I. Phương tin giao tiếp phi ngôn ng
1.1 Nét mặt:
Trong giao tiếp, nét mặt biểu lộ thái độ, cảm xúc của con người. Các công trình nghiên cứu
thống nhất rằng nét mặt của con người biểu lộ sáu cảm xúc: Vui mừng, buồn, ngạc nhiên, sợ hãi,
tức giận g tởm. Ngoài tính biểu cảm, nét mặt còn cho ta biết ít nhiều về tính con người.
Người nét mặt ng thẳng thường người dứt khoát, trực tính; người t mặt mềm mại
vùng miệng thì hòa nhã, thân mật, biết vui đùa dễ thích nghi trong giao tiếp.
1.2 Nụ cười:
Trong giao tiếp người ta thể dùng nụ cười để biểu lộ tình cảm, thái độ của mình. Con người
bao nhiêu kiểu cười thì bấy nhiêu tính. cái cười tươi tắn, hồn nhiên, đôn hậu, cái
cười chua chát, miễn cưỡng, cái cười đồng tình, thông cảm, nhưng cũng cái cười chế giễu,
cười khinh bỉ… Mỗi điệu cười đều biểu hiện một thái độ nào đó, cho nên trong giao tiếp, chúng
ta phải tinh nhạy quan sát nụ cười của đối tượng giao tiếp để biết được lòng dạ của họ.
1.3 Ánh mắt:
Dân gian câu “đôi mắt cửa sổ tâm hồn”, bởi l cặp mắt điểm khởi đầu cho tất cả mọi
nghiên cứu, quan sát, tìm hiểu, qua ánh mắt con người thể nói lên nhiều thứ. Ánh mắt phản
ánh trạng thái cảm xúc, bộc lộ tình cảm, tâm trạng ước nguyện của con người ra bên ngoài.
Trong giao tiếp, ánh mắt còn đóng vai trò “đồng bộ hóa” câu chuyện, biểu hiện sự chú ý, tôn
trọng, sự đồng tình hay phản đối. Ánh mắt trong giao tiếp cũng phụ thuộc vào vị trí hội của
mỗi bên. Người địa vị hội cao hơn thường nhìn vào mắt của người kia nhiều hơn, kể cả khi
nói lẫn khi nghe.
Ánh mắt của một người còn phản ánh tính của người đó: Người óc thực tế thường cái
nhìn lạnh lùng, người ngay thẳng nhân hậu cái nhìn thẳng trực diện, người nham hiểm, đa
nghi cái nhìn soi mói, lục lọi…
1.4 Các c ch (điu b)
Các cử chỉ gồm các chuyển động của đầu (gật đầu, lắc đầu…), của bàn tay (vẫy chào, khua
tay…), của cánh tay… Vận động của chúng ý nghĩa nhất định trong giao tiếp. Thật vậy,
chuyển động của đầu thể “đồng ý” hay “không đồng ý”, của bàn tay lời mời, sự từ chối,
chống đối hay van xin…
Người ta cũng thể dùng cử chỉ để điều khiển cuộc giao tiếp, chẳng hạn như một số vận động
của tay đầu ý nhắc nhở người đối thoại nói nhanh, chậm, dừng lại hay giải thích thêm.
Thông thường muốn nhấn mạnh hay tăng cường sự chú ý, người ta sử dụng rộng rãi các điệu bộ,
ý nghĩa của điệu bộ thường rệt ít thể giải thích nước đôi. Hewer đưa ra giả thuyết rằng điệu
bộ đã đi trước ngôn ngữ để dụng làm phương tiện thông tin giữa những người nguyên thủy
ngày nay chúng ta còn giữ lại những phần của ngôn ngữ điệu bộ để đệm thêm cho lời nói của
mình. Giữa cử chỉ văn hóa mối quan hệ mạnh mẽ.
1.5 thế:
thế cũng một trong những phương tiện giao tiếp. liên quan mật thiết với vai trò, vị trí
hội của nhân. Thường thường, một cách thức bộc lộ cương vị hội nhân
đang đảm nhiệm. Ví dụ: thế ngồi thoải mái, đầu hơi ngả ra phía sau thế của bề trên, của
lãnh đạo. thế ngồi hơi cúi đầu về trước tựa hồ như lắng nghe thế của cấp dưới.
thế vai trò biểu cảm, thể nhìn thấy qua thế trạng thái tinh thần thoải mái hay căng
thẳng. Những thế để mở tay chân tựa như tạo điều kiện để tiếp cận, gần gũi cho người đối
thoại, phản ánh một thái độ cởi mở, hòa hợp.
Các cá nhân có khuynh hướng bắt chước thế của người khác. nhân cũng thể dùng việc
thay đổi dáng điệu để gửi đi các thông điệp một cách cố ý, ranh mãnh.
1.6 Din mạo:
những đặc điểm t nhiên, ít thay đổi như tạng người cao hay thấp, mập hay ốm, mặt vuông
hay dài, môi mỏng hay môi dày…, sắc da (trắng hay đen, xanh xao, vàng vọt hay ngăm ngăm…),
những đặc điểm thay đổi được như tóc, râu, trang điểm, trang sức, trang phục…
Diện mạo có th gây ấn tượng rất mạnh, nhất lần đầu tiên. dụ: đàn ông cao ráo, vẻ mạnh
khỏe, sẽ gây ấn tượng tốt hơn những người thấp hay gầy đét; một người “tốt tướng” thường
được mọi người tôn trọng từ cái nhìn đầu tiên.
Cách trang sức cũng nói lên nhiều tính, văn hóa, nghề nghiệp của một cá nhân. Cách ăn mặt
cũng giúp chúng ta đoán được trạng thái tình cảm các phẩm chất tâm của một người. Người
mặc áo rực rỡ thường tâm trạng vui vẻ, sảng khoái. Người luôn mặc quần áo sáng màu
người thích giao du, hướng ngoại.
Cách ăn mặc cũng phản ánh nghề nghiệp, địa vị, lứa tuổi. Các nghề đồng phục đặc biệt biểu
hiện quyền lực, vị trí hội. dụ: đồng phục không quân, hải quân thường gây ấn tượng mạnh
với giới trẻ.
1.7 Khong cách giao tiếp:
Khoảng cách giữa hai người giao tiếp nói lên mức độ quan hệ giữa họ. Người thân trong gia đình
đứng gần sát nhau. Bạn thân thiết thể ngồi gần nhau, còn đối với người lạ hay mới quen thì
ta thường giữ một khoảng cách nhất định.
Việc bố t không gian giao tiếp cũng một vấn đề được giới nghiên cứu để ý. Muốn tạo một
không khí dân chủ, thoải mái người người ta thường bố trí ngồi theo bàn tròn để không ai vị
trí trung tâm.
Sử dụng không gian một hình thức truyền tin. Về bản chúng ta thường xích lại gần những
người chúng ta thích tin, nhưng lại tránh xa những người chúng ta sợ hoặc không tin. Nhà
nhân loại học Hall đã chứng minh rằng bốn vùng xung quanh mỗi nhân:
Vùng mật thiết (0-0,5m) vùng này chỉ nh cho những người cực kỳ thân thiết như cha,
mẹ, vợ, chồng, con, người yêu, bạn rất thân.
Vùng nhân (0,5m-1,2/1,5m) dùng cho người phải rất quen đến mức thấy thoải mái.
Vùng hội (1,2/1,5m-3,5m) dùng cho người chưa quen biết nhiều, người lạ mới gặp lần
đầu.
Vùng công cộng (3,5m+) gặp chung với nhiều người. Các nhân đứng vùng này
không còn những người phải gặp riêng nữa.
Khoảng cách nêu trên không phải cứng nhắc sẽ thay đổi tuỳ theo n tộc, theo vùng
theo từng nhân. Người ta cũng đã nhận thấy người dân vùng nông thôn không gian rộng lớn
thưa người khuynh hướng giãn khoảng cách ra xa hơn còn người dân c thành phố lớn
chật chội đông đúc khoảng không giao tiếp hẹp hơn.
Đi kèm với không gian giao tiếp các nhân khuynh hướng xác định lãnh thổ của riêng mình
bằng cách dựng nên các bức vách nhỏ có thể bằng y cảnh, tủ đựng hồ sơ, hoặc c dấu ấn để
đánh dấu lãnh thổ bằng các đồ vật.
1.8 Nhng hành vi giao tiếp đặc bit:
Đó động tác ôm hôn, vỗ vai, xoa đầu, khoác tay, bắt tay… Những phương tiện này gọi đặc
biệt trong những mối quan hệ đặc biệt ta mới sử dụng chúng. Chẳng hạn, không phải gặp ai ta
cũng thể ôm hôn được; hoặc nước ta, người lớn xoa đầu trẻ con chứ không được phép
ngược lại.
Những cái bắt tay cũng nói lên tính thái độ của hai người đối với nhau: cái bắt tay thắm
thiết, cái bắt tay lỏng lẻo, cái bắt tay gọn gàng, cái bắt tay lúng túng…
1.9 Đồ vật:
Khi giao tiếp người ta cũng hay dùng những đồ vật nhất định như: bưu ảnh, bưu thiếp, hình, tặng
hoa, tặng quà, đồ lưu niệm… Tất cả những cái đó cũng đều ý nghĩa trong việc thiết lập mối
quan hệ, biểu hiện tình cảm, thái độ giữa những người giao tiếp với nhau.
trên chúng ta đã tìm hiểu một số phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ. Cần chú rằng phần lớn
việc sử dụng các phương tiện phi ngôn ngữ chịu ảnh hưởng rất lớn của c yếu tố văn hóa, đặc
điểm dân tộc, phong tục, tập quán. Chẳng hạn, đối với người Bungary Thổ Nhĩ Kỳ lắc đầu
tỏ vẻ đồng ý, còn Việt Nam t ngược lại. Những nước Arập, Mỹ latinh, Nam Âu thường đứng
gần nhau dùng ánh mắt nhiều hơn khi nói chuyện. Nhưng ngược lại, những người Ấn Độ,
Pakixtan, Nhật Bản, Bắc Âu thường đứng cách xa hơn ít đụng chạm, ít nhìn thẳng vào mắt
nhau hơn khi nói chuyện.

Preview text:

I. Phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ 1.1 Nét mặt:
Trong giao tiếp, nét mặt biểu lộ thái độ, cảm xúc của con người. Các công trình nghiên cứu
thống nhất rằng nét mặt của con người biểu lộ sáu cảm xúc: Vui mừng, buồn, ngạc nhiên, sợ hãi,
tức giận và ghê tởm. Ngoài tính biểu cảm, nét mặt còn cho ta biết ít nhiều về cá tính con người.
Người có nét mặt căng thẳng thường là người dứt khoát, trực tính; người có nét mặt mềm mại ở
vùng miệng thì hòa nhã, thân mật, biết vui đùa và dễ thích nghi trong giao tiếp. 1.2 Nụ cười:
Trong giao tiếp người ta có thể dùng nụ cười để biểu lộ tình cảm, thái độ của mình. Con người
có bao nhiêu kiểu cười thì có bấy nhiêu cá tính. Có cái cười tươi tắn, hồn nhiên, đôn hậu, có cái
cười chua chát, miễn cưỡng, có cái cười đồng tình, thông cảm, nhưng cũng có cái cười chế giễu,
cười khinh bỉ… Mỗi điệu cười đều biểu hiện một thái độ nào đó, cho nên trong giao tiếp, chúng
ta phải tinh nhạy quan sát nụ cười của đối tượng giao tiếp để biết được lòng dạ của họ. 1.3 Ánh mắt:
Dân gian có câu “đôi mắt là cửa sổ tâm hồn”, bởi lẽ cặp mắt là điểm khởi đầu cho tất cả mọi
nghiên cứu, quan sát, tìm hiểu, qua ánh mắt con người có thể nói lên nhiều thứ. Ánh mắt phản
ánh trạng thái cảm xúc, bộc lộ tình cảm, tâm trạng và ước nguyện của con người ra bên ngoài.
Trong giao tiếp, ánh mắt còn đóng vai trò “đồng bộ hóa” câu chuyện, biểu hiện sự chú ý, tôn
trọng, sự đồng tình hay là phản đối. Ánh mắt trong giao tiếp cũng phụ thuộc vào vị trí xã hội của
mỗi bên. Người có địa vị xã hội cao hơn thường nhìn vào mắt của người kia nhiều hơn, kể cả khi nói lẫn khi nghe.
Ánh mắt của một người còn phản ánh cá tính của người đó: Người có óc thực tế thường có cái
nhìn lạnh lùng, người ngay thẳng nhân hậu có cái nhìn thẳng và trực diện, người nham hiểm, đa
nghi có cái nhìn soi mói, lục lọi…
1.4 Các cử chỉ (điệu bộ)
Các cử chỉ gồm các chuyển động của đầu (gật đầu, lắc đầu…), của bàn tay (vẫy chào, khua
tay…), của cánh tay… Vận động của chúng có ý nghĩa nhất định trong giao tiếp. Thật vậy,
chuyển động của đầu có thể là “đồng ý” hay “không đồng ý”, của bàn tay là lời mời, sự từ chối, chống đối hay van xin…
Người ta cũng có thể dùng cử chỉ để điều khiển cuộc giao tiếp, chẳng hạn như một số vận động
của tay và đầu có ý nhắc nhở người đối thoại nói nhanh, chậm, dừng lại hay giải thích thêm.
Thông thường muốn nhấn mạnh hay tăng cường sự chú ý, người ta sử dụng rộng rãi các điệu bộ,
ý nghĩa của điệu bộ thường rõ rệt ít có thể giải thích nước đôi. Hewer đưa ra giả thuyết rằng điệu
bộ đã đi trước ngôn ngữ để dụng làm phương tiện thông tin giữa những người nguyên thủy và
ngày nay chúng ta còn giữ lại những phần của ngôn ngữ điệu bộ để đệm thêm cho lời nói của
mình. Giữa cử chỉ và văn hóa có mối quan hệ mạnh mẽ. 1.5 Tư thế:
Tư thế cũng là một trong những phương tiện giao tiếp. Nó có liên quan mật thiết với vai trò, vị trí
xã hội của cá nhân. Thường thường, một cách vô thức nó bộc lộ cương vị xã hội mà cá nhân
đang đảm nhiệm. Ví dụ: tư thế ngồi thoải mái, đầu hơi ngả ra phía sau là tư thế của bề trên, của
lãnh đạo. Tư thế ngồi hơi cúi đầu về trước tựa hồ như lắng nghe là tư thế của cấp dưới.
Tư thế có vai trò biểu cảm, có thể nhìn thấy qua tư thế trạng thái tinh thần thoải mái hay căng
thẳng. Những tư thế để mở tay và chân tựa như tạo điều kiện để tiếp cận, gần gũi cho người đối
thoại, phản ánh một thái độ cởi mở, hòa hợp.
Các cá nhân có khuynh hướng bắt chước tư thế của người khác. Cá nhân cũng có thể dùng việc
thay đổi dáng điệu để gửi đi các thông điệp một cách cố ý, ranh mãnh. 1.6 Diện mạo:
Là những đặc điểm tự nhiên, ít thay đổi như tạng người cao hay thấp, mập hay ốm, mặt vuông
hay dài, môi mỏng hay môi dày…, sắc da (trắng hay đen, xanh xao, vàng vọt hay ngăm ngăm…),
và những đặc điểm thay đổi được như tóc, râu, trang điểm, trang sức, trang phục…
Diện mạo có thể gây ấn tượng rất mạnh, nhất là lần đầu tiên. Ví dụ: đàn ông cao ráo, có vẻ mạnh
khỏe, sẽ gây ấn tượng tốt hơn là những người thấp bé hay gầy đét; một người “tốt tướng” thường
được mọi người tôn trọng từ cái nhìn đầu tiên.
Cách trang sức cũng nói lên nhiều cá tính, văn hóa, nghề nghiệp của một cá nhân. Cách ăn mặt
cũng giúp chúng ta đoán được trạng thái tình cảm và các phẩm chất tâm lý của một người. Người
mặc áo rực rỡ thường có tâm trạng vui vẻ, sảng khoái. Người luôn mặc quần áo sáng màu là
người thích giao du, hướng ngoại.
Cách ăn mặc cũng phản ánh nghề nghiệp, địa vị, lứa tuổi. Các nghề có đồng phục đặc biệt biểu
hiện quyền lực, vị trí xã hội. Ví dụ: đồng phục không quân, hải quân thường gây ấn tượng mạnh với giới trẻ.
1.7 Khoảng cách giao tiếp:
Khoảng cách giữa hai người giao tiếp nói lên mức độ quan hệ giữa họ. Người thân trong gia đình
đứng gần sát nhau. Bạn bè thân thiết có thể ngồi gần nhau, còn đối với người lạ hay mới quen thì
ta thường giữ một khoảng cách nhất định.
Việc bố trí không gian giao tiếp cũng là một vấn đề được giới nghiên cứu để ý. Muốn tạo một
không khí dân chủ, thoải mái người người ta thường bố trí ngồi theo bàn tròn để không ai có vị trí trung tâm.
Sử dụng không gian là một hình thức truyền tin. Về cơ bản chúng ta thường xích lại gần những
người mà chúng ta thích và tin, nhưng lại tránh xa những người chúng ta sợ hoặc không tin. Nhà
nhân loại học Hall đã chứng minh rằng có bốn vùng xung quanh mỗi cá nhân: 
Vùng mật thiết (0-0,5m) vùng này chỉ dành cho những người cực kỳ thân thiết như cha,
mẹ, vợ, chồng, con, người yêu, bạn bè rất thân. 
Vùng cá nhân (0,5m-1,2/1,5m) dùng cho người phải rất quen đến mức thấy thoải mái. 
Vùng xã hội (1,2/1,5m-3,5m) dùng cho người chưa quen biết nhiều, người lạ mới gặp lần đầu. 
Vùng công cộng (3,5m+) gặp chung với nhiều người. Các cá nhân đứng ở vùng này
không còn là những người phải gặp riêng nữa.
Khoảng cách nêu trên không phải là cứng nhắc mà sẽ thay đổi tuỳ theo dân tộc, theo vùng và
theo từng cá nhân. Người ta cũng đã nhận thấy người dân ở vùng nông thôn không gian rộng lớn
và thưa người có khuynh hướng giãn khoảng cách ra xa hơn còn người dân ở các thành phố lớn
chật chội và đông đúc có khoảng không giao tiếp hẹp hơn.
Đi kèm với không gian giao tiếp các cá nhân có khuynh hướng xác định lãnh thổ của riêng mình
bằng cách dựng nên các bức vách nhỏ có thể bằng cây cảnh, tủ đựng hồ sơ, hoặc các dấu ấn để
đánh dấu lãnh thổ bằng các đồ vật.
1.8 Những hành vi giao tiếp đặc biệt:
Đó là động tác ôm hôn, vỗ vai, xoa đầu, khoác tay, bắt tay… Những phương tiện này gọi là đặc
biệt vì trong những mối quan hệ đặc biệt ta mới sử dụng chúng. Chẳng hạn, không phải gặp ai ta
cũng có thể ôm hôn được; hoặc ở nước ta, người lớn xoa đầu trẻ con chứ không được phép ngược lại.
Những cái bắt tay cũng nói lên cá tính và thái độ của hai người đối với nhau: có cái bắt tay thắm
thiết, có cái bắt tay lỏng lẻo, có cái bắt tay gọn gàng, có cái bắt tay lúng túng… 1.9 Đồ vật:
Khi giao tiếp người ta cũng hay dùng những đồ vật nhất định như: bưu ảnh, bưu thiếp, hình, tặng
hoa, tặng quà, đồ lưu niệm… Tất cả những cái đó cũng đều có ý nghĩa trong việc thiết lập mối
quan hệ, biểu hiện tình cảm, thái độ giữa những người giao tiếp với nhau.
Ở trên chúng ta đã tìm hiểu một số phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ. Cần chú rằng phần lớn
việc sử dụng các phương tiện phi ngôn ngữ chịu ảnh hưởng rất lớn của các yếu tố văn hóa, đặc
điểm dân tộc, phong tục, tập quán. Chẳng hạn, đối với người Bungary và Thổ Nhĩ Kỳ lắc đầu là
tỏ vẻ đồng ý, còn ở Việt Nam thì ngược lại. Những nước Arập, Mỹ latinh, Nam Âu thường đứng
gần nhau và dùng ánh mắt nhiều hơn khi nói chuyện. Nhưng ngược lại, những người Ấn Độ,
Pakixtan, Nhật Bản, Bắc Âu thường đứng cách xa hơn và ít đụng chạm, ít nhìn thẳng vào mắt nhau hơn khi nói chuyện.
Document Outline

  • 1.1Nét mặt:
  • 1.2Nụ cười:
  • 1.3Ánh mắt:
  • 1.4Các cử chỉ (điệu bộ)
  • 1.5Tư thế:
  • 1.6Diện mạo:
  • 1.7Khoảng cách giao tiếp:
  • 1.8Những hành vi giao tiếp đặc biệt:
  • 1.9Đồ vật: