



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 61630929
I/ PHÒNG VỆ THƯƠNG MẠI:
Phòng vệ thương mại là gì?
Phòng vệ thương mại là biện pháp mà một nước sử dụng để tạo ra môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa hàng
hoá nhập khẩu với hàng hoá sản xuất trong nước thông qua hạn chế nhập khẩu đối với một hoặc một số loại hàng
hoá nhập khẩu bị bán phá giá, được trợ cấp tăng nhanh đột biến, gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại nghiêm trọng
cho ngành sản xuất trong nước.
Điều cần lưu ý là biện pháp tự vệ chỉ được áp dụng đối với hàng hoá, không áp dụng đối với dịch vụ, đầu tư hay sở hữu trí tuệ.
2. Bốn (04) biện pháp sử dụng trong Phòng vệ thương mại
Phòng vệ thương mại có 4 biện pháp: Chống bán phá giá, Chống trợ cấp, Biện pháp tự vệ, và Chống lẩn tránh phòng vệ thương mại.
2.1. Chống bán phá giá
Đây là biện pháp mà nước nhập khẩu có quyền áp dụng để đối phó với hành vi bán sản phẩm với giá thấp nhằm
chiếm lĩnh thị trường và tiến tới loại bỏ dần các đối thủ cạnh tranh ở trong nước.
Khi hàng hoá nhập khẩu được chứng minh là bán phá giá thì chúng có thể bị áp đặt các biện pháp: thuế chống phá
giá, đặt cọc hoặc thế chấp, hạn chế định lượng hoặc điều chỉnh mức giá của nhà xuất khẩu nhằm triệt tiêu nguy cơ
gây thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước nhập khẩu, trong đó thuế chống bán pháp giá và biện pháp phổ biến nhất hiện nay.
2.2. Biện pháp chống trợ cấp
Là biện pháp được áp dụng để loại bỏ tác động tiêu cực gây ra cho ngành sản xuất hàng hóa trong nước xuất phát
từ các chính sách trợ cấp của Chính phủ nước xuất khẩu. Trợ cấp Chính phủ có thể tồn tại dưới hình thức trực tiếp
như chuyển trực tiếp các khoản vốn (cho vay ưu đãi, góp cổ phần…), chuyển hoặc nhận nợ trực tiếp (bảo lãnh tiền
vay, bảo đảm tín dụng…).
Hoặc trợ cấp gián tiếp như bỏ qua hoặc không thu các khoản thu phải nộp (miễn thuế, giảm thuế); cung cấp hàng
hóa hay dịch vụ không phải là hạ tầng cơ sở cho doanh nghiệp.
2.3. Biện pháp tự vệ
Là một công cụ bảo vệ ngành sản xuất hàng hóa tương tự hoặc cạnh tranh trực tiếp trong nước trong trường hợp
khẩn cấp khi hàng nhập khẩu gia tăng bất thường.
Nếu như để áp dụng biện pháp chống phá giá và chống trợ cấp, cơ quan điều tra phải chứng minh có tình trạng
bán phá giá hay trợ cấp, tức là việc điều tra liên quan nhiều đến doanh nghiệp nước ngoài thì trong các cuộc điều
tra để áp dụng biện pháp tự vệ, cơ quan điều tra phải chứng minh được tình trạng thiệt hại “nghiêm trọng” mà
ngành sản xuất hàng hóa “tương tự hoặc cạnh tranh trực tiếp” trong nước phải hứng chịu do việc gia tăng “bất
thường” của luồng hàng hóa nhập khẩu, tức là việc điều tra liên quan nhiều đến doanh nghiệp và thị trường trong nước. lOMoAR cPSD| 61630929
Mỗi nước thành viên WTO đều có quyền áp dụng phòng vệ thương mại, nhưng khi áp dụng thì họ phải bảo đảm
tuân theo các quy định của WTO (về điều kiện, thủ tục, cách thức áp dụng biện pháp tự vệ.
2.4. Chống lấn tránh biện pháp phòng vệ thương mại
Là hành vi thay đổi nguồn gốc hoặc loại hàng hóa để tránh biện pháp phòng vệ thương mại đang áp dụng, từ đó
làm giảm hiệu quả các biện pháp này.
Đối với Việt Nam, các vụ việc nước ngoài khởi xướng điều tra “lẩn tránh thuế” đối với hàng hóa xuất khẩu thường thuộc các trường hợp:
(i) hàng hóa của nước đang bị áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại chuyển tải sang
Việt Nam để lấy xuất xứ Việt Nam nhằm lẩn tránh thuế phòng vệ thương mại;
(ii) hàng hóa của nước ngoài lấy xuất xứ Việt Nam để hưởng thuế suất ưu đãi theo các hiệp định thương mại tự
do (FTA) hoặc các quy định ưu đãi thuế quan.
3. Điều kiện để áp dụng biện pháp phòng vệ
Nước nhập khẩu chỉ có thể áp dụng biện pháp tự vệ sau khi đã tiến hành điều tra và chứng minh được sự tồn tại
đồng thời của 3 điều kiện sau:
- Hàng hoá liên quan được nhập khẩu tăng đột biến về số lượng;
- Ngành sản xuất sản phẩm tương tự hoặc cạnh tranh trực tiếp với hàng hoá đó bị thiệt hạihoặc đe doạ bị thiệt hại nghiêm trọng; và
- Có mối quan hệ nhân quả giữa hiện tượng nhập khẩu tăng đột biến và thiệt hại hoặc đedoạ thiệt hại nói trên.
Trình tự áp dụng biện pháp phòng vệ
Một vụ điều tra áp dụng biện pháp tự vệ thường đi theo trình tự sau đây:
Đơn yêu cầu áp dụng biện pháp tự vệ của ngành sản xuất nội địa nước nhập khẩu; Khởi xướng điều tra;
Điều tra và công bố kết quả điều tra về các yếu tố tình hình nhập khẩu; tình hình thiệt hại; mối quan hệ giữa việc
nhập khẩu và thiệt hại;
Ra Quyết định áp dụng hoặc không áp dụng biện pháp tự vệ.
4. Thủ tục áp dụng biện pháp phòng vệ
Đối với các vụ kiện chống bán phá giá hay chống trợ cấp, không có quy định chi tiết về trình tự, thủ tục kiện áp dụng.
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) cũng không quy định cụ thể về hành vi lẩn tránh. Bên cạnh đó, pháp luật về
các hành vi lẩn tránh “bất hợp pháp” của các nước cũng rất khác nhau và thường xuyên thay đổi, gây khó khăn cho
việc tuân thủ của các doanh nghiệp. Riêng Biện pháp tự vệ, có một số các nguyên tắc cơ bản mà tất cả các thành viên WTO phải tuân thủ: -
Đảm bảo tính minh bạch (Quyết định khởi xướng vụ điều tra tự vệ phải được thông báocông khai; Báo
cáo kết luận điều tra phải được công khai vào cuối cuộc điều tra…) - Đảm bảo quyền tố tụng của các bên (các bên
liên quan phải được đảm bảo cơ hội trình bày các chứng cứ, lập luận của mình và trả lời các chứng cứ, lập luận của đối phương); lOMoAR cPSD| 61630929 -
Đảm bảo bí mật thông tin (đối với thông tin có bản chất là mật hoặc được các bên trìnhvới tính chất là
thông tin mật không thể được công khai nếu không có sự đồng ý của bên đã trình thông tin); -
Các điều kiện về biện pháp tạm thời (phải là biện pháp tăng thuế, và nếu kết luận cuốicùng của vụ việc là
phủ định thì khoản chênh lệch do tăng thuế phải được hoàn trả lại cho bên đã nộp; không được kéo dài quá 200 ngày…)
5. Phòng vệ thương mại được thực hiện thế nào trong EVFTA?
Mới đây, Bộ Công Thương đã ban hành Thông tư 30/2020/TT-BCT hướng dẫn áp dụng biện pháp tự vệ song
phương, biện pháp chống bán phá giá và biện pháp chống trợ cấp trong thực hiện Hiệp định Thương mại tự do
Việt Nam - Liên minh châu Âu (EVFTA).
5.1. Biện pháp tự vệ song phương
Đối với biện pháp tự vệ song phương, có 3 nguyên tắc áp dụng:
+ Một là, tại cùng một thời điểm, không áp dụng đồng thời biện pháp tự vệ song phương (theo Hiệp định) và biện
pháp tự vệ theo quy định tại Điều XIX Hiệp định chung về Thương mại và Thuế quan (GATT) 1994 đối với cùng một
hàng hóa nhập khẩu được hưởng thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt theo Hiệp định.
+ Hai là, không được áp dụng biện pháp ngoài giai đoạn chuyển tiếp, trừ trường hợp có sự thống nhất với Liên minh châu Âu.
+ Ba là, việc điều tra, áp dụng biện pháp được thực hiện phù hợp với Luật Quản lý ngoại thương, Nghị định số
10/2018/NĐ-CP và các quy định tại Chương III của Thông tư 30. Ngoài ra, Cơ quan điều tra sẽ thông báo bằng văn
bản và tham vấn với Liên minh châu Âu về việc điều tra áp dụng biện pháp theo quy định trong Hiệp định.
Thời hạn điều tra: là 1 năm kể từ ngày Quyết định điều tra được ban hành.
Biện pháp tự vệ song phương được áp dụng khi:
+ Thứ nhất, có sự gia tăng nhập khẩu (tuyệt đối hoặc tương đối) của hàng nhập khẩu được hưởng thuế nhập khẩu
ưu đãi đặc biệt theo Hiệp định so với lượng hàng hóa tương tự và hàng hóa cạnh tranh trực tiếp được sản xuất trong nước;
+ Thứ hai, ngành sản xuất trong nước bị thiệt hại nghiêm trọng hoặc bị đe dọa thiệt hại nghiêm trọng;
+ Thứ ba, việc gia tăng nhập khẩu nêu trên là nguyên nhân gây ra/đe dọa gây ra thiệt hại nghiêm trọng đối với
ngành sản xuất trong nước.
Hình thức áp dụng biện pháp bao gồm:
+ Đình chỉ việc tiếp tục giảm thuế suất thuế nhập khẩu theo quy định của Hiệp định; hoặc + Tăng thuế suất thuế
nhập khẩu đối với hàng hóa đó nhưng không vượt quá thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi (MFN) có hiệu lực tại thời
điểm áp dụng biện pháp, hoặc thuế suất thuế nhập khẩu cơ sở quy định tại các biểu thuế tại Phụ lục 2- A (Xoá bỏ thuế hải quan) lOMoAR cPSD| 61630929
theo Điều 2.7 (Giảm hoặc xoá bỏ thuế hải quan với hàng nhập khẩu) của Hiệp định, tùy mức thuế suất thuế nhập khẩu nào thấp hơn.
Thời hạn áp dụng biện pháp:
Không quá 2 năm. Trong trường hợp cần tiếp tục áp dụng biện pháp để ngăn chặn hoặc khắc phục thiệt hại và tạo
thuận lợi cho ngành sản xuất trong nước điều chỉnh, có thể kéo dài thêm tối đa 2 năm.
Ngoài ra, trong trường hợp thời hạn áp dụng biện pháp dài hơn 2 năm, biện pháp phải được nới lỏng dần trong quá trình áp dụng.
Sau khi hết thời hạn áp dụng biện pháp, mức thuế nhập khẩu áp cho hàng hóa liên quan thực hiện theo quy định
của Hiệp định có hiệu lực tại thời điểm chấm dứt áp dụng biện pháp đó.
Thông tư 30 cũng quy định về các nội dung cụ thể cần có của đơn yêu cầu , bên liên quan trong vụ việc điều tra áp
dụng biện pháp tự vệ song phương.
5.2. Biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp
Ngoài các quy định phù hợp với các Hiệp định chống bán phá giá, chống trợ cấp của Tổ chức Thương mại thế giới
(WTO), Hiệp định EVFTA bổ sung nội dung Bộ Công Thương có thể xem xét quyết định không áp dụng biện pháp
chống bán phá giá, chống trợ cấp nếu, dựa trên các thông tin sẵn có trong quá trình điều tra, Cơ quan điều tra kết
luận rằng việc áp dụng biện pháp không phù hợp với lợi ích kinh tế - xã hội.
Khi đánh giá lợi ích kinh tế - xã hội, dựa trên các thông tin có liên quan được cung cấp, Cơ quan điều tra sẽ xem xét
tình hình của ngành sản xuất trong nước, các nhà nhập khẩu, các hiệp hội có liên quan, tổ chức, cá nhân sử dụng,
tiêu dùng hàng hóa bị điều tra.
Ngoài ra, thuế chống bán phá giá hoặc thuế chống trợ cấp không được cao hơn biên độ phá giá hoặc mức trợ cấp.
Mức thuế chống bán phá giá, chống trợ cấp thấp hơn biên độ phá giá hoặc mức trợ cấp có thể được áp dụng nếu
mức thuế thấp hơn này đủ để loại bỏ thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước.
II/ Nguyên tắc cơ bản TMHH QT:
1. Nguyên tắc đối xử tối huệ quốc
1.1 Nguyên tắc đối xử tối huệ quốc?
Nguyên tắc đối xử tối huệ quốc được hiểu là dựa trên cam kết thương mại, một nước dành cho nước đối tác ưu
đãi có lợi nhất mà nước đó đang và sẽ dành cho nước thứ ba khác trong tương lai.
1.2 Cơ sở pháp lý nguyên tắc đối xử tối huệ quốc
- Điều I, Hiệp định chung về thuế quan và thương mại - GATT 1994 Điều I
Quy định chung về đối xử tối huệ quốc 1.
Với mọi khoản thuế quan và khoản thu thuộc bất cứ loại nào nhằm vào hay có liên hệ tớinhập khẩu và
xuất khẩu hoặc đánh vào các khoản chuyển khoản để thanh toán hàng xuất nhập khẩu, hay phương thức đánh
thuế hoặc áp dụng phụ thu nêu trên, hay với mọi luật lệ
hay thủ tục trong xuất nhập khẩu và liên quan tới mọi nội dung đã được nêu tại khoản 2 và khoản 4 của Điều III,*
mọi lợi thế, biệt đãi, đặc quyền hay quyền miễn trừ được bất kỳ bên ký kết nào dành cho bất cứ một sản phẩm có lOMoAR cPSD| 61630929
xuất xứ từ hay được giao tới bất kỳ một nước nào khác sẽ được áp dụng cho sản phẩm tương tự có xuất xứ từ hay
giao tới mọi bên ký kết khác ngay lập tức và một cách không điều kiện. 2.
Các quy định của của Khoản 1 thuộc Điều này không đòi hỏi phải loại bỏ bất cứ một ưuđãi nào liên quan
tới thuế nhập khẩu hay các khoản thu không vượt quá mức đã được quy định tại Khoản 4 của Điều này và nằm
trong diện được quy định dưới đây:
(a) Ưu đãi có hiệu lực giữa hai hay nhiều lãnh thổ nêu trong danh mục tại phụ lục A, theocác điều kiện nêu trong phụ lục đó;
(b) Ưu đãi có hiệu lực riêng giữa hai hay nhiều lãnh thổ có mối liên hệ về chủ quyền chunghay có quan hệ bảo hộ
chủ quyền được nêu tại danh mục B, C, D, theo điều kiện đã nêu ra trong các phụ lục đó;
(c) Ưu đãi chỉ có hiệu lực riêng giữa các nước có chung biên giới nêu trong phụ lục E, F. 3.
Các điều khoản của khoản I sẽ không áp dụng với các ưu đãi giữa các nước trước đây làbộ phận của Lãnh
thổ Ottoman và được tách từ lãnh thổ Ottoman ra từ ngày 24 tháng 7 năm 1923, miễn là các ưu đãi đó được phép
áp dụng theo khoản 5 của điều XXV và do vậy sẽ đươc áp dụng phù hợp với khoản 1 của Điều XXIX. 4.
Biên độ ưu đãi* áp dụng với bất cứ sản phẩm nào được khoản 2 của Điều này cho phépdành ưu đãi nhưng
các Biểu cam kết đính kèm theo Hiệp định này lại không có quy định rõ cụ thể mức biên độ tối đa, sẽ không vượt quá: (a)
Khoản chênh lệch giữa mức đối xử tối huệ quốc và thuế suất ưu đãi nêu trong Biểu, vớithuế quan hay
khoản thu áp dụng với bất cứ sản phẩm nào đã được ghi trong Biểu tương ứng; nếu trong Biểu không ghi rõ thuế
suất ưu đãi, việc vận dụng thuế suất ưu đãi theo tinh thần của điều khoản này sẽ căn cứ vào mức thuế ưu đãi có
hiệu lực vào ngày 10 tháng 4 năm 1947 và nếu trong Biểu cũng không có mức thuế đối xử tối huệ quốc thì áp dụng
mức chênh lệch giữa thuế suất ưu đãi và thuế theo đối xử tối huệ quốc đã có vào ngày 10 tháng 4 năm 1947; (b)
Với mọi khoản thuế quan và khoản thu không ghi cụ thể trong Biểu tương ứng, mứcchênh lệch có được
vào ngày 10 tháng 4 năm 1947 sẽ được áp dụng.
Trong trường hợp một bên ký kết có tên trong phụ lục G, ngày 10 tháng 4 năm 1947 tham chiếu đến tại tiểu khoản
(a) và (b) trên nêu trên sẽ được thay thế bằng ngày cụ thể ghi trong phụ lục đó.
- Điều II, Hiệp định về thương mại dịch vụ - GAST
Điều 2. Đối xử tối huệ quốc 1.
Đối với bất kỳ biện pháp nào thuộc phạm vi điều chỉnh của Hiệp định này, mỗi Thànhviên phải ngay lập
tức và không điều kiện dành cho dịch vụ và các nhà cung cấp dịch vụ của bất kỳ Thành viên nào khác, sự đối xử
không kém thuận lợi hơn sự đối xử mà Thành viên đó dành cho dịch vụ và các nhà cung cấp dịch vụ tương tự của
bất kỳ nước nào khác. 2.
Các Thành viên có thể duy trì biện pháp không phù hợp với quy định tại khoản 1 củaĐiều này, với điều
kiện là biện pháp đó phải được liệt kê và đáp ứng các điều kiện của Phụ lục về các ngoại lệ đối với Điều II. lOMoAR cPSD| 61630929 3.
Các quy định của Hiệp định này không được hiểu là để ngăn cản bất kỳ một Thành viênnào dành cho các
nước lân cận những lợi thế nhằm tạo thuận lợi cho việc trao đổi dịch vụ được tạo ra và tiêu thụ trong phạm vi giới
hạn của vùng biên giới.
- Điều IV, Hiệp định về một số khía cạnh của quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại - TRIPs Điều 4
Chế độ đãi ngộ tối huệ quốc
Đối với việc bảo hộ sở hữu trí tuệ, bất kỳ một sự ưu tiên, chiếu cố, đặc quyền hoặc sự miễn trừ nào được một
Thành viên dành cho công dân của bất kỳ nước nào khác cũng phải được lập tức và vô điều kiện dành cho công
dân của tất cả các Thành viên khác. Được miễn nghĩa vụ này bất kỳ sự ưu tiên, chiếu cố, đặc quyền hoặc sự miễn
trừ nào mà một Thành viên dành cho nước khác: a)
Trên cơ sở các thoả ước quốc tế về việc giúp đỡ trong tố tụng hoặc thực thi luật theonghĩa tổng quát chứ
không giới hạn riêng biệt về bảo hộ sở hữu trí tuệ; b)
Phù hợp với các quy định của Công ước Berne (1971) hoặc Công ước Rome, theo đósự đãi ngộ không phải
là đãi ngộ quốc gia mà là sự đãi ngộ áp dụng tại một nước khác; c)
đối với các quyền của những người biểu diễn, người sản xuất bản ghi âm và các tổchức phát thanh truyền
hình không phải do Hiệp định này quy định; d)
trên cơ sở các thoả ước quốc tế liên quan đến việc bảo hộ sở hữu trí tuệ đã có hiệu lựctrước khi Hiệp định
WTO có hiệu lực, với điều kiện là các thoả ước đó được thông báo cho Hội đồng TRIPS và không tạo nên sự phân
biệt đối xử tuỳ tiện hoặc bất hợp lý đối với công dân của các Thành viên khác.
1.3 Nội dung đãi ngộ tối huệ quốc
Theo quy định tại Điều 1 của GATT, quy định nghĩa vụ của mọi bên ký kết dành “ngay lập tức và không điều kiện”
bất kỳ ưu đãi , ưu tiên, đặc quyền hoặc đặc miễn nào liên quan đến thuế quan và bất kỳ loại lệ phí nào mà bên ký
kết đó áp dụng cho hoặc liên quan đến việc nhập khẩu, xuất khẩu hoặc cho việc chuyển tiền thanh toán quốc tế ,
hoặc liên quan đến phương pháp tính thuế quân và lệ phí hoặc liên quan đến tất cả các quy định và thủ tục đối với
việc xuất và nhập khẩu một sản phẩm xuất xứ hoặc nhập khẩu sang một Bên ký kết cho một sản phẩm cùng loại
xuất xứ hoặc nhập khẩu sang các Bên ký kết khác. + Ngay lập tức ở đây được hiểu là: khi gia nhập tổ chức thương
mại thế giới thì quốc gia đó sẽ được hưởng ưu đãi từ các quốc gia thành viên khác và các quốc gia thành viên khác
buộc phải cho quốc gia mới gia nhập hưởng các ưu đãi
+ Vô điều kiện: là khi một quốc gia đánh thuế với một quốc gia thành viên là bao nhiêu thì cũng có thể đánh thuế
như vậy với một quốc gia không phải là thành viên mà không đòi hỏi có bất kì điều kiện nào
+ Đãi ngộ tối huệ quốc được thực hiện trên cơ sở có đi có lại: muốn được hưởng đãi ngộ tối huệ quốc thì quốc gia
này phải nhượng bộ cho quốc gia kia một mặt hàng nào đó để quốc gia kia cũng ưu đãi cho quốc gia này tương tự
như vậy đối với mặt hàng nào đó.
1.4 Ngoại lệ của nguyên tắc
Mặc dù được coi là nguyên tắc nền tảng của thương mại thế giới, nhưng vẫn tồn tại một số ngoại lệ sau:
Chế độ ưu đãi đặc biệt lOMoAR cPSD| 61630929
Căn cứ theo quy định tại Điều XXIV của Hiệp định chung về thuế quan và thương mại quy định về việc áp dụng theo
lãnh thổ - Hàng hóa biên mậu; Liên minh quan thuế và khu vực mậu dịch tự do thì: các nước thành viên trong các
hiệp định thương mại khu vực có thể dành cho nhau sự đối xử ưu đãi hơn mang tính chất phân biệt đối xử với các
nước thứ ba, trái với nguyên tắc đãi ngộ tối huệ quốc. Ngoại lệ này tồn tại với các điều kiện sau: + Các ưu đãi này
chỉ giới hạn trong thuế quan đối với hàng hóa nhập khẩu và không cho phéo ưu đãi đặc biệt về thuế xuất khẩu và các hạng mục khác
+ Chỉ giới hạn giữa một số nước thành viên đã được chấp nhận và không được thiết lập ưu đãi mới
+ Không cho phép tăng sự chênh lệch thuế suất ưu đãi đặc biệt
GATT 1947 cũng có hai miễn trừ về đối xử đặc biệt và ưu đãi hơn với các nước đang phát triển.
• Hệ thống ưu đãi phổ cập
Theo quyết định ngày 25-6-1971 của Đại hội đồng GATT về việc thiết lập “ Hệ thống ưu đãi phổ cập” (GSP) chỉ áp
dụng cho hàng hoá xuất xứ từ những nước đang phát triển và chậm phát triển. Trong khuôn khổ GSP, các nước
phát triển có thể thiết lập số mức thuế ưu đãi hoặc miễn thuế quan cho một số nhóm mặt hàng có xuất xứ từ các
nước đang phát triển và chậm phát triển và không có nghĩa vụ phải áp dụng những mức thuế quan ưu đãi đó cho
các nước phát triển theo nguyên tắc MFN.
• Biện pháp đặc biệt với nước đang phát triển
Theo quyết định ngày 26-11-1971 của Đại hội đồng GATT về ‘Đàm phán thương mại giữa các nước đang phát triển”,
cho phép các nước này có quyền đàm phán, ký kết những hiệp định thương mại dành cho nhau những ưu đãi hơn
về thuế quan và không có nghĩa vụ phải áp dụng cho hàng hoá đến từ các nước phát triển.
1.5 Ví dụ về nguyên tắc đối xử tối huệ quốc
Giả định, quốc gia A, B, C, D đều là thành viên của WTO, A nhập khẩu sản phẩm đường mía từ tất cả các quốc gia
này. Tuy nhiên, A áp đặt mức thuế quan khác nhau với các quốc gia, cụ thể B phải chịu mức thuế giá trị gia tăng là
5%, trong khi các quốc gia C và D được miễn thuế quan.Quốc gia A cho rằng nên có sự chênh lệch thuế quan do
sản phẩm mía đường sản xuất ra từ các quốc gia này có sự khác nhau về điều kiện trồng trọt và chế biến. Theo quy
định tại khoản 1 Điều I Hiệp định GATT là: các quốc gia kí kết phải dành một sự đối xử như nhau cho những sản
phẩm tương tự. Trong trường hợp này cùng là mía đường nên đương nhiên là sản phẩm tương tự, việc áp đặt thuế
quan khác nhau của quốc gia A vi phạm khoản 1 Điều I Hiệp định GATT. Như vậy, quốc gia A đã vi phạm nguyên tắc
đối xử tối huệ quốc.
2. Nguyên tắc đối xử quốc gia
Các nguyên tắc cơ bản của thương mại quốc tế sẽ là quan điểm, tư tưởng xuyên suốt toàn bộ hệ thống các quy
phạm của Luật Thương mại quốc tế. Vậy các nguyên tắc cơ bản của Luật Thương mại quốc tế là gì?
2.1 Nguyên tắc đối xử quốc gia là gì?
Nguyên tắc đối xử quốc gia là dựa trên cam kết thương mại, một nước sẽ dành cho sản phẩm, dịch vụ, nhà cung
cấp của nước khác những ưu đãi không kém hơn so với ưu đãi mà nước đó đang và sẽ dành cho sản phẩm, dịch
vụ, nhà cung cấp của nước mình. lOMoAR cPSD| 61630929
2.2 Cơ sở pháp lý nguyên tắc đối xử quốc gia
- Điều III Hiệp định chung về thuế quan và thương mại - GATT 1994 ĐIỀU III
Đối xử quốc gia và thuế và quy tắc trong nước
1 Các bên ký kết thừa nhận rằng các khoản thuế và khoản thu nội địa, cũng như luật, hay quy tắc hay yêu cầu
tác động tới việc bán hàng, chào bán, vận tải, phân phối hay sử dụng sản phẩm trong nội địa cùng các quy tắc định
lượng trong nước yêu cầu có pha trộn, chế biến hay sử dụng sản phẩm với một khối lượng tỷ trọng xác định, không
được áp dụng với các sản phẩm nội địa hoặc nhập khẩu với kết cục là bảo hộ hàng nội địa.* 2.
Hàng nhập khẩu từ lãnh thổ của bất cứ một bên ký kết nào sẽ không phải chịu, dùtrực tiếp hay gián tiếp,
các khoản thuế hay các khoản thu nội địa thuộc bất cứ loại nào vượt quá mức chúng được áp dụng, dù trực tiếp
hay gián tiếp, với sản phẩm nội tương tự. Hơn nữa, không một bên ký kết nào sẽ áp dụng các loại thuế hay khoản
thu khác trong nội địa trái với các nguyên tắc đã nêu tại khoản 1.* 3.
Với mọi khoản thuế nội địa hiện đã tồn tại trái với các quy định tại khoản 2, nhưngcó thoả thuận cụ thể
cho phép duy trì căn cứ vào một hiệp định thương mại có giá trị hiệu lực vào ngày 10 tháng 4 năm 1947, theo đó
thuế nhập khẩu đánh vào sản phẩm chịu thuế nội địa đã được cam kết trần, không tăng lên, bên ký kết đang áp
dụng thuế đó được hoãn thời hạn thực hiện các quy định tại khoản 2 áp dụng với các loại thuế nội đó cho tới khi
nghĩa vụ thuộc hiệp định đó được giải phóng và cho phép bên ký kết đó điều chỉnh thuế quan trong chừng mực
cần thiết để bù đắp cho nhân tố bảo hộ trong khoản thuế nội địa. 4.
Sản phẩm nhập khẩu từ lãnh thổ của bất cứ một bên ký kết nào vào lãnh thổ củabất cứ một bên ký kết
khác sẽ được hưởng đãi ngộ không kém phần thuận lợi hơn sự đãi ngộ dành cho sản phẩm tương tự có xuất xứ
nội về mặt luật pháp, quy tắc và các quy định tác động đến bán hàng, chào bán, mua, chuyên chở, phân phối hoặc
sử dụng hàng trên thị trường nội địa. Các quy định của khoản này sẽ không ngăn cản việc áp dụng các khoản thu
phí vận tải khác biệt chỉ hoàn toàn dựa vào yếu tố kinh tế trong khai thác kinh doanh các phương tiện vận tải và
không dưạ vào quốc tịch của hàng hoá. 5.
Không một bên ký kết nào sẽ áp dụng hay duy trì một quy tắc định lượng nội địanào với pha trộn, chế
biến hay sử dụng sản phẩm tính theo khối lượng cụ thể hay theo tỷ lệ, trực tiếp hay gián tiếp đòi hỏi một khối
lượng hay tỷ lệ nhất định của bất cứ một sản phẩm nào chịu sự điều chỉnh của quy tắc đó phải được cung cấp từ
nguồn nội địa. Thêm vào đó, không một bên ký kết nào sẽ áp dụng các quy tắc định lượng trong nước theo cách
nào khác trái với các nguyên tắc đã quy định tại khoản 1.* 6.
Các quy định của khoản 5 sẽ không áp dụng với những quy tắc có hiệu lực trên lãnhthổ của bất cứ bên ký
kết nào vào ngày 1 tháng 7 năm 1939, ngày 10 tháng 4 năm 1947 hay ngày 24 tháng 3 năm 1948 tuỳ bên ký kết liên
quan chọn; miễn là các quy tắc trái với quy định của khoản 5 đó sẽ không bị điều chỉnh bất lợi hơn cho hàng nhập
khẩu và chúng sẽ được xem như là một khoản thuế quan để tiếp tục đàm phán. 7.
Không một quy tắc định lượng nội địa nào điều chỉnh việc pha trộn, chế biến hay sửdụng tính theo khối
lượng hay tỷ lệ sẽ được áp dụng để phân bổ các khối lượng hay tỷ lệ nêu trên theo xuất xứ của nguồn cung cấp. 8.
(a) Các quy định của Điều khoản này sẽ không áp dụng với việc các cơ quanchính phủ mua sắm nhằm
mục đích cho tiêu dùng của chính phủ chứ không phải để bán lại nhằm mục đích thương mại hay đưa vào sản xuất
nhằm mục đích thương mại.
(b) Các quy định của điều khoản này sẽ không ngăn cản việc chi trả các khoản trợ cấp chỉ dành cho các nhà sản
xuất nội địa, kể cả các khoản khoản trợ cấp dành cho các nhà sản xuất nội địa có xuất xứ từ các khoản thu thuế lOMoAR cPSD| 61630929
nội địa áp dụng phù hợp với các quy định của điều khoản này và các khoản trợ cấp thực hiện thông qua việc chính
phủ mua các sản phẩm nội địa. 9.
Các bên ký kết thừa nhận rằng các biện pháp kiểm soát giá tối đa, dù rằng tuântheo đúng các quy định
khác của điều khoản này, có thể có làm tổn hại tới quyền lợi của bên ký kết cung cấp hàng nhập. Do vậy, các bên
ký kết áp dụng các biện pháp kiểm soát giá tối đa sẽ cân nhắc đến quyền lợi của bên ký kết là bên xuất khẩu nhằm
hạn chế tối đa trong khuôn khổ các biện pháp có thể tực hiện được các tác động bất lợi đó. 10.
Các quy định của Điều này không ngăn cản các bên ký kết định ra hay duy trì cácquy tắc hạn chế số lượng
nội địa liên quan tới số lượng phim trình chiếu áp dụng theo đúng các quy định của Điều IV.
- Điều VI Hiệp định về thương mại dịch vụ - GAST
Điều 6. Các quy định trong nước 1.
Trong những lĩnh vực đã cam kết cụ thể, mỗi Thành viên phải đảm bảo rằng tất cả cácbiện pháp áp dụng
chung tác động đến thương mại dịch vụ được quản lý một cách hợp lý, khách quan và bình đẳng. 2.
(a) Ngay khi có thể, mỗi Thành viên phải duy trì hoặc thành lập các tòa án tư pháp,trọng tài hoặc tòa án
hành chính hoặc thủ tục để xem xét nhanh chóng và đưa ra các biện pháp khắc phục đối với các quyết định hành
chính có tác động đến thương mại dịch vụ theo yêu cầu của nhà cung cấp dịch vụ chịu tác động. Khi những thủ tục
này không độc lập với cơ quan có thẩm quyền đưa ra quyết định hành chính có liên quan, Thành viên này phải
đảm bảo rằng các thủ tục trên thực tế được xem xét một cách khách quan và bình đẳng. (b) Các quy định của điểm
(a) không được hiểu là nhằm yêu cầu các Thành viên phải thành lập những tòa án hoặc thủ tục trái với thể chế
hoặc bản chất hệ thống pháp luật của Thành viên đó. 3.
Trong trường hợp thủ tục phê duyệt được yêu cầu đối với việc cung cấp một dịch vụ đãcó cam kết cụ thể
thì sau khi nhận được đơn xin cấp phép được coi là đầy đủ theo quy định của pháp luật trong nước, cơ quan có
thẩm quyền của một Thành viên sẽ thông báo cho người nộp đơn về quyết định của mình trong khoảng thời gian
hợp lý. Nếu người nộp đơn có yêu cầu, cơ quan có thẩm quyền của Thành viên đó sẽ phải cung cấp không chậm
trễ thông tin về hiện trạng của đơn xin phép. 4.
Nhằm đảm bảo để các biện pháp liên quan tới yêu cầu chuyên môn, thủ tục, tiêu chuẩnkỹ thuật và yêu
cầu cấp phép không tạo ra những trở ngại không cần thiết cho thương mại dịch vụ, thông qua những cơ quan thích
hợp có thể được thành lập, Hội đồng Thương mại Dịch vụ sẽ phát triển bất kỳ nguyên tắc cần thiết nào. Những
nguyên tắc đó nhằm đảm bảo rằng các yêu cầu này:
(a) dựa trên những tiêu chí khách quan và minh bạch, như năng lực và khả năng cung cấpdịch vụ;
(b) không phiền hà hơn mức cần thiết để đảm bảo chất lượng dịch vụ;
(c) trong trường hợp áp dụng thủ tục cấp phép, không trở thành hạn chế về cung cấp dịchvụ.
5. (a) Trong những lĩnh vực mà Thành viên đã cam kết cụ thể, thì trong thời gian chưa áp dụng các nguyên tắc được
đề ra trong những lĩnh vực này phù hợp với khoản 4, Thành viên đó không được áp dụng các yêu cầu về cấp phép
và chuyên môn và các tiêu chuẩn kỹ thuật làm vô hiệu hoặc giảm bớt mức cam kết đó theo cách thức:
(i) không phù hợp với các tiêu chí đã được nêu tại điểm 4(a), (b) hoặc (c); và
(ii) tại thời điểm các cam kết cụ thể trong các lĩnh vực đó được đưa ra, các Thành viên đãkhông có ý định áp dụng các biện pháp này
(b) Khi xác định liệu một Thành viên có tuân thủ các nghĩa vụ quy định tại điểm5(a) hay không, cần tính đến các
tiêu chuẩn của các tổ chức quốc tế liên quan[3] được Thành viên đó áp dụng. lOMoAR cPSD| 61630929
6. Trong những lĩnh vực có các cam kết cụ thể liên quan đến dịch vụ nghề nghiệp, mỗi Thành viên phải quy định
những thủ tục phù hợp để kiểm tra năng lực chuyên môn của người cung cấp dịch vụ chuyên nghiệp của các Thành
viên khác. - Điều III hiệp định TRIPs Điều 3 Đãi ngộ quốc gia 1.
Mỗi Thành viên phải chấp nhận cho các công dân của các Thành viên khác sự đối xửkhông kém thiện chí
hơn so với sự đối xử của Thành viên đó đối với công dân của mình trong việc bảo hộ sở hữu trí tuệ[3], trong đó có
lưu ý tới các ngoại lệ đã được quy định tương ứng trong Công ước Paris (1967), Công ước Berne (1971), Công ước
Rome và Hiệp ước về sở hữu trí tuệ đối với mạch tích hợp. Đối với những người biểu diễn, người sản xuất bản ghi
âm và các tổ chức phát thanh truyền hình, nghĩa vụ này chỉ áp dụng với các quyền được quy định theo Hiệp định
này. Bất kỳ Thành viên nào sử dụng các quy định tại Điều 6
Công ước Berne và khoản 1(b) Điều 16 Công ước Rome cũng phải thông báo như đã nêu trong các điều khoản nói
trên cho Hội đồng TRIPS. 2.
Các Thành viên chỉ có thể sử dụng các ngoại lệ nêu tại khoản 1 liên quan đến các thủtục xét xử và hành
chính, kể cả việc chỉ định địa chỉ dịch vụ hoặc bổ nhiệm đại diện trong phạm vi quyền hạn của một Thành viên, nếu
những ngoại lệ đó là cần thiết để bảo đảm thi hành đúng các luật và quy định không trái với các quy định của Hiệp
định này và nếu cách tiến hành các hoạt động đó không là một sự hạn chế trá hình hoạt động thương mại.
2.3 Nội dung nguyên tắc đối xử quốc gia
Hàng hóa nhập khẩu và hàng hóa tương tự sản xuất trong nước phải được đối xử công bằng, bình đẳng như nhau:
hàng nhập khẩu không phải chịu sự đối xử kém thuận lợi hơn so với sự đối xử dành cho các sản phẩm nội địa tương
tự liên quan đến luật lệ, điều kiện vận chuyển, phân phối và sử dụng; các thành viên không thể áp dụng thuế hay
các khoản thu nội địa khác theo cách nhằm tạo ra sự phân biệt đối xử giữa hàng hóa nhập khẩu với hàng hóa trong nước
2.4 Ngoại lệ nguyên tắc đối xử quốc gia
+ Theo quy định của GATT, nguyên tắc này tồn tại một số ngoại lệ sau: cung cấp các khoản tiền trợ cấp đối với người
sản xuất trong nước; phân bổ thời gian chiếu phim; mua sắm của chính phủ
+ Theo GATS, ngoại lệ: trong thương mại dịch vụ, các nước phải dành cho dịch vụ và các nhà cung cấp của nước
khác thuộc các lĩnh vực ngành nghề đã được mỗi nước đưa vào danh mục cam kết cụ thể của mình những ưu đãi
không kém hơn những ưu đãi mà nước đó dành cho dịch vụ và nhà cung cấp nước mình
+ Theo TRIPs; trong lĩnh vực sở hữ trí tuệ, các nước dành cho công dân nước khác những ưu đãi không kém công dân nước mình.
Ví dụ về nguyên tắc đối xử quốc gia
Ở quốc gia A, sản phẩm thuốc lá phải chịu thuế tiêu thụ đặc biệt. Tuy nhiên quốc gia A có sự đối xử phân biệt giữa
thuốc lá trong nước và thuốc lá nhập khẩu. Cụ thể: với thuốc lá trong nước phải chịu mức thuế tiêu thụ đặc biệt là
35%, thuốc lá nhập khẩu phải chịu thuế tiêu thụ đặc biệt là 75%. Như vậy, quốc gia A đang có phần bảo hộ hơn cho
sản phẩm thuốc lá nội địa
Theo quy định tại Khoản 2 Điều III hiệp định GATT 1994 về thuế và lệ phí trong nước: Các nước thành viên không
được phép đánh thuế và các lệ phí đối với sản phẩm nhập khẩu cao hơn sản phẩm nội địa cùng loại; Các nước lOMoAR cPSD| 61630929
thành viên không được phép áp dụng thuế và lệ phí trong nước đối với sản phẩm nhập khẩu hoặc sản phẩm nội
địa theo phương pháp nào đó nhằm bảo hộ sản xuất trong nước. Hành vi quy định hai mức thuế tiêu thụ dặc biệt
với cùng sản phẩm thuốc lá của quốc gia A đã vi phạm quy định tại khoản 2 Điều III của GATT
1994. Như vậy, quốc gia A đã vi phạm nguyên tắc đối xử quốc gia
3. Nguyên tắc mở cửa thị trường
Các nguyên tắc cơ bản của thương mại quốc tế sẽ là quan điểm, tư tưởng xuyên suốt toàn bộ hệ thống các quy
phạm của Luật Thương mại quốc tế. Vậy các nguyên tắc cơ bản của Luật Thương mại quốc tế là gì?
3.1 Nguyên tắc mở cửa thị trường là gì?
Nguyên tắc ''mở cửa thị trường'' hay còn gọi là tiếp cận thị trường thực chất là mở cửa thị trường cho hàng hoá,
dịch vụ và đầu tư nước ngoài. Trong một hệ thống thương mại đa phương, khi tất cả các bên tham gia đều chấp
nhận mở cửa thị trường của mình thì điều đó đồng nghĩa với việc tạo ra một hệ thống thương mại toàn cầu mở cửa.
3.2 Cơ sở pháp lý nguyên tắc mở cửa thị trường
Điều XVI hiệp định GATS.
3.3 Nội dung nguyên tắc mở cửa thị trường
Thông qua các cuộc đàm phán, các nước đưa ra cam kết về mở cửa thị trường nội địa và mức độ mở cửa trong các
lĩnh vực cụ thể. Mở cửa thị trường được thể hiện qua các cam kết sau:
Cấm áp dụng biện pháp hạn chế về số lượng:
Hạn chế về số lượng là một trong các biện pháp được sử dụng để bảo vệ ngành sản xuất trong nước chống lại sự
cạnh tranh của hàng nhập khẩu.
Đây là rào cản mà các nước xuất khẩu không thể vượt qua. Các nước xuất khẩu sẽ không thể tăng số lượng xuất
khẩu vượt quá hạn ngạch đã cho phép. Hơn nữa khi nước nhập khẩu áp dụng biện pháp hạn chế số lượng thì số
lượng và đối tượng hạn chế lại hoàn toàn tùy thuộc vào nước nhập khẩu và thường không minh bạch cho nên có
nhiều khả năng là nước xuất khẩu sẽ bị phân biệt đối xử.
Vì là rào cản trực tiếp đối với thương mại quốc tế, nên hạn chế về số lượng là biện pháp đi ngược lại mục tiêu mở
rộng tự do hóa thương mại của GATT/WTO và nó bị cấm áp dụng. Theo quy định tại Điều 11 GATT 1994:các nước
thành viên không được phép thiết lập mới hay duy trì việc cấm và hạn chế về xuất nhập khẩu sản phẩm bằng hạn
ngạch giấy phép hay bất cứ biện pháp nào khác loại trừ thuế quan và lệ phí.
Ngoại lệ của cam kết cấm áp dụng biện pháp hạn chế về số lượng khi ngành sản xuất trong nước bị hoặc có nguy
cơ bị thiệt hại nghiêm trọng do sự gia tăng ồ ạt của hàng nhập khẩu cùng lọai. Trong trường hợp này hạn chế về số
lượng được cho phép áp dụng như là biện pháp tự vệ trong một thời hạn nhất định để ngăn chặn thiệt hại hoặc
để cứu ngành sản xuất trong nước (Điều XIX GATT). Hoặc khi một nước thành viên được cho phép áp dụng biện
pháp trả đũa đối với nước thành viên khác vì không tuân thủ nghĩa vụ của WTO thì hạn chế nhập khẩu cũng được
cho phép áp dụng trong một chừng mực nhất định (khoản 2 điều XXIII). Hạn chế về số lượng cũng được phép áp
dụng đối với mục đích bảo vệ cán cân thanh toán quốc tế của một nước thành viên (Khoản 2 Điều XVIII). Hay khi
được miễn trừ thực hiện nghĩa vụ nào đó (điều XXV) ngoài ra hạn chế số lượng còn được áp dụng với các lý do lOMoAR cPSD| 61630929
như bảo vệ sức khỏe của con người, động vật, an ninh quốc phòng, lương thực,... (Điều XX, XXI). Tuy vậy, GATT
cũng quy định rằng khi áp dụng hạn chế số lượng các nước phải tuân theo nguyên tắc không phân biệt đối xử (điều XIII)
Giảm và tiến tới xóa bỏ hàng rào thuế quan:
Tổ chức thương mại thế giới chỉ cho phép các nước thành viên áp dụng thuế quan như là một biện pháp gián tiếp
và duy nhất để bảo hộ sản xuất trong nước.
Thông thường các quốc gia thành viên sẽ tiến hành đàm phán với nhau về việc giảm và tiến tới xóa bỏ hàng rào
thuế quan ba năm một lần, kết quả của các đàm phán này sẽ được áp dụng cho các nước thành viên khác theo
nguyên tắc đối xử tối huệ quốc. Sau ba năm kết quả đó có thể được gia hạn tiếp hoặc các quốc gia tiến hành đàm
phán lại và nó có giá trị bắt buộc với các nước thành viên
Kết quả đàm phán này được ghi trong biểu thuế suất nhượng bộ trong đó ghi rõ cam kết của từng nước theo Danh
mục hàng mã thuế và thuế suất cam kết (khoản 7 điều II) Căn cứ để các nước thành viên dựa vào để sửa đổi hoặc
hủy bỏ nhượng bộ về thuế suất:
Thứ nhất, khi kết thúc thời hạn 3 năm thực hiện đề xuất nhượng bộ (Khoản 1 điều XXVIII); hoặc trong thời gian này
có hoàn cảnh đặc biệt được đại hội đồng các nước thành viên thừa nhận ( khoản 4 Điều XXVIII):
Thứ hai, việc gia nhập đồng minh thuế quan. (Khoản 8 Điều XXIV GATT 1994) Thứ ba, các nước thành viên có thể
sửa đổi, hủy bỏ thuế xuất hiện bộ trong các trường hợp như thực hiện biện pháp khẩn cấp khi nhập khẩu tăng đột
biến (Điều XIX GATT), trường hợp đặc biệt của các nước đang phát triển (Điều XVIII) đã đàm phán về thuế suất
nhượng bộ với một nước sinh ra nhập WTO nhưng sau đó lại không trở thành thành viên của WTO, hoặc khi một
nước thành viên của WTO rút khỏi tổ chức này. Xóa bỏ các hàng rào phi thuế quan
Mặc dù, mức thuế quan của các nước đã giảm đi đáng kể qua các vòng đàm phán nhưng thay vào đó các hàng rào
phi thuế quan lại được các nước áp dụng nhiều hơn để hạn chế nhập khẩu và nó đồng nghĩa với việc cản trở tự do
hóa thương mại quốc tế. Do đó giảm dần tiến tới xóa bỏ các biện pháp phi thuế quan ngày càng được chú trọng hơn trong WTO.
3.4 Ví dụ về nguyên tắc mở cửa thị trường
Đối với dịch vụ hàng không, cam kết về mở cửa thị trường của quốc gia A liên quan đến phương thức hiện diện
thương mại của nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài bao gồm các điều kiện: chỉ được tham gia vào thị trường nước A
dưới hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh hoặc liên doanh với đối tác nước A đã được cấp phép cung cấp các
dịch vụ này tại nước A; và phần vốn góp của phía nước ngoài không được vượt quá 52% vốn pháp định của liên
doanh. Như vậy, quốc gia A đã thực hiện nguyên tắc mở cửa thị trường dựa trên cam kết mà quốc gia A kí kết với
các quốc gia khác, cho phép cá nhân, pháp nhân nước ngoài được cung cấp dịch vụ hàng không tại nước A.
4. Nguyên tắc minh bạch Cơ sở pháp lý: • Hiệp định GATT •
Hiệp định GATS Nội dung:
nhằm đảm bảo điều kiện thuận lợi cho tự do hóa thương mại quốc tế, nguyên tắc minh bạch yêu cầu các nước
thành viên công bố sớm các biện pháp có liên quan đến hoặc tác động đến thương mại quốc tế, có nghĩa vụ thông
báo nhanh chống về luật lệ mới thông qua hoặc sửa đổi, các quyết định tư pháp, quyết định hành chính, chỉ đạo lOMoAR cPSD| 61630929
hành chính có liên quan đến hoặc tác động đến thương mại quốc tế cho các cơ quan giám sát việc thực hiện các
hiệp định thương mại đa phương của WTO, có nghĩa vụ nhanh chóng cung cấp thông tin về các biện pháp nêu trên
khi được các nước thành viên khác yêu cầu.
Các chính sách và quy định pháp luật phải rõ ràng, dễ tiếp cận và ổn định. việc rà soát các chính sách thương mại
này sẽ được Tổ chức thương mại thế giới WTO rà soát định kì
+ Ví dụ về nguyên tắc minh bạch
Quốc gia A đã kí cam kết mở cửa thị trường với lĩnh vực hàng không. Quá trình xây dựng và bạn hành chính sách
liên quan đến lĩnh vực hàng không của quốc gia A được thực hiện theo một quy trình minh bạch, đơn giản đến
mức cao nhất có thể. Các loại chính sách, quy định này được công bố công khai trên các phương tiện thông tin đại
chúng để mọi công dân, thể nhân trong và ngoài nước có thể tiếp cận một cách thuận lợi nhất và nhanh chóng
nhất. Như vậy, quốc gia A đã tuân thủ nguyên tắc minh bạch.
5. Nguyên tắc thương mại công bằng
Nguyên tắc thương mại công bằng được hiểu là thương mại quốc tế được tiến hành trong điều kiện cạnh tranh bình đẳng như nhau
Mục tiêu mà tổ chức thương mại thế giới luôn hướng tới là mở rộng thương mại quốc tế thông qua các quy định
và loại bỏ các hạn chế về số lượng, cắt giảm thuế quan và để các nước thành viên được hưởng các ưu đãi từ các quy định đó.
Tuy nhiên, đôi khi các quy định này cũng bị bóp méo làm mất tính chất lành mạnh ban đầu của nó như điều kiện
cạnh tranh giữa các nước thành viên bị thay đổi. Trong trường hợp áp dụng chính sách trợ cấp xuất khẩu sẽ có thể
làm cho giá của mặt hàng được hường trợ cấp đó thấp hơn giá hàng cùng loại của nước nhập khẩu hay của nước
thứ ba không được trợ cấp hoặc bán phá giá trên thị trường nước ngoài sẽ có thể khiến cho hàng nội địa hoặc
hàng cùa nước thứ ba mất khả nãng cạnh tranh về giá, dẫn đến thiệt hại vật chất cho ngành sản xuất của nước đó.
Ngoài ra, các biện pháp phi thuế quan của các nước như: tùy tiện định giá để đánh thuế quan ở mức cao, tùy tiện
đưa ra các quy định vể tiêu chuẩn sản phẩm: điều kiện vệ sinh, về kiểm tra sản phẩm trước khi đưa xuống tàu,...
sẽ tạo ra các rào cản đối với hàng nhập khẩu, làm cho sản phàm của nước áp dụng các biên pháp này có được ưu
thế cạnh tranh hơn và như vậy là gián tiếp bảo hộ cho các ngành sản xuất trong nước.
Để giảm thiểu các vấn đề như trên, hiệp định GATT 1947 đã đưa ra các quy định liên quan đến áp dụng các biện
pháp phi thuế quan này bằng một loạt các đạo luật nhằm đảm bảo các điéu kiên cạnh tranh công bằng trong
thương mại quốc tế. Theo quy định tại Phụ lục 1A: "Các hiệp định đa phương về thương mại hàng hoá" của "Hiệp
định Marrakesh thành lập WTO" ra dời năm 1995, gồm các hiệp định sau:
- Hiệp định chống bán phá giá và thuế đối kháng
- Hiệp định về trợ cấp và biện pháp đối kháng
- Hiệp định về các biện pháp tự vệ
- Hiệp định về định giá hải quan
- Hiệp định kiểm tả sản phẩm trước khi xuống tàu
- Hiệp định về các rào cản kỹ thuật đối với thương mại
- Hiệp định về biện pháp vệ sinh dịch tễ
- Hiệp định về thủ tục cấp giấy phép nhập khẩu lOMoAR cPSD| 61630929
* Ví dụ về nguyên tắc thương mại công bằng thông qua hiệp định chống bán phá giá
Quốc gia A có mặt hàng nông sản là gạo LM bán với mức giá 25.000đ/kg, nước A đã xuất khẩu gạo sang nước B và
bán với giá 15.000đ/kg. Trong trường hợp này gạo LM đã bị bán phá giá từ nước A sang nước B
Theo quy định tại Điều VI của GATT quy định thì: việc sản phẩm của một nước được đưa vào kinh doanh thương
mại trên thị trường của một nước khác với giá thấp hơn giá trị thông thường của sản phẩm, phải bị xử phạt nếu
việc đó gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại đáng kể cho một ngành sản xuất trên lãnh thổ của một bên ký kết hay
thực sự làm chậm chễ sự thành lập một ngành sản xuất trong nước. Việc quốc gia A đưa ra mức giá thấp hơn rất
nhiều so với giá trị thông thường của sản phẩm như vậy sẽ gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể cho ngành
sản xuất gạo nội địa của quốc gia B. Như vậy, quốc gia A đã vi phạm Điều VI của GATT- vi phạm nguyên tắc thương mại công bằng.
III/ Các ngoại lệ và miễn trừ:
Ngoại lệ trong WTO và các quy định của Việt Nam
Ngoại lệ của WTO được hiểu là trong một số trường hợp cho phép các nước thành viên được làm khác đi so với các nguyên tắc cơ bản của
WTO nhưng phải đảm bảo phù hợp với quy định của Tổ chức thương mại thế giới nhằm bảo đảm chủ quyền, an ninh, đạo đức, sức khoẻ
của con nguời, bảo vệ các nguồn tài nguyên thiên nhiên quý hiếm, bảo đảm cán cân thanh toán.
Ngoại lệ của WTO được hiểu là trong một số trường hợp cho phép các nước thành viên được làm khác đi so với các nguyên
tắc cơ bản của WTO nhưng phải đảm bảo phù hợp với quy định của Tổ chức thương mại thế giới nhằm bảo đảm chủ quyền,
an ninh, đạo đức, sức khoẻ của con nguời, bảo vệ các nguồn tài nguyên thiên nhiên quý hiếm, bảo đảm cán cân thanh toán.
Ngoại lệ đã được đặt ra trong quá trình đàm phán và xây dựng các văn kiện của Tổ chức Thương mại Thế giới, đặc biệt được
chú trọng trong các lĩnh vực thương mại quốc tế và quy định tại các văn kiện của WTO trong 3 lĩnh vực thương mại hàng hóa,
thương mại dịch vụ và sở hữu trí tuệ. Ngoài ra, còn có các ngoại lệ giành riêng cho các nước đang phát triển. Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT 1994)
Hiệp định chung về thuế quan và thương mại 1994 dành một số ngoại lệ cho các Thành viên để đáp ứng yêu cầu về đảm bảo
an ninh, lợi ích quốc phòng, bảo vệ các giá trị văn hoá, tinh thần của dân tộc, truyền thống lịch sử, bảo vệ sức khoẻ con người,
động vật, thực vật và môi trường, di sản quốc gia, tài nguyên quý hiếm, ngăn chặn gian lận thương mại, bảo đảm an ninh tài
chính, tiền tệ quốc gia, liên quan đến các sản phẩm lao động của tù nhân, chính sách độc quyền, bảo hộ bản quyền, nhãn hiệu
thương mại, duy trì hoà bình và an ninh thế giới, tình hình tài chính đối ngoại và cán cân thanh toán, mua sắm nhằm mục đích
cho tiêu dùng của Chính phủ và chi trả các khoản trợ cấp. Đây là những vấn đề cực kỳ quan trọng, ảnh hưởng đến an ninh và sự
phát triển kinh tế của mỗi nước. Các quy định của WTO là bắt buộc nhưng cũng có những ngoại lệ riêng, theo đó các Thành
viên có thể áp dụng các biện pháp trái với quy tắc đối xử tối huệ quốc và đối xử quốc gia trong phạm vi cho phép khi thực
thi nghĩa vụ của mình.
Điều XX quy định việc áp dụng các ngoại lệ chung không được tạo ra sự phân biệt đối xử phi lý giữa các nước có điều kiện
như nhau hay hạn chế, ngăn cản thương mại quốc tế.
Áp dụng các ngoài lệ trái với quy tắc không phân biệt đối xử trong trường hợp cần thiết: bảo vệ đạo đức công cộng; bảo vệ
cuộc sống và sức khoẻ con người, động vật hay thực vật; liên quan đến việc xuất hoặc nhập khẩu vàng và bạc; liên quan đến
các sản phẩm sử dụng lao động của tù nhân; bảo đảm sự tôn trọng pháp luật và các quy tắc không trái với các quy định về
áp dụng các biện pháp hải quan, duy trì hiệu lực của chính sách độc quyền, bảo hộ bản quyền, nhãn hiệu thương mại, quyền
tác giả và các biện pháp ngăn ngừa gian lận thương mại; di sản quốc gia; gìn giữ nguồn tài nguyên có thể bị cạn kiệt.
Điều XXI quy định về việc các bên không có nghĩa vụ phải cung cấp những thông tin ảnh hưởng đến an ninh quốc gia;
quyền áp dụng các biện pháp để bảo vệ các quyền lợi thiết yếu tới an ninh của mình; có những biện pháp thực thi các cam kết
nhân danh Hiến chương Liên hiệp Quốc nhằm duy trì hoà bình và an ninh quốc tế.
Điều XII - Hạn chế để bảo vệ cán cân thanh toán: để bảo vệ tình hình tài chính đối ngoại và cán cân thanh toán, có thể hạn
chế số lượng hay giá trị hàng hoá cho phép nhập khẩu với điều kiện các hạn chế nhập khẩu không vượt quá mức cần thiết để
ngăn ngừa mối đe doạ hay ngăn chặn sư suy giảm nghiêm trọng dự trữ ngoại hối hay để nâng dự trữ ngoại hối lên một mức
hợp lý. Các bên khi áp dụng quy định này cam kết tránh gây tổn hại không cần thiết cho quyền lợi thương mại, kinh tế và không
áp dụng các hạn chế nhằm ngăn ngừa bất hợp lý việc nhập khẩu bất kỳ sản phẩm nào có số lượng thương mại tối thiểu dẫn đến
làm đảo lộn các kênh thương mại bình thường. Khoản 8 Điều 3:
Đãi ngộ quốc gia trong thương mại hàng hoá không áp dụng đối với trường hợp các cơ quan Chính phủ mua sắm nhằm
mục đích cho tiêu dung của Chính phủ và chi trả các khoản trợ cấp chỉ dành cho các nhà sản xuất nội địa hay hạn chế số lượng
nội địa liên quan đến số lượng phim trình chiếu.
Pháp luật hiện hành của Việt Nam đã nội luật hóa những ngoại lệ này và về cơ bản là phù hợp với GATT, cụ thể là tại Pháp lOMoAR cPSD| 61630929
lệnh đối xử tối huệ quốc và đối xử quốc gia trong thương mại hàng hoá đã quy định rằng, để bảo đảm lợi ích quốc phòng,
an ninh quốc gia, bảo vệ các giá trị văn hoá, tinh thần của dân tộc thì không áp dụng đối xử tối huệ quốc và đối xử quốc gia,
không áp dụng nguyên tắc này với cả những nước tiến hành hoặc tham gia tiến hành các hoạt động chống lại độc lập, chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ngoài ra, Luật doanh nghiệp và Luật
An ninh quốc gia cũngcấm các hoạt động kinh doanh gây phương hại đến quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, truyền
thống lịch sử, văn hoá, đạo đức, thuần phong mỹ tục, quy định các biện pháp cần thiết bảo vệ an ninh quốc gia v..v, những quy
định này là hoàn toàn phù hợp, vừa bảo vệ được quyền lợi thiết thực của quốc gia vừa đảm bảo đảm thực thi các cam kết.
Đối với ngoại lệ liên quan đến việc xuất nhập khẩu vàng và bạc được quy định tại Pháp lệnh về ngoại theo đó Chính phủ có thẩm
quyền trong việc hạn chế mua, mang, chuyển, thanh toán đối với các giao dịch trên tài khoản vãng lai, tài khoản vốn để bảo
đảm an ninh tài chính, tiền tệ quốc gia. Việc quản lý hoạt động xuất nhập khẩu vàng và bạc được quy định tại Điều 31: Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam quản lý hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu vàng dưới dạng khối, thỏi, hạt, miếng của tổ chức tín dụng
và các tổ chức được phép kinh doanh vàng.
Đối với các ngoại lệ để duy trì hiệu lực của chính sách độc quyền, bảo hộ bản quyền, nhãn hiệu thương mại, quyền tác giả và
các biện pháp ngăn ngừa gian lận thương mại thì Việt Nam đã có một loạt văn bản quan trọng điều chỉnh các vấn đề này. Ví dụ,
theo quy định của Luật Hải quan thì có thể kiểm tra thực tế hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu trong khi vắng mặt người khai hải
quan, hay theo Điều 4 Luật Thương mại thì Nhà nước thực hiện độc quyền Nhà nước có thời hạn về hoạt động thương mại đối
với một số hàng hóa, dịch vụ hoặc tại một số địa bàn hay Điều 31 và 77 Luật Thương mại cũng có quy định về việc áp dụng các
biện phápkhẩn cấp đối với hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế hay áp dụng biện pháp khẩn cấp đối với hoạt động cung ứng
hoặc sử dụng dịch vụ; theo Luật Sở hữu trí tuệ thì Nhà nước chỉ bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong một số trường hợp... Nhìn
chung, những quy định này là khá phù hợp với GATT.
2 là giải thích một số ví dụ về phát triển về luật kinh tế quốc tế trong thời gian gần đây, ngoại lệ của hiệp
định Marrakesh có các FTA, (tạo ra các văn bản hợp tác thương mại mới) và hiệp định thương mại song
phương và đa phương mới cho phép các quốc gia tham khảo nhiều hướng phát triển kinh tế quốc tế dựa
trên lợi thế cạnh tranh, và các mảng luật mới như IP, luật lao động, luật nhân quyền,v.v cũng được tích
hợp vào trong nội dung của FTA.
Miễn trừ thì giống như một lý thuyết xưa hơn, khi mà các quốc gia có thể bảo vệ mình trước các chính
sách và hành vi cạnh tranh thiếu lành mạnh của họ thông qua nguyên tắc state immunity. Và nếu muốn
các hành vi rơi vào nhóm ngoại lệ, hay miễn trừ đc chấp nhận, các quốc gia thành viên của WTO phải
đề đạt thông báo với các thành viên khác của WTO và thông qua biểu quyết của Hội đồng Bộ trưởng
hoặc Đại hội đồng, để các phương án chính sách kinh tế của nước họ được chấp thuận, hoặc bị từ chối.
Quyền miễn trừ quốc gia là gì?
Trong luật quốc tế, có ba nhóm đối tượng được miễn trừ khỏi thẩm quyền của một quốc gia khác:
Quốc gia, Tổ chức quốc tế liên chính phủ, và người đại diện của họ (nhân viên ngoại giao, lãnh sự,
nhân viên của tổ chức quốc tế,…).
Quyền miễn trừ quốc gia là quyền bảo đảm cho một quốc gia không phải chịu sự điều chỉnh của
thẩm quyền của một quốc gia khác, bao gồm cả thẩm quyền lập pháp, hành pháp hay tư pháp. Trên
thực tế, thường phát sinh hai trường hợp viện dẫn quyền miễn trừ quốc gia. Thứ nhất, quyền miễn
trừ quốc gia đối với thẩm quyền xét xử của các tòa án của một quốc gia khác trong các vụ việc mà
quốc gia là một bên. Thứ hai là trường hợp viện dẫn quyền miễn trừ quốc gia để ngăn cản việc thực
thi các biện pháp chống lại tài sản của một quốc gia, ví dụ như yêu cầu phong tỏa hay tịch thu tài
sản của sứ quán một nước để bồi thường theo quyết định của một tòa án quốc gia. Quyền miễn trừ
quốc gia, cũng như quyền miễn trừ ngoại giao, lãnh sự, xuất phát từ nguyên tắc bình đẳng chủ
quyền – một trong các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế. Theo nguyên tắc bình đẳng chủ quyền,
mọi quốc gia đều bình đẳng về mặt pháp lý. Không một quốc gia nào có quyền xét xử một quốc gia
khác tại tòa án của mình hay cưỡng chế thi hành các quyết định đối với một quốc gia khác, trừ khi
có sự đồng ý của quốc gia đó. Quyền miễn trừ là ngoại lệ đối với chủ quyền của quốc gia sở tại.
2. Nguồn của quyền miễn trừ quốc gia là gì? lOMoAR cPSD| 61630929
Quyền miễn trừ quốc gia tồn tại trong tập quán quốc tế, ràng buộc tất cả các quốc gia. Chỉ có một
số ít các điều ước ghi nhận quyền này (vì có thể không cần thiết khi quy định tập quán đã đầy đủ để
thực thi). Ví dụ như Công ước Liên hợp quốc tế về Quyền miễn trừ thẩm quyền của quốc gia và tài
sản quốc gia năm 2004. Công ước này hiện chưa có hiệu lực. Lời nói đầu của Công ước năm 2004
ghi nhận quyền miễn trừ quốc gia và tài sản quốc gia “được chấp nhận rộng rãi như một nguyên tắc
của luật tập quán quốc tế”. Bên cạnh mục đích pháp điển hóa, Công ước còn hướng đến “phát triển
luật pháp quốc tế và hài hòa thực tiễn trong lĩnh vực này.” Như vậy, các quy định của Công ước là
sự hòa trộn giữa quy định tập quán đã tồn tại, và những quy định được phát triển mới. Một điều ước
khác cũng liên quan đến quyền miễn trừ quốc gia là Công ước châu Âu về Quyền miễn trừ Quốc gia năm 1972.
Như sẽ đề cập bên dưới, hiện nay tồn tại hai quan điểm về quyền miễn trừ quốc gia: quyền miễn
trừ tuyệt đối và quyền miễn trừ hạn chế. Không ai phủ nhận giá trị pháp lý của quyền miễn trừ trong
luật quốc tế, tuy nhiên, vẫn còn chưa rõ ràng liệu quyền miễn trừ này tồn tại trong tập quán là quyền
theo quan điểm nào nêu trên. Đa số các quốc gia hiện nay có xu hướng chấp nhận quan điểm quyền
miễn trừ hạn chế. Công ước Liên hợp quốc năm 2004 cũng ủng hộ quyền miễn trừ hạn chế. Công
ước quy định rõ quyền miễn trừ quốc gia không thể viện dẫn trong các trường hợp một loạt các
trường hợp. Mặc dù vậy, khó có thể xác định chắc chắn rằng cách tiếp cận này đã trở thành một
quy định tập quán quốc tế, qua đó, loại bỏ hoàn toàn quyền miễn trừ tuyệt đối.
3. Bản chất thủ tục của quyền miễn trừ quốc gia
Trong phán quyết năm 2012 của Vụ Quyền miễn trừ tài phán của Quốc gia giữa Đức và Ý, Tòa ICJ đã
khẳng định rằng quyền miễn trừ quốc gia có tính chất thủ tục và điều chỉnh vấn đề liệu tòa án của
một quốc gia có thẩm quyền đối với một quốc gia khác hay không. Quyền miễn trừ quốc gia là một
rào cản thủ tục (procedural obstacle) ngăn cản tòa án của một quốc gia được phép thực thi thẩm quyền
đối với một vụ việc chống lại một quốc gia khác. Với bản chất thủ tục như thế, quyền miễn trừ không
ảnh hưởng đến câu hỏi liệu một hành vi của một quốc gia trong vụ việc đó có hợp pháp hay không.
4. Hai cách tiếp cận về quyền miễn trừ quốc gia
Theo quan điểm cổ điển, quyền miễn trừ quốc gia là quyền tuyệt đối, bao quát tất cả mọi hành vi
của một quốc gia – quan điểm này thường được gọi là quyền miễn trừ tuyệt đối (absolute state
immunity). Ngược lại với quan điểm cổ điển trên, xu hướng hiện giờ của luật quốc tế cho thấy sự
ủng hộ đối với quyền miễn trừ hạn chế (restrictive immunity). Quyền miễn trừ chỉ áp dụng đối với các
hành vi chính phủ (governmental acts: acts iure imperii), và không áp dụng với các hành vi thương
mại của quốc gia (commercial acts: acts iure gestionis). Sự phân biệt có thể được chia thành hành vi
chủ quyền (sovereign acts) và hành vi phi chủ quyền (non-sovereign acts). Quan điểm ủng hộ quyền
miễn trừ hạn chế xuất phát từ thực tế các quốc gia ngày càng tham gia vào nhiều hoạt động kinh tế
cả trong nước lẫn nước ngoài. Đặc biệt, với sự xuất hiện ngày càng nhiều của của các cơ quan nhà
nước, tập đoàn nhà nước, các công ty quốc hữu hóa, mà quan điểm quyền miễn trừ tuyệt đối có
thể trao các tổ chức có yếu tố nhà nước này vị thế pháp lý cao hơn, áp đảo các tổ chức tư nhân.
Đối với quan điểm quyền miễn trừ tuyệt đối, không có sự phân biệt nào về hành vi của một quốc
gia. Mọi hành vi của một quốc gia, bất kể là vì mục đích công hay tư, đều được miễn trừ. Trong khi, lOMoAR cPSD| 61630929
theo quan điểm quyền miễn trừ hạn chế, quan trọng nhất là phân biệt giữa hành vi chủ quyền và
hành vi phi chủ quyền. Theo Điều 2(2) của Công ước Liên hợp quốc về Miễn trừ quốc gia năm 2004,
có hai yếu tố quan trọng cần xem xét đến để phân biệt giữa một giao dịch thương mại và một giao
dịch phi thương mại là bản chất của hành vi, và mục đích của hành vi. Trong đó, bản chất của hành
vi là yếu tốt chính yếu; mục đích của hành vi chỉ được xem xét đến khi dựa vào bản chất hành vi
đang được xem xét có vẻ là hành vi thương mại, phi chủ quyền. Điều 2(2) quy định mục đích của
giao dịch chỉ được xem xét đến trong trường hợp “các bên ký kết hợp đồng hay giao dịch đã đồng
ý như vậy, hoặc nếu phù hợp với thực tiễn của Quốc gia sở tại.”
Điều 2(1)(c) của Công ước quy định "giao dịch thương mại"(commercial transaction) bao gồm ba nhóm
hợp đồng, giao dịch sau:
+ Bất kỳ hợp đồng hay giao dịch thương lại vì mục đích mua bán hàng hóa hay cung ứng dịch vụ; +
Bất kỳ hợp đồng vay hay các giao dịch khác có bản chất tài chính, bao gồm bất kỳ nghĩa vụ bảo
đảm hay bồi thường liên quan đến các khoản vay hay giao dịch đó;
+ Bất kỳ hợp đồng hay giao dịch khác có bản chất thương mại, công nghiệp, mua bán hay nghề
nghiệp, nhưng không bào gồm hợp đồng thuê lao động.
Điều 2(2) của Công ước quy định thêm:
“Để xác định liệu một hợp đồng hay một giao dịch có phải là ‘một giao dịch thương mại’ theo khoản
1(c) hay không, cần xem xét chủ yếu đến bản chất của hợp đồng hay giao dịch đó, nhưng mục đích
cũng nên được xem xét đến nếu các bên giao kết hợp đồng hay giao dịch đồng ý, hoặc nếu, trong
thực tiễn của Quốc gia sở tại, mục đích đó là yếu tố có liên quan trong việc xác định tính chất phi-
thương mại của hợp đồng hay giao dịch.”
5. Công ước Liên hợp quốc về Miễn trừ Quốc gia năm 2004
Công ước này được Ủy ban Luật pháp Quốc tế dự thảo và được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông
qua ngày 02 tháng 12 năm 2004. Như vậy, khác với các điều ước đa phương khác do Liên hợp
quốc bảo trợ, Công ước về Quyền miễn trừ không các quốc gia trực tiếp đàm phán tại một hội nghị
ngoại giao. Chủ đề về quyền miễn trừ quốc gia được ILC đưa vào chương trình nghị sự từ năm
1977, và hoàn thành vào năm 1991 với dự thảo các điều khoản). Tuy nhiên, do năm 1991 khối xã
hội chủ nghĩa Liên Xô và Đông Âu bị tan rã khiến cho việc triệu tập một hội nghị ngoại giao không
còn thích hợp trong bối cảnh đó. Trong khi vẫn ủng hộ kiến nghị của ILC, Đại hội đồng mời các quốc
gia cho ý kiến về dự thảo và thành lập một nhóm làm việc để xem xét các ý kiến đó, bao gồm “các
vấn đề thực chất phát sinh từ dự thảo nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc ký kết thành công một
công ước thông qua thúc đẩy một thỏa thuận chung.” Có năm vấn đề còn nhiều ý kiến khác nhau
là: định nghĩa quốc gia, định nghĩa giao dịch thương mại, ngoại lệ với hợp đồng thuê lao động, vấn
đề về doanh nghiệp quốc doanh, và vấn đề về miễn trừ đối với các biện pháp hạn chế. Sau đó, dự
thảo được tiếp tục thảo luận trong khuôn khổ Đại hội đồng và Ủy ban 6. Công ước được thông qua
với một số sửa đổi nhỏ so với Dự thảo của ILC trước đó.
Nội dung chính của Công ước
Công ước giới hạn phạm vi điều chỉnh của mình trong trường hợp liên quan đến thẩm quyền của các
tòa án. Điều 1 quy định: lOMoAR cPSD| 61630929
“Công ước này áp dụng cho quyền miễn trừ của một Quốc gia và tài sản quốc gia khỏi thẩm quyền
của các tòa án của một Quốc gia khác.”
Tòa án được định nghĩa rộng bao gồm bất kỳ cơ quan của một Quốc gia có quyền thực thi chức năng
tư pháp, bất kể tên gọi của cơ quan đó. Một vụ việc trước tòa án được xem là vụ việc chống lại một
Quốc gia (Quốc gia trở thành một bên trong vụ việc) nếu: (a) Quốc gia đó được nêu tên là một bên
trong vụ việc, hoặc (b) dù không được nêu tên là một bên trong vụ việc nhưng thực tế vụ việc được
đệ trình nhằm đến tài sản, quyền, lợi ích hay hoạt động của quốc gia đó.
Quốc gia được định nghĩa theo hướng liệt kê, để tránh các tranh cãi không hồi kết về định nghĩa quốc
gia (xem thêm post này). Theo đó, Quốc gia được hiểu bao gồm: (1) Quốc gia và cơ quan nhà nước,
(2) các bang của quốc gia liên bang, các đơn vị chính trị của một Quốc gia có quyền thực thi thẩm
quyền quốc gia và đang thực thi thẩm quyền đó, (3) các cơ quan, tổ chức của một Quốc gia hay các
thực thể khác có quyền thực thi và thực sự đang thực thi thẩm quyền quốc gia, và (4) đại diện của
Quốc gia đang thực thi thẩm quyền đại diện.
Với định hướng ủng hộ quan điểm về quyền miễn trừ hạn chế, các điều khoản của Công ước chủ
yếu nhằm đặt ra các hạn chế cho quyền miễn trừ của các quốc gia. Khá nhiều điều khoản của Công
ước bắt đầu bằng “Một Quốc gia không thể viện dẫn quyền miễn trừ…”. Toàn bộ Phần III của Công
ước về Các vụ việc mà Quyền miễn trừ quốc gia không thể viện dẫn, bao gồm các Điều 10 (giao dịch
thương mại), Điều 11 (hợp đồng lao động), Điều 12 (thiệt hại cá nhân và tài sản), Điều 13 (quyền
sở hữu, chiếm hữu và sử dụng tài sản), Điều 14 (quyền sở hữu trí tuệ và công nghiệp), Điều 15
(quyền tham gia vào các công ty và các tổ chức tập thể khác), Điều 16 (tàu thuyền do quốc gia sở
hữu hoặc vận hành) và Điều 17 (tác động của thỏa thuận trọng tài). Các điều khoản trên xác định rõ
điều kiện để một quốc gia có thể viện dẫn hoặc không viện dẫn được quyền miễn trừ.
Phần IV dành riêng các Điều từ 18 đến 21 để điều chỉnh quyền miễn trừ trong trường hợp các biện pháp
hạn chế (measures of constraints) đối với tài sản quốc gia.
6. Quan điểm của Việt Nam
Trích dẫn giáo trình tư pháp quốc tế của Đại học Luật Hà Nội và Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà
Nội, tác giả Bành Quốc Tuấn cho rằng Việt Nam ủng hộ quyền miễn trừ tuyệt đối, và phê phán quan
điểm về quyền miễn trừ hạn chế. Giáo trình của Đại học Luật Hà Nội nhận định: “Nội dung thuyết
miễn trừ theo chức năng hoàn toàn trái với các nguyên tắc cơ bản của công pháp quốc tế cũng như
của tư pháp quốc tế, không có lợi cho việc thúc đẩy giao lưu dân sự quốc tế". Giáo trình của Khoa
Luật có nhận định tương tự:
“nội dung thuyết miện trừ theo chức năng hoàn toàn trái với các nguyên tắc cơ bản của công pháp
quốc tế cũng như của Tư pháp quốc tế. Pháp luật Việt Nam cũng như thực tiễn tư pháp Việt Nam
luôn luôn bảo đảm tôn trọng quyền miễn trừ tư pháp tuyệt đối của nhà nước nước ngoài bằng con
đường ngoại giao, trừ trường hợp nhà nước đó đồng ý tham gia tố tụng tại tòa án Việt Nam.”
Tác giả Bành Quốc Tuấn cho rằng quan điểm như trên là không còn phù hợp và cần thay đổi: Có
những trường hợp quyền miễn trừ tuyệt đối sẽ không bảo vệ tốt lợi ích của pháp nhân, thể nhân
Việt Nam khi tham gia vào quan hệ dân sự với các quốc gia khác, đông thời, còn gây bất lợi cho
Việt Nam. Theo Bành Quốc Tuấn, Đỗ Văn Đại và Mai Hồng Quỳ, quan điểm quyền miễn trừ tương lOMoAR cPSD| 61630929
đối đang ngày càng được ủng hộ hơn tại Việt Nam. Đối với các quan điểm nêu trên, có hai nhận xét quan trọng.
Thứ nhất, các tác giả thảo luận vấn đề trong khuôn khổ của tư pháp quốc tế. Vấn đề quyền miễn trừ
quốc gia là một vấn đề chồng lấn giữa công pháp quốc tế và tư pháp quốc tế: điều chỉnh tình huống
một quốc gia là một bên trong một vụ việc do một bên phi-quốc gia khởi kiện trước tòa án một quốc
gia khác. Bất kể tư pháp quốc tế Việt Nam ủng hộ quan điểm nào, Việt Nam vẫn chịu ràng buộc bởi
các quy định tập quán quốc tế về quyền miễn trừ quốc gia.
Thứ hai, xu hướng ủng hộ quyền miễn trừ tương đối ngày càng sâu rộng cho thấy dấu hiện quyền
miễn trừ tương đối đang hoặc sẽ dần hình thành một quy định tập quán. Việc duy trì quan điểm như
của Đại học Luật Hà Nội và Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội có thể phù hợp trong giai đoạn
hiện nay và trước đây, nhưng có nhiều khả năng sẽ đi ngược lại xu hướng của pháp luật quốc tế.
Thứ ba, đại diện Việt Nam tại Liên hợp quốc đã phát biểu quan điểm của Việt Nam ủng hộ cách tiếp
cận của Công ước năm 2004, và do đó, có thể hiểu là Việt Nam chấp nhận về mặt nguyên tắc quan
điểm quyền miễn trừ hạn chế. Đại diện Việt Nam phát biểu trong cuộc họp ngày 26 tháng 10 năm
2004 trước Ủy ban 6 của Đại hội đồng như sau:
“Việt Nam nhấn mạnh tầm quan trọng của vấn đề quyền miễn trừ tài phán của Quốc gia và tài sản
quốc gia và rằng dự thảo công ước về cơ bản là một văn kiện cân bằng. Dự thảo thể hiện tối đa
quan điểm của nhiều Quốc gia và các nhóm Quốc gia khác nhau. Việt Nam ủng hộ khuyến nghị […]
rằng Đại hội đồng nên thông qua dự thảo công ước. Một khi có hiệu lực, công ước sẽ tăng cường
tính pháp quyền và an toàn pháp lý và sẽ đóng góp vào việc pháp điển hóa và phát triển tiến bộ của
luật quốc tế cũng như hài hòa hóa thực tiễn quốc gia liên quan đến quyền miễn trừ tài phán.”
Tổng quan về cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO
Việt Nam được công nhận là thành viên DC khi gia nhập WTO năm 2007. Cho tới năm 2017, Việt Nam đã
tham gia tổng cộng 27 lần với tư cách là bên thứ ba và ba lần với tư cách là bên nguyên đơn vào hệ thống
giải quyết tranh chấp của WTO.
Mục lục bài viết
• 1.Hệ thống giải quyết tranh chấp - từ GATT đến WTO
• 2. Hiệp định về giải quyết tranh chấp của WTO (DSU)
• 3.Các cơ quan của WTO tham gia vào quá trình giải quyết tranh chấp
• 4 . Các bên tham gia vào hệ thống giải quyết tranh chấp
• 5 . Các phương thức giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ WTO
1.Hệ thống giải quyết tranh chấp - từ GATT đến WTO
Hệ thống giải quyết tranh chấp của WTO, được vận hành từ ngày 1/1/1995 đến nay, vốn không phải là hệ thống
mới. Thực chất, hệ thống này được xây dựng trên cơ sở hệ thống giải quyết tranh chấp của GATT 1947. Trong suốt
gần 50 năm trước khi WTO ra đời, hệ thống giải quyết tranh chấp của GATT 1947 được vận hành chỉ dựa trên hai
điều khoản ngắn gọn - Điều XXII và Điều XXIII GATT 1947, cùng với một số nguyên tắc cũng như thông lệ được hệ
thống hoá trong các quyết định và thoả thuận của các bên kí kết GATT 1947. Vì vậy, cũng dễ hiểu khi hệ thống giải lOMoAR cPSD| 61630929
quyết tranh chấp của GATT đã không thể đưa ra những thủ tục cụ thể để giải quyết các tranh chấp một cách hiệu
quả. Hơn thế nữa, hệ thống giải quyết tranh chấp của GATT 1947 còn có nhiều điểm hạn chế đáng kể, dẫn đến việc
nảy sinh những vấn đề phức tạp vào những năm 1980. Do đó, rất nhiều bên kí kết của GATT 1947, kể cả các DCs và
các nước phát triển, đều nhận thấy rằng cần phải thay thế hệ thống giải quyết tranh chấp của GATT 1947, vốn đã
lạc hậu, đơn giản, được vận hành dựa trên sức mạnh, và giải quyết các tranh chấp chủ yếu thông qua các cuộc đàm
phán mang tính ngoại giao, bằng một hệ thống cụ thể và được vận hành dựa trên các quy tắc để giải quyết các
tranh chấp thông qua việc xét xử. Trên cơ sở đó, sau các cuộc tranh luận kéo dài, một hệ thống giải quyết tranh
chấp của WTO, được đàm phán trong khuôn khổ Vòng đàm phán U-ru-goay, đã được thiết lập. Hệ thống này được
hình thành chủ yếu nhằm đưa ra một cơ chế giải quyết tranh chấp nhanh chóng giữa các thành viên WTO liên quan
đến các quyền và nghĩa vụ của họ theo quy định của WTO, cũng như nhằm bảo vệ an ninh và cung cấp khả năng
có thể dự đoán của hệ thống thương mại đa phương. Hệ thống giải quyết tranh chấp của WTO được vận hành dựa
trên các nguyên tắc cơ bản như nguyên tắc ‘đồng thuận nghịch’, nguyên tắc bí mật trong tố tụng, nguyên tắc bình
đẳng trong giải quyết tranh chấp và nguyên tắc dành sự đối xử đặc biệt cho các thành viên DCs. Mặc dù hệ thống
giải quyết tranh chấp của WTO được xây dựng trên cơ sở các quy định và thực tiễn giải quyết tranh chấp của GATT
1947, nhưng nó vẫn có một số thay đổi đáng kể, đó là: - Sự xuất hiện của nguyên tắc ‘đồng thuận nghịch’; - Việc
đẩy nhanh các thủ tục với những khung thời hạn cụ thể cho các hoạt động tố tụng tại WTO; - Bổ sung thủ tục phúc
thẩm nhằm mang lại cho các bên tranh chấp cơ hội tiếp theo để bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của mình
theo quy định của WTO; và - Bổ sung tính bắt buộc và xây dựng cơ chế thực thi nhằm đảm bảo tốt hơn việc bảo vệ
quyền lợi cho các thành viên WTO. Bên cạnh những thành công đáng kể, hệ thống giải quyết tranh chấp của WTO
vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề cần phải được giải quyết thông qua đàm phán trong khuôn khổ WTO, như vấn đề về
khả năng và tính hiệu quả của việc áp dụng các biện pháp trả đũa, về phạm vi xem xét phúc thẩm, cũng như việc
áp dụng các biện pháp tạm thời. Các thành viên WTO cũng đã nhất trí việc tiến hành đàm phán nhằm cải tiến và
làm rõ các quy định của DSU. Trên thực tế, các cuộc đàm phán để rà soát và sửa đổi DSU đã diễn ra từ năm 1998
nhưng cho đến nay vẫn chưa đạt được bất kì thoả thuận nào.
2. Hiệp định về giải quyết tranh chấp của WTO (DSU)
Hiệp định về các quy tắc và thủ tục giải quyết tranh chấp, thường được gọi là Hiệp định về giải quyết tranh chấp
hay DSU, thường được xem như là một trong những thành công đáng kể nhất của Vòng đàm phán U-ru-goay. DSU
đưa ra một cơ chế giải quyết tranh chấp duy nhất áp dụng cho tất cả các hiệp định của WTO được liệt kê trong Phụ
lục 1 của DSU, bao gồm Hiệp định thành lập WTO; 12 hiệp định đa phương trong lĩnh vực thương mại hàng hoá;
Hiệp định GATS; Hiệp định TRIPS; Hiệp định về mua sắm chính phủ; Hiệp định về mua bán máy bay dân dụng; và
chính DSU. Về cấu trúc, DSU gồm có 27 điều và 4 phụ lục. DSU quy định về phạm vi thẩm quyền và chức năng cơ
bản của các thiết chế trong việc giải quyết tranh chấp tại WTO. Bốn phụ lục của DSU đã cụ thể hoá các hiệp định
có liên quan; phân nhóm các quy tắc và thủ tục đặc biệt và bổ sung được quy định trong các hiệp định có liên quan;
quy định những thủ tục làm việc cơ bản và kế hoạch làm việc dự kiến của Ban hội thẩm và đưa ra những quy tắc
và thủ tục được áp dụng cho bất kì nhóm chuyên gia rà soát nào có thể được thành lập bởi Ban hội thẩm.
3.Các cơ quan của WTO tham gia vào quá trình giải quyết tranh chấp
Các cơ quan chính của WTO tham gia vào quá trình giải quyết tranh chấp đó là: Cơ quan giải quyết tranh chấp (viết
tắt là ‘DSB’), Ban hội thẩm, Cơ quan phúc thẩm, Tổng giám đốc và Ban thư kí của WTO, các trọng tài viên, các
chuyên gia độc lập và các cơ quan chuyên môn khác. Nội dung của mục này chủ yếu trình bày về DSB, Ban hội thẩm
và Cơ quan phúc thẩm. Đại hội đồng sẽ thực hiện nhiệm vụ của mình theo quy định của DSU thông qua DSB. Giống