



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 58097008
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI
HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
BÀI TẬP LỚN Môn: Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam
CHỦ ĐỀ: QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI QUAN ĐIỂM
CỦA ĐẢNG VỀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ Ở NƯỚC
TA TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI TỪ 1986 ĐẾN NAY Hà Nội – 2021 lOMoAR cPSD| 58097008 MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
NỘI DUNG ................................................................................................................ 3
Chương 1: Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn ........................................................ 3
1.1. Cơ sở lý luận ................................................................................................. 3
1.1.1 Khái niệm hội nhập quốc tế: ................................................................... 3
1.1.2 Quan điểm của Mác-Lênin về các vấn đề chung của hội nhập ............... 3
1.1.3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về các vấn đề hội nhập quốc tế ............... 4
1.2. Cơ sở thực tiễn .............................................................................................. 4
1.2.1. Vấn đề hội nhập quốc tế của VN trước thời kỳ đổi mới ........................ 5
1.2.2. Tính cấp thiết phải thay đổi quan điểm về hội nhập ở Việt Nam ........... 6
1.2.3. Tầm quan trọng của hội nhập quốc tế đối với nước ta trong thời kỳ đổi
mới .................................................................................................................... 6
Chương 2: Quá trình đổi mới quan điểm về hội nhập quốc tế ở nước ta
trongthời kỳ mới từ 1986 ...................................................................................... 7
2.1. Giai đoạn 1986 – 1995 .................................................................................. 7
2.2. Giai đoạn 1996 – 2010 ............................................................................... 13
2.3. Giai đoạn 2011 - nay ................................................................................... 19
Chương 3: Đánh giá việc thực hiện đổi mới trong hội nhập quốc tế .............. 28
3.1. Đánh giá việc thực hiện............................................................................... 28
3.1.1. Kết quả đạt được ................................................................................... 28
3.1.2. Hạn chế và thách thức ........................................................................... 35
3.2. Bài học và giải pháp thúc đẩy hội nhập quốc tế toàn diện của Việt Nam ... 39
3.2.1. Bài học kinh nghiệm về hội nhập quốc tế ở Việt Nam ......................... 39
3.2.2. Giải pháp thúc đẩy hội nhập quốc tế toàn diện..................................... 41
TỔNG KẾT ............................................................................................................. 42 lOMoAR cPSD| 58097008 MỞ ĐẦU
Thế kỉ XX đã qua với những dấu ấn kinh tế đầy ấn tượng của quá trình toàn
cầu hoá lực lượng sản xuất, quá trình này được biểu hiện rõ nét ở sự sát nhập của
những công ty xuyên quốc gia hàng đầu thế giới như Boing, Mercedes, Nissan...
và đặc biệt ở sự xuất hiện của các tổ chức kinh tế và thương mại mang tính khu vực,và
toàn cầu như WTO, APEC, ASEAN... Dưới sức ép của toàn cầu hoá, nền kinh tế của
mỗi quốc gia cũng có sự biến chuyển mạnh mẽ và nhanh chóng. Quá trình này mở ra
những triển vọng to lớn của việc thúc đẩy tăng trưởng ở mỗi quốc gia, nhưng đồng
thời trên phương diện quản lý, cũng đặt ra những thách thức to lớn đối với các chính phủ.
Theo xu thế chung của thế giới, Việt Nam đã và đang từng bước cố gắng chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế. Đây không phải là một mục tiêu nhiệm vụ nhất thời
mà là vấn đề mang tính chất sống còn đối với nền kinh tế Việt Nam hiện nay cũng
như sau này. Bởi một nước mà đi ngược với xu hướng chung của thời đại sẽ trở nên
lạc hậu và bị cô lập, sớm hay muộn nước đó sẽ bị loại bỏ trên đấu trường quốc tế.
Hơn thế nữa, một nước đang phát triển, lại vừa trải qua chiến tranh tàn khốc, ác liệt…
thì việc chủ động hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới thì lại càng cần thiết hơn
bao giờ hết. Trong quá trình hội nhập, với nội lực dồi dào sẵn có cùng với ngoại lực
sẽ tạo ra thời cơ phát triển kinh tế. Việt Nam sẽ mở rộng được thị trường xuất nhập
khẩu, thu hút được vốn đầu tư nước ngoài, tiếp thu được khoa học công nghệ tiên
tiến, những kinh nghiệm quý báu của các nước kinh tế phát triển và tạo được môi
trường thuận lợi để phát triển kinh tế. Tuy nhiên, một vấn đề bao giờ cũng có hai mặt
đối lập. Hội nhập kinh tế quốc tế mang đến cho Việt Nam rất nhiều thời cơ thuận lợi
nhưng cũng đem lại không ít khó khăn thử thách. Văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ
XI của Đảng khẳng định: “Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách
nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hoà bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và tiến bộ trên thế giới”. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta sẽ từng bước
khắc phục những khó khăn để đưa đất nước phát triển. Hội nhập kinh tế quốc tế là tất
yếu khách quan đối với Việt Nam.
Cuộc cải cách này sẽ giúp cho Việt Nam huy động được các nguồn lực nội
sinh, tăng cường sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trên chính thị trường
nội địa,tạo tiền đề cho cạnh tranh quốc tế.Hội nhập vừa là cơ hội cũng vừa là thách
thức ,những trở ngại nảy sinh do bản thân tiến trình cải cách, cùng với sức ép của
khủng hoảng kinh tế và tài chính khu vực, đang có ảnh hưởng ngày càng sâu rộng và
đặt ra trách nhiệm nặng nề cho bộ máy quản Nhà Nước cũng như cho toàn thể chế xã
hội. Do vậy, có thể nói rằng hiện nay Việt Nam thực sự đang ở trong thời điểm bước
ngoặt của việc đánh giá lại toàn bộ các nguồn lực phát triển, và nhất là các quan điểm
và định hướng phát triển đất nước sao cho phù hợp với sự phát triển chung của thế
giới, mà trong đó hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam là yếu tố quan trọng để thúc
đẩy kinh tế phát triển. lOMoAR cPSD| 58097008
Trong phạm vi bài tập lớn này, chúng em xin được trình bày: “Quá trình đổi
mới quan điểm về hội nhập quốc tế ở nước ta trong thời kỳ mới từ 1986”
Do trình độ nhận thức về vấn đề này còn hạn chế nên bài viết không tránh khỏi
những thiếu sót, chúng em rất mong nhận được những nhận xét góp ý của cô giáo để
bài viết được hoàn chỉnh hơn. lOMoAR cPSD| 58097008 NỘI DUNG
Chương 1: Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1 Khái niệm hội nhập quốc tế:
Hội nhập quốc tế là quá trình liên kết, gắn kết giữa các quốc gia/vùng lãnh thổ
với nhau thông qua việc tham gia các tổ chức, thiết chế, cơ chế, hoạt động hợp tác
quốc tế vì mục tiêu phát triển của bản thân mỗi quốc gia/vùng lãnh thổ đó và nhằm
tạo thành sức mạnh tập thể giải quyết những vấn đề chung mà các bên cùng quan tâm.
Hội nhập quốc tế theo đúng nghĩa đầy đủ là hội nhập trên tất cả lĩnh vực khác nhau
của đời sống xã hội.
Về bản chất , hội nhập quốc tế chính là một hình thức phát triển cao của hợp
tác quốc tế nhằm đạt được một mục tiêu hoặc 1 lợi ích chung nào đó.
Cụ thể hơn, quá trình hội nhập quốc tế của một quốc gia có thể hợp tác, cạnh
tranh và đấu tranh,... với các bộ phận cấu thành khác nhau trong “hệ thống”, bao gồm
cả việc gia nhập, rút khỏi các “phân hệ” khác nhau trong hệ thống, chứ không phải
đơn thuần là một hình thức phát triển cao hơn của “hợp tác quốc tế”. Tất cả các hoạt
động này đều là hoạt động có chủ đích nhằm phát triển quốc gia, khẳng định bản sắc
quốc gia, giành vị thế xứng đáng cho quốc gia trong hệ thống, tham gia hoàn thiện và
phát triển hệ thống,...
1.1.2 Quan điểm của Mác-Lênin về các vấn đề chung của hội nhập
Thực tế lịch sử đã chứng minh từ bản chất của học thuyết khoa học Mácxít
Lêninnít, cũng như từ kinh nghiệm lịch sử của phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế đã chỉ ra rằng, công cuộc cách mạng và xây dựng chủ nghĩa xã hội của một
quốc gia muốn giành thắng lợi thì đảng cộng sản nước đó phải căn cứ vào tình hình
cụ thể, thực tiễn lịch sử để vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tìm ra con đường
cách mạng riêng của mình. Hội nhập quốc tế cũng là một mắt xích trong công cuộc
cách mạng và xây dựng chủ nghĩa xã hội của mỗi quốc gia, do vậy cũng cần phải nắm
rõ tình hình nước mình và đề ra hướng đi đúng đắn riêng.
Cách mạng Tháng Mười thành công bởi V.I.Lênin đã trên cơ sở nắm chắc tình
hình nước Nga, tìm ra được con đường phù hợp. Cụ thể hơn với vấn đề hội nhập quốc
tế, Lênin đã xác định đây là yếu tố tất yếu. V.I.Lênin lấy nguyên tắc đoàn kết quốc tế
vô sản vì mục đích chính nghĩa làm nguyên tắc trong hoạt động đối ngoại của Đảng
Công nhân dân chủ-xã hội Nga. Không chỉ nhấn mạnh đến đối ngoại chính trị, trong
bối cảnh nền kinh tế còn gặp nhiều khó khăn, V.I.Lênin đã chỉ ra rằng, mở cửa là nhu
cầu khách quan để phát triển kinh tế ở mỗi nước và trên phạm vi thế giới. Ngoài ra lOMoAR cPSD| 58097008
V.I.Lênin cũng rất chú trọng là giao lưu văn hóa giữa các nước vì nó có ý nghĩa rất
lớn đối với công tác thông tin, tuyên truyền và đối ngoại.
1.1.3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về các vấn đề hội nhập quốc tế
Chủ tịch Hồ Chí Minh trong toàn bộ cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng Hồ Chí
Minh từ lúc ra đi tìm đường cứu nước đến tận cuối đời đều phản ánh tầm nhìn xa,
trông rộng, luôn đổi mới, hội nhập và phát triển. Người đã tiếp thu tư tưởng Mác
Lênin và vận dụng vào thực tiễn Việt Nam với tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo.
Quan điểm của HCM về hội nhập quốc tế cũng như đối ngoại nói chung là phải đặt
lợi ích của quốc gia, của dân tộc lên trên hết. Phải kiên định độc lập, tự chủ với chân
lý “không có gì quý hơn độc lập, tự do!”, “dựa vào sức mình là chính”, “muốn người
ta giúp cho thì trước mình phải tự giúp lấy mình đã”, “một dân tộc không tự lực cánh
sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”; kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Phương châm của người là “dĩ bất biến
ứng vạn biến”, trong đó, thực hiện mục tiêu của chủ nghĩa xã hội “dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” luôn là cái “bất biến”. Cái “vạn biến” là phải
linh hoạt, khôn khéo trong bối cảnh tình hình thế giới đang có nhiều biến động.
Muốn hoàn thành mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh” thì phải đổi mới và phát triển. Mà muốn đổi mới, phát triển thì phải tích cực
hội nhập quốc tế, “muốn làm cách mạng thắng lợi thì phải... thực hiện thêm bầu bạn,
bớt kẻ thù” . Bên cạnh đó, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, “Nước ta là một bộ phận của
thế giới. Tình hình của nước ta có ảnh hưởng đến thế giới, mà tình hình thế giới cũng
có quan hệ đến nước ta” , nhưng phải độc lập, tự chủ, phải khôn khéo, phải có những
biện pháp của riêng mình, vì “muốn người ta giúp cho, thì trước mình phải tự giúp
lấy mình đã”. Có chính sách đối ngoại rộng mở, hợp tác, hòa bình và quan hệ tốt;
tránh đối đầu, không gây thù oán với một ai. Trong quan hệ với các nước, các tổ chức
quốc tế, cần tăng điểm tương đồng, hạn chế bất đồng, khai thác mọi khả năng có thể
để phát huy sức mạnh của thời đại. Trong quan hệ với bên ngoài, cần “phải nhìn cho
rộng, suy cho kỹ”, tỉnh táo để có những đối sách khôn khéo trước mắt và lâu dài.
1.2. Cơ sở thực tiễn
Tình hình thế giới từ giữa thập kỷ 80 thế kỷ XX:
Từ giữa những năm 1980, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ tiếp tục phát
triển mạnh mẽ, tác động sâu sắc đến mọi mặt đời sống của các quốc gia, dân tộc. Các
nước xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng sâu sắc. Đến đầu những năm
1990, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô sụp đổ, dẫn đến những biến đổi to lớn về
quan hệ quốc tế. Trật tự thế giới được hình thành từ sau chiến tranh thế giới thứ hai
trên cơ sở hai khối đối lập do Liên Xô và Hoa Kỳ đứng đầu (trật tự thế giới hai cực)
tan rã, mở ra thời kỳ hình thành một trật tự thế giới mới. lOMoAR cPSD| 58097008
Trên phạm vi thế giới, những cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột, tranh chấp
vẫn còn, nhưng xu thế chung của thế giới là hoà bình và hợp tác phát triển. Các quốc
gia, các tổ chức và lực lượng chính trị quốc tế thực hiện điều chỉnh chiến lược đối
nội, đối ngoại và phương thức hành động cho phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ bên
trong và đặc điểm của thế giới.
Xu thế chạy đua phát triển kinh tế khiến các nước, nhất là những nước đang
phát triển đã đổi mới tư duy đối ngoại, thực hiện chính sách đa phương hoá, đa dạng
hoá quan hệ quốc tế; mở rộng và tăng cường liên kết, hợp tác với các nước phát triển
để tranh thủ vốn, kỹ thuật, công nghệ, mở rộng thị trường, học tập kinh nghiệm tổ
chức, quản lý sản xuất kinh doanh.Các nước đổi mới tư duy về quan niệm sức mạnh,
vị thế quốc gia. Thay thế cách đánh giá cũ, chủ yếu dựa vào thế mạnh quân sự bằng
các tiêu chí tổng hợp, trong đó sức mạnh kinh tế được đặt ở vị trí quan trọng hàng đầu.
Bên cạnh đó quan hệ Việt-Mỹ là một trong những mẫu điển hình của sự thăng
trầm từ “đối đầu thù địch” đến “đối tác toàn diện” mang tính chu kỳ của 2 thập niên
lịch sử. Từ năm 1955-1975, Mỹ đã kéo quân, đưa vũ khí vào Miền Nam gây ra cuộc
chiến tranh thảm khốc ở Việt Nam. Hàng triệu người Việt Nam cùng với khoảng hơn
58.000 lính Mỹ đã chết trong cuộc chiến tranh phi nghĩa do chính Mỹ gây ra. Hệ lụy
của cuộc chiến và hậu quả của nó để lại sau hơn 45 năm vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể khắc phục.
Sau khi Mỹ rút quân khỏi Miền Nam Việt Nam, năm 1975 Việt Nam đã hoàn
thành nhiệm vụ giải phóng, thống nhất Tổ quốc. Trong 2 thập niên tiếp theo
(19751995), quan hệ Việt-Mỹ cực kỳ căng thẳng. Dường như ôm hận trong cuộc
chiến tranh thất bại duy nhất được tiến hành ngoài lãnh thổ, người Mỹ tìm mọi cách
để lật đổ chế độ ở Việt Nam với phương châm “Cộng sản đã dùng bom, đạn để đuổi
người Mỹ ra khỏi Sài Gòn, người Mỹ sẽ dùng đôla để đuổi Cộng sản ra khỏi Hà Nội”.
Chính quyền Mỹ qua nhiều thế hệ lãnh đạo đã sử dụng biện pháp bao vây, cấm vận
về kinh tế, chính trị với mục tiêu làm cho Việt Nam kiệt quệ về kinh tế, suy kiệt về
chính trị. Không những thế, họ còn hậu thuẫn cho các tổ chức phản động cả ở trong
và ngoài nước tìm cách gây bạo loạn, lật đổ chính quyền…
1.2.1. Vấn đề hội nhập quốc tế của VN trước thời kỳ đổi mới
Trong mười năm trước đổi mới, quan hệ đối ngoại của Việt Nam với các nước
xã hội chủ nghĩa được tăng cường, trong đó đặc biệt là với Liên Xô. Kể từ năm 1977,
một số nước tư bản mở quan hệ hợp tác kinh tế với Việt Nam. Với các nước khác
thuộc khu vực Đông Nam Á: Cuối năm 1976, Philippin và Thái Lan là nước cuối
cùng trong tổ chức ASEAN thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam.
Những kết quả đối ngoại trên đây có ý nghĩa rất quan trọng đối với cách mạng
Việt Nam. Sự tăng cường hợp tác toàn diện với các nước xã hội chủ nghĩa và mở rộng
quan hệ hợp tác kinh tế với cả các nước ngoài hệ thống xã hội chủ nghĩa đã tranh thủ lOMoAR cPSD| 58097008
được nguồn viện trợ đáng kể, góp phần khôi phục đất nước sau chiến tranh; việc trở
thành thành viên chính thức của Quỹ tiền tệ quốc tế, Ngân hàng thế giới, Ngân hàng
phát triển châu Á và việc trở thành thành viên chính thức của Liên hợp quốc, tham
gia tích cực vào các hoạt động của Phong trào không liên kết, đã tranh thủ được sự
ủng hộ, hợp tác của các nước, các tổ chức quốc tế, đồng thời phát huy được vai trò
của nước ta trên trường quốc tế.
Việc thiết lập quan hệ ngoại giao với các nước còn lại trong tổ chức ASEAN
đã tạo thuận lợi để triển khai các hoạt động đối ngoại trong giai đoạn sau, nhằm xây
dựng Đông Nam Á trở thành khu vực hoà bình, hữu nghị và hợp tác.
1.2.2. Tính cấp thiết phải thay đổi quan điểm về hội nhập ở Việt Nam
Trong thời gian này, trên thế giới và khu vực diễn ra sự chuyển biến sâu sắc.
Quan hệ chính trị quốc tế cũng có những thay đổi và tác động mạnh mẽ đến chiến
lược đối ngoại của các quốc gia dân tộc, trong đó có Việt Nam.
Trong bối cảnh đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng được diễn
ra từ ngày 15 - 18/12/1986 tại Hà Nội. Với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, “nói rõ
sự thật”, “đổi mới tư duy”, Đảng đã đánh giá khách quan tình hình đất nước, thừa
nhận những sai lầm trong xây dựng và phát triển là “chủ quan, duy ý chí” và đề ra
chủ trương đổi mới toàn diện.
Về đối ngoại, mục tiêu của chính sách đối ngoại được Đại hội xác định là phải
kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, phấn đấu giữ gìn hòa bình ở Đông
Dương, góp phần giữ vững hòa bình ở Đông Nam Á và trên thế giới, tăng cường quan
hệ hữu nghị hợp tác với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa, “tranh thủ điều kiện
quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc”. Những
điểm mới về tư duy đối ngoại được trình bày trong đại hội VI của Đảng được trình
bày trong phần tiếp theo.
1.2.3. Tầm quan trọng của hội nhập quốc tế đối với nước ta trong thời kỳ đổi mới
Hội nhập quốc tế là xu thế tất yếu khách quan trong thế giới ngày nay. Đối với
các nước đang và kém phát triển (trong đó có Việt Nam) thì hội nhập quốc tế là con
đường tốt nhất để rút ngắn khoảng cách tụt hậu so với các nước khác và có điều kiện
phát huy hơn nữa những lợi thế so sánh của mình trong phân công lao động và hợp
tác quốc tế.Chính sự hội nhập này đã đem lại cho quốc gia nhiều lợi ích đáng kể. Cụ thể:
Thứ nhất, hội nhập quốc tế đã góp phần quan trọng vào việc tạo dựng môi
trường hòa bình, ổn định, thuận lợi cho phát triển đất nước
Thứ hai, hội nhập quốc tế trở thành một động lực quan trọng góp phần thúc
đẩy đổi mới toàn diện trong nước, phát triển kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng
và nâng cao năng lực cạnh tranh của nước ta trong thời gian qua. lOMoAR cPSD| 58097008
Thứ ba, hội nhập quốc tế đã góp phần hết sức quan trọng vào việc giữ vững
chủ quyền lãnh thổ, biển, đảo, bảo vệ an ninh tổ quốc
Thứ tư, các hoạt động hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng, nhất là đối ngoại
đa phương, đã góp phần không ngừng nâng cao vị thế và vai trò của đất nước trên trường quốc tế.
Thứ năm, cùng quá trình hội nhập quốc tế theo phương châm “lấy người dân
và doanh nghiệp làm trung tâm”, địa phương, doanh nghiệp và người dân ta ngày
càng có điều kiện tham gia và tận dụng các cơ hội mà hội nhập quốc tế mang lại.
Tiếp đến là những nhân tố thúc đẩy hình thành và phát triển việc hội nhập quốc tế
Hội nhập quốc tế xuất phát từ những cơ sở kinh tế xã hội hiện thực của thế giới
hiện đại. Đó là những yếu tố khách quan không phụ thuộc vào ý chí của quốc gia nào.
Điều đó đặt hội nhập kinh tế quốc tế như một tất yếu mang tính thời đại.
- Cách mạng khoa học công nghệ diễn ra mạnh mẽ đã phá vỡ địa giới giữa các quốcgia
- Sự phát triển của phân công lao động quốc tế
- Sự phát triển mạnh mẽ của các công ty xuyên quốc gia
- Ảnh hưởng của các tổ chức kinh tế, tài chính quốc tế
- Xu hướng đối thoại, hợp tác đã thay thế cho đối đầu
Chương 2: Quá trình đổi mới quan điểm về hội nhập quốc tế ở nước
ta trong thời kỳ mới từ 1986
2.1. Giai đoạn 1986 – 1995
* Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (1986) - Bối cảnh Đại hội:
Tình hình thế giới: Giữa thập kỷ 80 của thế kỷ XX, trên thế giới và khu vực
diễn ra sự chuyển biến sâu sắc. Các nước XHCN tiến hành cải cách, cải tổ, đổi mới,
Liên Xô, và Đông Âu sụp đổ, trật tự thế giới từ 2 cực thành đơn cực (Mĩ). Chiến tranh
khu vực, xung đột vũ trang, sắc tộc, tôn giáo diễn ra ở nhiều nơi song xu thế chung
vẫn là hợp tác và phát triển. Toàn cầu hoá trên thế giới đang diễn ra rất mạnh mẽ và
tác động to lớn đến sự thay đổi của thế giới. Cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật diễn
ra mạnh mẽ, tạo thành bước phát triển nhảy vọt của lực lượng sản xuất và đẩy nhanh
quá trình quốc tế hoá các lực lượng sản xuất.
Trong nước: Tiếp tục xây dựng CNXH, xây dựng chế độ làm chủ tập thể, nền
kinh tế mới, nền văn hóa mới và con người mới XHCN gắn với sự nghiệp bảo vệ Tổ lOMoAR cPSD| 58097008
quốc. Tình hình kinh tế - xã hội đang có những khó khăn gay gắt; sản xuất tăng chậm;
hiệu quả sản xuất và đầu tư thấp, các thế lực thù địch bao vây, cấm vận về kinh tế và
chính trị, đất nước rơi vào khủng hoảng KT-XH; nhân dân giảm lòng tin đối với sự
lãnh đạo của Đảng và điều hành của Nhà nước. Nhìn chung, chúng ta chưa thực hiện
được mục tiêu tổng quát do Đại hội lần thứ V đề ra là về cơ bản ổn định tình hình
kinh tế - xã hội, ổn định đời sống nhân dân.
Trong bối cảnh đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng được diễn ra từ
ngày 15 - 18/12/1986 tại Hà Nội. - Nội dung Đại hội:
Với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, “nói rõ sự thật”, “đổi mới tư duy”, Đảng
đã đánh giá khách quan tình hình đất nước, thừa nhận những sai lầm trong xây dựng
và phát triển là “chủ quan, duy ý chí” và đề ra chủ trương đổi mới toàn diện.
Xuất phát từ tình hình đó và trên cơ sở nhận thức đặc điểm nổi bật của thế giới
là cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật đang diễn ra mạnh mẽ, đẩy nhanh quá trình
quốc tế hóa lực lượng sản xuất, Đảng ta nhận định: "Xu thế mở rộng phân công, hợp
tác giữa các nước, kể cả các nước có chế độ kinh tế - xã hội khác nhau, cũng là những
điều kiện rất quan trọng đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của nước ta".
Từ đó, Đảng chủ trương phải biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại
trong điều kiện mới và đề ra yêu cầu mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế với các nước
ngoài hệ thống xã hội chủ nghĩa, với các nước công nghiệp phát triển, các tổ chức
quốc tế và tư nhân nước ngoài trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi; sử dụng tốt
mọi khả năng mở rộng quan hệ thương mại, hợp tác kinh tế và khoa học, kỹ thuật với
bên ngoài để phục vụ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội”
Đại hội đại biểu lần thứ VI của Đảng đã quyết định đổi mới toàn diện đất nước,
mở ra một bước ngoặt mới trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế:
Thứ nhất, Muốn kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, nước ta phải
tham gia sự phân công lao động quốc tế; trước hết và chủ yếu là với Liên Xô, Lào và
Campuchia, với các nước khác trong cộng đồng XHCN.
Tham gia ngày càng rộng rãi vào sự phân công lao động quốc tế, trước hết và
chủ yếu là phát triển và củng cố quan hệ đặc biệt giữa ba nước Việt Nam, Lào và
Campuchia. Đảng ta nhận thức sâu sắc rằng: phát triển và củng cố mối quan hệ đặc
biệt giữa ba nước Đông Dương, đoàn kết và tôn trọng độc lập, chủ quyền của mỗi
nước, hợp tác toàn diện, giúp đỡ lẫn nhau xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là quy luật
sống còn và phát triển của cả ba dân tộc anh em. Bằng những biện pháp thiết thực và
có hiệu quả, chúng ta ra sức phát triển quan hệ giữa nước ta với Lào và Campuchia,
làm cho mỗi nước và cả ba nước ngày càng vững mạnh, làm thất bại âm mưu và thủ
đoạn chia rẽ của kẻ thù. Đoàn kết và hợp tác toàn diện với Liên Xô là hòn đá tảng
trong chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta; phát triển quan hệ hữu nghị và lOMoAR cPSD| 58097008
hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác, với các nước khác trong Hội
đồng tương trợ kinh tế; góp phần tăng cường sức mạnh và phát huy ảnh hưởng của
cộng đồng xã hội chủ nghĩa. Chủ động cùng các nước anh em xây dựng và thực hiện
chương trình của Hội đồng tương trợ kinh tế giúp đỡ Việt Nam, chương trình tổng
hợp tiến bộ khoa học - kỹ thuật đến năm 2000 của Hội đồng tương trợ kinh tế.
Thứ hai, Tích cực phát triển và đề ra yêu cầu mở rộng hợp tác kinh tế và khoa
học – kỹ thuật với các nước ngoài hệ thống XHCN, các tổ chức quốc tế và tư nhân
nước ngoài trên cơ sở bình đẳng và cùng có lợi. Nhà nước ta chủ trương tăng cường
và mở rộng quan hệ hữu nghị với Thụy Điển, Phần Lan, Pháp, Ôxtrâylia, Nhật Bản
và với các nước phương Tây khác trên cơ sở bình đẳng và cùng có lợi. Chính phủ ta
tiếp tục bàn bạc với Mỹ giải quyết các vấn đề nhân đạo do chiến tranh để lại và sẵn
sàng cải thiện quan hệ với Mỹ vì lợi ích của hoà bình, ổn định ở Đông Nam Á.
Bên cạnh đó, Tăng cường đoàn kết của phong trào cộng sản và công nhân quốc
tế trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản; củng cố sự hợp tác
giữa các đảng anh em trong cuộc đấu tranh cho hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
chủ nghĩa xã hội. Mở rộng quan hệ với các tổ chức quốc tế, ủng hộ mạnh mẽ phong
trào đấu tranh giải phóng và độc lập dân tộc chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực
dân và chủ nghĩa phân biệt chủng tộc. Mở rộng quan hệ với tất cả các nước trên
nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình. Trên tinh thần bình đẳng, bảo đảm độc lập, chủ
quyền và tôn trọng lẫn nhau, sẵn sàng đàm phán để giải quyết những vấn đề thuộc
quan hệ giữa Việt Nam với Trung Quốc, bình thường hóa quan hệ và khôi phục tình
hữu nghị giữa hai nước, vì lợi ích của nhân dân hai nước, vì hòa bình ở Đông - Nam á và trên thế giới. - Nghị quyết số 13:
Tư duy của Đảng ta có bước chuyển quan trọng tại Nghị quyết số 13 của Bộ
Chính trị (tháng 5/1988). Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 13 về nhiệm vụ và chính sách
đối ngoại trong tình hình mới với mục tiêu chiến lược và lợi ích cao nhất của Đảng
và nhân dân ta là củng cố và giữ vững hòa bình để tập trung sức xây dựng và phát
triển kinh tế; đề ra chủ trương kiên quyết chủ động chuyển cuộc đấu tranh từ tình
trạng đối đầu sang đấu tranh và hợp tác trong cùng tồn tại hoà bình; lợi dụng sự phát
triển của cách mạng khoa học - kỹ thuật và xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới
để tranh thủ vị trí có lợi nhất trong phân công lao động quốc tế; kiên quyết mở rộng
quan hệ hợp tác quốc tế, ra sức đa dạng hóa quan hệ đối ngoại. Theo đó, Đảng nêu rõ
trạng thái “đấu tranh và hợp tác trong cùng tồn tại hòa bình” và nhận định “với một
nền kinh tế mạnh, một nền quốc phòng vừa đủ mạnh cùng với sự mở rộng quan hệ
hợp tác quốc tế, chúng ta sẽ càng có nhiều khả năng giữ vững độc lập và xây dựng
thành công xã hội chủ nghĩa hơn”.
Nghị quyết 13 đánh dấu sự đổi mới tư duy quan hệ quốc tế, quan hệ đối ngoại
theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá. Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị thể hiện sự lOMoAR cPSD| 58097008
đổi mới tư duy của Đảng về nhiều vấn đề then chốt thuộc lĩnh vực đối ngoại như:
quan hệ chính trị quốc tế; mục tiêu đối ngoại; an ninh và phát triển; đoàn kết quốc tế
và tập hợp lực lượng trong quan hệ quốc tế của Việt Nam. Phương châm đối ngoại
“thêm bạn, bớt thù” được hình thành nhằm tiếp tục mở rộng hơn nữa quan hệ đối
ngoại với các nước, các tổ chức quốc tế ngoài phe XHCN trên cơ sở đề cao lợi ích
quốc gia dân tộc của Việt Nam. Sự chuyển hướng này đã đặt nền móng hình thành
đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ
quốc tế. Trên lĩnh vực kinh tế đối ngoại, từ năm 1989, Đảng chủ trương xóa bỏ tình
trạng độc quyền trong sản xuất và kinh doanh xuất nhập khẩu. So với chủ trương của
Đại hội V là "Nhà nước độc quyền ngoại thương và trung ương thống nhất quản lý
công tác ngoại thương" thì đây là bước đổi mới đầu tiên trên lĩnh vực kinh tế đối ngoại của Việt Nam.
Có thể thấy, đất nước lúc đó từng bước mở rộng hợp tác kinh tế ra bên ngoài,
không chỉ quan hệ với các nước trong khối xã hội chủ nghĩa. Thời kỳ Bộ trưởng
Nguyễn Duy Trinh (1965 – 1980), Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch (1980 – 1991) dành
mối quan tâm lớn cho việc này. Nhờ vậy, Việt Nam mở ra được ODA với Nhật Bản,
lập quan hệ ngoại giao với nhiều nước, bình thường hoá và thiết lập quan hệ với các
tổ chức kinh tế quốc tế như IMF, World Bank. Việt Nam cũng chủ trương sớm hướng
tới bình thường hoá quan hệ với Mỹ. Tháng 9/1990, Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch đã
gặp Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ James Baker ở New York, bàn việc bình thường hóa quan hệ hai nước.
* Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (1991) - Bối cảnh Đại hội:
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam được tiến
hành vào tháng 6-1991, trong bối cảnh quốc tế và trong nước đang có những diễn
biến phức tạp. Đó là những biến động đã và đang xảy ra ở các nước xã hội chủ nghĩa,
sự tiến công nhiều phía vào chủ nghĩa xã hội, vào chủ nghĩa Mác - Lênin và
Đảng Cộng sản, những âm mưu và thủ đoạn của các thế lực thù địch quốc tế hòng
xóa bỏ chủ nghĩa xã hội hiện thực và sự hoang mang, dao động trong một bộ phận
lớn những người cộng sản trên thế giới đã tác động mạnh đến tư tưởng và tình cảm
của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và nhân dân Việt Nam. Đất nước ta
cũng phải đương đầu với các hoạt động phá hoại của các lực lượng thù địch ở cả trong
và ngoài nước. Tình hình kinh tế và đời sống của nhân dân vẫn còn khó khăn, đất
nước vẫn trong tình trạng khủng hoảng kinh tế xã hội. Tuy nhiên, công cuộc đổi mới
được Đảng ta đề ra từ Đại hội lần thứ VI (12/1986), bước đầu đã đạt được những
thành tựu đáng kể, nhờ đó mà nước ta đã đứng vững và tiếp tục phát triển.
- Nội dung Đại hội VII:
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (tháng 6-1991) đề ra chủ
trương "hợp tác bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các nước, không phân biệt chế độ lOMoAR cPSD| 58097008
chính trị - xã hội khác nhau trên cơ sở các nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình", với
phương châm "Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới,
phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển". Từ đó hình thành nên chính sách đối
ngoại theo hướng “đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại.
Đảng khẳng định thế giới vẫn trong thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đồng
thời chỉ rõ những xu thế lớn như quốc tế hóa, dân chủ hóa, xu thế hòa bình, hợp tác
trong quan hệ quốc tế. Chủ trương đối ngoại của Việt Nam được khẳng định tại Đại
hội VII (1991), theo đó Việt Nam muốn là bạn, là đối tác với các nước trên thế giới
và mở rộng, đa phương hóa quan hệ kinh tế đối ngoại. Đại hội còn nhấn mạnh: “Cần
nhạy bén và dự báo được những diễn biến phức tạp và thay đổi sâu sắc trong quan hệ
quốc tế để có những chủ trương đối ngoại phù hợp.” Đây là khâu đột phá trong việc
thực hiện chủ trương hội nhập quốc tế. Đại hội lần thứ VII của Đảng chủ trương gắn
thị trường trong nước với thị trường thế giới, giải quyết tốt mối quan hệ giữa thị
trường trong nước và thị trường ngoài nước và có chính sách bảo vệ hàng nội địa và
Đại hội cũng đã xác định nguyên tắc cơ bản của hội nhập kinh tế quốc tế.
Đại hội VII đã đổi mới chính sách đối ngoại với các đối tác cụ thể. Với Lào và
Campuchia, thực hiện đổi mới phương thức hợp tác, chú trọng hiệu quả trên tinh thần
bình đẳng. Với Trung Quốc, chủ trương thúc đẩy bình thường hóa quan hệ, từng bước
mở rộng hợp tác Việt - Trung. Trong quan hệ với khu vực, Đảng chủ trương phát triển
quan hệ hữu nghị với các nước Đông Nam Á và châu Á - Thái Bình Dương, phấn đấu
cho một Đông Nam Á hoà bình, hữu nghị và hợp tác. Đối với Hoa Kỳ, Đảng nhấn
mạnh yêu cầu thúc đẩy quá trình bình thường hóa quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ. Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được Đại hội VII
của Đảng thông qua xác định quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các
nước trên thế giới là một trong những đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa
mà nhân dân ta xây dựng.
Với những nội dung được quyết nghị, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII
được đánh giá là “Đại hội của trí tuệ - đổi mới - dân chủ - kỷ cương - đoàn kết.”
- Hội nghị Trung ương 3 khóa VII
Trong nhiệm kỳ Đại hội VII, quá trình đổi mới tư duy về đối ngoại đa phương
của Đảng Cộng sản Việt Nam được thể hiện rất rõ tại Hội nghị Trung ương 3 khóa
VII (năm 1992). Hội nghị lần thứ 3 của Trung ương (khoá 7) tháng 6- 1992 nhấn
mạnh yêu cầu: Đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế; mở rộng cửa để thu hút
vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý của nước ngoài, tiếp cận thị trường thế giới,
trên cơ sở bảo đảm an ninh quốc gia, tài nguyên, môi trường; hạn chế thấp nhất các
tiêu cực phát sinh trong quá trình mở cửa.
Hội nghị đã chỉ ra nhiệm vụ trước mắt là khai thông mối quan hệ với các cơ
chế đa phương trên thế giới như Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB),
Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB); mở rộng quan hệ với các tổ chức hợp tác khu lOMoAR cPSD| 58097008
vực, trước hết là khu vực châu Á - Thái Bình Dương mà trước tiên là ASEAN. Nghị
quyết Hội nghị Trung ương 3 khóa VII đã đánh dấu bước tiến mới trong tư duy về
ngoại giao đa phương của Đảng, đó là mở rộng quan hệ kinh tế với nhiều nước, nhiều
tổ chức khu vực và thế giới, không phân biệt chế độ chính trị cũng như trình độ phát
triển. Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 1-1994) chủ trương
triển khai mạnh mẽ và đồng bộ đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa dạng
hóa và đa phương hóa quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế.
- Trong năm 1991, có các sự kiện đã diễn ra:
+ Ngày 9/2/1991: Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 25-NQ/TW về đổi mới và tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên.
+ Ngày 30/3/1991: Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 26-NQ/TW về khoa học và công
nghệ trong sự nghiệp đổi mới.
+ Ngày 7 đến 13/5/1991: Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh thăm và làm việc tại Liên Xô.
+ Tháng 8/1991: Đồng chí Võ Văn Kiệt được bầu giữ chức Chủ tịch Hội đồng Bộ
trưởng (tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa VIII)
+ Ngày 12 và 13/9/1991: Hội nghị đầu tư nước ngoài vào Việt Nam với tên gọi “Việt
Nam con hổ thức giấc”, đây là Hội nghị đầu tiên về chủ đề này được tổ chức tại Mỹ.
+ Ngày 4/11/1991: Việt Nam được kết nạp là thành viên thứ 156 của Tổ chức Cảnh sát quốc tế (Interpol)
+ Ngày 5 đến 11/11/1991: Tổng Bí thư Đỗ Mười và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ
Văn Kiệt thăm chính thức Trung Quốc. Đây là một sự kiện có ý nghĩa lớn, đánh dấu
sự bình thường hóa quan hệ Việt Nam, Trung Quốc.
Thế giới quan mới về thời đại và cục diện thế giới đã mở đường, tạo điều kiện
để Việt Nam phá thế bao vây cô lập, phát triển rộng rãi quan hệ đối ngoại. Việt Nam
đã lần lượt bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc năm 1991, với Mỹ năm 1995,
thúc đẩy quan hệ với các nước láng giềng, khu vực và các nước quan trọng trên thế
giới và gia nhập ASEAN năm 1995.
Như vậy, đường lối đối ngoại của Việt Nam từ Đại hội VI đến Đại hội VII đã
có chuyển biến lớn trong nhận thức; chuyển từ đường lối đối ngoại mang đậm tư
tưởng ý thức hệ sang đường lối đối ngoại coi trọng lợi ích quốc gia và tư tưởng chính
trị thực tế. Quan điểm, chủ trương đối ngoại rộng mở được đề ra từ Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VI của Đảng, sau đó được các Nghị quyết Đại hội và Hội nghị
Trung ương từ khóa VI đến khóa VII phát triển đã hình thành đường lối đối ngoại độc
lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế. lOMoAR cPSD| 58097008
2.2. Giai đoạn 1996 – 2010
* Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (Tháng 6/1996) - Bối cảnh Đại hội:
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam diễn ra
trong bối cảnh nguy cơ chiến tranh thế giới huỷ diệt bị đẩy lùi, nhưng xung đột vũ
trang, chiến tranh cục bộ, xung đột về dân tộc, sắc tộc và tôn giáo chạy đua vũ trang,
hoạt động can thiệp, lật đổ, khủng bố vẫn xảy ra ở nhiều nơi. Những năm cuối thế kỷ
XX, cách mạng khoa học và công nghệ phát triển nhanh với trình đô caọ hơn trước,
tăng nhanh lực lượng sản xuất, đồng thời thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh
tế thế giới, quốc tế hoá nền kinh tế và đời sống xã hội. Chủ nghĩa xã hôị và phong
trào cách mạng thế giới lâm vào thoái trào. Khủng hoảng tài chính, tiền tệ ở các nước
Đông Nam Á và châu Á lan rông trong khu ṿ ực, tác đông xấu đ ̣ ến nền kinh tế nước
ta. Công cuộc đổi mới ở nước ta đã tiến hành được 10 năm và đạt được nhiều thành
tựu quan trọng về mọi mặt, tạo được nhiều tiền đề cần thiết cho công cuộc công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội,
cải thiện một bước đời sống vật chất của đông đảo nhân dân, giữ vững ổn định chính
trị, quốc phòng, an ninh được củng cố. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn là nước nghèo và
kém phát triển, đối diện với các nguy cơ tụt hậu, tham nhũng, nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa.
Đại hội diễn ra từ ngày 28-6 đến 1-7-1996, tại Hội trường Ba Đình, Hà Nội. Dự
Đại hội có 1.198 đại biểu đại diện cho gần 2 triệu 130 nghìn đảng viên trong cả nước,
Đại hội đã thông qua các văn kiện chính trị quan trọng và bầu Đỗ Mười tiếp tục làm
Tổng Bí thư Đảng, BCH TW Đảng khoá VIII bao gồm 170 uỷ viên. Trong sự chuyển
biến của thế giới và khu vực , Đại hội VIII (1996) đã khẳng định tính đúng đắn đường
lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa phương hoá và đa dạng hoá các quan hệ đối ngoại.
- Nội dung Đại hội (Tháng 6/1996):
Nhiệm vụ đối ngoại trong thời gian tới là củng cố môi trường hòa bình và tạo
điều kiện quốc tế thuận lợi hơn nữa để đẩy mạnh phát triển kinh tế- xã hội, công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội
Chủ trương “xây dựng nền kinh tế mở” và “đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh
tế khu vực và thế giới”. Tiếp tục thực hiện chính sách đối ngoại độc lập tự chủ, rộng
mở, đa phương hóa và đa dạng hóa với tinh thần Việt Nam muốn là bạn của tất cả các
nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển lOMoAR cPSD| 58097008
Mở rộng quan hệ quốc tế, hợp tác nhiều mặt, song phương và đa phương với
các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền,
toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình
đẳng, cùng có lợi, thông qua thương lượng để tìm những giải pháp phù hợp giải quyết
các vấn đề tồn tại và các tranh chấp, đảm bảo hòa bình, ổn định an ninh, hợp tác và phát triển
Xác định rõ quan điểm đối ngoại với các nhóm đối tác: Ra sức tăng cường
quan hệ với các nước láng giềng và các nước trong tổ chức ASEAN. Cụ thể:
+ Không ngừng củng cố quan hệ với các nước bạn bè truyền thống
+ Coi trọng quan hệ với các nước phát triển và các trung tâm kinh tế- chính trị trên
thế giới, đồng thời luôn luôn nêu cao tinh thần đoàn kết anh em với các nước đang
phát triển ở Châu Âu, châu Phi, Mỹ Latinh, với phong trào không liên kết.
+ Tăng cường quan hệ với các tổ chức Liên hợp quốc và các tổ chức quốc tế khác.
Tích cực hoạt động ở các diễn đàn quốc tế, tham gia giải quyết các vấn đề toàn cầu.
Ủng hộ cuộc đấu tranh chống vũ khí hạt nhân và các phương tiện giết người hàng loạt khác.
Đặc biệt chủ trương đối ngoại của Đại hội VIII có đặc điểm mới so với
đại hội VII như sau:
• Phát triển quan hệ với các đảng cộng sản và công nhân, các lực lượng cách mạng,
độc lập dân tộc và tiến bộ; thiết lập và mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền và các đảng khác.
• Quán triệt yêu cầu mở rộng quan hệ đối ngoại nhân dân, quan hệ với các tổ chức phi
chính phủ, tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ rộng rãi của nhân dân các nước, góp phần
thúc đẩy xu thế hoà bình, hợp tác, phát triển.
• Lần đầu tiên, trên lĩnh vực kinh tế đối ngoại, Đảng đưa ra chủ trương: “Thử nghiệm
để tiến tới thực hiện đầu tư ra nước ngoài”
Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương, khóa VIII (121997) chỉ rõ:
+ Thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách thu hút các nguồn lực bên ngoài, coi các
doanh nghiệp được nước ngoài đầu tư vào nước ta là một bộ phận của nền kinh tế
nước ta, nhưng phải có cơ chế quản lý chặt chẽ.
Mở rộng nhiều hình thức thu hút đầu tư nước ngoài, chủ yếu là đầu tư trực tiếp
( tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước hợp tác, liên doanh với nước ngoài);
áp dụng từng bước và có mức độ các hình thức các hình thức đầu tư gián tiếp ( nước
ngoài góp cổ phần, mua cổ phiếu của các cơ sở trong nước). Khuyến khích mạnh mẽ
việc thu hút đầu tư nước ngoài vào các ngành công nghiệp chế biến xuất khẩu và
công nghệ cao, công nghiệp cơ khí, điện tử những ngành ta có thế mạnh về nguyên lOMoAR cPSD| 58097008
liệu và lao động, nhanh chóng phát triển các ngành công nghiệp chế biến ngang tầm
quốc tế. Chú trọng thu hút các nhà đầu tư có tiềm năng lớn về tài chính và nắm công
nghệ nguồn, không chỉ nhằm vào những dự án lớn mà phải chú ý cả những dự án vừa
và nhỏ nhưng công nghệ hiện đại
Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, đơn giản hóa thủ tục hành chính, từng
bước tạo ra mặt bằng pháp luật và áp dụng thống nhất chính sách thuế, các loại giá cả
dịch vụ đối với nhà đầu tư trong và ngoài nước. Bổ sung các chính sách ưu đãi thiết
thực, có sức hấp dẫn cao, nhất là đối với các vùng và ngành cần dành ưu tiên như
giảm giá thuê đất, giảm thuế thu nhập đối với các chuyên gia và nhà quản lý nước
ngoài đến làm việc tại Việt Nam.. Mở rộng đến đâu cần quản lý chặt chẽ đến đó.
+ Tích cực và chủ động thâm nhập và mở rộng thị trường quốc tế
Đề ra chủ trương tiến hành khẩn trương, vững chắc việc đàm phán Hiệp định
Thương mại Mỹ, Gia nhập APEC và WTO. Giữ vững và mở rộng thị trường đã tạo
lập được với các nước trong khu vực và cộng đồng châu Âu, khôi phục thị trường
Nga và các nước Đông Âu, phát triển quan hệ thương mại chính ngạch với Trung
Quốc, tăng cường quan hệ buôn bán , hợp tác Ấn Độ, mở rộng thị trường Mỹ, tìm thị
trường mới ở Trung Cận Đông, châu Phi, Mỹ Latinh. Chú trọng đa phương hóa quan
hệ thương mại, giảm sự tập trung cao vào một vài loại đối tác và việc mua bán qua thị trường trung gian
Thành lập Trung tâm xúc tiến thương mại trên cơ sở kết hợp các cơ quan có
trách nhiệm của Nhà nước với các hiệp hội doanh nghiệp để tổ chức hợp lý công tác
nghiên cứu, phát triển thị trường, giúp đỡ các doanh nghiệp trong việc tiếp thị và xuất khẩu hàng hóa.
Phát triển các hiệp hội ngành hàng liên kết chặt chẽ giữa sản xuất nguyên liệu,
chế biến và xuất khẩu. Ban hành quy chế cho các doanh nghiệp và các hiệp hội doanh
nghiệp lập cơ quan đại diện, chi nhánh ở nước ngoài, tạo điều kiện cho doanh nghiệp
Việt Nam chủ động thâm nhập vào các thị trường ngoài nước, tạo lập và phát triển
các quan hệ bạn hàng ổn định lâu dài. Nghiên cứu việc sử dụng các tổ chức môi giới
quốc tế để khai thông và phát triển thị trường đối với một số mặt hàng cần thiết.
Nâng cao trách nhiệm của các cơ quan Chính phủ, của các tỉnh, thành phố, các
doanh nghiệp trong việc phát triển thị trường xuất khẩu và chủ động đàm phán và ký
kết các thỏa thuận song phương và đa phương. Tăng cường vai trò, trách nhiệm của
cơ quan ngoại giao trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại; đổi mới tổ chức và hoạt động
của bộ phận thương vụ ở nước ngoài. Thông qua các cuộc thương lượng, tiếp xúc ở
cấp cao để tranh thủ các nhà lãnh đạo các quốc gia, các tổ chức kinh tế quốc tế, các
khối kinh tế khu vực, các công ty xuyên quốc gia..., nhằm khai thông thị trường, mở
rộng thị phần xuất khẩu hàng hóa. lOMoAR cPSD| 58097008
Khuyến khích các cá nhân và tổ chức có khả năng và điều kiện ở trong nước
cũng như người Việt Nam ở nước ngoài tham gia tích cực vào việc tìm hiểu, tiếp cận
và thâm nhập thị trường thế giới (cả thị trường hàng hóa, lao động, vốn, công nghệ, dịch vụ...).
* Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (Tháng 4/2001) - Bối cảnh Đại hội:
Những năm đầu thế kỷ XXI, cách mạng khoa học và công nghệ tiếp tục phát
triển nhảy vọt, thúc đẩy sự phát triển kinh tế tri thức. Toàn cầu hoá là xu thế khách
quan diễn ra mạnh mẽ. Sau sự kiện 11-9-2001, Mỹ và môt nự ớc lớn, nhân dịp chống
khủng bố, tăng cường can thiệp vào công việc nôi bộ c ̣ ủa nhiều nước. Khu vực Đông
Nam Á, châu Á-Thái Bình Dương trở thành khu vực phát triển kinh tế năng đông
nhưng tiềm ẩn nḥ ững nhân tố gây mất ổn định.
Sau 15 năm đổi mới, Việt Nam đạt được nhiều thành tựu quan trọng, tạo thế
và lực mới thúc đẩy công cuôc đổi ṃ ới đi vào chiều sâu. Kinh tế đất nước tăng trưởng
khá; đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện. Tình hình chính trị-xã hôi ổṇ định;
quan hệ đối ngoại không ngừng được mở rông, hộ i nhập kinh ṭ ế quốc tế được tiến
hành chủ đông ṿ à đạt nhiều kết quả tốt.
Tuy nhiên, nền kinh tế phát triển chưa vững chắc, hiệu quả và sức cạnh tranh
thấp. Chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế bình quân trong 5 năm mà Đại hôi VIII đề ra là 9-̣
10% đã không đạt. Các nguy cơ mà Hôi ngḥ ị giữa nhiệm kỳ của Đảng (1-1994) đã
nêu ra vẫn là những thách thức lớn của cách mạng nước ta. - Nội dung Đại hội:
Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương
hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế với phương châm: “Việt Nam sẵn sàng là bạn,
là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”.
Nhiệm vụ đối ngoại là tiếp tục giữ vững môi trường hòa bình và tạo các điều
kiện quốc tế thuận lợi để đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm độc lập và chủ quyền quốc
gia, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì
hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Mở rộng quan hệ với các nước và vùng lãnh thổ, các trung tâm chính trị, kinh
tế quốc tế lớn, các tổ chức quốc tế và khu vực theo các nguyên tắc tôn trọng độc lập,
chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau,
không dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực; bình đẳng và cùng có lợi; giải quyết các
bất đồng và tranh chấp bằng thương lượng hòa bình; phản đối mọi âm mưu và hành
động gây sức ép, áp đặt và cường quyền. lOMoAR cPSD| 58097008
Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực
Nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã
hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, giữ vững an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn
hóa dân tộc, bảo vệ môi trường.
Ngoài ra, Đại hội còn đưa ra chủ trương: Xây dựng quan hệ đối tác. “Chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao
hiệu quả hợp tác quốc tế bảo đảm độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa,
bảo vệ lợi ích dân tộc; an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi
trường”. => Đây là sự đánh dấu bước phát triển về chất trong tiến trình quan hệ quốc
tế của Đảng ở thời kỳ đổi mới.
Coi trọng và phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước xã hội chủ
nghĩa và các nước láng giềng. Nâng cao hiệu quả và chất lượng hợp tác với các nước
ASEAN. Tiếp tục mở rộng quan hệ với các nước bạn bè truyền thống, các nước độc
lập dân tộc, các nước đang phát triển ở châu Á, châu Phi, Trung Đông và Mỹ Latinh,
các nước trong Phong trào Không liên kết. Thúc đẩy quan hệ đa dạng với các nước
phát triển và các tổ chức quốc tế.
Tích cực tham gia giải quyết các vấn đề toàn cầu. Ủng hộ và cùng nhân dân
thế giới đấu tranh bảo vệ hòa bình, chống nguy cơ chiến tranh và chạy đua vũ trang;
góp phần xây dựng trật tự chính trị, kinh tế quốc tế dân chủ, công bằng.
Củng cố và tăng cường quan hệ đoàn kết và hợp tác với các đảng cộng sản và
công nhân, với các đảng cánh tả, các phong trào giải phóng và độc lập dân tộc, với
các phong trào cách mạng và tiến bộ trên thế giới.
Mở rộng hơn nữa công tác đối ngoại nhân dân, tăng cường quan hệ song
phương và đa phương với các tổ chức nhân dân các nước, nâng cao hiệu quả hợp tác
với các tổ chức phi chính phủ quốc gia và quốc tế.
Tăng cường và nâng cao hiệu quả của công tác thông tin đối ngoại và văn hóa
đối ngoại. Bồi dưỡng, rèn luyện bản lĩnh chính trị, năng lực, đạo đức, phẩm chất của
đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại, kể cả kinh tế đối ngoại. Hoàn thiện cơ chế
quản lý thống nhất các hoạt động đối ngoại, tạo thành sức mạnh tổng hợp, nâng cao
hiệu quả của công tác đối ngoại.
Tháng 11/2001, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết riêng về hội nhập kinh tế quốc tế. Nghị
quyết đề ra 9 nhiệm vụ cụ thể và 6 biện pháp tổ chức thực hiện
Hội nghị Trung ương 8, khóa IX (tháng 7/2003) đã ra Nghị quyết về chiến lược
bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới nhằm đánh giá toàn diện, sâu sắc cục diện thế
giới, khu vực từ 1991 đến nay; chỉ ra một cách có hệ thống những thành tựu, bài học
kinh nghiệm về đối ngoại. Đây là một mốc hết sức quan trọng trong nhận thức, định lOMoAR cPSD| 58097008
hướng cho chính sách đối ngoại và hoạt động quốc tế của Đảng và Nhà nước ta trong thời gian tới.
Hội nghị lần thứ 9 ban chấp hành Trung ương khóa IX ( 5-1-2004) nhấn mạnh
yêu cầu: chủ động và khẩn trương hơn trong hội nhập kinh tế quốc tế, chuẩn bị tốt
các điều kiện trong nước để thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế đa phương, song
phương và sớm gia nhập WTO, tạo môi trường đầu tư, kinh doanh bình đẳng, minh
bạch, ổn định, thông thoáng, có tính cạnh tranh cao so với khu vực; thu hút mạnh đầu tư nước ngoài.
* Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (2006) - Bối cảnh Đại hội:
Kinh tế thế giới và khu vực tiếp tục phục hồi và phát triển nhưng tiềm ẩn những
yếu tố khó lường. Toàn cầu hoá kinh tế tạo ra cơ hôi phát trị ển nhưng chứa đựng
nhiều yếu tố gây khó khăn, thách thức lớn, nhất là với các quốc gia đang phát triển.
Chiến tranh cục bô, xung độ t ṿ ũ trang, hoạt đông can thiệp, kḥ ủng bố, tranh chấp
biên giới, lãnh thổ, biển đảo… tiếp tục diễn ra ở nhiều nơi. Nhiều vấn đề toàn cầu bức
xúc đòi hỏi các quốc gia và các tổ chức quốc tế phối hợp cùng giải quyết.
Khu vực châu Á-Thái Bình Dương, Đông Nam Á tiếp tục phát triển nhưng tiềm ẩn
những nhân tố gây mất ổn định.
Sau 20 năm đổi mới, Việt Nam đạt được nhiều thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch
sử. Đất nước thay đổi toàn diện với thế và lực, uy tín quốc tế tăng lên nhiều. Tuy
nhiên, các nguy cơ mà Hôi ngḥ ị giữa nhiệm kỳ của Đảng đã xác định vẫn là những thách thức lớn.
- Nội dung Đại hội (Tháng 6/2006) đã khẳng định:
+ Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình hợp tác và phát
triển; chính sách đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế.
+ Đồng thời đề ra chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế”.
+ Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế là hoàn toàn chủ động quyết định đường lối,chính
sách phát triển kinh tế – xã hội nói chung, chủ trương, chính sách hội nhập kinh tế
quốc tế nói riêng, phân tích lực chọn phương án hành động đúng, dự báo được tình
huống thuận lợi và khó khăn khi hội nhập kinh tế quốc tế.
+ Tích cực hội nhập kinh tế quốc tế là khẩn trương chuẩn bị, điều chỉnh, đổi mới bên
trong, từ phương thức lãnh đạo, khẩn trương xây dựng lộ trình, kế hoạch, đẩy mạnh
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới cơ chế quản lý, hoàn chỉnh hệ thống pháp luật;
nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và nền kinh tế; tích cực nhưng phải
thận trọng, vững chắc.