dọn cỗ, mời uống rượu, ăn bánh. Khách không
được từ chối bữa ăn, dù no cũng phải nhấm nháp chút ít. Kiêng các việc làm đổ bể hư hỏng,
hoặc tranh cãi to tiếng lẫn nhau. Thường kiêng khóc lóc, buồn tủi hoặc nói tới điều rủi ro
hoặc xấu xa trong dịp Tết. Kiêng cử quét nhà ngày đầu năm vì quan niệm quét tiền tài tốt
đẹp ra ngoài. Ngoài ra người dân sẽ tắm gội cơ thể trước ngày đầu năm để tránh phải gột
rửa may mắn trong năm mới. III.TỔNG KẾT lOMoAR cPSD| 57855709
Tết là phong tục được truyền từ đời này sang đời khác, trải qua thời gian Tết càng khẳng
định vai trò không thể thiếu đối với người Việt, với những đặc trưng những phong tục phong
phú và đa dạng, phù hợp với nước ta, Tết mang một ý nghĩa to lớn đối với đời sống cộng
đồng, góp phần phong phú thêm phong tục tập quán quê hương.