Quá trình đổi mới quan điểm của Đảng về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta trong thờikỳ đổi mới từ 1986 đến nay - Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam| Đại học Kinh Tế Quốc Dân

Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới.

Thông tin:
43 trang 7 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Quá trình đổi mới quan điểm của Đảng về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta trong thờikỳ đổi mới từ 1986 đến nay - Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam| Đại học Kinh Tế Quốc Dân

Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới.

25 13 lượt tải Tải xuống
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
-------***-------
BÀI TẬP NHÓM SỐ 3
MÔN LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Đề bài: Quá trình đổi mới quan điểm của Đảng về xây dựng
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta trong thời
kỳ đổi mới từ 1986 đến nay.
Nhóm số: 2
Lớp học phần: LLDL1102(220)_01
GVHD: Ths. Lê Thị Hồng Thuận
HÀ NỘI, NĂM 2021
MỤC LỤC
I. CƠ SỞ CỦA VIỆC ĐỔI MỚI QUAN ĐIỂM..............................................3
1. Cơ sở lý luận................................................................................................3
2. Cơ sở thực tiễn............................................................................................5
II. QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ XÂY DỰNG
NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở NƯỚC TA TRONG
THỜI KỲ ĐỔI MỚI TỪ 1986 ĐẾN NAY............................................................11
1. Giai đoạn từ Đại hội VI đến trước Đại hội XI: Bước đầu hình thành
quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa..........................................................................................................11
2. Giai đoạn từ sau Đại hội IX đến nay.......................................................20
III. ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI QUAN
ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH
HƯỚNG XHCN Ở NƯỚC TA TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI TỪ 1986 ĐẾN
NAY.27
1. Kết quả.......................................................................................................27
1.1. Thành tựu từng giai đoạn.....................................................................28
1.2. Cơ cấu kinh tế chuyển biến tích cực theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, gắn sản xuất với thị trường............................................................32
1.3. Thực hiện có kết quả chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần, phát huy ngày càng tốt hơn tiềm năng của các thành phần kinh tế.......33
1.4. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dần dần
được hình thành, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định..................................................33
1.5. Những thay đổi về việc chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế................34
2. Hạn chế......................................................................................................36
3. Nguyên nhân..............................................................................................37
4. Bài học kinh nghiệm.................................................................................39
5. Tổng kết.....................................................................................................39
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................41
I. CƠ SỞ CỦA VIỆC ĐỔI MỚI QUAN ĐIỂM.
1. Cơ sở lý luận.
Khái niệm nền kinh tế thị trường
Kinh tế thị trường là mô hình kinh tế mà trong đó người mua và người bán tác
động với nhau theo quy luật cung cầu, giá trị để xác định giá cả và số lượng hàng
hoá, dịch vụ trên thị trường.
Kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hóa phát triển ở trình độ cao, gắn với sự
phát triển của lực lượng sản xuất xã hội. Các hoạt động kinh tế gắn chặt với nhau
thông qua thị trường. Lực lượng sản xuất xã hội ngày càng phát triển, trình độ phân
công lao động xã hội ngày càng cao, thì các quan hệ thị trường cũng ngày càng
được mở rộng và trở nên phức tạp. Hệ thống thị trường quốc gia trở nên thống
nhất, thông suốt và gắn kết chặt chẽ hơn với thị trường thế giới. Các doanh nghiệp
ở các thành phần kinh tế quan hệ bình đẳng cả đầu vào và đầu ra của sản xuất và
nhìn chung cả người sản xuất và người tiêu dùng đều được hưởng lợi từ sự lệ thuộc
đó.
Khái niệm nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là tên gọi mà Đảng Cộng sản
Việt Nam Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa đặt ra cho mô hình kinh tế hiện tại của nước
Việt Nam kinh tế thị trường. Nó được mô tả là một nền nhiều thành phần, trong đó
khu vực kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, với mục tiêu dài hạn là xây dựng chủ
nghĩa xã hội.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sản phẩm của thời kỳ Đổi
Mới, thay thế nền bằng nền hoạt động theo cơ chếkinh tế kế hoạch kinh tế hỗn hợp
thị trường. Những thay đổi này giúp Việt Nam hội nhập với nền kinh tế toàn cầu.
Cụm từ "định hướng xã hội chủ nghĩa" mang ý nghĩa là Việt Nam chưa đạt đến chủ
nghĩa xã hội mà đang trong giai đoạn xây dựng nền tảng cho một hệ thống xã hội
chủ nghĩa trong tương lai. Mô hình kinh tế này khá tương đồng với mô hình kinh tế
thị trường xã hội chủ nghĩa Đảng Cộng sản Trung (socialist market economy) của
Quốc, trong đó các mô hình kinh tế tập thể, nhà nước, tư nhân cùng tồn tại, và khu
vực nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Điểm giống nhau giữa nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam
so với nền kinh tế thị trường nói chung.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một loại hình kinh tế được
vận dụng, vận hành theo những tính quy luật chung của “kinh tế thị trường” mà
thời đại hiện nay đang thể hiện. Đó là loại hình kinh tế hàng hóa đã phát triển trên
những địa bàn – “những cái chợ” – “những thị trường” ở mỗi nước và quốc tế -
nền kinh tế mở - liên thông của nhiều loại thị trường.
Những nét riêng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam so
với nền kinh tế thị trường nói chung.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là kiểu tổ chức kinh tế vừa
tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên cơ sở và sự dẫn dắt,
chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội, thể hiện trên cả ba
mặt: sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu,
nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế
Nhà nước cùng kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa quản lý nền kinh tế bằng chiến lược, quy hoạch,
kế hoạch, chính sách, pháp luật và bằng cả sức mạnh vật chất của lực lượng kinh tế
Nhà nước; đồng thời sử dụng kinh tế thị trường, áp dụng các hình thức kinh tế và
phương pháp quản lý của nền kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, giải phóng
sức sản xuất, phát huy mặt tích cực, hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế
thị trường, bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động, của toàn thể nhân dân.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện phân phối chủ yếu
theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp
vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay không
còn là nền kinh tế kế hoạch tập trung, quan liêu hành chính bao cấp, nhưng cũng
không phải là nền kinh tế thị trường tự do (kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa) và
cũng chưa hoàn toàn là nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Đây là một nền
kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, vừa tuân thủ theo những quy luật
của kinh tế thị trường, vừa dựa trên cơ sở và bị chi phối bởi các nguyên tắc và bản
chất của chủ nghĩa xã hội.
2. Cơ sở thực tiễn.
Thực tiễn thế giới từ năm 1986.
Việt Nam chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa, quan liêu, bao cấp, sang nền
kinh tế thị trường trong bối cảnh tình hình thế giới, trong nước và khu vực có nhiều
thay đổi, phức tạp, khó lường.
Thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại, mở đầu một thời đại mới
trong lịch sử - thời đại quá độ từ tư bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội trên toàn
thế giới; đưa chủ nghĩa xã hội từ lý thuyết trở thành hiện thực. Những thành công
về kinh tế, khoa học kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô, làm nức lòng nhân
dân tiến bộ trên toàn thế giới, đồng thời trở thành một đối thủ đáng gờm của chủ
nghĩa đế quốc. Nhưng chính những thành tựu to lớn đạt được trong xây dựng chủ
nghĩa xã hội, làm cho các nhà lãnh đạo Liên Xô lúc bấy giờ có những suy nghĩ và
hành động đơn giản và dễ mắc sai lầm. Ở Liên Xô xuất hiện khuynh hướng tuyệt
đối hóa những thành quả đạt được trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Nguy hiểm hơn, hình thành trong xã hội Liên Xô quan niệm về thời đại, dựa trên
những ảo tưởng có thể nhanh chóng thủ tiêu chủ nghĩa tư bản và thúc đẩy một cách
chủ quan quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa cũng như xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Nhìn thấy những sai lầm, Liên Xô tiến hành cải tổ. Nhưng do không có đường
lối đúng đắn, công cuộc cải tổ chẳng những không đem lại kết quả, mà còn làm sụp
đổ một mô hình của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô, kéo theo sự tan rã của các nước
Đông Âu, khiến phong trào cách mạng xã hội chủ nghĩa tạm thời lâm vào thoái
trào. Liên Xô tan rã, các nước đều tìm hướng đi riêng cho dân tộc mình nhưng hầu
hết không ai trong số họ lựa chọn định hướng xã hội chủ nghĩa nữa mà họ lựa chọn
phát triển tư bản chủ nghĩa với sự giúp đỡ của các nước phương Tây. Tuy nhiên, sự
phát triển theo hướng tư bản chủ nghĩa ngày càng gặp không ít khó khăn bởi việc
can thiệp sâu rộng vào nội bộ của chủ nghĩa tư bản Tây Âu hoặc Mỹ. Tình trạng đa
nguyên, đa đảng làm cho tình hình chính trị rối ren, không ổn định. Cộng đồng các
Quốc gia Độc lập (SNG) là các quốc gia thành viên cũ của Liên bang cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Xô Viết, có một số nước chịu sự bảo trợ của phương Tây, một số
chịu sự bảo trợ của Nga, nhưng nội chiến cũng diễn ra liên miên, đời sống kinh tế -
chính trị - xã hội không được cải thiện đáng kể và người chịu khổ cuối cùng vẫn là
nhân dân.
Cũng như Liên Xô, ở Trung Quốc việc lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa gặp không ít khó khăn. Trong một thời gian
dài vào những năm 60, 70 của thế kỷ XX, Trung Quốc đã rơi vào tình trạng khủng
hoảng nghiêm trọng. Trung Quốc dần dần đã tìm được hướng đi riêng cho mình
thông qua công cuộc đổi mới. Sang thế kỷ XXI, Trung Quốc chủ trương xây dựng
một “xã hội hài hòa”. Những thành tựu của Trung Quốc trên các lĩnh vực kinh tế -
khoa học – kỹ thuật – công nghệ, làm cho các nước tư bản chủ nghĩa phải kính nể.
Sau khủng hoảng tài chính - kinh tế toàn cầu, thế giới bước vào một giai đoạn
phát triển mới. Tương quan sức mạnh của các nền kinh tế và cục diện phát triển
toàn cầu thay đổi với sự xuất hiện những liên kết mới. Vị thế của châu Á trong nền
kinh tế thế giới đang tăng lên; sự phát triển mạnh mẽ của một số nước khu vực
trong điều kiện hội nhập Đông Á và việc thực hiện các hiệp định mậu dịch tự do
ngày càng sâu rộng, mở ra thị trường rộng lớn nhưng cũng tạo ra sự cạnh tranh
quyết liệt. Những thành tựu to lớn của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ (đặc
biệt là công nghệ thông tin) dẫn đến một nền kinh tế mới ra đời – nền kinh tế tri
thức – nền kinh tế này đang là lực lượng sản xuất quan trọng đối với các quốc gia
phát triển. Những thành tựu này đã tác động làm thay đổi cơ cấu kinh tế thế giới,
nó không những tạo ra bước phát triển vượt bậc của lực lượng sản xuất mà còn tác
động đến quan hệ sản xuất, đến tư duy (tư duy kinh tế, tư duy chính trị, tư duy triết
học). Đối với các nước phát triển, toàn cầu hóa kinh tế tạo ra những điều kiện để
các nước tận dụng đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế và nâng cao mức sống của
nhân dân. Đối với các nước đang phát triển, toàn cầu hóa giúp rút ngắn thời gian
phát triển nhờ áp dụng những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học và công
nghệ tiên tiến, thông qua chuyển giao công nghệ và hợp tác. Với sự bùng nổ của
nền kinh tế tri thức, các nước đang phát triển cũng sở hữu một nguồn nhân lực to
lớn, đây sẽ là thế mạnh cho sự phát triển kinh tế. Song toàn cầu hóa cũng đẩy các
nước đang phát triển phải chấp nhận một sự cạnh tranh quốc tế gay gắt và khốc
liệt. Trong cuộc cạnh tranh toàn cầu, theo luật chơi mới do các nước tư bản phát
triển sắp đặt, các nước đang phát triển và chậm phát triển thường ở vào thế bất lợi.
Xu thế toàn cầu hóa đang đặt các nước phát triển và chậm phát triển trước những
vấn đề lớn như bùng nổ dân số, cạn kiệt tài nguyên môi trường, ô nhiễm môi
trường nghiêm trọng, chiến tranh, xung đột sắc tộc – tôn giáo, … và tình trạng phát
triển kinh tế “quá nóng” dễ rơi vào khủng hoảng. Điều đó buộc các nước đang phát
triển, trong đó có Việt Nam, phải lựa chọn cho mình một hướng đi đúng đắn, bắt
kịp, đón đầu được bước tiến của thời đại. Thách thức cũng là cơ hội để cho các
nước đang phát triển thể hiện mình và khai thác được tiềm năng của chính mình vì
mục tiêu phát triển của đất nước, vấn đề là ở chỗ phải nắm bắt được thời cơ và
chọn thời cơ.
Thực tiễn Việt Nam từ năm 1986.
Sau khi đất nước giải phóng cho tới năm 1985, cơ chế kinh tế kế hoạch hoá
tập trung quan liêu bao cấp và mô hình công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa kiểu Xô
viết đã được áp dụng rộng rãi trên cả nước. Kinh tế bao cấp là nền kinh tế chỉ bao
gồm các thành phần kinh tế quốc doanh, tập thể và cá thể, mà giữ vai trò chủ đạo là
kinh tế quốc doanh. Trong thời kì này, không tồn tại kinh tế tư nhân, không có các
hoạt động thương mại buôn bán tự do trên thị trường. Kinh tế bao cấp hoạt động
theo kiểu toàn dân làm cho nhà nước và nhà nước bao cấp cho toàn dân, mọi người
làm theo năng lực và hưởng theo nhu cầu.
Việt Nam là một nước nghèo, kinh tế – kỹ thuật lạc hậu, trình độ xã hội còn
thấp, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Đi lên chủ nghĩa xã hội là xu hướng tất yếu
lịch sử, nằm trong tính quy luật của cách mạng Việt Nam, là mục tiêu lý tưởng của
những người cộng sản, là khát vọng ngàn đời thiêng liêng của cả dân tộc Việt Nam.
Nước ta đang trong những chặng đường đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội.
Đặc điểm lớn nhất của thời kỳ này ở nước ta là: Từ một xã hội mà nền kinh tế
còn phổ biến là sản xuất nhỏ tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát
triển tư bản chủ nghĩa. Vì thế, chúng ta đang nỗ lực tiến hành công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, nhanh chóng hình thành một nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa với
công nghiệp hiện đại, nông nghiệp hiện đại, văn hóa, khoa học kỹ thuật tiên tiến.
Quá trình đó tất yếu phải có sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ
trọng công nghiệp và dịch vụ, phân công lại lao động giữa các ngành nghề, các
vùng, miền và sự chuyên môn hóa lao động ngày càng cao.
Mặt khác, từ một nền sản xuất hàng hóa nhỏ đi lên, lẽ dĩ nhiên nền kinh tế
nước ta còn tồn tại nhiều thành phần, nhiều hình thức sở hữu khác nhau. Hơn nữa,
trong điều kiện mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, để đáp ứng yêu cầu đặt
ra và chủ động hội nhập và cạnh tranh được trên trường quốc tế, chúng ta cần và
phải xây dựng một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần phát triển ở trình độ cao,
vận hành theo cơ chế thị trường. Đó chính là nền kinh tế thị trường. Nền kinh tế thị
trường tự do, bên cạnh những ưu điểm, còn có nhiều nhược điểm, mặt trái không
phù hợp với chế độ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng.
Mục tiêu xã hội chủ nghĩa của chúng ta là xây dựng một nước Việt Nam dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Để xây dựng một chế độ
xã hội như thế chúng ta chấp nhận phát triển nền kinh tế thị trường, nhưng không
phải là nền kinh tế thị trường tự do mà là nền kinh tế thị trường có sự quản lý của
nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Định hướng xã hội chủ nghĩa có nghĩa
là không để cho kinh tế thị trường phát triển tự do mà phải có sự quản lý của Nhà
nước, của dân, do dân và vì dân. Những gì là phù hợp với mục tiêu xã hội chủ
nghĩa, là mặt tốt của kinh tế thị trường, thì Nhà nước cần khai thác, phát huy, tạo
điều kiện để phát triển. Ngược lại, những gì là mặt trái của nó không phù hợp với
mục tiêu xã hội chủ nghĩa cần được hạn chế, loại bỏ. Việc quản lý Nhà nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa đảm bảo cho kinh tế thị trường phát triển phù hợp với
mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà toàn Đảng, toàn dân ta đã lựa chọn.
Như vậy, từ một nền kinh tế hàng hóa vận động theo cơ chế thị trường một
cách tự do hay nền kinh tế thị trường tự do đến nền kinh tế xã hội chủ nghĩa tất yếu
phải là nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Chính những áp lực kinh tế trong
nước ấy kết hợp với tình hình quốc tế buộc chúng ta không còn con đường nào
khác phải tiến hành đổi mới. Hoạt động đầu tiên để tiến hành đổi mới chính là đổi
mới tư duy mà trước hết là tư duy kinh tế.
II. QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ XÂY
DỰNG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở NƯỚC TA
TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI TỪ 1986 ĐẾN NAY.
1. Giai đoạn từ Đại hội VI đến trước Đại hội XI: Bước đầu hình
thành quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.
1.1. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12/1986).
1.1.1. Chủ trương, quan điểm.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12 – 1986) chính thức khởi
xướng công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, trong đó đổi mới kinh tế là nhiệm vụ
trọng tâm. Đại hội xác định tư tưởng chỉ đạo cho quá trình đổi mới nền kinh tế đất
nước là giải phóng mọi năng lực sản xuất hiện có, khai thác mọi khả năng tiềm
tàng của đất nước, sử dụng có hiệu quả sự giúp đỡ quốc tế để phát triển mạnh mẽ
lực lượng sản xuất …
Để tạo tiền đề cho lực lượng sản xuất phát triển, giải pháp mang tính chất
chiến lược là xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần và xóa bỏ triệt để cơ
chế kế hoạch hóa, tập trung, bao cấp. Đại hội VI xác định cơ chế quản lý nền kinh
tế đất nước trong thời kỳ đổi mới là: “Cơ chế kế hoạch hóa theo phương thức hạch
toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đúng nguyên tắc tập trung dân chủ”. Trong đó,
kế hoạch hóa là đặc trưng số một và sử dụng đúng đắn quan hệ hàng hóa – tiền tệ
là đặc trưng số hai của cơ chế quản lý kinh tế mới.
Để khắc phục hiện tượng các cơ quan quản lý hành chính – kinh tế can thiệp
sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở, Đại hội VI chủ
trương đổi mới quản lý nhà nước về kinh tế theo hướng “ha”.
Vận dụng đúng đắn quan hệ hàng hóa – tiền tệ là đặc trưng thứ hai của cơ chế
quản lý kinh tế, được Đại hội VI xác định “mọi hoạt động kinh tế phải so sánh chi
phí với hiệu quả, các tổ chức và các đơn vị kinh tế phải tự bù đắp chi phí và có lãi
để tái sản xuất mở rộng, tức là phải thực hiện hạch toán kinh doanh xã hội chủ
nghĩa. Quan điểm này thể hiện sự phát triển trong nhận thức của Đảng về xác lập
chủ thể của kinh tế thị trường cũng như xác định rõ phương thức sản xuất kinh
doanh của các chủ thể đó trong cơ chế quản lý kinh tế mới. Xác lập và sử dụng
quan hệ hàng hóa – tiền tệ đồng nghĩa với việc thừa nhận nền kinh tế nhiều thành
phần gắn với thị trường; là căn cứ cơ bản điều chỉnh kế hoạch, phương thức sản
xuất, kinh doanh của các cơ sở kinh tế và của nền kinh tế nói chung.
Để sử dụng tốt các đòn bẩy kinh tế trong cơ chế mới, Đại hội VI chủ trương
đổi mới phương thức kinh doanh của hệ thống thương nghiệp quốc doanh, chuyển
từ cơ chế bao cấp sang hoạt động theo thị trường, tự cân đối 36 nguồn hàng mua và
bán ra thị trường, chỉ trừ một số mặt hàng nhạy cảm trong nền kinh tế do Nhà nước
độc quyền quản lý.
1.1.2. Thực hiện và kết quả.
Trước đổi mới, Nhà nước trực tiếp giao chỉ tiêu pháp lệnh cho các doanh
nghiệp, trở thành nội dung tuyệt đối của kế hoạch hóa. Tại Đại hội VI, kế hoạch
pháp lệnh chỉ được giới hạn sử dụng trong những trường hợp cá biệt, “việc giao kế
hoạch pháp lệnh chỉ hạn chế trong một số chỉ tiêu thật cần thiết nhằm đảm bảo
những cân đối cơ bản và những nghĩa vụ cam kết với nước ngoài”.
Công tác kế hoạch hóa được phân công, phân cấp theo nguyên tắc tập trung
dân chủ, phân biệt rõ chức năng quản lý hành chính – kinh tế của các cơ quan Nhà
nước Trung ương và địa phương với chức năng quản lý sản xuất, kinh doanh của
các đơn vị kinh tế cơ sở.
Giải pháp được Đại hội VI coi là hữu hiệu nhất để thực hiện mục tiêu trên là
tiến hành phân cấp quản lý, đảm bảo quyền làm chủ của cả ba cấp: Trung ương, địa
phương và các đơn vị sản xuất, kinh doanh. Trong đó, quyền quyết định của Trung
ương với những lĩnh vực then chốt và với những vấn đề có ý nghĩa chiến lược,
quyền chủ động của địa phương trong quản lý kinh tế - xã hội ở địa phương và
quyền tự chủ của các đơn vị sản xuất, kinh doanh.
Trong lĩnh vực tài chính, thực hiện giảm các khoản chi có tính bao cấp, mở
rộng quyền tự chủ tài chính cho cơ sở, thu hẹp các khoản đầu tư theo phương thức
cấp phát, mở rộng đầu tư qua tín dụng ngân hàng, triển khai kinh doanh tiền tệ,
ngoại tệ, vàng bạc, bước đầu thực hiện chính sách lãi suất linh hoạt. Tình trạng lạm
phát bước đầu được kiềm chế.
Những chủ trường nêu trên đã đặt “nền móng” cho sự ra đời của cơ chế quản
lý mới. Tất cả các ngành kinh tế đều có những bước đổi mới quan trọng về cơ chế
quản lý. Trong công nghiệp, việc chuyển sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ
nghĩa để thực hiện mục tiêu “bốn giảm” đã được triển khai sâu rộng, đặc biệt là từ
sau khi có quyết định 217/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng.
Những chủ trương, biện pháp đổi mới cơ chế quản lý kinh tế từ 1979 đến
1989, đặc biệt là đường lối đổi mới của Đại hội VI, đã tạo ra bước chuyển mạnh
mẽ của đời sống kinh tế - xã hội. Phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
được Đảng khẳng định là chính sách nhất quán trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, được nhân dân hưởng ứng tích cực và nhanh chóng đi vào cuộc sống.
Quyền làm chủ của nhân dân về kinh tế được phát huy, nhiều tiềm năng và sức
sáng tạo của nhân dân được khơi dậy; sản xuất, dịch vụ phát triển; tạo thêm nhiều
việc làm và của cải cho xã hội, thúc đẩy sự hình thành và phát triển nền kinh tế
hàng hóa.
Công tác kế hoạch hóa từng bước chuyển từ kế hoạch hóa pháp lệnh sang kế
hoạch định hướng là chủ yếu, bước đầu sử dụng các đòn bẩy kinh tế và lực lượng
vật chất để đảm bảo cân đối tổng cung, tổng cầu trong nền kinh tế. Đồng thời đã
xây dựng được chiến lược kinh tế - xã hội, quy hoạch ngành, vùng, mở rộng thông
tin kinh tế, nâng cao vai trò của hợp đồng kinh tế trong sản xuất.
Cùng với quá trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế ở tầm vĩ mô là việc triển
khai nhanh chóng cải tiến chế độ khoán, cơ chế quản lý trong các hợp tác xã nông
nghiệp, mở rộng nhiều mặt quyền tự chủ kinh doanh của các xí nghiệp quốc doanh,
tạo điều kiện phát huy vai trò chủ động sáng tạo của các đơn vị kinh tế và của
người lao động. Nhờ đó, các cơ sở sản xuất bắt đầu 40 hướng theo nhu cầu của thị
trường, áp dụng tiến bộ kỹ thuật và cải tiến quản lý, nâng cao chất lượng, hạ giá
thành sản phẩm. Cơ chế mới đã thổi một luồng sinh khí mới, thông thoáng, tạo cơ
hội cho các thành phần kinh tế phát huy được tính chủ động, năng động, sáng tạo
trong sản xuất kinh doanh, làm giàu cho doanh nghiệp và đất nước.
Thành tựu nổi bật nhất, được Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ VII
(6 – 1991), khẳng định: “Bước đầu hình thành nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước”
1.1.3. Hạn chế.
Hạn chế của Đại hội VI là vẫn tách rời kế hoạch hóa và thị trường khi xem
“kế hoạch hóa là đặc trưng số một”, và “sử dụng đúng đắn quan hệ hàng hóa – tiền
tệ là đặc trưng số hai”; vẫn duy trì cơ chế Nhà nước giữ độc quyền ngoại thương.
Đó là “đối với những mặt hàng hoàn toàn do kinh tế quốc doanh sản xuất hoặc
nhập khẩu, đương nhiên, thương nghiệp quốc doanh độc quyền bán trên thị trường
và Nhà nước có biện pháp quản lý hành chính để đảm bảo sự độc quyền ấy. Tuy
còn một số hạn chế, song những chủ trương đổi mới của Đại hội VI có ý nghĩa
quan trọng trong quá trình xác lập cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta.
Tuy nhiên, nhìn thổng thể, đến trước Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (6
– 1991), cơ chế quản lý kinh tế mới tuy đã xác lập, nhưng chưa đồng bộ, ảnh
hưởng đến việc định hướng và thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển. Vai trò
quản lý kinh tế của Nhà nước theo cơ chế mới ở một số ngành kinh tế còn mờ nhạt,
lỏng lẻo, nhất là khâu phân phối thu nhập trong các đơn vị kinh tế quốc doanh.
Thương nghiệp quốc doanh còn lúng túng về phương thức hoạt động. Trong quá
trình chuyển đổi và xác lập cơ chế thị trường, bên cạnh mặt tích cực, trong nền
kinh tế - xã hội cũng xuất hiện nhiều hiện tượng tiêu cực. Không ít cơ sở làm ăn
chạy theo lợi nhuận bằng mọi giá, bất chấp pháp luật như lừa đảo, làm hàng giả,
buôn lậu, trốn thuế, … Sự sôi động trong quá trình chuyển đổi phương thức kinh
doanh thương mại là tác nhân khiến cho tình trạng thương mại hóa nền kinh tế - xã
hội ngày càng gia tăng, làm biến dạng mô hình kinh tế. Nhiều đơn vị kinh tế có xu
hướng chạy theo buôn bán để kiếm lời hơn là đầu tư để tạo ra nhiều hàng hóa, của
cải cho xã hội.
1.2. Đại hội lần thứ VII của Đảng (6 – 1991).
1.2.1. Chủ trương, quan điểm.
Tại Đại hội lần thứ VII của Đảng (6 – 1991), chủ trương tiếp tục xây dựng
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần và đổi mới quản lý kinh tế càng được nhấn
mạnh. Đại hội xác định rõ cơ chế vận hành nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
theo định hướng xã hội chủ nghĩa là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước
bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác. Trong cơ chế đó, các
đơn vị kinh tế có quyền tự chủ sản xuất kinh doanh, quan hệ bình đẳng, cạnh tranh
hợp pháp, hợp tác và liên doanh tự nguyện.
Đại hội VII đã chỉ ra một số giải pháp cụ thể để tiếp tục xác lập cơ chế quản
lý mới trong nền kinh tế quốc dân. Giải pháp cấp bách là sắp xếp lại và đổi mới
quản lý kinh tế quốc doanh. Trong cơ chế mới, bao cấp của Nhà nước đối với các
doanh nghiệp quốc doanh từng bước được xóa bỏ. Tiếp tục củng cố và phát triển
các cơ sở kinh tế trọng điểm, các cơ sở kinh tế làm ăn có hiệu quả.
Đối với những đơn vị làm ăn thua lỗ kéo dài, Đại hội chủ trương thực hiện
các biện pháp mạnh như cho thuê, chuyển hình thức sở hữu hoặc giải thể, … Cùng
với việc sắp xếp đổi mới quản lý trong các cơ sở quốc doanh, Đại hội VII nhấn
mạnh tiếp tục đổi mới và kiện toàn kinh tế tập thể, phát triển mạnh mẽ kinh tế gia
đình, định hướng cho kinh tế tư nhân phát triển.
Đổi mới công tác kế hoạch hóa trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần,
Đại hội VII chủ trương phải lấy thị trường làm đối tượng và là căn cứ quan trọng
nhất. Đồng thời, kế hoạch phải xác định những cân đối lớn của nền kinh tế quốc
dân và có chính sách, biện pháp bảo đảm các cân đối đó, nâng cao dần trình độ dự
báo kinh tế - xã hội trong công tác kế hoạch hóa.
Để xây dựng nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng chủ trương: “Kiên trì vận dụng cơ chế giá thị trường
đối với giá hàng tiêu dùng, tư liệu sản xuất, tỷ giá hối đoái, lãi suất 43 tín dụng;
điều chỉnh từng bước mặt bằng giá và quan hệ tỷ giá cho phù hợp với sự thay đổi
của giá quốc tế đối với các loại vật tư, nguyên liệu, thiết bị nhập khẩu, song phải
chú ý bảo đảm sản xuất phát triển”
Cùng với việc xóa bỏ cơ chế giá bao cấp là quá trình các doanh nghiệp thuộc
hệ thống thương nghiệp quốc doanh cũng được sắp xếp lại tổ chức, chuyển đổi
phương thức kinh doanh để từng bước hội nhập và phát huy vai trò trong cơ chế
mới. Đại hội VII nhấn mạnh: “Sắp xếp và đổi mới hệ thống thương nghiệp quốc
doanh, nâng cao hiệu quả, phát huy tác dụng tích cực trong việc ổn định và điều
tiết giá cả thị trường. Tập trung làm tốt khâu bán buôn kết hợp với một phần bán lẻ
những mặt hàng thiết yếu”
1.2.2. Thực hiện và kết quả.
Trong cơ chế quản lý xuất nhập khẩu hàng hóa, Đại hội VII có những bước
tiến đáng kể so với Đại hội VI. Giảm dần độc quyền trong kinh doanh hàng xuất
nhập khẩu của các doanh nghiệp quốc doanh với giải pháp cho phép thành lập các
hiệp hội xuất nhập khẩu tự nguyện, đổi mới việc cấp giấy phép và hạn ngạch xuất
nhập khẩu.
Như vậy, đến Đại hội VII, tư duy về việc xây dựng cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã được xác lập trên cả
bình diện quản lý vĩ mô cũng như trong hoạt động của các đơn vị kinh tế cơ sở. Cơ
chế quản lý này được xây dựng trên cơ sở chế độ hạch toán kinh doanh xã hội chủ
nghĩa ra đời trước đó nhưng phát triển cao hơn trên cơ sở tổng kết sự vận động của
thực tiễn cũng như nhu cầu khách quan của nền kinh tế đất nước trong buổi đầu
thời kỳ quá độ.
Những chủ trương đổi mới cơ chế quản lý kinh tế của Đảng và Nhà nước
nhanh chóng đi vào cuộc sống, mang lại kết quả tích cực. Nền kinh tế có tốc độ
tăng trưởng nhanh, nhịp độ tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình 45 quân
hàng năm thời kỳ 1991 – 1995 đạt 8,2%. Tình trạng lạm phát bị đẩy lùi từ 774,7%
năm 1986 xuống còn 67,1% năm 1991, 12,7% năm 1995. Đầu tư toàn xã hội bằng
nguồn vốn trong nước và ngoài nước so với GDP năm 1990 là 15,8%, năm 1995 là
27,4%.
Trong cơ chế cũ, hàng hóa chỉ giới hạn ở hai mặt hàng chủ yếu là vật tư và
lương thực. Đến thời điểm này, thị trường trong nước phát triển phong phú, đối
tượng kinh doanh được mở rộng ở nhiều lĩnh vực. Ngoài hàng hóa có tính vật chất
còn xuất hiện và phát triển nhiều hàng hóa ở dạng phi vật chất.
Hoạt động kinh doanh dịch vụ, chuyển giao công nghệ, sở hữu trí tuệ, … ra
đời và thâm nhập một cách nhanh chóng vào thị trường, làm đa dạng hóa loại hình
và phương thức kinh doanh.
Trong cơ chế cũ, thương nghiệp, hệ thống thương nghiệp xã hội chủ nghĩa
được hiểu một cách đơn giản là thực hiện chức năng vận chuyển hàng hóa từ nơi
này đến nơi khác, từ người sản xuất đến người tiêu dùng thông qua hệ thống phân
phối bằng hiện vật, với chế độ bao cấp qua giá của Nhà nước.
Đến thời điểm tiến hành Đại hội VII, khái niệm “thương nghiệp” được thay
thế bằng khái niệm “thương mại” có nội hàm rộng, phong phú và hiện đại hơn,
phản ảnh kịp thời sự hình thành các loại thị trường và sự phát triển của nền kinh tế
đất nước trong thời kỳ mở cửa, hội nhập.
1.3. Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ VIII (6 – 1996).
1.3.1. Chủ trương, quan điểm.
Khi đánh giá về vai trò của cơ chế thị trường đối với sự phát triển của lực
lượng sản xuất, Đại hội VIII nhấn mạnh: “Cơ chế thị trường đã phát huy tác dụng
tích cực to lớn đến sự phát triển kinh tế - xã hội. Nó chẳng những không đối lập mà
còn là một nhân tố khách quan cần thiết của việc xây dựng và phát triển đất nước
theo con đường xã hội chủ nghĩa”. Luận điểm này đánh dấu mốc chuyển biến căn
bản trong nhận thức của Đảng về cơ chế thị trường, từ chỗ phủ nhận, coi là cơ chế
đặc trưng riêng biệt của chủ nghĩa tư bản, đối lập với chủ nghĩa xã hội, đến thừa
nhận sự tồn tại khách quan cần thiết của nó đối với nền kinh tế nước ta trong thời
kỳ quá độ.
Từ nhận thức đó, Đại hội VIII nhấn mạnh tới việc xác lập một cách đồng bộ
các loại thị trường trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước: “Đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần không
thể tách rời việc xây dựng đồng bộ và vận hành có hiệu quả cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Đại hội chủ trương nâng
cao năng lực quản lý vĩ mô của Nhà nước nhằm phát huy tác dụng tích cực đi đôi
với ngăn ngừa, hạn chế và khắc phục những mặt tiêu cực, mâu thuẫn với chủ nghĩa
xã hội của cơ chế thị trường.
1.3.2. Thực hiện và kết quả.
Những chủ trương đổi mới quan trọng về cơ chế quản lý trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Đại hội VIII đã được triển khai một cách
sâu rộng và có tác dụng tích cực, tạo ra những thành tựu vượt bậc trong nền kinh tế
quốc dân. Trong 5 năm (1996 – 2001), tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng bình
quân hàng năm 7%, các ngành kinh tế đều có sự chuyển biến tích cực.
1.3.3. Hạn chế.
Nhìn một cách tổng thể thì nền kinh tế phát triển chưa bảo đảm được tính bền
vững, hiệu quả và sức cạnh tranh còn thấp. “Cơ chế, chính sách không đồng bộ và
chưa tạo động lực mạnh để phát triển. Một số cơ chế, chính sách còn thiếu, chưa
nhất quán, chưa sát với cuộc sống, thiếu tính khả thi, … chưa bổ sung những cơ
chế, chính sách mới có tác dụng giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất, khai thác
nhiều hơn nữa nguồn lực dồi dào trong các thành phần kinh tế, các doanh nghiệp,
các vùng và toàn thể xã hội”
1.4. Đánh giá về giai đoạn.
Đại hội VI, VII và Đại hội VIII của Đảng đã khẳng định mục tiêu xã hội chủ
nghĩa. Đổi mới không có nghĩa là từ bỏ mục tiêu xã hội chủ nghĩa, mà là tìm ra
phương thức, con đường đúng đắn hơn, có hiệu quả hơn, nhanh chóng đi tới mục
tiêu.
Thực hiện đường lối đổi mới, cùng với việc đổi mới trên nhiều lĩnh vực khác,
trên lĩnh vực kinh tế, thực hiện bước chuyển sang kinh tế thị trường. Nhờ những
thành tựu đạt được trong bước chuyển đó, nền kinh tế của đất nước có bước phát
triển khá, đời sống của hầu hết các tầng lớp nhân dân từng bước được cải thiện.
2. Giai đoạn từ sau Đại hội IX đến nay.
2.1. Đại hội IX Đảng Cộng sản Việt Nam: Lần đầu tiên khẳng định về
“nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”.
2.1.1. Chủ trương, quan điểm.
Đại hội IX Đảng Cộng sản Việt Nam lần đầu tiên khẳng định về “nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đánh một dấu mốc lớn trong nhận
thức của Đảng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, đó thực
sự là một Đại hội đổi mới. Tại Đại hội này, Đảng xác định kinh tế thị trường là
thành tựu của văn minh nhân loại. Tuy nhiên, từ Đại hội VI đến Đại hội VIII, Đảng
chưa đưa ra khái niệm “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Chỉ đến Đại hội IX, Đảng mới lựa chọn mô hình kinh tế thị trường xã hội chủ
nghĩa. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (4 – 2001) diễn ra trong bối cảnh sự
nghiệp đổi mới đã tiến hành được 15 năm, mang lại nhiều thành tựu kinh tế - xã
hội quan trọng, làm thay đổi cơ bản tình hình đất nước. Nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa đã hình thành một cách cơ bản.
Tổng kết 15 năm đổi mới, Đại hội IX khẳng định: “Đảng và Nhà nước ta chủ
trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa”. Đây là bước chuyển quan trọng từ nhận thức kinh tế thị trường như
một công cụ, một cơ chế quản lý, sang coi kinh tế thị trường như một chỉnh thể, là
cơ sở kinh tế của sự phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đại hội IX xác định kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là “Một
kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ
sở và chịu sự chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội”.
Tại Đại hội IX, Đảng nhấn mạnh “mục đích của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây
dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân.
Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới
phù hợp trên cả ba mặt sở hữu, quản lý và phân phối”
2.1.2. Thực hiện và kết quả.
Với những tư tưởng đổi mới sâu sắc trên các lĩnh vực, nhất là trong kinh tế,
đường lối Đại hội IX nhanh chóng đi vào cuộc sống và đem lại nhiều thành tựu
kinh tế - xã hội. Cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được thiết lập ngày
càng đồng bộ hơn, có tác dụng khuyến khích mọi thành phần kinh tế mở rộng và
phát triển sản xuất, kinh doanh.
Như vậy, từ sau Hội nghị lần thứ 6 khóa IV (9 – 1979) nền kinh tế nước ta
từng bước xóa bỏ cơ chế kế hoạch hóa, tập trung bao cấp, chuyển sang thiết lập các
yếu tố của cơ chế thị trường. Cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã
phát huy vai trò tích cực đối với việc khơi dậy tiềm năng của các thành phần kinh
tế trong thời kỳ quá độ và làm thay đổi diện mạo nền kinh tế - xã hội.
2.1.3. Hạn chế.
Nhưng ở một vài lĩnh vực, như vấn đề giá cả, phương thức quản lý đối với các
doanh nghiệp nhà nước, việc thể chế hóa các chủ trương của Đảng, chính sách của
Nhà nước về việc thiết lập đồng bộ các yếu tố của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa còn gặp không ít rào cản.
Nghị quyết Trung ương 9 khóa IX đã cảnh báo hiện tượng: “Có xu hướng bao
cấp trở lại và bảo trợ dưới nhiều hình thức cho doanh nghiệp nhà nước. Một số
trường hợp Nhà nước giữ độc quyền là cần thiết nhưng đã biến thành độc quyền
kinh doanh của các tổng công ty”. Điều đó đã tác động xấu và gây cản trở việc đưa
nền kinh tế nước ta hội nhập sâu vào đời sống kinh tế quốc tế. Vì thế, trong không
ít trường hợp, nền kinh tế nước ta là nền kinh tế “thị trường” hay “phi thị trường”
đã trở thành vấn đề bị một số đối tác lợi dụng, gây tổn hại đến lợi ích của doanh
nghiệp và đất nước trong quá trình hội nhập. Kể cả trong quá trình đàm phán Việt –
Mỹ về việc Việt Nam 53 ra nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), phía Mỹ
vẫn cho rằng Việt Nam chưa có nền kinh tế thị trường, bao cấp còn nặng và đặt ra
thời hạn để Việt Nam được thừa nhận là nước có nền kinh tế “thị trường”.
2.2. Đại hội X và XI: Đảng ta tiếp tục hoàn thiện “thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa”.
2.2.1. Chủ trương, quan điểm.
Đại hội X chủ trương “tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa”, trong đó bổ sung, phát triển một số nhận thức mới về nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Bao gồm mục tiêu phát triển kinh
tế thị trường ở Việt Nam; tính đồng bộ, tính hiệu quả của các loại thị trường; vai
trò, vị trí các thành phần kinh tế và mối quan hệ giữa chúng trong quá trình phát
triển; quản lý nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Hội nghị Trung ương 6 khóa X nhấn mạnh: “Nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một nền kinh tế vừa tuân theo quy luật của
kinh tế thị trường, vừa chịu sự chi phối bởi các quy luật kinh tế của chủ nghĩa xã
hội và các yếu tố bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa”
Khái niệm “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” được nêu ra từ
Đại hội IX, nhưng phải đến Đại hội XI, khái niệm này mới thật sự rõ ràng, đầy đủ.
''Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà
nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; vừa vận động theo những quy luật của
thị trường, vừa được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ
nghĩa xã hội; trong đó, cơ chế thị trường được vận dụng đầy đủ, linh hoạt để phát
huy mạnh mẽ, có hiệu quả mọi nguồn lực nhằm phát triển nhanh và bền vững nền
kinh tế; khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói, giảm nghèo, thực hiện
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Các thành phần kinh
tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng
trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác cạnh tranh lành mạnh; trong đó,
kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo”
2.2.2. Thực hiện, kết quả.
Những nhận thức mới của Đảng về cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và quá trình hình thành các loại thị trường đã có ý nghĩa giải phóng sức sản
xuất, đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, tạo ra môi trường hội nhập sâu hơn với nền kinh tế thế giới.
Như vậy có thể thấy, trong giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới, chúng ta rất
thận trọng, thậm chí còn e ngại, chưa đề cập đến kinh tế thị trường. Lúc đó Đảng ta
mới nêu ra quan điểm phát triển nền kinh tế hàng hoá có kế hoạch gồm nhiều thành
phần đi lên chủ nghĩa xã hội, hầu như chưa nói tới cơ chế thị trường, càng chưa nói
tới phát triển nền kinh tế thị trường. Chỉ từ Đại hội IX, Đảng Cộng sản Việt Nam
lần đầu tiên khẳng định về “nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”.
2.2.3. Hạn chế.
Tuy nhiên, để định hình đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa còn nhiều việc phải làm. Đó là hoàn thiện khung pháp lý để hình thành
đồng bộ các loại thị trường; cải cách doanh nghiệp nhà nước vừa có khả năng đóng
vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường, vừa có quyền tự chịu trách nhiệm về
mọi phương án sản xuất kinh doanh; minh bạch hóa và giảm dần sự bảo trợ của
Nhà nước với doanh nghiệp nhà nước, tạo môi trường bình đẳng cho mọi thành
phần kinh tế cùng cạnh tranh, phát triển; hoàn thiện các công cụ quản lỹ vĩ mô
trong điều kiện thị trường dần hình thành đồng bộ và hội nhập kinh tế quốc tế sâu
rộng.
2.3. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII (1/2016).
2.3.1. Chủ trương, quan điểm.
Trên cơ sở tổng kết toàn diện 30 năm đổi mới, Đại hội lần thứ XII của Đảng
đã nêu rõ: “Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam là nền kinh tế
vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời đảm
bảo định hướng XHCN phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là
nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế, có sự quản lý của nhà nước
pháp quyền XHCN do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo”. Đây là quan điểm khái
quát, đầy đủ và rõ ràng nhất của Đảng ta về nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN từ khi đổi mới đến nay.
Đại hội XII của Đảng đã có bước phát triển mới về tư duy, nhận thức về “nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN” ở nước ta: Cụ thể: Về những đặc trưng cơ
bản của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; Về việc thực hiện thể chế sở
hữu và phát triển các thành phần kinh tế; về việc phát triển đồng bộ các yếu tố thị
trường và các loại thị trường; về việc đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả hội nhập kinh
tế quốc tế.
2.3.2. Thực hiện, kết quả.
Tiếp tục phát triển đồng bộ và vận hành thông suốt các loại thị trường; thực
hiện nhất quán cơ chế giá thị trường; hoàn thiện pháp luật về phí, lệ phí và rà soát
chuyển đổi chính sách phí lệ phí đối với một dịch vụ công sang áp dụng giá dịch
vụ. Mở rộng cơ chế đấu thầu, đấu giá, thẩm định giá, đảm bảo tính đúng, tính đủ và
công khai, minh bạch các yếu tố hình thành giá đối với hàng hóa, dịch vụ công
thiết yếu.
2.4. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (1/2021).
2.4.1. Một số nội dung mới trong quan điểm của Đảng.
Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam là mô hình tự thân mang
tính tất yếu khách quan, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển.
Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam là nền kinh tế vì con
người, lấy con người là trung tâm của sự phát triển, thực hiện mục tiêu “dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam là nền kinh tế thị trường
hiện đại và hội nhập quốc tế, đáp ứng những chuẩn mực của nền kinh tế thị trường
toàn cầu.
Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam là nền kinh tế giải quyết
hợp lý mối quan hệ giữa nhà nước với thị trường để đảm bảo hiệu quả kinh tế, tiến
bộ, công bằng xã hội và môi trường bền vững.
III. ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI
QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở NƯỚC TA TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI TỪ 1986
ĐẾN NAY.
1. Kết quả.
Tóm lại, nhìn lại quá trình hình thành và phát triển đường lối đổi mới của
Đảng, chúng ta thấy mỗi Đại hội và Hội nghị Trung ương đã in đậm vai trò lãnh
đạo của Đảng và đánh dấu sự trưởng thành, phát triển trong tư duy cầm quyền và
lãnh đạo của Đảng. Đường lối đổi mới đó là kết quả của quá trình tìm tòi, thử
nghiệm, vận dụng lý luận, tổng kết thực tiễn, đấu tranh với những quan điểm sai
trái. Thành công của Đảng là kiên quyết đổi mới, dám nhìn thẳng vào sự thật, dám
thừa nhận sai lầm; từ bỏ những cách nghĩ, cách làm không còn phù hợp; kiên quyết
khắc phục tư tưởng bảo thủ, giáo điều; mạnh dạn tạo ra những đột phá quan trọng,
nhưng không rơi vào cực đoan, nôn nóng.
Sau gần 35 năm đổi mới, nước ta đã chuyển đổi thành công từ thể chế kinh tế
kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp sang thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Ðường lối đổi mới của Ðảng đã được thể chế hóa thành
Hiến pháp, pháp luật, tạo hành lang pháp lý cho nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa hình thành và phát triển. Chế độ sở hữu và cơ cấu các thành phần
kinh tế được đổi mới cơ bản từ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, kinh tế quốc doanh
và kinh tế tập thể là chủ yếu sang nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế
đan xen hỗn hợp, trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, tạo động lực và
điều kiện thuận lợi cho khai thác tiềm năng trong và ngoài nước vào phát triển kinh
tế - xã hội. Các loại thị trường cơ bản đã ra đời và từng bước phát triển thống nhất
trong cả nước, gắn với thị trường khu vực và thế giới. Cơ chế thị trường có sự quản
lý của Nhà nước đã đi vào cuộc sống, doanh nghiệp và doanh nhân được tự chủ
kinh doanh, cạnh tranh lành mạnh để phát triển. Quản lý nhà nước về kinh tế được
đổi mới từ can thiệp trực tiếp bằng mệnh lệnh hành chính vào hoạt động sản xuất
kinh doanh chuyển sang quản lý bằng luật pháp, chính sách, chiến lược, quy hoạch,
kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và các công cụ điều tiết vĩ mô khác. Việc gắn
phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội, xóa đói, giảm nghèo đạt nhiều
kết quả tích cực.
1.1. Thành tựu từng giai đoạn.
Giai đoạn 1986 - 1990:
Đây là giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới. Chủ trương phát triển kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, nền kinh tế dần dần khắc phục được những yếu kém và có những bước phát
triển. Kết thúc kế hoạch 5 năm (1986 - 1990), công cuộc đổi mới đã đạt được
những thành tựu bước đầu rất quan trọng: GDP tăng 4,4%/năm; tổng giá trị sản
xuất nông nghiệp tăng bình quân 3,8 - 4%/năm; công nghiệp tăng bình quân
7,4%/năm, trong đó sản xuất hàng tiêu dùng tăng 13 -14%/năm; giá trị kim ngạch
xuất khẩu tăng 28%/.
Việc thực hiện tốt ba chương trình mục tiêu phát triển về lương thực - thực
phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu đã phục hồi được sản xuất, tăng trưởng
kinh tế, kiềm chế lạm phát,… Đây được đánh giá là thành công bước đầu cụ thể
hóa nội dung của công nghiệp hóa XHCN trong chặng đường đầu tiên. Điều quan
trọng nhất, đây là giai đoạn chuyển đổi cơ bản cơ chế quản lý cũ sang cơ chế quản
lý mới, thực hiện một bước quá trình đổi mới đời sống kinh tế - xã hội và bước đầu
giải phóng được lực lượng sản xuất, tạo ra động lực phát triển mới.
Giai đoạn 1991 - 1995:
Đất nước dần dần ra khỏi tình trạng trì trệ, suy thoái. Nền kinh tế tiếp tục đạt
được những thành tựu quan trọng: đã khắc phục được tình trạng trì trệ, suy thoái,
tốc độ tăng trưởng đạt tương đối cao, liên tục và toàn diện, hầu hết các chỉ tiêu chủ
yếu đều vượt mức: GDP bình quân tăng 8,2%/năm; giá trị sản xuất công nghiệp
tăng 13,3%/năm; nông nghiệp tăng 4,5%/năm; lĩnh vực dịch vụ tăng 12%/năm;
tổng sản lượng lương thực 5 năm (1991 - 1995) đạt 125,4 triệu tấn, tăng 27% so
với giai đoạn 1986 – 1990.
Hầu hết các lĩnh vực kinh tế đều đạt nhịp độ tăng trưởng tương đối khá.
“Nước ta đã ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng và kéo dài
hơn 15 năm, tuy còn một số mặt chưa vững chắc, song đã tạo được tiền đề cần thiết
để chuyển sang một thời kỳ phát triển mới: đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước”.
Giai đoạn 1996 - 2000:
Đây là giai đoạn đánh dấu bước phát triển quan trọng của kinh tế thời kỳ mới,
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Mặc dù cùng chịu tác động của
khủng hoảng tài chính - kinh tế khu vực (giai đoạn 1997 - 1999) và thiên tai
nghiêm trọng xảy ra liên tiếp, đặt nền kinh tế nước ta trước những thử thách khốc
liệt, tuy nhiên, Việt Nam vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng khá. GDP bình quân
của cả giai đoạn 1996 - 2000 đạt 7%; trong đó, nông, lâm, ngư nghiệp tăng 4,1%;
công nghiệp và xây dựng tăng 10,5%; các ngành dịch vụ tăng 5,2%. “Nếu tính cả
giai đoạn 1991 - 2000 thì nhịp độ tăng trưởng GDP bình quân là 7,5%. So với năm
1990, GDP năm 2000 tăng hơn hai lần”.
Giai đoạn 2001 - 2005:
Sự nghiệp đổi mới ở giai đoạn này đi vào chiều sâu, việc triển khai Chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 và Kế hoạch 5 năm 2001 - 2005 mà
Đại hội IX của Đảng thông qua đã đạt được những kết quả nhất định. Nền kinh tế
đạt tốc độ tăng trưởng khá cao, theo hướng tích cực, năm sau cao hơn năm trước.
GDP tăng bình quân 7,5%/năm, riêng năm 2005 đạt 8,4%; trong đó, nông nghiệp
tăng 3,8%; công nghiệp và xây dựng tăng 10,2%; các ngành dịch vụ tăng 7%.
Riêng quy mô tổng sản phẩm trong nước của nền kinh tế năm 2005 đạt 837,8
nghìn tỷ đồng, tăng gấp đôi so với năm 1995. GDP bình quân đầu người khoảng 10
triệu đồng (tương đương 640 USD), vượt mức bình quân của các nước đang phát
triển có thu nhập thấp (500 USD).
Từ một nước thiếu ăn, mỗi năm phải nhập khẩu từ 50 vạn đến 1 triệu tấn
lương thực, Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới. Năm
2005, Việt Nam đứng thứ nhất thế giới về xuất khẩu hạt tiêu; đứng thứ hai về các
mặt hàng gạo, cà phê, hạt điều; thứ 4 về cao su;…
Cùng với sự tăng trưởng kinh tế, sự ổn định kinh tế vĩ mô được duy trì, bảo
đảm sự ổn định chính trị, xã hội, quốc phòng và an ninh, bước đầu phát huy được
nhiều lợi thế của đất nước, của từng vùng và từng ngành; cải cách thể chế kinh tế,
từng bước hoàn thiện các cơ chế chính sách quản lý và hệ thống điều hành; cải
cách và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống tài chính, tiền tệ; phát triển
nguồn và chất lượng lao động, khoa học và công nghệ;...
Giai đoạn 2006 - 2010:
Nền kinh tế vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng khá, tiềm lực và quy mô nền kinh
tế tăng lên, nước ta đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, từ nhóm nước thu thập
thấp đã trở thành nước có thu nhập trung bình (thấp). GDP bình quân 5 năm đạt
7%. Mặc dù bị tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu
(từ cuối năm 2008), nhưng thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam vẫn đạt
cao. Tổng vốn FDI thực hiện đạt gần 45 tỷ USD, vượt 77% so với kế hoạch đề ra.
Tổng số vốn đăng ký mới và tăng thêm ước đạt 150 tỷ USD, gấp hơn 2,7 lần kế
hoạch đề ra và gấp hơn 7 lần so với giai đoạn 2001 - 2005. Tổng vốn ODA cam kết
đạt trên 31 tỷ USD, gấp hơn 1,5 lần so với mục tiêu đề ra; giải ngân ước đạt
khoảng 13,8 tỷ USD, vượt 16%. GDP năm 2010 tính theo giá thực tế đạt 101,6 tỷ
USD, gấp 3,26 lần so với năm 2000.
Trong năm 2011:
Mặc dù sự phục hồi kinh tế sau khủng hoảng tài chính toàn cầu còn rất chậm,
song mức tăng trưởng kinh tế bình quân vẫn đạt 7%/năm, tuy thấp hơn kế hoạch
(7,5% - 8%), nhưng vẫn được đánh giá cao hơn bình quân các nước trong khu vực.
Như vậy, trong vòng 20 năm (1991 - 2011), tăng trưởng GDP của Việt Nam
đạt 7,34%/năm, thuộc loại cao ở khu vực Đông Nam Á nói riêng, ở châu Á và trên
thế giới nói chung; quy mô kinh tế năm 2011 gấp trên 4,4 lần năm 1990, gấp trên
2,1 lần năm 2000 (thời kỳ 2001 - 2011 bình quân đạt 7,14%/năm).
Năm 2012:
GDP tăng 5,03% so với năm 2011. Mức tăng trưởng tuy thấp hơn mức tăng
5,89% của năm 2011, nhưng trong bối cảnh kinh tế thế giới gặp khó khăn thì đây là
mức tăng trưởng hợp lý. Về sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản ước tính tăng
3,4% so với năm 2011; công nghiệp tăng 4,8% so với năm 2011. Chỉ số giá tiêu
dùng năm 2012 tăng 6,81%. Đầu tư phát triển tăng 7% so với năm trước và bằng
33,5% GDP. Xuất, nhâ ˜p khẩu hàng hóa tăng 18,3%. Kim ngạch xuất khẩu có thể
vượt qua mốc 100 tỷ USD, tỷ lệ kim ngạch xuất, nhập khẩu so với GDP năm 2011
đã đạt xấp xỉ 170%, đứng thứ 5 thế giới.
Vốn FDI tính từ 1988 đến tháng 7-2012 đăng ký đạt trên 236 tỷ USD, thực
hiện đạt trên 96,6 tỷ USD. Vốn ODA từ 1993 đến nay cam kết đạt gần 80 tỷ USD,
giải ngân đạt trên 35 tỷ USD.
Nhìn chung, các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế đều có bước phát triển khá,
trong đó sự phát triển ổn định trong ngành nông nghiệp, nhất là sản xuất lương
thực đã bảo đảm an ninh lương thực quốc gia; sản phẩm công nghiệp phát triển
ngày càng đa dạng và phong phú về chủng loại, chất lượng được cải thiện, từng
bước nâng cao khả năng cạnh tranh, bảo đảm cung cầu của nền kinh tế, giữ vững
thị trường trong nước và mở rộng thị trường xuất khẩu; chú trọng đầu tư phát triển
một số ngành công nghiệp mới, công nghệ cao; khu vực dịch vụ có tốc độ tăng
trưởng ổn định. Sự phục hồi và đạt mức tăng trưởng khá này đã tạo cơ sở vững
chắc để quá trình thực hiện kế hoạch 5 năm (2011 - 2015) trong những năm sau đạt
kết quả vững chắc hơn.
1.2. Cơ cấu kinh tế chuyển biến tích cực theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, gắn sản xuất với thị trường.
Về cơ cấu kinh tế tiếp tục được chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP giảm dần, năm 1986 là 46,3%, năm
2005 còn 20,9%, năm 2010 còn 20,6%; cơ cấu trồng trọt và chăn nuôi đã chuyển
dịch theo hướng tiến bộ, tăng tỷ trọng các sản phẩm có năng suất và hiệu quả kinh
tế cao, các sản phẩm có giá trị xuất khẩu. Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng tăng
nhanh và liên tục với thiết bị, công nghệ ngày càng hiện đại: năm 1988 là 21,6%,
năm 2005 lên 41%. Tỷ trọng khu vực dịch vụ đã tăng từ 33,1% năm 1988 lên
38,1% năm 2005.
Nông nghiệp có sự biến đổi quan trọng, đã chuyển từ độc canh lúa, năng suất
thấp và thiếu hụt lớn, sang không những đủ dùng trong nước, còn xuất khẩu gạo
với khối lượng lớn, đứng thứ hai thế giới, góp phần vào an ninh lương thực quốc
tế; xuất khẩu cà phê, cao su, hạt điều, hạt tiêu, thủy sản với khối lượng lớn đứng
thứ hạng cao trên thế giới.
Các ngành dịch vụ đã phát triển đa dạng hơn, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu
cầu của sản xuất và đời sống: ngành du lịch, bưu chính viễn thông phát triển với
tốc độ nhanh; các ngành dịch vụ tài chính, ngân hàng, tư vấn pháp lý;... có bước
phát triển theo hướng tiến bộ, hiệu quả.
1.3. Thực hiện có kết quả chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều
thành phần, phát huy ngày càng tốt hơn tiềm năng của các thành phần kinh
tế.
Kinh tế nhà nước được sắp xếp, đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả, tập
trung hơn vào những ngành then chốt và những lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế.
Cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà nước được đổi mới một bước quan trọng theo
hướng xóa bao cấp, thực hiện mô hình công ty, phát huy quyền tự chủ và trách
nhiệm của doanh nghiệp trong kinh doanh. Kinh tế tư nhân phát triển mạnh, huy
động ngày càng tốt hơn các nguồn lực và tiềm năng trong nhân dân, là một động
lực rất quan trọng thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế. Năm 2005, khu vực
kinh tế tư nhân đóng góp khoảng 38% GDP của cả nước. Kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài có tốc độ tăng trưởng tương đối cao, trở thành một bộ phận cấu thành
quan trọng của nền kinh tế quốc dân; là cầu nối quan trọng với thế giới về chuyển
giao công nghệ, giao thông quốc tế, đóng góp vào ngân sách nhà nước và tạo việc
làm cho nhiều người dân.
1.4. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dần dần
được hình thành, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định.
Trải qua gần 35 năm đổi mới, hệ thống pháp luật, chính sách và cơ chế vận
hành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xây dựng tương
đối đồng bộ. Hoạt động của các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế nhiều
thành phần và bộ máy quản lý của Nhà nước được đổi mới một bước quan trọng.
Với chủ trương tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, quan hệ kinh tế của
Việt Nam với các nước, các tổ chức quốc tế ngày càng được mở rộng. Việt Nam đã
tham gia Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), thực hiện các cam kết về
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa
Kỳ, gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO),... Đến nay, Việt Nam đã có
quan hệ thương mại với hơn 200 nước và vùng lãnh thổ, ký hơn 90 hiệp định
thương mại song phương với các nước, tạo ra một bước phát triển mới rất quan
trọng về kinh tế đối ngoại.
Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được xây
dựng và hoàn thiện; chủ trương, đường lối đổi mới của Đảng tiếp tục được thể chế
hóa thành luật pháp, cơ chế, chính sách ngày càng đầy đủ, đồng bộ hơn; môi
trường đầu tư, kinh doanh được cải thiện; các yếu tố thị trường và các loại thị
trường tiếp tục hình thành, phát triển; nền kinh tế nhiều thành phần có bước phát
triển mạnh.
1.5. Những thay đổi về việc chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế.
Trước Đổi Mới, cơ chế quản lý kinh tế ở Việt Nam là cơ chế kế hoạch hoá tập
trung với những đặc điểm sau:
Thứ nhất, Nhà nước quản lý nền kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính
dựa trên hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh chi tiết áp đặt từ trên xuống dưới. Các doanh
nghiệp hoạt động trên cơ sở các quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
và các chỉ tiêu pháp lệnh được giao. Tất cả phương hướng sản xuất, nguồn vật tư,
tiền vốn định giá sản phẩm, tổ chức bộ máy, nhân sự, tiền lương... đều do các cấp
;
có thẩm quyền quyết định. Nhà nước giao chỉ tiêu kế hoạch cấp phát vốn, vật tư
cho doanh nghiệp, doanh nghiệp giao nộp sản phẩm cho Nhà nước. Lỗ thì Nhà
nước bù, lãi thì Nhà nước thu.
Thứ hai, các cơ quan hành chính can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất,
cokinh doanh của các doanh nghiệp nhưng lại không chịu trách nhiệm gì về vật
chất và pháp lý đối với các quyết định của mình. Những thiệt hại vật chất do các
quyết định của cơ quan hành chính gây ra thì ngân sách nhà nước phải gánh chịu.
Các doanh nghiệp không có quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh, cũng không bị ràng
buộc trách nhiệm đối với kết quả sản xuất, kinh doanh.
Thứ ba, quan hệ hàng hóa - tiền tệ bị coi nhẹ, chỉ là hình thức, quan hệ hiện
vật là chủ yếu. Nhà nước quản lý kinh tế thông qua chế độ "cấp phát - giao nộp".
Vì vậy, rất nhiều hàng hóa quan trọng như sức lao động, phát minh sáng chế, tư
liệu sản xuất quan trọng không được coi là hàng hóa về mặt pháp lý.
Thứ tư, bộ máy quản lý cồng kềnh, nhiều cấp trung gian vừa kém năng động,
vừa sinh ra đội ngũ quản lý kém năng lực, phong cách cửa quyền, quan liêu nhưng
lại được hưởng quyền lợi cao hơn người lao động.
Hiện nay Việt Nam đang được thực hiện cơ chế quản lý kinh tế dưới sự điều
khiển của nhà nước, đất nước đã chuyển từ nền kinh tế bao cấp, tập trung sang
nền kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Nền kinh tế thị trường đã giúp cho nền kinh tế Việt nam đạt được nhiều thành
tựu to lớn, đưa Việt nam thoát nghèo, ra khỏi tình trạng đói kém, từ nước chưa phát
triển sang nước đang triển và có xu hướng phát triển đất nước hiện đại hóa, công
nghiệp hóa.
Để chuyển từ nền kinh tế bao cấp, tập trung sang nền kinh tế xã hội chủ nghĩa,
nền kinh tế thị trường, nhà nước đã có những hoạt động nổi bật:
- Xây dựng được mối quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất:
+ Quan hệ sản xuất: Nhà nước xây dựng một chế độ sở hữu với nhiều loại
hình sở hữu, sẽ làm giải phóng lực lượng sản xuất, thu hút được nhiều thành phần
kinh tế tham gia xây dựng đất nước.
+ Với nhiều thành phần kinh tế, nhưng Nhà nước vẫn phải xác định vai trò
chủ đạo của kinh tế Nhà nước, thông qua việc xây dựng các doanh nghiệp Nhà
nước và các công ty cổ phần nhà nước ở các ngành, lĩnh vực then chốt nhằm hạn
chế được tiêu cực của nền kinh tế thị trường.
- Xây dựng lực lượng sản xuất đó là xây dựng nền kinh tế công nghiệp hoá
và hiện đại hoá. Biểu hiện ở 2 mặt:
+ Xây dựng một phương thức quản lý sản xuất theo hướng chuyên môn hoá
tập trung, hợp tác, liên hiệp hoá, đồng thời đẩy mạnh cách mạng khoa học kỹ thuật
theo hướng cơ khí hoá, tự động hoá, hoá học hoá. Xây dựng một cơ cấu kinh tế
phù hợp với lợi thế so sánh của đất nước, qua đó tạo ưu thế cho đất nước trong các
quan hệ quốc tế. Phát triển kinh tế mở, đa dạng hoá và đa phương hoá các loại kinh
tế.
Nước ta có nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung được xây dựng trên cơ sở chế
độ công hữu và sở hữu tập thể về tư liệu sản xuất, có vai trò lớn trong lịch sử đã
góp phần quan trọng vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Ngày nay thế giới
đã chuyển từ đối đầu sang đối thoại xuất hiện nhiều cơ hội thuận lợi cho các quốc
gia chậm phát triển hội nhập với môi trường mới với nhịp độ phát triển cao, nhưng
muốn thích ứng phải tìm được con đường đi mới, phù hợp, đó chinh là nền kinh tế
nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước
theo định hướng XHCN. Để chuyển đổi nền kinh tế, Nhà nước ta cần đổi mới các
phương thức quản lý Nhà nước về kinh tế, và đặc biệt phải xây dựng hệ thống pháp
luật nói chung và pháp luật kinh tế nói riêng cho hoàn chỉnh.
2. Hạn chế.
Tuy nhiên, quá trình xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa còn chậm, chưa theo kịp yêu cầu của công cuộc đổi mới và hội nhập
kinh tế quốc tế của đất nước: Hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách chưa đầy đủ,
đồng bộ và thống nhất; Việc xử lý các vấn đề liên quan đến đất đai còn nhiều
vướng mắc; Vấn đề sở hữu, quản lý và phân phối trong các doanh nghiệp nhà nước
chưa giải quyết tốt, gây khó khăn cho sự phát triển và làm thất thoát tài sản nhà
nước, nhất là khi tiến hành cổ phần hóa; Doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh
tế khác còn bị phân biệt đối xử; Các yếu tố thị trường và các loại thị trường hình
thành, phát triển chậm, thiếu đồng bộ, vận hành chưa thông suốt; Tình trạng cạnh
tranh không lành mạnh, gian lận thương mại, trốn, lậu thuế còn nhiều, chậm được
khắc phục. Phân bổ nguồn lực quốc gia chưa hợp lý. Chính sách tiền lương còn
mang tính bình quân, chưa bảo đảm đời sống của người hưởng lương, chưa khuyến
khích, thu hút và sử dụng được người tài. Hệ thống thuế chưa thực hiện tốt chức
năng điều tiết và bảo đảm công bằng xã hội, thúc đẩy đầu tư, đổi mới công nghệ,
nuôi dưỡng và phát triển nguồn thu. Cơ cấu tổ chức, cơ chế vận hành của bộ máy
nhà nước còn nhiều bất cập, hiệu lực, hiệu quả quản lý còn thấp. Cải cách hành
chính chưa đạt được mục tiêu, yêu cầu đề ra. Tệ tham nhũng, quan liêu, lãng phí
vẫn nghiêm trọng. Cơ chế, chính sách phát triển các lĩnh vực văn hóa, xã hội đổi
mới chậm, chất lượng dịch vụ y tế, giáo dục – đào tạo còn thấp. Hệ thống an sinh
xã hội còn sơ khai. Tỷ lệ người tham gia bảo hiểm xã hội còn thấp. Nhiều vấn đề
bất cập, bức xúc trong xã hội và bảo vệ môi trường chưa được giải quyết tốt.
3. Nguyên nhân.
Những hạn chế, khuyết điểm trên đây là do cả nguyên nhân khách quan và
nguyên nhân chủ quan, trong đó nguyên nhân chủ quan là chủ yếu.
Về khách quan:
Những hạn chế trên có nguyên nhân do việc xây dựng nền kinh tế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là hoàn toàn mới, chưa có tiền lệ trong
lịch sử. Nhận thức về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn nhiều hạn chế. Công tác lý luận
chưa theo kịp đòi hỏi của thực tiễn. Nền kinh tế vẫn trong tình trạng kém phát
triển; sự chênh lệch phát triển giữa các vùng, miền, các thành phần kinh tế và các
tầng lớp dân cư còn cao.
Đổi mới là một sự nghiệp to lớn, toàn diện, lâu dài, rất khó khăn, phức tạp,
chưa có tiền lệ trong lịch sử. Tình hình thế giới và khu vực có những mặt tác động
không thuận lợi; sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch và cơ hội chính
trị.
Nhận thức về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn nhiều hạn
chế do công tác lý luận chưa theo kịp đòi hỏi của thực tiễn, vấn đề này đã được Đại
hội XI của Đảng khẳng định: "Công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn nhìn
chung vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu".
Về chủ quan:
Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, chưa được quan tâm đúng
mức, đổi mới tư duy lý luận chưa kiên quyết, mạnh mẽ, có mặt còn lạc hậu, hạn
chế so với chuyển biến nhanh của thực tiễn. Dự báo tình hình có lúc, có việc làm
còn chậm và thiếu chính xác làm ảnh hưởng đến chất lượng các quyết sách, chủ
trương, đường lối của Đảng. Nhận thức và giải quyết các mối quan hệ lớn còn hạn
chế. Đổi mới chưa toàn diện, thiếu đồng bộ, lúng túng trên một số lĩnh vực.
Nhận thức, phương pháp và cách thức lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện chủ
trương, đường lối, nghị quyết của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước còn
nhiều hạn chế. Quyền hạn và chế độ trách nhiệm, nhất là quyền hạn và trách nhiệm
của người đứng đầu không được quy định rõ ràng; thiếu cơ chế để kiểm soát quyền
lực. Nhiều chủ trương, nghị quyết đúng không được tích cực triển khai thực hiện,
kết quả đạt thấp. Một số chính sách không phù hợp thực tiễn, chậm được sửa đổi,
bổ sung.
Việc quản lý, giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo,
quản lý chủ chốt các cấp về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống chưa được coi
trọng thường xuyên, đúng mức, hiệu quả thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu, chưa
tạo được sự thống nhất cao về nhận thức tư tưởng, ý chí và hành động trong Đảng
trước những diễn biến phức tạp của tình hình. Đánh giá, sử dụng, bố trí cán bộ còn
nể nang, cục bộ; chưa quan tâm việc xây dựng cơ chế, chính sách để trọng dụng
người có đức, có tài.
Vai trò tham gia hoạch định chính sách, thực hiện và giám sát của các cơ
quan dân cư, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính chị - xã hội, các tổ chức xã hội,
nghề nghiệp còn yếu.
4.Bài học kinh nghiệm.
Để đáp ứng nhu cầu phát triển thực tiễn kinh tế - xã hội, nhu cầu công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển và hoàn thiện dần nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, phấn đấu đến năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành nước
công nghiệp theo hướng hiện đại, thì yêu cầu chúng ta cần phải tiếp tục đổi mới
nhận thức, đổi mới tư duy (đặc biệt là nhận thức về kinh tế thị trường) là hết sức
cấp bách.
Xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một quá trình lâu
dài diễn ra không phải trong một chốc một lát mà sẽ phải nếm trải không ít khó
khăn thử thách. Vì vậy, trước những khó khăn, thử thách đó, thực tiễn đòi hỏi phải
luôn có sự tìm tòi sáng tạo, phải luôn có sự đổi mới.
Trong quá trình xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, cần tiếp tục làm rõ nội hàm cơ bản của thể chế kinh tế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt một số vấn đề liên quan đến bản chất
của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chẳng hạn như công cụ thực
hiện kinh tế thị trường, các vấn đề liên quan đến sở hữu, vai trò lãnh đạo của Đảng,
vai trò quản lý của Nhà nước, vai trò của các thành phần kinh tế Nhà nước, …. cần
được sáng tỏ và thể chế hóa.
5.Tổng kết.
Đảng ta đã xác định việc phát triển kinh tế thị trường là đúng đắn, nhưng
phải có sự điều chỉnh sao cho hợp lý với tình hình đất nước cũng như định hướng
của nước ta. Kết quả đã cho thấy quá trình đổi mới quan điểm của Đảng về xây
dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta trong thời kỳ đổi mới từ
1986 đến nay.
Định hướng lớn của Đảng về phát triển kinh tế thị trường: Đến năm 2020,
phấn đấu cơ bản hoàn thành đồng bộ hệ thống thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa theo các tiêu chuẩn phổ biến của nền kinh tế thị trường
hiện đại và hội nhập quốc tế.
Qua gần 35 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có
ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu nói trên, trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam còn có một số mặt hạn chế: hệ thống thị
trường chưa đồng bộ; môi trường kinh tế (gồm cả vĩ mô và vi mô) chưa được hoàn
thiện và chưa thực sự hiệu quả, năng lực quản lý nhà nước và cơ chế chính sách
chưa theo kịp thực tiễn; nguồn nhân lực chưa đáp ứng được với kinh tế thị trường
trong bối cảnh hội nhập.
Trong quá trình đổi mới phải chủ động, không ngừng sáng tạo trên cơ sở kiên
định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vận dụng sáng tạo và phát triển
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy truyền thống
dân tộc, vận dụng kinh nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam.
2.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XII của Đảng (tài liệu sử dụng tại
đại hội đảng bộ cấp sơ sở), tr. 49-50.
2. Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XII của Đảng (tài liệu sử dụng tại
đại hội đảng bộ cấp sơ sở), tr. 16.
3. Báo cáo của Chính phủ về tình hình kinh tế - xã hội năm 2013, kết
quả 3 năm thực hiện kế hoạch 5 năm (2011-2015) và nhiệm vụ 2014-2015.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2011, tr. 93, 94.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2011, tr. 94.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2011, tr.69.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2011, tr. 92.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ X, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2006, tr.69.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2011, tr.73, 74.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ X, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2006, tr.67.
6.
| 1/43

Preview text:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ -------***------- BÀI TẬP NHÓM SỐ 3
MÔN LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Đề bài: Quá trình đổi mới quan điểm của Đảng về xây dựng
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta trong thời
kỳ đổi mới từ 1986 đến nay. Nhóm số: 2
Lớp học phần: LLDL1102(220)_01
GVHD: Ths. Lê Thị Hồng Thuận HÀ NỘI, NĂM 2021 MỤC LỤC I.
CƠ SỞ CỦA VIỆC ĐỔI MỚI QUAN ĐIỂM..............................................3
1. Cơ sở lý luận................................................................................................3
2. Cơ sở thực tiễn............................................................................................5 II.
QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ XÂY DỰNG
NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở NƯỚC TA TRONG
THỜI KỲ ĐỔI MỚI TỪ 1986 ĐẾN NAY............................................................11

1. Giai đoạn từ Đại hội VI đến trước Đại hội XI: Bước đầu hình thành
quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa.
.........................................................................................................11
2. Giai đoạn từ sau Đại hội IX đến nay.......................................................20
III. ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI QUAN
ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH
HƯỚNG XHCN Ở NƯỚC TA TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI TỪ 1986 ĐẾN NAY. 27

1. Kết quả.......................................................................................................27
1.1. Thành tựu từng giai đoạn.....................................................................28
1.2. Cơ cấu kinh tế chuyển biến tích cực theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, gắn sản xuất với thị trường............................................................32
1.3. Thực hiện có kết quả chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần, phát huy ngày càng tốt hơn tiềm năng của các thành phần kinh tế.......33
1.4. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dần dần
được hình thành, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định..................................................33
1.5. Những thay đổi về việc chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế................34
2. Hạn chế......................................................................................................36
3. Nguyên nhân..............................................................................................37
4. Bài học kinh nghiệm.................................................................................39
5. Tổng kết.....................................................................................................39
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................41 I.
CƠ SỞ CỦA VIỆC ĐỔI MỚI QUAN ĐIỂM. 1. Cơ sở lý luận.
Khái niệm nền kinh tế thị trường
Kinh tế thị trường là mô hình kinh tế mà trong đó người mua và người bán tác
động với nhau theo quy luật cung cầu, giá trị để xác định giá cả và số lượng hàng
hoá, dịch vụ trên thị trường.
Kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hóa phát triển ở trình độ cao, gắn với sự
phát triển của lực lượng sản xuất xã hội. Các hoạt động kinh tế gắn chặt với nhau
thông qua thị trường. Lực lượng sản xuất xã hội ngày càng phát triển, trình độ phân
công lao động xã hội ngày càng cao, thì các quan hệ thị trường cũng ngày càng
được mở rộng và trở nên phức tạp. Hệ thống thị trường quốc gia trở nên thống
nhất, thông suốt và gắn kết chặt chẽ hơn với thị trường thế giới. Các doanh nghiệp
ở các thành phần kinh tế quan hệ bình đẳng cả đầu vào và đầu ra của sản xuất và
nhìn chung cả người sản xuất và người tiêu dùng đều được hưởng lợi từ sự lệ thuộc đó.
Khái niệm nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là tên gọi mà Đảng Cộng sản Việt Nam
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa
đặt ra cho mô hình kinh tế hiện tại của nước
Việt Nam. Nó được mô tả là một nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, trong đó
khu vực kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, với mục tiêu dài hạn là xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sản phẩm của thời kỳ Đổi
Mới, thay thế nền kinh tế kế hoạch bằng nền kinh tế hỗn hợp hoạt động theo cơ chế
thị trường. Những thay đổi này giúp Việt Nam hội nhập với nền kinh tế toàn cầu.
Cụm từ "định hướng xã hội chủ nghĩa" mang ý nghĩa là Việt Nam chưa đạt đến chủ
nghĩa xã hội mà đang trong giai đoạn xây dựng nền tảng cho một hệ thống xã hội
chủ nghĩa trong tương lai. Mô hình kinh tế này khá tương đồng với mô hình kinh tế
thị trường xã hội chủ nghĩa (socialist market economy) của Đảng Cộng sản Trung
Quốc, trong đó các mô hình kinh tế tập thể, nhà nước, tư nhân cùng tồn tại, và khu
vực nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Điểm giống nhau giữa nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam
so với nền kinh tế thị trường nói chung.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một loại hình kinh tế được
vận dụng, vận hành theo những tính quy luật chung của “kinh tế thị trường” mà
thời đại hiện nay đang thể hiện. Đó là loại hình kinh tế hàng hóa đã phát triển trên
những địa bàn – “những cái chợ” – “những thị trường” ở mỗi nước và quốc tế -
nền kinh tế mở - liên thông của nhiều loại thị trường.
Những nét riêng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam so
với nền kinh tế thị trường nói chung.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là kiểu tổ chức kinh tế vừa
tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên cơ sở và sự dẫn dắt,
chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội, thể hiện trên cả ba
mặt: sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu,
nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế
Nhà nước cùng kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa quản lý nền kinh tế bằng chiến lược, quy hoạch,
kế hoạch, chính sách, pháp luật và bằng cả sức mạnh vật chất của lực lượng kinh tế
Nhà nước; đồng thời sử dụng kinh tế thị trường, áp dụng các hình thức kinh tế và
phương pháp quản lý của nền kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, giải phóng
sức sản xuất, phát huy mặt tích cực, hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế
thị trường, bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động, của toàn thể nhân dân.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện phân phối chủ yếu
theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp
vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay không
còn là nền kinh tế kế hoạch tập trung, quan liêu hành chính bao cấp, nhưng cũng
không phải là nền kinh tế thị trường tự do (kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa) và
cũng chưa hoàn toàn là nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Đây là một nền
kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, vừa tuân thủ theo những quy luật
của kinh tế thị trường, vừa dựa trên cơ sở và bị chi phối bởi các nguyên tắc và bản
chất của chủ nghĩa xã hội. 2. Cơ sở thực tiễn.
Thực tiễn thế giới từ năm 1986.
Việt Nam chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa, quan liêu, bao cấp, sang nền
kinh tế thị trường trong bối cảnh tình hình thế giới, trong nước và khu vực có nhiều
thay đổi, phức tạp, khó lường.
Thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại, mở đầu một thời đại mới
trong lịch sử - thời đại quá độ từ tư bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội trên toàn
thế giới; đưa chủ nghĩa xã hội từ lý thuyết trở thành hiện thực. Những thành công
về kinh tế, khoa học kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô, làm nức lòng nhân
dân tiến bộ trên toàn thế giới, đồng thời trở thành một đối thủ đáng gờm của chủ
nghĩa đế quốc. Nhưng chính những thành tựu to lớn đạt được trong xây dựng chủ
nghĩa xã hội, làm cho các nhà lãnh đạo Liên Xô lúc bấy giờ có những suy nghĩ và
hành động đơn giản và dễ mắc sai lầm. Ở Liên Xô xuất hiện khuynh hướng tuyệt
đối hóa những thành quả đạt được trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Nguy hiểm hơn, hình thành trong xã hội Liên Xô quan niệm về thời đại, dựa trên
những ảo tưởng có thể nhanh chóng thủ tiêu chủ nghĩa tư bản và thúc đẩy một cách
chủ quan quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa cũng như xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Nhìn thấy những sai lầm, Liên Xô tiến hành cải tổ. Nhưng do không có đường
lối đúng đắn, công cuộc cải tổ chẳng những không đem lại kết quả, mà còn làm sụp
đổ một mô hình của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô, kéo theo sự tan rã của các nước
Đông Âu, khiến phong trào cách mạng xã hội chủ nghĩa tạm thời lâm vào thoái
trào. Liên Xô tan rã, các nước đều tìm hướng đi riêng cho dân tộc mình nhưng hầu
hết không ai trong số họ lựa chọn định hướng xã hội chủ nghĩa nữa mà họ lựa chọn
phát triển tư bản chủ nghĩa với sự giúp đỡ của các nước phương Tây. Tuy nhiên, sự
phát triển theo hướng tư bản chủ nghĩa ngày càng gặp không ít khó khăn bởi việc
can thiệp sâu rộng vào nội bộ của chủ nghĩa tư bản Tây Âu hoặc Mỹ. Tình trạng đa
nguyên, đa đảng làm cho tình hình chính trị rối ren, không ổn định. Cộng đồng các
Quốc gia Độc lập (SNG) là các quốc gia thành viên cũ của Liên bang cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Xô Viết, có một số nước chịu sự bảo trợ của phương Tây, một số
chịu sự bảo trợ của Nga, nhưng nội chiến cũng diễn ra liên miên, đời sống kinh tế -
chính trị - xã hội không được cải thiện đáng kể và người chịu khổ cuối cùng vẫn là nhân dân.
Cũng như Liên Xô, ở Trung Quốc việc lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa gặp không ít khó khăn. Trong một thời gian
dài vào những năm 60, 70 của thế kỷ XX, Trung Quốc đã rơi vào tình trạng khủng
hoảng nghiêm trọng. Trung Quốc dần dần đã tìm được hướng đi riêng cho mình
thông qua công cuộc đổi mới. Sang thế kỷ XXI, Trung Quốc chủ trương xây dựng
một “xã hội hài hòa”. Những thành tựu của Trung Quốc trên các lĩnh vực kinh tế -
khoa học – kỹ thuật – công nghệ, làm cho các nước tư bản chủ nghĩa phải kính nể.
Sau khủng hoảng tài chính - kinh tế toàn cầu, thế giới bước vào một giai đoạn
phát triển mới. Tương quan sức mạnh của các nền kinh tế và cục diện phát triển
toàn cầu thay đổi với sự xuất hiện những liên kết mới. Vị thế của châu Á trong nền
kinh tế thế giới đang tăng lên; sự phát triển mạnh mẽ của một số nước khu vực
trong điều kiện hội nhập Đông Á và việc thực hiện các hiệp định mậu dịch tự do
ngày càng sâu rộng, mở ra thị trường rộng lớn nhưng cũng tạo ra sự cạnh tranh
quyết liệt. Những thành tựu to lớn của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ (đặc
biệt là công nghệ thông tin) dẫn đến một nền kinh tế mới ra đời – nền kinh tế tri
thức – nền kinh tế này đang là lực lượng sản xuất quan trọng đối với các quốc gia
phát triển. Những thành tựu này đã tác động làm thay đổi cơ cấu kinh tế thế giới,
nó không những tạo ra bước phát triển vượt bậc của lực lượng sản xuất mà còn tác
động đến quan hệ sản xuất, đến tư duy (tư duy kinh tế, tư duy chính trị, tư duy triết
học). Đối với các nước phát triển, toàn cầu hóa kinh tế tạo ra những điều kiện để
các nước tận dụng đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế và nâng cao mức sống của
nhân dân. Đối với các nước đang phát triển, toàn cầu hóa giúp rút ngắn thời gian
phát triển nhờ áp dụng những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học và công
nghệ tiên tiến, thông qua chuyển giao công nghệ và hợp tác. Với sự bùng nổ của
nền kinh tế tri thức, các nước đang phát triển cũng sở hữu một nguồn nhân lực to
lớn, đây sẽ là thế mạnh cho sự phát triển kinh tế. Song toàn cầu hóa cũng đẩy các
nước đang phát triển phải chấp nhận một sự cạnh tranh quốc tế gay gắt và khốc
liệt. Trong cuộc cạnh tranh toàn cầu, theo luật chơi mới do các nước tư bản phát
triển sắp đặt, các nước đang phát triển và chậm phát triển thường ở vào thế bất lợi.
Xu thế toàn cầu hóa đang đặt các nước phát triển và chậm phát triển trước những
vấn đề lớn như bùng nổ dân số, cạn kiệt tài nguyên môi trường, ô nhiễm môi
trường nghiêm trọng, chiến tranh, xung đột sắc tộc – tôn giáo, … và tình trạng phát
triển kinh tế “quá nóng” dễ rơi vào khủng hoảng. Điều đó buộc các nước đang phát
triển, trong đó có Việt Nam, phải lựa chọn cho mình một hướng đi đúng đắn, bắt
kịp, đón đầu được bước tiến của thời đại. Thách thức cũng là cơ hội để cho các
nước đang phát triển thể hiện mình và khai thác được tiềm năng của chính mình vì
mục tiêu phát triển của đất nước, vấn đề là ở chỗ phải nắm bắt được thời cơ và chọn thời cơ.
Thực tiễn Việt Nam từ năm 1986.
Sau khi đất nước giải phóng cho tới năm 1985, cơ chế kinh tế kế hoạch hoá
tập trung quan liêu bao cấp và mô hình công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa kiểu Xô
viết đã được áp dụng rộng rãi trên cả nước. Kinh tế bao cấp là nền kinh tế chỉ bao
gồm các thành phần kinh tế quốc doanh, tập thể và cá thể, mà giữ vai trò chủ đạo là
kinh tế quốc doanh. Trong thời kì này, không tồn tại kinh tế tư nhân, không có các
hoạt động thương mại buôn bán tự do trên thị trường. Kinh tế bao cấp hoạt động
theo kiểu toàn dân làm cho nhà nước và nhà nước bao cấp cho toàn dân, mọi người
làm theo năng lực và hưởng theo nhu cầu.
Việt Nam là một nước nghèo, kinh tế – kỹ thuật lạc hậu, trình độ xã hội còn
thấp, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Đi lên chủ nghĩa xã hội là xu hướng tất yếu
lịch sử, nằm trong tính quy luật của cách mạng Việt Nam, là mục tiêu lý tưởng của
những người cộng sản, là khát vọng ngàn đời thiêng liêng của cả dân tộc Việt Nam.
Nước ta đang trong những chặng đường đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Đặc điểm lớn nhất của thời kỳ này ở nước ta là: Từ một xã hội mà nền kinh tế
còn phổ biến là sản xuất nhỏ tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát
triển tư bản chủ nghĩa. Vì thế, chúng ta đang nỗ lực tiến hành công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, nhanh chóng hình thành một nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa với
công nghiệp hiện đại, nông nghiệp hiện đại, văn hóa, khoa học kỹ thuật tiên tiến.
Quá trình đó tất yếu phải có sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ
trọng công nghiệp và dịch vụ, phân công lại lao động giữa các ngành nghề, các
vùng, miền và sự chuyên môn hóa lao động ngày càng cao.
Mặt khác, từ một nền sản xuất hàng hóa nhỏ đi lên, lẽ dĩ nhiên nền kinh tế
nước ta còn tồn tại nhiều thành phần, nhiều hình thức sở hữu khác nhau. Hơn nữa,
trong điều kiện mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, để đáp ứng yêu cầu đặt
ra và chủ động hội nhập và cạnh tranh được trên trường quốc tế, chúng ta cần và
phải xây dựng một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần phát triển ở trình độ cao,
vận hành theo cơ chế thị trường. Đó chính là nền kinh tế thị trường. Nền kinh tế thị
trường tự do, bên cạnh những ưu điểm, còn có nhiều nhược điểm, mặt trái không
phù hợp với chế độ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng.
Mục tiêu xã hội chủ nghĩa của chúng ta là xây dựng một nước Việt Nam dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Để xây dựng một chế độ
xã hội như thế chúng ta chấp nhận phát triển nền kinh tế thị trường, nhưng không
phải là nền kinh tế thị trường tự do mà là nền kinh tế thị trường có sự quản lý của
nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Định hướng xã hội chủ nghĩa có nghĩa
là không để cho kinh tế thị trường phát triển tự do mà phải có sự quản lý của Nhà
nước, của dân, do dân và vì dân. Những gì là phù hợp với mục tiêu xã hội chủ
nghĩa, là mặt tốt của kinh tế thị trường, thì Nhà nước cần khai thác, phát huy, tạo
điều kiện để phát triển. Ngược lại, những gì là mặt trái của nó không phù hợp với
mục tiêu xã hội chủ nghĩa cần được hạn chế, loại bỏ. Việc quản lý Nhà nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa đảm bảo cho kinh tế thị trường phát triển phù hợp với
mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà toàn Đảng, toàn dân ta đã lựa chọn.
Như vậy, từ một nền kinh tế hàng hóa vận động theo cơ chế thị trường một
cách tự do hay nền kinh tế thị trường tự do đến nền kinh tế xã hội chủ nghĩa tất yếu
phải là nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Chính những áp lực kinh tế trong
nước ấy kết hợp với tình hình quốc tế buộc chúng ta không còn con đường nào
khác phải tiến hành đổi mới. Hoạt động đầu tiên để tiến hành đổi mới chính là đổi
mới tư duy mà trước hết là tư duy kinh tế. II.
QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ XÂY
DỰNG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở NƯỚC TA
TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI TỪ 1986 ĐẾN NAY. 1.
Giai đoạn từ Đại hội VI đến trước Đại hội XI: Bước đầu hình
thành quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. 1.1.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12/1986).
1.1.1. Chủ trương, quan điểm.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12 – 1986) chính thức khởi
xướng công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, trong đó đổi mới kinh tế là nhiệm vụ
trọng tâm. Đại hội xác định tư tưởng chỉ đạo cho quá trình đổi mới nền kinh tế đất
nước là giải phóng mọi năng lực sản xuất hiện có, khai thác mọi khả năng tiềm
tàng của đất nước, sử dụng có hiệu quả sự giúp đỡ quốc tế để phát triển mạnh mẽ
lực lượng sản xuất …
Để tạo tiền đề cho lực lượng sản xuất phát triển, giải pháp mang tính chất
chiến lược là xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần và xóa bỏ triệt để cơ
chế kế hoạch hóa, tập trung, bao cấp. Đại hội VI xác định cơ chế quản lý nền kinh
tế đất nước trong thời kỳ đổi mới là: “Cơ chế kế hoạch hóa theo phương thức hạch
toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đúng nguyên tắc tập trung dân chủ”. Trong đó,
kế hoạch hóa là đặc trưng số một và sử dụng đúng đắn quan hệ hàng hóa – tiền tệ
là đặc trưng số hai của cơ chế quản lý kinh tế mới.
Để khắc phục hiện tượng các cơ quan quản lý hành chính – kinh tế can thiệp
sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở, Đại hội VI chủ
trương đổi mới quản lý nhà nước về kinh tế theo hướng “ha”.
Vận dụng đúng đắn quan hệ hàng hóa – tiền tệ là đặc trưng thứ hai của cơ chế
quản lý kinh tế, được Đại hội VI xác định “mọi hoạt động kinh tế phải so sánh chi
phí với hiệu quả, các tổ chức và các đơn vị kinh tế phải tự bù đắp chi phí và có lãi
để tái sản xuất mở rộng, tức là phải thực hiện hạch toán kinh doanh xã hội chủ
nghĩa. Quan điểm này thể hiện sự phát triển trong nhận thức của Đảng về xác lập
chủ thể của kinh tế thị trường cũng như xác định rõ phương thức sản xuất kinh
doanh của các chủ thể đó trong cơ chế quản lý kinh tế mới. Xác lập và sử dụng
quan hệ hàng hóa – tiền tệ đồng nghĩa với việc thừa nhận nền kinh tế nhiều thành
phần gắn với thị trường; là căn cứ cơ bản điều chỉnh kế hoạch, phương thức sản
xuất, kinh doanh của các cơ sở kinh tế và của nền kinh tế nói chung.
Để sử dụng tốt các đòn bẩy kinh tế trong cơ chế mới, Đại hội VI chủ trương
đổi mới phương thức kinh doanh của hệ thống thương nghiệp quốc doanh, chuyển
từ cơ chế bao cấp sang hoạt động theo thị trường, tự cân đối 36 nguồn hàng mua và
bán ra thị trường, chỉ trừ một số mặt hàng nhạy cảm trong nền kinh tế do Nhà nước độc quyền quản lý.
1.1.2. Thực hiện và kết quả.
Trước đổi mới, Nhà nước trực tiếp giao chỉ tiêu pháp lệnh cho các doanh
nghiệp, trở thành nội dung tuyệt đối của kế hoạch hóa. Tại Đại hội VI, kế hoạch
pháp lệnh chỉ được giới hạn sử dụng trong những trường hợp cá biệt, “việc giao kế
hoạch pháp lệnh chỉ hạn chế trong một số chỉ tiêu thật cần thiết nhằm đảm bảo
những cân đối cơ bản và những nghĩa vụ cam kết với nước ngoài”.
Công tác kế hoạch hóa được phân công, phân cấp theo nguyên tắc tập trung
dân chủ, phân biệt rõ chức năng quản lý hành chính – kinh tế của các cơ quan Nhà
nước Trung ương và địa phương với chức năng quản lý sản xuất, kinh doanh của
các đơn vị kinh tế cơ sở.
Giải pháp được Đại hội VI coi là hữu hiệu nhất để thực hiện mục tiêu trên là
tiến hành phân cấp quản lý, đảm bảo quyền làm chủ của cả ba cấp: Trung ương, địa
phương và các đơn vị sản xuất, kinh doanh. Trong đó, quyền quyết định của Trung
ương với những lĩnh vực then chốt và với những vấn đề có ý nghĩa chiến lược,
quyền chủ động của địa phương trong quản lý kinh tế - xã hội ở địa phương và
quyền tự chủ của các đơn vị sản xuất, kinh doanh.
Trong lĩnh vực tài chính, thực hiện giảm các khoản chi có tính bao cấp, mở
rộng quyền tự chủ tài chính cho cơ sở, thu hẹp các khoản đầu tư theo phương thức
cấp phát, mở rộng đầu tư qua tín dụng ngân hàng, triển khai kinh doanh tiền tệ,
ngoại tệ, vàng bạc, bước đầu thực hiện chính sách lãi suất linh hoạt. Tình trạng lạm
phát bước đầu được kiềm chế.
Những chủ trường nêu trên đã đặt “nền móng” cho sự ra đời của cơ chế quản
lý mới. Tất cả các ngành kinh tế đều có những bước đổi mới quan trọng về cơ chế
quản lý. Trong công nghiệp, việc chuyển sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ
nghĩa để thực hiện mục tiêu “bốn giảm” đã được triển khai sâu rộng, đặc biệt là từ
sau khi có quyết định 217/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng.
Những chủ trương, biện pháp đổi mới cơ chế quản lý kinh tế từ 1979 đến
1989, đặc biệt là đường lối đổi mới của Đại hội VI, đã tạo ra bước chuyển mạnh
mẽ của đời sống kinh tế - xã hội. Phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
được Đảng khẳng định là chính sách nhất quán trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, được nhân dân hưởng ứng tích cực và nhanh chóng đi vào cuộc sống.
Quyền làm chủ của nhân dân về kinh tế được phát huy, nhiều tiềm năng và sức
sáng tạo của nhân dân được khơi dậy; sản xuất, dịch vụ phát triển; tạo thêm nhiều
việc làm và của cải cho xã hội, thúc đẩy sự hình thành và phát triển nền kinh tế hàng hóa.
Công tác kế hoạch hóa từng bước chuyển từ kế hoạch hóa pháp lệnh sang kế
hoạch định hướng là chủ yếu, bước đầu sử dụng các đòn bẩy kinh tế và lực lượng
vật chất để đảm bảo cân đối tổng cung, tổng cầu trong nền kinh tế. Đồng thời đã
xây dựng được chiến lược kinh tế - xã hội, quy hoạch ngành, vùng, mở rộng thông
tin kinh tế, nâng cao vai trò của hợp đồng kinh tế trong sản xuất.
Cùng với quá trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế ở tầm vĩ mô là việc triển
khai nhanh chóng cải tiến chế độ khoán, cơ chế quản lý trong các hợp tác xã nông
nghiệp, mở rộng nhiều mặt quyền tự chủ kinh doanh của các xí nghiệp quốc doanh,
tạo điều kiện phát huy vai trò chủ động sáng tạo của các đơn vị kinh tế và của
người lao động. Nhờ đó, các cơ sở sản xuất bắt đầu 40 hướng theo nhu cầu của thị
trường, áp dụng tiến bộ kỹ thuật và cải tiến quản lý, nâng cao chất lượng, hạ giá
thành sản phẩm. Cơ chế mới đã thổi một luồng sinh khí mới, thông thoáng, tạo cơ
hội cho các thành phần kinh tế phát huy được tính chủ động, năng động, sáng tạo
trong sản xuất kinh doanh, làm giàu cho doanh nghiệp và đất nước.
Thành tựu nổi bật nhất, được Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ VII
(6 – 1991), khẳng định: “Bước đầu hình thành nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước” 1.1.3. Hạn chế.
Hạn chế của Đại hội VI là vẫn tách rời kế hoạch hóa và thị trường khi xem
“kế hoạch hóa là đặc trưng số một”, và “sử dụng đúng đắn quan hệ hàng hóa – tiền
tệ là đặc trưng số hai”; vẫn duy trì cơ chế Nhà nước giữ độc quyền ngoại thương.
Đó là “đối với những mặt hàng hoàn toàn do kinh tế quốc doanh sản xuất hoặc
nhập khẩu, đương nhiên, thương nghiệp quốc doanh độc quyền bán trên thị trường
và Nhà nước có biện pháp quản lý hành chính để đảm bảo sự độc quyền ấy. Tuy
còn một số hạn chế, song những chủ trương đổi mới của Đại hội VI có ý nghĩa
quan trọng trong quá trình xác lập cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Tuy nhiên, nhìn thổng thể, đến trước Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (6
– 1991), cơ chế quản lý kinh tế mới tuy đã xác lập, nhưng chưa đồng bộ, ảnh
hưởng đến việc định hướng và thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển. Vai trò
quản lý kinh tế của Nhà nước theo cơ chế mới ở một số ngành kinh tế còn mờ nhạt,
lỏng lẻo, nhất là khâu phân phối thu nhập trong các đơn vị kinh tế quốc doanh.
Thương nghiệp quốc doanh còn lúng túng về phương thức hoạt động. Trong quá
trình chuyển đổi và xác lập cơ chế thị trường, bên cạnh mặt tích cực, trong nền
kinh tế - xã hội cũng xuất hiện nhiều hiện tượng tiêu cực. Không ít cơ sở làm ăn
chạy theo lợi nhuận bằng mọi giá, bất chấp pháp luật như lừa đảo, làm hàng giả,
buôn lậu, trốn thuế, … Sự sôi động trong quá trình chuyển đổi phương thức kinh
doanh thương mại là tác nhân khiến cho tình trạng thương mại hóa nền kinh tế - xã
hội ngày càng gia tăng, làm biến dạng mô hình kinh tế. Nhiều đơn vị kinh tế có xu
hướng chạy theo buôn bán để kiếm lời hơn là đầu tư để tạo ra nhiều hàng hóa, của cải cho xã hội. 1.2.
Đại hội lần thứ VII của Đảng (6 – 1991).
1.2.1. Chủ trương, quan điểm.
Tại Đại hội lần thứ VII của Đảng (6 – 1991), chủ trương tiếp tục xây dựng
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần và đổi mới quản lý kinh tế càng được nhấn
mạnh. Đại hội xác định rõ cơ chế vận hành nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
theo định hướng xã hội chủ nghĩa là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước
bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác. Trong cơ chế đó, các
đơn vị kinh tế có quyền tự chủ sản xuất kinh doanh, quan hệ bình đẳng, cạnh tranh
hợp pháp, hợp tác và liên doanh tự nguyện.
Đại hội VII đã chỉ ra một số giải pháp cụ thể để tiếp tục xác lập cơ chế quản
lý mới trong nền kinh tế quốc dân. Giải pháp cấp bách là sắp xếp lại và đổi mới
quản lý kinh tế quốc doanh. Trong cơ chế mới, bao cấp của Nhà nước đối với các
doanh nghiệp quốc doanh từng bước được xóa bỏ. Tiếp tục củng cố và phát triển
các cơ sở kinh tế trọng điểm, các cơ sở kinh tế làm ăn có hiệu quả.
Đối với những đơn vị làm ăn thua lỗ kéo dài, Đại hội chủ trương thực hiện
các biện pháp mạnh như cho thuê, chuyển hình thức sở hữu hoặc giải thể, … Cùng
với việc sắp xếp đổi mới quản lý trong các cơ sở quốc doanh, Đại hội VII nhấn
mạnh tiếp tục đổi mới và kiện toàn kinh tế tập thể, phát triển mạnh mẽ kinh tế gia
đình, định hướng cho kinh tế tư nhân phát triển.
Đổi mới công tác kế hoạch hóa trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần,
Đại hội VII chủ trương phải lấy thị trường làm đối tượng và là căn cứ quan trọng
nhất. Đồng thời, kế hoạch phải xác định những cân đối lớn của nền kinh tế quốc
dân và có chính sách, biện pháp bảo đảm các cân đối đó, nâng cao dần trình độ dự
báo kinh tế - xã hội trong công tác kế hoạch hóa.
Để xây dựng nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng chủ trương: “Kiên trì vận dụng cơ chế giá thị trường
đối với giá hàng tiêu dùng, tư liệu sản xuất, tỷ giá hối đoái, lãi suất 43 tín dụng;
điều chỉnh từng bước mặt bằng giá và quan hệ tỷ giá cho phù hợp với sự thay đổi
của giá quốc tế đối với các loại vật tư, nguyên liệu, thiết bị nhập khẩu, song phải
chú ý bảo đảm sản xuất phát triển”
Cùng với việc xóa bỏ cơ chế giá bao cấp là quá trình các doanh nghiệp thuộc
hệ thống thương nghiệp quốc doanh cũng được sắp xếp lại tổ chức, chuyển đổi
phương thức kinh doanh để từng bước hội nhập và phát huy vai trò trong cơ chế
mới. Đại hội VII nhấn mạnh: “Sắp xếp và đổi mới hệ thống thương nghiệp quốc
doanh, nâng cao hiệu quả, phát huy tác dụng tích cực trong việc ổn định và điều
tiết giá cả thị trường. Tập trung làm tốt khâu bán buôn kết hợp với một phần bán lẻ
những mặt hàng thiết yếu”
1.2.2. Thực hiện và kết quả.
Trong cơ chế quản lý xuất nhập khẩu hàng hóa, Đại hội VII có những bước
tiến đáng kể so với Đại hội VI. Giảm dần độc quyền trong kinh doanh hàng xuất
nhập khẩu của các doanh nghiệp quốc doanh với giải pháp cho phép thành lập các
hiệp hội xuất nhập khẩu tự nguyện, đổi mới việc cấp giấy phép và hạn ngạch xuất nhập khẩu.
Như vậy, đến Đại hội VII, tư duy về việc xây dựng cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã được xác lập trên cả
bình diện quản lý vĩ mô cũng như trong hoạt động của các đơn vị kinh tế cơ sở. Cơ
chế quản lý này được xây dựng trên cơ sở chế độ hạch toán kinh doanh xã hội chủ
nghĩa ra đời trước đó nhưng phát triển cao hơn trên cơ sở tổng kết sự vận động của
thực tiễn cũng như nhu cầu khách quan của nền kinh tế đất nước trong buổi đầu thời kỳ quá độ.
Những chủ trương đổi mới cơ chế quản lý kinh tế của Đảng và Nhà nước
nhanh chóng đi vào cuộc sống, mang lại kết quả tích cực. Nền kinh tế có tốc độ
tăng trưởng nhanh, nhịp độ tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình 45 quân
hàng năm thời kỳ 1991 – 1995 đạt 8,2%. Tình trạng lạm phát bị đẩy lùi từ 774,7%
năm 1986 xuống còn 67,1% năm 1991, 12,7% năm 1995. Đầu tư toàn xã hội bằng
nguồn vốn trong nước và ngoài nước so với GDP năm 1990 là 15,8%, năm 1995 là 27,4%.
Trong cơ chế cũ, hàng hóa chỉ giới hạn ở hai mặt hàng chủ yếu là vật tư và
lương thực. Đến thời điểm này, thị trường trong nước phát triển phong phú, đối
tượng kinh doanh được mở rộng ở nhiều lĩnh vực. Ngoài hàng hóa có tính vật chất
còn xuất hiện và phát triển nhiều hàng hóa ở dạng phi vật chất.
Hoạt động kinh doanh dịch vụ, chuyển giao công nghệ, sở hữu trí tuệ, … ra
đời và thâm nhập một cách nhanh chóng vào thị trường, làm đa dạng hóa loại hình
và phương thức kinh doanh.
Trong cơ chế cũ, thương nghiệp, hệ thống thương nghiệp xã hội chủ nghĩa
được hiểu một cách đơn giản là thực hiện chức năng vận chuyển hàng hóa từ nơi
này đến nơi khác, từ người sản xuất đến người tiêu dùng thông qua hệ thống phân
phối bằng hiện vật, với chế độ bao cấp qua giá của Nhà nước.
Đến thời điểm tiến hành Đại hội VII, khái niệm “thương nghiệp” được thay
thế bằng khái niệm “thương mại” có nội hàm rộng, phong phú và hiện đại hơn,
phản ảnh kịp thời sự hình thành các loại thị trường và sự phát triển của nền kinh tế
đất nước trong thời kỳ mở cửa, hội nhập. 1.3.
Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ VIII (6 – 1996).
1.3.1. Chủ trương, quan điểm.
Khi đánh giá về vai trò của cơ chế thị trường đối với sự phát triển của lực
lượng sản xuất, Đại hội VIII nhấn mạnh: “Cơ chế thị trường đã phát huy tác dụng
tích cực to lớn đến sự phát triển kinh tế - xã hội. Nó chẳng những không đối lập mà
còn là một nhân tố khách quan cần thiết của việc xây dựng và phát triển đất nước
theo con đường xã hội chủ nghĩa”. Luận điểm này đánh dấu mốc chuyển biến căn
bản trong nhận thức của Đảng về cơ chế thị trường, từ chỗ phủ nhận, coi là cơ chế
đặc trưng riêng biệt của chủ nghĩa tư bản, đối lập với chủ nghĩa xã hội, đến thừa
nhận sự tồn tại khách quan cần thiết của nó đối với nền kinh tế nước ta trong thời kỳ quá độ.
Từ nhận thức đó, Đại hội VIII nhấn mạnh tới việc xác lập một cách đồng bộ
các loại thị trường trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước: “Đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần không
thể tách rời việc xây dựng đồng bộ và vận hành có hiệu quả cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Đại hội chủ trương nâng
cao năng lực quản lý vĩ mô của Nhà nước nhằm phát huy tác dụng tích cực đi đôi
với ngăn ngừa, hạn chế và khắc phục những mặt tiêu cực, mâu thuẫn với chủ nghĩa
xã hội của cơ chế thị trường.
1.3.2. Thực hiện và kết quả.
Những chủ trương đổi mới quan trọng về cơ chế quản lý trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Đại hội VIII đã được triển khai một cách
sâu rộng và có tác dụng tích cực, tạo ra những thành tựu vượt bậc trong nền kinh tế
quốc dân. Trong 5 năm (1996 – 2001), tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng bình
quân hàng năm 7%, các ngành kinh tế đều có sự chuyển biến tích cực. 1.3.3. Hạn chế.
Nhìn một cách tổng thể thì nền kinh tế phát triển chưa bảo đảm được tính bền
vững, hiệu quả và sức cạnh tranh còn thấp. “Cơ chế, chính sách không đồng bộ và
chưa tạo động lực mạnh để phát triển. Một số cơ chế, chính sách còn thiếu, chưa
nhất quán, chưa sát với cuộc sống, thiếu tính khả thi, … chưa bổ sung những cơ
chế, chính sách mới có tác dụng giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất, khai thác
nhiều hơn nữa nguồn lực dồi dào trong các thành phần kinh tế, các doanh nghiệp,
các vùng và toàn thể xã hội” 1.4.
Đánh giá về giai đoạn.
Đại hội VI, VII và Đại hội VIII của Đảng đã khẳng định mục tiêu xã hội chủ
nghĩa. Đổi mới không có nghĩa là từ bỏ mục tiêu xã hội chủ nghĩa, mà là tìm ra
phương thức, con đường đúng đắn hơn, có hiệu quả hơn, nhanh chóng đi tới mục tiêu.
Thực hiện đường lối đổi mới, cùng với việc đổi mới trên nhiều lĩnh vực khác,
trên lĩnh vực kinh tế, thực hiện bước chuyển sang kinh tế thị trường. Nhờ những
thành tựu đạt được trong bước chuyển đó, nền kinh tế của đất nước có bước phát
triển khá, đời sống của hầu hết các tầng lớp nhân dân từng bước được cải thiện. 2.
Giai đoạn từ sau Đại hội IX đến nay. 2.1.
Đại hội IX Đảng Cộng sản Việt Nam: Lần đầu tiên khẳng định về
“nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”.
2.1.1. Chủ trương, quan điểm.
Đại hội IX Đảng Cộng sản Việt Nam lần đầu tiên khẳng định về “nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đánh một dấu mốc lớn trong nhận
thức của Đảng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, đó thực
sự là một Đại hội đổi mới. Tại Đại hội này, Đảng xác định kinh tế thị trường là
thành tựu của văn minh nhân loại. Tuy nhiên, từ Đại hội VI đến Đại hội VIII, Đảng
chưa đưa ra khái niệm “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Chỉ đến Đại hội IX, Đảng mới lựa chọn mô hình kinh tế thị trường xã hội chủ
nghĩa. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (4 – 2001) diễn ra trong bối cảnh sự
nghiệp đổi mới đã tiến hành được 15 năm, mang lại nhiều thành tựu kinh tế - xã
hội quan trọng, làm thay đổi cơ bản tình hình đất nước. Nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa đã hình thành một cách cơ bản.
Tổng kết 15 năm đổi mới, Đại hội IX khẳng định: “Đảng và Nhà nước ta chủ
trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa”. Đây là bước chuyển quan trọng từ nhận thức kinh tế thị trường như
một công cụ, một cơ chế quản lý, sang coi kinh tế thị trường như một chỉnh thể, là
cơ sở kinh tế của sự phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đại hội IX xác định kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là “Một
kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ
sở và chịu sự chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội”.
Tại Đại hội IX, Đảng nhấn mạnh “mục đích của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây
dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân.
Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới
phù hợp trên cả ba mặt sở hữu, quản lý và phân phối”
2.1.2. Thực hiện và kết quả.
Với những tư tưởng đổi mới sâu sắc trên các lĩnh vực, nhất là trong kinh tế,
đường lối Đại hội IX nhanh chóng đi vào cuộc sống và đem lại nhiều thành tựu
kinh tế - xã hội. Cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được thiết lập ngày
càng đồng bộ hơn, có tác dụng khuyến khích mọi thành phần kinh tế mở rộng và
phát triển sản xuất, kinh doanh.
Như vậy, từ sau Hội nghị lần thứ 6 khóa IV (9 – 1979) nền kinh tế nước ta
từng bước xóa bỏ cơ chế kế hoạch hóa, tập trung bao cấp, chuyển sang thiết lập các
yếu tố của cơ chế thị trường. Cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã
phát huy vai trò tích cực đối với việc khơi dậy tiềm năng của các thành phần kinh
tế trong thời kỳ quá độ và làm thay đổi diện mạo nền kinh tế - xã hội. 2.1.3. Hạn chế.
Nhưng ở một vài lĩnh vực, như vấn đề giá cả, phương thức quản lý đối với các
doanh nghiệp nhà nước, việc thể chế hóa các chủ trương của Đảng, chính sách của
Nhà nước về việc thiết lập đồng bộ các yếu tố của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa còn gặp không ít rào cản.
Nghị quyết Trung ương 9 khóa IX đã cảnh báo hiện tượng: “Có xu hướng bao
cấp trở lại và bảo trợ dưới nhiều hình thức cho doanh nghiệp nhà nước. Một số
trường hợp Nhà nước giữ độc quyền là cần thiết nhưng đã biến thành độc quyền
kinh doanh của các tổng công ty”. Điều đó đã tác động xấu và gây cản trở việc đưa
nền kinh tế nước ta hội nhập sâu vào đời sống kinh tế quốc tế. Vì thế, trong không
ít trường hợp, nền kinh tế nước ta là nền kinh tế “thị trường” hay “phi thị trường”
đã trở thành vấn đề bị một số đối tác lợi dụng, gây tổn hại đến lợi ích của doanh
nghiệp và đất nước trong quá trình hội nhập. Kể cả trong quá trình đàm phán Việt –
Mỹ về việc Việt Nam 53 ra nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), phía Mỹ
vẫn cho rằng Việt Nam chưa có nền kinh tế thị trường, bao cấp còn nặng và đặt ra
thời hạn để Việt Nam được thừa nhận là nước có nền kinh tế “thị trường”. 2.2.
Đại hội X và XI: Đảng ta tiếp tục hoàn thiện “thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa”.
2.2.1. Chủ trương, quan điểm.
Đại hội X chủ trương “tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa”, trong đó bổ sung, phát triển một số nhận thức mới về nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Bao gồm mục tiêu phát triển kinh
tế thị trường ở Việt Nam; tính đồng bộ, tính hiệu quả của các loại thị trường; vai
trò, vị trí các thành phần kinh tế và mối quan hệ giữa chúng trong quá trình phát
triển; quản lý nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Hội nghị Trung ương 6 khóa X nhấn mạnh: “Nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một nền kinh tế vừa tuân theo quy luật của
kinh tế thị trường, vừa chịu sự chi phối bởi các quy luật kinh tế của chủ nghĩa xã
hội và các yếu tố bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa”
Khái niệm “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” được nêu ra từ
Đại hội IX, nhưng phải đến Đại hội XI, khái niệm này mới thật sự rõ ràng, đầy đủ.
''Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà
nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; vừa vận động theo những quy luật của
thị trường, vừa được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ
nghĩa xã hội; trong đó, cơ chế thị trường được vận dụng đầy đủ, linh hoạt để phát
huy mạnh mẽ, có hiệu quả mọi nguồn lực nhằm phát triển nhanh và bền vững nền
kinh tế; khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói, giảm nghèo, thực hiện
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Các thành phần kinh
tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng
trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác cạnh tranh lành mạnh; trong đó,
kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo”
2.2.2. Thực hiện, kết quả.
Những nhận thức mới của Đảng về cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và quá trình hình thành các loại thị trường đã có ý nghĩa giải phóng sức sản
xuất, đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, tạo ra môi trường hội nhập sâu hơn với nền kinh tế thế giới.
Như vậy có thể thấy, trong giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới, chúng ta rất
thận trọng, thậm chí còn e ngại, chưa đề cập đến kinh tế thị trường. Lúc đó Đảng ta
mới nêu ra quan điểm phát triển nền kinh tế hàng hoá có kế hoạch gồm nhiều thành
phần đi lên chủ nghĩa xã hội, hầu như chưa nói tới cơ chế thị trường, càng chưa nói
tới phát triển nền kinh tế thị trường. Chỉ từ Đại hội IX, Đảng Cộng sản Việt Nam
lần đầu tiên khẳng định về “nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. 2.2.3. Hạn chế.
Tuy nhiên, để định hình đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa còn nhiều việc phải làm. Đó là hoàn thiện khung pháp lý để hình thành
đồng bộ các loại thị trường; cải cách doanh nghiệp nhà nước vừa có khả năng đóng
vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường, vừa có quyền tự chịu trách nhiệm về
mọi phương án sản xuất kinh doanh; minh bạch hóa và giảm dần sự bảo trợ của
Nhà nước với doanh nghiệp nhà nước, tạo môi trường bình đẳng cho mọi thành
phần kinh tế cùng cạnh tranh, phát triển; hoàn thiện các công cụ quản lỹ vĩ mô
trong điều kiện thị trường dần hình thành đồng bộ và hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng. 2.3.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII (1/2016).
2.3.1. Chủ trương, quan điểm.
Trên cơ sở tổng kết toàn diện 30 năm đổi mới, Đại hội lần thứ XII của Đảng
đã nêu rõ: “Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam là nền kinh tế
vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời đảm
bảo định hướng XHCN phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là
nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế, có sự quản lý của nhà nước
pháp quyền XHCN do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo”. Đây là quan điểm khái
quát, đầy đủ và rõ ràng nhất của Đảng ta về nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN từ khi đổi mới đến nay.
Đại hội XII của Đảng đã có bước phát triển mới về tư duy, nhận thức về “nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN” ở nước ta: Cụ thể: Về những đặc trưng cơ
bản của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; Về việc thực hiện thể chế sở
hữu và phát triển các thành phần kinh tế; về việc phát triển đồng bộ các yếu tố thị
trường và các loại thị trường; về việc đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế.
2.3.2. Thực hiện, kết quả.
Tiếp tục phát triển đồng bộ và vận hành thông suốt các loại thị trường; thực
hiện nhất quán cơ chế giá thị trường; hoàn thiện pháp luật về phí, lệ phí và rà soát
chuyển đổi chính sách phí lệ phí đối với một dịch vụ công sang áp dụng giá dịch
vụ. Mở rộng cơ chế đấu thầu, đấu giá, thẩm định giá, đảm bảo tính đúng, tính đủ và
công khai, minh bạch các yếu tố hình thành giá đối với hàng hóa, dịch vụ công thiết yếu. 2.4.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (1/2021).
2.4.1. Một số nội dung mới trong quan điểm của Đảng.
Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam là mô hình tự thân mang
tính tất yếu khách quan, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển.
Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam là nền kinh tế vì con
người, lấy con người là trung tâm của sự phát triển, thực hiện mục tiêu “dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam là nền kinh tế thị trường
hiện đại và hội nhập quốc tế, đáp ứng những chuẩn mực của nền kinh tế thị trường toàn cầu.
Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam là nền kinh tế giải quyết
hợp lý mối quan hệ giữa nhà nước với thị trường để đảm bảo hiệu quả kinh tế, tiến
bộ, công bằng xã hội và môi trường bền vững. III.
ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI
QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở NƯỚC TA TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI TỪ 1986 ĐẾN NAY. 1. Kết quả.
Tóm lại, nhìn lại quá trình hình thành và phát triển đường lối đổi mới của
Đảng, chúng ta thấy mỗi Đại hội và Hội nghị Trung ương đã in đậm vai trò lãnh
đạo của Đảng và đánh dấu sự trưởng thành, phát triển trong tư duy cầm quyền và
lãnh đạo của Đảng. Đường lối đổi mới đó là kết quả của quá trình tìm tòi, thử
nghiệm, vận dụng lý luận, tổng kết thực tiễn, đấu tranh với những quan điểm sai
trái. Thành công của Đảng là kiên quyết đổi mới, dám nhìn thẳng vào sự thật, dám
thừa nhận sai lầm; từ bỏ những cách nghĩ, cách làm không còn phù hợp; kiên quyết
khắc phục tư tưởng bảo thủ, giáo điều; mạnh dạn tạo ra những đột phá quan trọng,
nhưng không rơi vào cực đoan, nôn nóng.
Sau gần 35 năm đổi mới, nước ta đã chuyển đổi thành công từ thể chế kinh tế
kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp sang thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Ðường lối đổi mới của Ðảng đã được thể chế hóa thành
Hiến pháp, pháp luật, tạo hành lang pháp lý cho nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa hình thành và phát triển. Chế độ sở hữu và cơ cấu các thành phần
kinh tế được đổi mới cơ bản từ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, kinh tế quốc doanh
và kinh tế tập thể là chủ yếu sang nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế
đan xen hỗn hợp, trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, tạo động lực và
điều kiện thuận lợi cho khai thác tiềm năng trong và ngoài nước vào phát triển kinh
tế - xã hội. Các loại thị trường cơ bản đã ra đời và từng bước phát triển thống nhất
trong cả nước, gắn với thị trường khu vực và thế giới. Cơ chế thị trường có sự quản
lý của Nhà nước đã đi vào cuộc sống, doanh nghiệp và doanh nhân được tự chủ
kinh doanh, cạnh tranh lành mạnh để phát triển. Quản lý nhà nước về kinh tế được
đổi mới từ can thiệp trực tiếp bằng mệnh lệnh hành chính vào hoạt động sản xuất
kinh doanh chuyển sang quản lý bằng luật pháp, chính sách, chiến lược, quy hoạch,
kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và các công cụ điều tiết vĩ mô khác. Việc gắn
phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội, xóa đói, giảm nghèo đạt nhiều kết quả tích cực. 1.1.
Thành tựu từng giai đoạn. Giai đoạn 1986 - 1990:
Đây là giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới. Chủ trương phát triển kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, nền kinh tế dần dần khắc phục được những yếu kém và có những bước phát
triển. Kết thúc kế hoạch 5 năm (1986 - 1990), công cuộc đổi mới đã đạt được
những thành tựu bước đầu rất quan trọng: GDP tăng 4,4%/năm; tổng giá trị sản
xuất nông nghiệp tăng bình quân 3,8 - 4%/năm; công nghiệp tăng bình quân
7,4%/năm, trong đó sản xuất hàng tiêu dùng tăng 13 -14%/năm; giá trị kim ngạch xuất khẩu tăng 28%/.
Việc thực hiện tốt ba chương trình mục tiêu phát triển về lương thực - thực
phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu đã phục hồi được sản xuất, tăng trưởng
kinh tế, kiềm chế lạm phát,… Đây được đánh giá là thành công bước đầu cụ thể
hóa nội dung của công nghiệp hóa XHCN trong chặng đường đầu tiên. Điều quan
trọng nhất, đây là giai đoạn chuyển đổi cơ bản cơ chế quản lý cũ sang cơ chế quản
lý mới, thực hiện một bước quá trình đổi mới đời sống kinh tế - xã hội và bước đầu
giải phóng được lực lượng sản xuất, tạo ra động lực phát triển mới. Giai đoạn 1991 - 1995:
Đất nước dần dần ra khỏi tình trạng trì trệ, suy thoái. Nền kinh tế tiếp tục đạt
được những thành tựu quan trọng: đã khắc phục được tình trạng trì trệ, suy thoái,
tốc độ tăng trưởng đạt tương đối cao, liên tục và toàn diện, hầu hết các chỉ tiêu chủ
yếu đều vượt mức: GDP bình quân tăng 8,2%/năm; giá trị sản xuất công nghiệp
tăng 13,3%/năm; nông nghiệp tăng 4,5%/năm; lĩnh vực dịch vụ tăng 12%/năm;
tổng sản lượng lương thực 5 năm (1991 - 1995) đạt 125,4 triệu tấn, tăng 27% so
với giai đoạn 1986 – 1990.
Hầu hết các lĩnh vực kinh tế đều đạt nhịp độ tăng trưởng tương đối khá.
“Nước ta đã ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng và kéo dài
hơn 15 năm, tuy còn một số mặt chưa vững chắc, song đã tạo được tiền đề cần thiết
để chuyển sang một thời kỳ phát triển mới: đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Giai đoạn 1996 - 2000:
Đây là giai đoạn đánh dấu bước phát triển quan trọng của kinh tế thời kỳ mới,
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Mặc dù cùng chịu tác động của
khủng hoảng tài chính - kinh tế khu vực (giai đoạn 1997 - 1999) và thiên tai
nghiêm trọng xảy ra liên tiếp, đặt nền kinh tế nước ta trước những thử thách khốc
liệt, tuy nhiên, Việt Nam vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng khá. GDP bình quân
của cả giai đoạn 1996 - 2000 đạt 7%; trong đó, nông, lâm, ngư nghiệp tăng 4,1%;
công nghiệp và xây dựng tăng 10,5%; các ngành dịch vụ tăng 5,2%. “Nếu tính cả
giai đoạn 1991 - 2000 thì nhịp độ tăng trưởng GDP bình quân là 7,5%. So với năm
1990, GDP năm 2000 tăng hơn hai lần”. Giai đoạn 2001 - 2005:
Sự nghiệp đổi mới ở giai đoạn này đi vào chiều sâu, việc triển khai Chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 và Kế hoạch 5 năm 2001 - 2005 mà
Đại hội IX của Đảng thông qua đã đạt được những kết quả nhất định. Nền kinh tế
đạt tốc độ tăng trưởng khá cao, theo hướng tích cực, năm sau cao hơn năm trước.
GDP tăng bình quân 7,5%/năm, riêng năm 2005 đạt 8,4%; trong đó, nông nghiệp
tăng 3,8%; công nghiệp và xây dựng tăng 10,2%; các ngành dịch vụ tăng 7%.
Riêng quy mô tổng sản phẩm trong nước của nền kinh tế năm 2005 đạt 837,8
nghìn tỷ đồng, tăng gấp đôi so với năm 1995. GDP bình quân đầu người khoảng 10
triệu đồng (tương đương 640 USD), vượt mức bình quân của các nước đang phát
triển có thu nhập thấp (500 USD).
Từ một nước thiếu ăn, mỗi năm phải nhập khẩu từ 50 vạn đến 1 triệu tấn
lương thực, Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới. Năm
2005, Việt Nam đứng thứ nhất thế giới về xuất khẩu hạt tiêu; đứng thứ hai về các
mặt hàng gạo, cà phê, hạt điều; thứ 4 về cao su;…
Cùng với sự tăng trưởng kinh tế, sự ổn định kinh tế vĩ mô được duy trì, bảo
đảm sự ổn định chính trị, xã hội, quốc phòng và an ninh, bước đầu phát huy được
nhiều lợi thế của đất nước, của từng vùng và từng ngành; cải cách thể chế kinh tế,
từng bước hoàn thiện các cơ chế chính sách quản lý và hệ thống điều hành; cải
cách và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống tài chính, tiền tệ; phát triển
nguồn và chất lượng lao động, khoa học và công nghệ;... Giai đoạn 2006 - 2010:
Nền kinh tế vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng khá, tiềm lực và quy mô nền kinh
tế tăng lên, nước ta đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, từ nhóm nước thu thập
thấp đã trở thành nước có thu nhập trung bình (thấp). GDP bình quân 5 năm đạt
7%. Mặc dù bị tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu
(từ cuối năm 2008), nhưng thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam vẫn đạt
cao. Tổng vốn FDI thực hiện đạt gần 45 tỷ USD, vượt 77% so với kế hoạch đề ra.
Tổng số vốn đăng ký mới và tăng thêm ước đạt 150 tỷ USD, gấp hơn 2,7 lần kế
hoạch đề ra và gấp hơn 7 lần so với giai đoạn 2001 - 2005. Tổng vốn ODA cam kết
đạt trên 31 tỷ USD, gấp hơn 1,5 lần so với mục tiêu đề ra; giải ngân ước đạt
khoảng 13,8 tỷ USD, vượt 16%. GDP năm 2010 tính theo giá thực tế đạt 101,6 tỷ
USD, gấp 3,26 lần so với năm 2000. Trong năm 2011:
Mặc dù sự phục hồi kinh tế sau khủng hoảng tài chính toàn cầu còn rất chậm,
song mức tăng trưởng kinh tế bình quân vẫn đạt 7%/năm, tuy thấp hơn kế hoạch
(7,5% - 8%), nhưng vẫn được đánh giá cao hơn bình quân các nước trong khu vực.
Như vậy, trong vòng 20 năm (1991 - 2011), tăng trưởng GDP của Việt Nam
đạt 7,34%/năm, thuộc loại cao ở khu vực Đông Nam Á nói riêng, ở châu Á và trên
thế giới nói chung; quy mô kinh tế năm 2011 gấp trên 4,4 lần năm 1990, gấp trên
2,1 lần năm 2000 (thời kỳ 2001 - 2011 bình quân đạt 7,14%/năm). Năm 2012:
GDP tăng 5,03% so với năm 2011. Mức tăng trưởng tuy thấp hơn mức tăng
5,89% của năm 2011, nhưng trong bối cảnh kinh tế thế giới gặp khó khăn thì đây là
mức tăng trưởng hợp lý. Về sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản ước tính tăng
3,4% so với năm 2011; công nghiệp tăng 4,8% so với năm 2011. Chỉ số giá tiêu
dùng năm 2012 tăng 6,81%. Đầu tư phát triển tăng 7% so với năm trước và bằng
33,5% GDP. Xuất, nhâ ˜p khẩu hàng hóa tăng 18,3%. Kim ngạch xuất khẩu có thể
vượt qua mốc 100 tỷ USD, tỷ lệ kim ngạch xuất, nhập khẩu so với GDP năm 2011
đã đạt xấp xỉ 170%, đứng thứ 5 thế giới.
Vốn FDI tính từ 1988 đến tháng 7-2012 đăng ký đạt trên 236 tỷ USD, thực
hiện đạt trên 96,6 tỷ USD. Vốn ODA từ 1993 đến nay cam kết đạt gần 80 tỷ USD,
giải ngân đạt trên 35 tỷ USD.
Nhìn chung, các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế đều có bước phát triển khá,
trong đó sự phát triển ổn định trong ngành nông nghiệp, nhất là sản xuất lương
thực đã bảo đảm an ninh lương thực quốc gia; sản phẩm công nghiệp phát triển
ngày càng đa dạng và phong phú về chủng loại, chất lượng được cải thiện, từng
bước nâng cao khả năng cạnh tranh, bảo đảm cung cầu của nền kinh tế, giữ vững
thị trường trong nước và mở rộng thị trường xuất khẩu; chú trọng đầu tư phát triển
một số ngành công nghiệp mới, công nghệ cao; khu vực dịch vụ có tốc độ tăng
trưởng ổn định. Sự phục hồi và đạt mức tăng trưởng khá này đã tạo cơ sở vững
chắc để quá trình thực hiện kế hoạch 5 năm (2011 - 2015) trong những năm sau đạt
kết quả vững chắc hơn. 1.2.
Cơ cấu kinh tế chuyển biến tích cực theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, gắn sản xuất với thị trường.
Về cơ cấu kinh tế tiếp tục được chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP giảm dần, năm 1986 là 46,3%, năm
2005 còn 20,9%, năm 2010 còn 20,6%; cơ cấu trồng trọt và chăn nuôi đã chuyển
dịch theo hướng tiến bộ, tăng tỷ trọng các sản phẩm có năng suất và hiệu quả kinh
tế cao, các sản phẩm có giá trị xuất khẩu. Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng tăng
nhanh và liên tục với thiết bị, công nghệ ngày càng hiện đại: năm 1988 là 21,6%,
năm 2005 lên 41%. Tỷ trọng khu vực dịch vụ đã tăng từ 33,1% năm 1988 lên 38,1% năm 2005.
Nông nghiệp có sự biến đổi quan trọng, đã chuyển từ độc canh lúa, năng suất
thấp và thiếu hụt lớn, sang không những đủ dùng trong nước, còn xuất khẩu gạo
với khối lượng lớn, đứng thứ hai thế giới, góp phần vào an ninh lương thực quốc
tế; xuất khẩu cà phê, cao su, hạt điều, hạt tiêu, thủy sản với khối lượng lớn đứng
thứ hạng cao trên thế giới.
Các ngành dịch vụ đã phát triển đa dạng hơn, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu
cầu của sản xuất và đời sống: ngành du lịch, bưu chính viễn thông phát triển với
tốc độ nhanh; các ngành dịch vụ tài chính, ngân hàng, tư vấn pháp lý;... có bước
phát triển theo hướng tiến bộ, hiệu quả. 1.3.
Thực hiện có kết quả chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều
thành phần, phát huy ngày càng tốt hơn tiềm năng của các thành phần kinh tế.
Kinh tế nhà nước được sắp xếp, đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả, tập
trung hơn vào những ngành then chốt và những lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế.
Cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà nước được đổi mới một bước quan trọng theo
hướng xóa bao cấp, thực hiện mô hình công ty, phát huy quyền tự chủ và trách
nhiệm của doanh nghiệp trong kinh doanh. Kinh tế tư nhân phát triển mạnh, huy
động ngày càng tốt hơn các nguồn lực và tiềm năng trong nhân dân, là một động
lực rất quan trọng thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế. Năm 2005, khu vực
kinh tế tư nhân đóng góp khoảng 38% GDP của cả nước. Kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài có tốc độ tăng trưởng tương đối cao, trở thành một bộ phận cấu thành
quan trọng của nền kinh tế quốc dân; là cầu nối quan trọng với thế giới về chuyển
giao công nghệ, giao thông quốc tế, đóng góp vào ngân sách nhà nước và tạo việc
làm cho nhiều người dân. 1.4.
Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dần dần
được hình thành, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định.
Trải qua gần 35 năm đổi mới, hệ thống pháp luật, chính sách và cơ chế vận
hành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xây dựng tương
đối đồng bộ. Hoạt động của các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế nhiều
thành phần và bộ máy quản lý của Nhà nước được đổi mới một bước quan trọng.
Với chủ trương tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, quan hệ kinh tế của
Việt Nam với các nước, các tổ chức quốc tế ngày càng được mở rộng. Việt Nam đã
tham gia Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), thực hiện các cam kết về
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa
Kỳ, gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO),... Đến nay, Việt Nam đã có
quan hệ thương mại với hơn 200 nước và vùng lãnh thổ, ký hơn 90 hiệp định
thương mại song phương với các nước, tạo ra một bước phát triển mới rất quan
trọng về kinh tế đối ngoại.
Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được xây
dựng và hoàn thiện; chủ trương, đường lối đổi mới của Đảng tiếp tục được thể chế
hóa thành luật pháp, cơ chế, chính sách ngày càng đầy đủ, đồng bộ hơn; môi
trường đầu tư, kinh doanh được cải thiện; các yếu tố thị trường và các loại thị
trường tiếp tục hình thành, phát triển; nền kinh tế nhiều thành phần có bước phát triển mạnh. 1.5.
Những thay đổi về việc chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế.
Trước Đổi Mới, cơ chế quản lý kinh tế ở Việt Nam là cơ chế kế hoạch hoá tập
trung với những đặc điểm sau:
Thứ nhất, Nhà nước quản lý nền kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính
dựa trên hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh chi tiết áp đặt từ trên xuống dưới. Các doanh
nghiệp hoạt động trên cơ sở các quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
và các chỉ tiêu pháp lệnh được giao. Tất cả phương hướng sản xuất, nguồn vật tư,
tiền vốn; định giá sản phẩm, tổ chức bộ máy, nhân sự, tiền lương... đều do các cấp
có thẩm quyền quyết định. Nhà nước giao chỉ tiêu kế hoạch cấp phát vốn, vật tư
cho doanh nghiệp, doanh nghiệp giao nộp sản phẩm cho Nhà nước. Lỗ thì Nhà
nước bù, lãi thì Nhà nước thu.
Thứ hai, các cơ quan hành chính can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất,
cokinh doanh của các doanh nghiệp nhưng lại không chịu trách nhiệm gì về vật
chất và pháp lý đối với các quyết định của mình. Những thiệt hại vật chất do các
quyết định của cơ quan hành chính gây ra thì ngân sách nhà nước phải gánh chịu.
Các doanh nghiệp không có quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh, cũng không bị ràng
buộc trách nhiệm đối với kết quả sản xuất, kinh doanh.
Thứ ba, quan hệ hàng hóa - tiền tệ bị coi nhẹ, chỉ là hình thức, quan hệ hiện
vật là chủ yếu. Nhà nước quản lý kinh tế thông qua chế độ "cấp phát - giao nộp".
Vì vậy, rất nhiều hàng hóa quan trọng như sức lao động, phát minh sáng chế, tư
liệu sản xuất quan trọng không được coi là hàng hóa về mặt pháp lý.
Thứ tư, bộ máy quản lý cồng kềnh, nhiều cấp trung gian vừa kém năng động,
vừa sinh ra đội ngũ quản lý kém năng lực, phong cách cửa quyền, quan liêu nhưng
lại được hưởng quyền lợi cao hơn người lao động.
Hiện nay Việt Nam đang được thực hiện cơ chế quản lý kinh tế dưới sự điều
khiển của nhà nước, đất nước đã chuyển từ nền kinh tế bao cấp, tập trung sang
nền kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Nền kinh tế thị trường đã giúp cho nền kinh tế Việt nam đạt được nhiều thành
tựu to lớn, đưa Việt nam thoát nghèo, ra khỏi tình trạng đói kém, từ nước chưa phát
triển sang nước đang triển và có xu hướng phát triển đất nước hiện đại hóa, công nghiệp hóa.
Để chuyển từ nền kinh tế bao cấp, tập trung sang nền kinh tế xã hội chủ nghĩa,
nền kinh tế thị trường, nhà nước đã có những hoạt động nổi bật:
- Xây dựng được mối quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất:
+ Quan hệ sản xuất: Nhà nước xây dựng một chế độ sở hữu với nhiều loại
hình sở hữu, sẽ làm giải phóng lực lượng sản xuất, thu hút được nhiều thành phần
kinh tế tham gia xây dựng đất nước.
+ Với nhiều thành phần kinh tế, nhưng Nhà nước vẫn phải xác định vai trò
chủ đạo của kinh tế Nhà nước, thông qua việc xây dựng các doanh nghiệp Nhà
nước và các công ty cổ phần nhà nước ở các ngành, lĩnh vực then chốt nhằm hạn
chế được tiêu cực của nền kinh tế thị trường.
- Xây dựng lực lượng sản xuất đó là xây dựng nền kinh tế công nghiệp hoá
và hiện đại hoá. Biểu hiện ở 2 mặt:
+ Xây dựng một phương thức quản lý sản xuất theo hướng chuyên môn hoá
tập trung, hợp tác, liên hiệp hoá, đồng thời đẩy mạnh cách mạng khoa học kỹ thuật
theo hướng cơ khí hoá, tự động hoá, hoá học hoá. Xây dựng một cơ cấu kinh tế
phù hợp với lợi thế so sánh của đất nước, qua đó tạo ưu thế cho đất nước trong các
quan hệ quốc tế. Phát triển kinh tế mở, đa dạng hoá và đa phương hoá các loại kinh tế.
Nước ta có nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung được xây dựng trên cơ sở chế
độ công hữu và sở hữu tập thể về tư liệu sản xuất, có vai trò lớn trong lịch sử đã
góp phần quan trọng vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Ngày nay thế giới
đã chuyển từ đối đầu sang đối thoại xuất hiện nhiều cơ hội thuận lợi cho các quốc
gia chậm phát triển hội nhập với môi trường mới với nhịp độ phát triển cao, nhưng
muốn thích ứng phải tìm được con đường đi mới, phù hợp, đó chinh là nền kinh tế
nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước
theo định hướng XHCN. Để chuyển đổi nền kinh tế, Nhà nước ta cần đổi mới các
phương thức quản lý Nhà nước về kinh tế, và đặc biệt phải xây dựng hệ thống pháp
luật nói chung và pháp luật kinh tế nói riêng cho hoàn chỉnh. 2. Hạn chế.
Tuy nhiên, quá trình xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa còn chậm, chưa theo kịp yêu cầu của công cuộc đổi mới và hội nhập
kinh tế quốc tế của đất nước: Hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách chưa đầy đủ,
đồng bộ và thống nhất; Việc xử lý các vấn đề liên quan đến đất đai còn nhiều
vướng mắc; Vấn đề sở hữu, quản lý và phân phối trong các doanh nghiệp nhà nước
chưa giải quyết tốt, gây khó khăn cho sự phát triển và làm thất thoát tài sản nhà
nước, nhất là khi tiến hành cổ phần hóa; Doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh
tế khác còn bị phân biệt đối xử; Các yếu tố thị trường và các loại thị trường hình
thành, phát triển chậm, thiếu đồng bộ, vận hành chưa thông suốt; Tình trạng cạnh
tranh không lành mạnh, gian lận thương mại, trốn, lậu thuế còn nhiều, chậm được
khắc phục. Phân bổ nguồn lực quốc gia chưa hợp lý. Chính sách tiền lương còn
mang tính bình quân, chưa bảo đảm đời sống của người hưởng lương, chưa khuyến
khích, thu hút và sử dụng được người tài. Hệ thống thuế chưa thực hiện tốt chức
năng điều tiết và bảo đảm công bằng xã hội, thúc đẩy đầu tư, đổi mới công nghệ,
nuôi dưỡng và phát triển nguồn thu. Cơ cấu tổ chức, cơ chế vận hành của bộ máy
nhà nước còn nhiều bất cập, hiệu lực, hiệu quả quản lý còn thấp. Cải cách hành
chính chưa đạt được mục tiêu, yêu cầu đề ra. Tệ tham nhũng, quan liêu, lãng phí
vẫn nghiêm trọng. Cơ chế, chính sách phát triển các lĩnh vực văn hóa, xã hội đổi
mới chậm, chất lượng dịch vụ y tế, giáo dục – đào tạo còn thấp. Hệ thống an sinh
xã hội còn sơ khai. Tỷ lệ người tham gia bảo hiểm xã hội còn thấp. Nhiều vấn đề
bất cập, bức xúc trong xã hội và bảo vệ môi trường chưa được giải quyết tốt. 3. Nguyên nhân.
Những hạn chế, khuyết điểm trên đây là do cả nguyên nhân khách quan và
nguyên nhân chủ quan, trong đó nguyên nhân chủ quan là chủ yếu. Về khách quan:
Những hạn chế trên có nguyên nhân do việc xây dựng nền kinh tế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là hoàn toàn mới, chưa có tiền lệ trong
lịch sử. Nhận thức về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn nhiều hạn chế. Công tác lý luận
chưa theo kịp đòi hỏi của thực tiễn. Nền kinh tế vẫn trong tình trạng kém phát
triển; sự chênh lệch phát triển giữa các vùng, miền, các thành phần kinh tế và các
tầng lớp dân cư còn cao.
Đổi mới là một sự nghiệp to lớn, toàn diện, lâu dài, rất khó khăn, phức tạp,
chưa có tiền lệ trong lịch sử. Tình hình thế giới và khu vực có những mặt tác động
không thuận lợi; sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch và cơ hội chính trị.
Nhận thức về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn nhiều hạn
chế do công tác lý luận chưa theo kịp đòi hỏi của thực tiễn, vấn đề này đã được Đại
hội XI của Đảng khẳng định: "Công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn nhìn
chung vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu". Về chủ quan:
Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, chưa được quan tâm đúng
mức, đổi mới tư duy lý luận chưa kiên quyết, mạnh mẽ, có mặt còn lạc hậu, hạn
chế so với chuyển biến nhanh của thực tiễn. Dự báo tình hình có lúc, có việc làm
còn chậm và thiếu chính xác làm ảnh hưởng đến chất lượng các quyết sách, chủ
trương, đường lối của Đảng. Nhận thức và giải quyết các mối quan hệ lớn còn hạn
chế. Đổi mới chưa toàn diện, thiếu đồng bộ, lúng túng trên một số lĩnh vực.
Nhận thức, phương pháp và cách thức lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện chủ
trương, đường lối, nghị quyết của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước còn
nhiều hạn chế. Quyền hạn và chế độ trách nhiệm, nhất là quyền hạn và trách nhiệm
của người đứng đầu không được quy định rõ ràng; thiếu cơ chế để kiểm soát quyền
lực. Nhiều chủ trương, nghị quyết đúng không được tích cực triển khai thực hiện,
kết quả đạt thấp. Một số chính sách không phù hợp thực tiễn, chậm được sửa đổi, bổ sung.
Việc quản lý, giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo,
quản lý chủ chốt các cấp về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống chưa được coi
trọng thường xuyên, đúng mức, hiệu quả thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu, chưa
tạo được sự thống nhất cao về nhận thức tư tưởng, ý chí và hành động trong Đảng
trước những diễn biến phức tạp của tình hình. Đánh giá, sử dụng, bố trí cán bộ còn
nể nang, cục bộ; chưa quan tâm việc xây dựng cơ chế, chính sách để trọng dụng người có đức, có tài.
Vai trò tham gia hoạch định chính sách, thực hiện và giám sát của các cơ
quan dân cư, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính chị - xã hội, các tổ chức xã hội, nghề nghiệp còn yếu.
4. Bài học kinh nghiệm.
Để đáp ứng nhu cầu phát triển thực tiễn kinh tế - xã hội, nhu cầu công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển và hoàn thiện dần nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, phấn đấu đến năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành nước
công nghiệp theo hướng hiện đại, thì yêu cầu chúng ta cần phải tiếp tục đổi mới
nhận thức, đổi mới tư duy (đặc biệt là nhận thức về kinh tế thị trường) là hết sức cấp bách.
Xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một quá trình lâu
dài diễn ra không phải trong một chốc một lát mà sẽ phải nếm trải không ít khó
khăn thử thách. Vì vậy, trước những khó khăn, thử thách đó, thực tiễn đòi hỏi phải
luôn có sự tìm tòi sáng tạo, phải luôn có sự đổi mới.
Trong quá trình xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, cần tiếp tục làm rõ nội hàm cơ bản của thể chế kinh tế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt một số vấn đề liên quan đến bản chất
của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chẳng hạn như công cụ thực
hiện kinh tế thị trường, các vấn đề liên quan đến sở hữu, vai trò lãnh đạo của Đảng,
vai trò quản lý của Nhà nước, vai trò của các thành phần kinh tế Nhà nước, …. cần
được sáng tỏ và thể chế hóa. 5. Tổng kết.
Đảng ta đã xác định việc phát triển kinh tế thị trường là đúng đắn, nhưng
phải có sự điều chỉnh sao cho hợp lý với tình hình đất nước cũng như định hướng
của nước ta. Kết quả đã cho thấy quá trình đổi mới quan điểm của Đảng về xây
dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta trong thời kỳ đổi mới từ 1986 đến nay.
Định hướng lớn của Đảng về phát triển kinh tế thị trường: Đến năm 2020,
phấn đấu cơ bản hoàn thành đồng bộ hệ thống thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa theo các tiêu chuẩn phổ biến của nền kinh tế thị trường
hiện đại và hội nhập quốc tế.
Qua gần 35 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có
ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu nói trên, trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam còn có một số mặt hạn chế: hệ thống thị
trường chưa đồng bộ; môi trường kinh tế (gồm cả vĩ mô và vi mô) chưa được hoàn
thiện và chưa thực sự hiệu quả, năng lực quản lý nhà nước và cơ chế chính sách
chưa theo kịp thực tiễn; nguồn nhân lực chưa đáp ứng được với kinh tế thị trường
trong bối cảnh hội nhập.
Trong quá trình đổi mới phải chủ động, không ngừng sáng tạo trên cơ sở kiên
định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vận dụng sáng tạo và phát triển
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy truyền thống
dân tộc, vận dụng kinh nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam. 2.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.
Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XII của Đảng (tài liệu sử dụng tại
đại hội đảng bộ cấp sơ sở), tr. 49-50. 2.
Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XII của Đảng (tài liệu sử dụng tại
đại hội đảng bộ cấp sơ sở), tr. 16. 3.
Báo cáo của Chính phủ về tình hình kinh tế - xã hội năm 2013, kết
quả 3 năm thực hiện kế hoạch 5 năm (2011-2015) và nhiệm vụ 2014-2015. 4.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2011, tr. 93, 94. 5.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2011, tr. 94. 6.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2011, tr.69. 7.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2011, tr. 92. 8.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ X, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2006, tr.69. 9.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2011, tr.73, 74. 10.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ X, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2006, tr.67. 6.