Quá trình đổi mới quan điểm về hội nhập quốc tế ở nước ta - Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam| Đại học Kinh Tế Quốc Dân

Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới.

Thông tin:
47 trang 7 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Quá trình đổi mới quan điểm về hội nhập quốc tế ở nước ta - Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam| Đại học Kinh Tế Quốc Dân

Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới.

34 17 lượt tải Tải xuống
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
BÀI TẬP LỚN
Môn: Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam
CHỦ ĐỀ: QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI QUAN ĐIỂM
CỦA ĐẢNG VỀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ Ở NƯỚC
TA TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI
TỪ 1986 ĐẾN NAY
Hà Nội – 2021
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..................................................................................................................1
NỘI DUNG..............................................................................................................3
Chương 1: Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn........................................................3
1.1. Cơ sở lý luận................................................................................................3
1.1.1 Khái niệm hội nhập quốc tế:..................................................................3
1.1.2 Quan điểm của Mác-Lênin về các vấn đề chung của hội nhập...............3
1.1.3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về các vấn đề hội nhập quốc tế...............4
1.2. Cơ sở thực tiễn.............................................................................................4
1.2.1. Vấn đề hội nhập quốc tế của VN trước thời kỳ đổi mới........................5
1.2.2. Tính cấp thiết phải thay đổi quan điểm về hội nhập ở Việt Nam...........6
1.2.3. Tầm quan trọng của hội nhập quốc tế đối với nước ta trong thời kỳ đổi
mới..................................................................................................................6
Chương 2: Quá trình đổi mới quan điểm về hội nhập quốc tế ở nước ta trong
thời kỳ mới từ 1986..............................................................................................7
2.1. Giai đoạn 1986 – 1995.................................................................................7
2.2. Giai đoạn 1996 – 2010..............................................................................13
2.3. Giai đoạn 2011 - nay..................................................................................19
Chương 3: Đánh giá việc thực hiện đổi mới trong hội nhập quốc tế..............28
3.1. Đánh giá việc thực hiện.............................................................................28
3.1.1. Kết quả đạt được..................................................................................28
3.1.2. Hạn chế và thách thức..........................................................................36
3.2. Bài học và giải pháp thúc đẩy hội nhập quốc tế toàn diện của Việt Nam...40
3.2.1. Bài học kinh nghiệm về hội nhập quốc tế ở Việt Nam.........................40
3.2.2. Giải pháp thúc đẩy hội nhập quốc tế toàn diện....................................41
TỔNG KẾT............................................................................................................43
MỞ ĐẦU
Thế kỉ XX đã qua với những dấu ấn kinh tế đầy ấn tượng của quá trình toàn
cầu hoá lực lượng sản xuất, quá trình này được biểu hiện nét sự sát nhập của
những công ty xuyên quốc gia hàng đầu thế giới như Boing, Mercedes,
Nissan... và đặc biệt ở sự xuất hiện của các tổ chức kinh tế và thương mại mang tính
khu vực,và toàn cầu như WTO, APEC, ASEAN... Dưới sức ép của toàn cầu hoá,
nền kinh tế của mỗi quốc gia cũng sự biến chuyển mạnh mẽ nhanh chóng.
Quá trình này mở ra những triển vọng to lớn của việc thúc đẩy tăng trưởng mỗi
quốc gia, nhưng đồng thời trên phương diện quản lý, cũng đặt ra những thách thức
to lớn đối với các chính phủ.
Theo xu thế chung của thế giới, Việt Nam đã và đang từng bước cố gắng chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế. Đây không phảimột mục tiêu nhiệm vụ nhất thời
vấn đề mang tính chất sống còn đối với nền kinh tế Việt Nam hiện nay cũng
như sau này. Bởi một nước mà đi ngược với xu hướng chung của thời đại sẽ trở nên
lạc hậu bị lập, sớm hay muộn nước đó sẽ bị loại bỏ trên đấu trường quốc tế.
Hơn thế nữa, một nước đang phát triển, lại vừa trải qua chiến tranh tàn khốc, ác
liệt… thì việc chủ động hội nhập kinh tế với khu vực thế giới thì lại càng cần
thiết hơn bao giờ hết. Trong quá trình hội nhập, với nội lực dồi dào sẵn có cùng với
ngoại lực sẽ tạo ra thời cơ phát triển kinh tế. Việt Nam sẽ mở rộng được thị trường
xuất nhập khẩu, thu hút được vốn đầu nước ngoài, tiếp thu được khoa học công
nghệ tiên tiến, những kinh nghiệm quý báu của các nước kinh tế phát triển tạo
được môi trường thuận lợi để phát triển kinh tế. Tuy nhiên, một vấn đề bao giờ cũng
có hai mặt đối lập. Hội nhập kinh tế quốc tế mang đến cho Việt Nam rất nhiều thời
cơ thuận lợi nhưng cũng đem lại không ít khó khăn thử thách. Văn kiện Đại hội toàn
quốc lần thứ XI của Đảng khẳng định: “Việt Nam bạn, đối tác tin cậy thành
viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hoà bình, độc
lập dân tộc, dân chủ tiến bộ trên thế giới”. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta
sẽ từng bước khắc phục những khó khăn để đưa đất nước phát triển. Hội nhập kinh
tế quốc tế là tất yếu khách quan đối với Việt Nam.
Cuộc cải cách này sẽ giúp cho Việt Nam huy động được các nguồn lực nội
sinh, tăng cường sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trên chính thị
trường nội địa,tạo tiền đề cho cạnh tranh quốc tế.Hội nhập vừa là cơ hội cũng vừa là
thách thức ,những trở ngại nảy sinh do bản thân tiến trình cải cách, cùng với sức ép
của khủng hoảng kinh tế tài chính khu vực, đang ảnh hưởng ngày càng sâu
rộng và đặt ra trách nhiệm nặng nề cho bộ máy quản Nhà Nước cũng như cho toàn
thể chế xã hội. Do vậy, có thể nói rằng hiện nay Việt Nam thực sự đang ở trong thời
điểm bước ngoặt của việc đánh giá lại toàn bộ các nguồn lực phát triển, nhất
các quan điểm định hướng phát triển đất nước sao cho phù hợp với sự phát triển
1
chung của thế giới, trong đó hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam là yếu tố quan
trọng để thúc đẩy kinh tế phát triển.
Trong phạm vi bài tập lớn này, chúng em xin được trình bày: “Quá trình đổi
mới quan điểm về hội nhập quốc tế ở nước ta trong thời kỳ mới từ 1986
Do trình độ nhận thức về vấn đề này còn hạn chế nên bài viết không tránh
khỏi những thiếu sót, chúng em rất mong nhận được những nhận xét góp ý của
giáo để bài viết được hoàn chỉnh hơn.
2
NỘI DUNG
Chương 1: Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1 Khái niệm hội nhập quốc tế:
Hội nhập quốc tế quá trình liên kết, gắn kết giữa các quốc gia/vùng lãnh
thổ với nhau thông qua việc tham gia các tổ chức, thiết chế, chế, hoạt động hợp
tác quốc tế mục tiêu phát triển của bản thân mỗi quốc gia/vùng lãnh thổ đó
nhằm tạo thành sức mạnh tập thể giải quyết những vấn đề chung các bên cùng
quan tâm. Hội nhập quốc tế theo đúng nghĩa đầy đủ là hội nhập trên tất cả lĩnh vực
khác nhau của đời sống xã hội.
Về bản chất , hội nhập quốc tế chínhmột hình thức phát triển cao của hợp
tác quốc tế nhằm đạt được một mục tiêu hoặc 1 lợi ích chung nào đó.
Cụ thể hơn, quá trình hội nhập quốc tế của một quốc gia có thể hợp tác, cạnh
tranh đấu tranh,... với các bộ phận cấu thành khác nhau trong “hệ thống”, bao
gồm cả việc gia nhập, rút khỏi các “phân hệ” khác nhau trong hệ thống, chứ không
phải đơn thuần là một hình thức phát triển cao hơn của “hợp tác quốc tế”. Tất cả các
hoạt động này đều hoạt động chủ đích nhằm phát triển quốc gia, khẳng định
bản sắc quốc gia, giành vị thế xứng đáng cho quốc gia trong hệ thống, tham gia
hoàn thiện và phát triển hệ thống,...
1.1.2 Quan điểm của Mác-Lênin về các vấn đề chung của hội nhập
Thực tế lịch sử đã chứng minh từ bản chất của học thuyết khoa học Mácxít -
Lêninnít, cũng như từ kinh nghiệm lịch sử của phong trào cộng sản công nhân
quốc tế đã chỉ ra rằng, công cuộc cách mạng và xây dựng chủ nghĩa hội của một
quốc gia muốn giành thắng lợi thì đảng cộng sản nước đó phải căn cứ vào tình hình
cụ thể, thực tiễn lịch sử đ vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tìm ra con
đường cách mạng riêng của mình. Hội nhập quốc tế cũng một mắt xích trong
công cuộc cách mạngxây dựng chủ nghĩa hội của mỗi quốc gia, do vậy cũng
cần phải nắm rõ tình hình nước mình và đề ra hướng đi đúng đắn riêng.
Cách mạng Tháng Mười thành công bởi V.I.Lênin đã trên sở nắm chắc
tình hình nước Nga, tìm ra được con đường phù hợp. Cụ thể hơn với vấn đề hội
nhập quốc tế, Lênin đã xác định đây là yếu tố tất yếu. V.I.Lênin lấy nguyên tắc đoàn
kết quốc tế sản mục đích chính nghĩa làm nguyên tắc trong hoạt động đối
ngoại của Đảng Công nhân dân chủ-xã hội Nga. Không chỉ nhấn mạnh đến đối
ngoại chính trị, trong bối cảnh nền kinh tế còn gặp nhiều khó khăn, V.I.Lênin đã chỉ
ra rằng, mở cửa nhu cầu khách quan để phát triển kinh tế mỗi nước trên
3
phạm vi thế giới. Ngoài ra V.I.Lênin cũng rất chú trọng giao lưu văn hóa giữa
các nước ý nghĩa rất lớn đối với công tác thông tin, tuyên truyền đối
ngoại.
1.1.3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về các vấn đề hội nhập quốc tế
Chủ tịch Hồ Chí Minh trong toàn bộ cuộc đời, sự nghiệp, tưởng Hồ Chí
Minh từ lúc ra đi tìm đường cứu nước đến tận cuối đời đều phản ánh tầm nhìn xa,
trông rộng, luôn đổi mới, hội nhập phát triển. Người đã tiếp thu tưởng Mác -
Lênin và vận dụng vào thực tiễn Việt Nam với tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo.
Quan điểm của HCM về hội nhập quốc tế cũng như đối ngoại nói chung phải đặt
lợi ích của quốc gia, của dân tộc lên trên hết. Phải kiên định độc lập, tự chủ với
chân lý “không có gì quý hơn độc lập, tự do!”, “dựa vào sức mình là chính”, “muốn
người ta giúp cho thì trước mình phải tự giúp lấy mình đã”, “một dân tộc không tự
lực cánh sinh cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc
lập”; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Phương châm của người
“dĩ bất biến ứng vạn biến”, trong đó, thực hiện mục tiêu của chủ nghĩa hội “dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” luôn cái “bất biến”. Cái “vạn
biến” phải linh hoạt, khôn khéo trong bối cảnh tình hình thế giới đangnhiều
biến động.
Muốn hoàn thành mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh” thì phải đổi mới phát triển. muốn đổi mới, phát triển thì phải tích cực
hội nhập quốc tế, “muốn làm cách mạng thắng lợi thì phải... thực hiện thêm bầu
bạn, bớt kẻ thù” . Bên cạnh đó, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, “Nước ta một bộ
phận của thế giới. Tình hình của nước ta ảnh hưởng đến thế giới, mà tình hình
thế giới cũng có quan hệ đến nước ta” , nhưng phải độc lập, tự chủ, phải khôn khéo,
phải những biện pháp của riêng mình, “muốn người ta giúp cho, thì trước
mình phải tự giúp lấy mình đã”. Có chính sách đối ngoại rộng mở, hợp tác, hòa bình
và quan hệ tốt; tránh đối đầu, không gây thù oán với một ai. Trong quan hệ với các
nước, các tổ chức quốc tế, cần tăng điểm tương đồng, hạn chế bất đồng, khai thác
mọi khả năng thể để phát huy sức mạnh của thời đại. Trong quan hệ với bên
ngoài, cần “phải nhìn cho rộng, suy cho kỹ”, tỉnh táo để những đối sách khôn
khéo trước mắt và lâu dài.
1.2. Cơ sở thực tiễn
Tình hình thế giới từ giữa thập kỷ 80 thế kỷ XX:
Từ giữa những năm 1980, cuộc cách mạng khoa học công nghệ tiếp tục
phát triển mạnh mẽ, tác động sâu sắc đến mọi mặt đời sống của các quốc gia, dân
tộc. Các nước xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng sâu sắc. Đến đầu những năm
1990, chế độhội chủ nghĩa Liên sụp đổ, dẫn đến những biến đổi to lớn về
4
quan hệ quốc tế. Trật tự thế giới được hình thành từ sau chiến tranh thế giới thứ hai
trên cơ sở hai khối đối lập do Liên Xô và Hoa Kỳ đứng đầu (trật tự thế giới hai cực)
tan rã, mở ra thời kỳ hình thành một trật tự thế giới mới.
Trên phạm vi thế giới, những cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột, tranh chấp
vẫn còn, nhưng xu thế chung của thế giới hoà bình hợp tác phát triển. Các
quốc gia, các tổ chứclực lượng chính trị quốc tế thực hiện điều chỉnh chiến lược
đối nội, đối ngoại phương thức hành động cho phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ
bên trong và đặc điểm của thế giới.
Xu thế chạy đua phát triển kinh tế khiến các nước, nhất là những nước đang
phát triển đã đổi mới tư duy đối ngoại, thực hiện chính sách đa phương hoá, đa dạng
hoá quan hệ quốc tế; mở rộng tăng cường liên kết, hợp tác với các nước phát
triển để tranh thủ vốn, kỹ thuật, công nghệ, mở rộng thị trường, học tập kinh
nghiệm tổ chức, quản sản xuất kinh doanh.Các nước đổi mới duy về quan
niệm sức mạnh, vị thế quốc gia. Thay thế cách đánh giá cũ, chủ yếu dựa vào thế
mạnh quân sự bằng các tiêu chí tổng hợp, trong đó sức mạnh kinh tế được đặt vị
trí quan trọng hàng đầu.
Bên cạnh đó quan hệ Việt-Mỹ một trong những mẫu điển hình của s
thăng trầm từ “đối đầu thù địch” đến “đối tác toàn diện” mang tính chu kỳ của 2
thập niên lịch sử. Từ năm 1955-1975, Mỹ đã kéo quân, đưa khí vào Miền Nam
gây ra cuộc chiến tranh thảm khốc Việt Nam. Hàng triệu người Việt Nam cùng
với khoảng hơn 58.000 lính Mỹ đã chết trong cuộc chiến tranh phi nghĩa do chính
Mỹ gây ra. Hệ lụy của cuộc chiến và hậu quả của nó để lại sau hơn 45 năm vẫn còn
nhiều vấn đề chưa thể khắc phục.
Sau khi Mỹ rút quân khỏi Miền Nam Việt Nam, năm 1975 Việt Nam đã hoàn
thành nhiệm vụ giải phóng, thống nhất Tổ quốc. Trong 2 thập niên tiếp theo (1975-
1995), quan hệ Việt-Mỹ cực kỳ căng thẳng. Dường như ôm hận trong cuộc chiến
tranh thất bại duy nhất được tiến hành ngoài lãnh thổ, người Mỹ tìm mọi cách để lật
đổ chế độ Việt Nam với phương châm Cộng sản đã dùng bom, đạn để đuổi
người Mỹ ra khỏi Sài Gòn, người Mỹ sẽ dùng đôla để đuổi Cộng sản ra khỏi
Nội”. Chính quyền Mỹ qua nhiều thế hệ lãnh đạo đã sử dụng biện pháp bao vây,
cấm vận về kinh tế, chính trị với mục tiêu làm cho Việt Nam kiệt quệ về kinh tế, suy
kiệt về chính trị. Không những thế, họ còn hậu thuẫn cho các tổ chức phản động cả
ở trong và ngoài nước tìm cách gây bạo loạn, lật đổ chính quyền…
1.2.1. Vấn đề hội nhập quốc tế của VN trước thời kỳ đổi mới
Trong mười năm trước đổi mới, quan hệ đối ngoại của Việt Nam với các
nước hội chủ nghĩa được tăng cường, trong đó đặc biệt với Liên Xô. Kể từ
năm 1977, một số nước bản mở quan hệ hợp tác kinh tế với Việt Nam. Với các
5
nước khác thuộc khu vực Đông Nam Á: Cuối năm 1976, Philippin Thái Lan
nước cuối cùng trong tổ chức ASEAN thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam.
Những kết quả đối ngoại trên đây ý nghĩa rất quan trọng đối với cách
mạng Việt Nam. Sự tăng cường hợp tác toàn diện với các nước xã hội chủ nghĩa
mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế với cả các nước ngoài hệ thống xã hội chủ nghĩa đã
tranh thủ được nguồn viện trợ đáng kể, góp phần khôi phục đất nước sau chiến
tranh; việc trở thành thành viên chính thức của Quỹ tiền tệ quốc tế, Ngân hàng thế
giới, Ngân hàng phát triển châu Á và việc trở thành thành viên chính thức của Liên
hợp quốc, tham gia tích cực vào các hoạt động của Phong trào không liên kết, đã
tranh thủ được sự ủng hộ, hợp tác của các nước, các tổ chức quốc tế, đồng thời phát
huy được vai trò của nước ta trên trường quốc tế.
Việc thiết lập quan hệ ngoại giao với các nước còn lại trong tổ chức ASEAN
đã tạo thuận lợi để triển khai các hoạt động đối ngoại trong giai đoạn sau, nhằm xây
dựng Đông Nam Á trở thành khu vực hoà bình, hữu nghị và hợp tác.
1.2.2. Tính cấp thiết phải thay đổi quan điểm về hội nhập ở Việt Nam
Trong thời gian này, trên thế giới và khu vực diễn ra sự chuyển biến sâu sắc.
Quan hệ chính trị quốc tế cũng những thay đổi tác động mạnh mẽ đến chiến
lược đối ngoại của các quốc gia dân tộc, trong đó có Việt Nam.
Trong bối cảnh đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng được diễn
ra từ ngày 15 - 18/12/1986 tại Hà Nội. Với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, “nói rõ
sự thật”, “đổi mới duy”, Đảng đã đánh giá khách quan tình hình đất nước, thừa
nhận những sai lầm trong xây dựng phát triển “chủ quan, duy ý chí” đề ra
chủ trương đổi mới toàn diện.
Về đối ngoại, mục tiêu của chính sách đối ngoại được Đại hội xác định
phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, phấn đấu giữ gìn hòa bình
Đông Dương, góp phần giữ vững hòa bình Đông Nam Á trên thế giới, tăng
cường quan hệ hữu nghị hợp tác với Liên và các nước hội chủ nghĩa, “tranh
thủ điều kiện quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa hội bảo vệ
Tổ quốc”. Những điểm mới về tư duy đối ngoại được trình bày trong đại hội VI của
Đảng được trình bày trong phần tiếp theo.
1.2.3. Tầm quan trọng của hội nhập quốc tế đối với nước ta trong thời kỳ đổi mới
Hội nhập quốc tế xu thế tất yếu khách quan trong thế giới ngày nay. Đối
với các nước đang và kém phát triển (trong đó có Việt Nam) thì hội nhập quốc tế
con đường tốt nhất để rút ngắn khoảng cách tụt hậu so với các nước khác và có điều
kiện phát huy hơn nữa những lợi thế so sánh của mình trong phân công lao động
hợp tác quốc tế.Chính shội nhập này đã đem lại cho quốc gia nhiều lợi ích đáng
kể. Cụ thể:
6
Thứ nhất, hội nhập quốc tế đã góp phần quan trọng vào việc tạo dựng môi
trường hòa bình, ổn định, thuận lợi cho phát triển đất nước
Thứ hai, hội nhập quốc tế trở thành một động lực quan trọng góp phần thúc
đẩy đổi mới toàn diện trong nước, phát triển kinh tế, chuyển đổi hình tăng
trưởng và nâng cao năng lực cạnh tranh của nước ta trong thời gian qua.
Thứ ba, hội nhập quốc tế đã góp phần hết sức quan trọng vào việc giữ vững
chủ quyền lãnh thổ, biển, đảo, bảo vệ an ninh tổ quốc
Thứ tư, các hoạt động hội nhập quốc tế toàn diện sâu rộng, nhất đối
ngoại đa phương, đã góp phần không ngừng nâng cao vị thế vai trò của đất nước
trên trường quốc tế.
Thứ năm, cùng quá trình hội nhập quốc tế theo phương châm “lấy người dân
doanh nghiệp làm trung tâm”, địa phương, doanh nghiệp người dân ta ngày
càng có điều kiện tham gia và tận dụng các cơ hội mà hội nhập quốc tế mang lại.
Tiếp đến những nhân tố thúc đẩy hình thành phát triển việc hội nhập
quốc tế
Hội nhập quốc tế xuất phát từ những sở kinh tế hội hiện thực của thế
giới hiện đại. Đó là những yếu tố khách quan không phụ thuộc vào ý chí của quốc
gia nào. Điều đó đặt hội nhập kinh tế quốc tế như một tất yếu mang tính thời đại.
- Cách mạng khoa học công nghệ diễn ra mạnh mẽ đã phá vỡ địa giới giữa các quốc
gia
- Sự phát triển của phân công lao động quốc tế
- Sự phát triển mạnh mẽ của các công ty xuyên quốc gia
- Ảnh hưởng của các tổ chức kinh tế, tài chính quốc tế
- Xu hướng đối thoại, hợp tác đã thay thế cho đối đầu
Chương 2: Quá trình đổi mới quan điểm về hội nhập quốc tế ở nước
ta trong thời kỳ mới từ 1986
2.1. Giai đoạn 1986 – 1995
* Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (1986)
- Bối cảnh Đại hội:
Tình hình thế giới: Giữa thập kỷ 80 của thế kỷ XX, trên thế giớikhu vực
diễn ra sự chuyển biến sâu sắc. Các nước XHCN tiến hành cải cách, cải tổ, đổi mới,
Liên Xô, Đông Âu sụp đổ, trật tự thế giới từ 2 cực thành đơn cực (Mĩ). Chiến
tranh khu vực, xung đột trang, sắc tộc, tôn giáo diễn ra nhiều nơi song xu thế
7
chung vẫn là hợp tác và phát triển. Toàn cầu hoá trên thế giới đang diễn ra rất mạnh
mẽ và tác động to lớn đến sự thay đổi của thế giới. Cuộc cách mạng khoa học - kỹ
thuật diễn ra mạnh mẽ, tạo thành bước phát triển nhảy vọt của lực lượng sản xuất và
đẩy nhanh quá trình quốc tế hoá các lực lượng sản xuất.
Trong nước: Tiếp tục xây dựng CNXH, xây dựng chế độ làm chủ tập thể, nền
kinh tế mới, nền văn hóa mới và con người mới XHCN gắn với sự nghiệp bảo vệ T
quốc. Tình hình kinh tế - hội đang những khó khăn gay gắt; sản xuất tăng
chậm; hiệu quả sản xuất đầu thấp, các thế lực thù địch bao vây, cấm vận về
kinh tế chính trị, đất nước rơi vào khủng hoảng KT-XH; nhân dân giảm lòng tin
đối với sự lãnh đạo của Đảng điều hành của Nhà nước. Nhìn chung, chúng ta
chưa thực hiện được mục tiêu tổng quát do Đại hội lần thứ V đề ravề cơ bản ổn
định tình hình kinh tế - xã hội, ổn định đời sống nhân dân.
Trong bối cảnh đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng được diễn ra từ
ngày 15 - 18/12/1986 tại Hà Nội.
- Nội dung Đại hội:
Với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, “nói sự thật”, “đổi mới duy”,
Đảng đã đánh giá khách quan tình hình đất nước, thừa nhận những sai lầm trong
xây dựng phát triển“chủ quan, duy ý chí” đề ra chủ trương đổi mới toàn
diện.
Xuất phát từ tình hình đó trên sở nhận thức đặc điểm nổi bật của thế
giới cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật đang diễn ra mạnh mẽ, đẩy nhanh quá
trình quốc tế hóa lực lượng sản xuất, Đảng ta nhận định: "Xu thế mở rộng phân
công, hợp tác giữa các nước, kể cả các nước có chế độ kinh tế - hội khác nhau,
cũng là những điều kiện rất quan trọng đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội
của nước ta". Từ đó, Đảng chủ trương phải biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại trong điều kiện mới và đề ra yêu cầu mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế
với các nước ngoài hệ thống xã hội chủ nghĩa, với các nước công nghiệp phát triển,
các tổ chức quốc tếtư nhân nước ngoài trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi;
sử dụng tốt mọi khả năng mở rộng quan hệ thương mại, hợp tác kinh tế khoa
học, kỹ thuật với bên ngoài để phục vụ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội”
Đại hội đại biểu lần thứ VI của Đảng đã quyết định đổi mới toàn diện đất
nước, mở ra một bước ngoặt mới trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế:
Thứ nhất, Muốn kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, nước ta
phải tham gia sự phân công lao động quốc tế; trước hết và chủ yếu với Liên Xô,
Lào và Campuchia, với các nước khác trong cộng đồng XHCN.
Tham gia ngày càng rộng rãi vào sự phân công lao động quốc tế, trước hết và
chủ yếu phát triểncủng cố quan hệ đặc biệt giữa ba nước Việt Nam, Lào
8
Campuchia. Đảng ta nhận thức sâu sắc rằng: phát triển và củng cố mối quan hệ đặc
biệt giữa ba nước Đông Dương, đoàn kết tôn trọng độc lập, chủ quyền của mỗi
nước, hợp tác toàn diện, giúp đỡ lẫn nhau xây dựng bảo vệ Tổ quốc là quy luật
sống còn phát triển của cả ba dân tộc anh em. Bằng những biện pháp thiết thực
hiệu quả, chúng ta ra sức phát triển quan hệ giữa nước ta với Lào
Campuchia, làm cho mỗi nước cả ba nước ngày càng vững mạnh, làm thất bại
âm mưu thủ đoạn chia rẽ của kẻ thù. Đoàn kết hợp tác toàn diện với Liên
là hòn đá tảng trong chính sách đối ngoại của ĐảngNhà nước ta; phát triển quan
hệ hữu nghị hợp tác với các nước hội chủ nghĩa anh em khác, với các nước
khác trong Hội đồng tương trợ kinh tế; góp phần tăng cường sức mạnh phát huy
ảnh hưởng của cộng đồng hội chủ nghĩa. Chủ động cùng các nước anh em xây
dựng thực hiện chương trình của Hội đồng tương trợ kinh tế giúp đỡ Việt Nam,
chương trình tổng hợp tiến bộ khoa học - kỹ thuật đến năm 2000 của Hội đồng
tương trợ kinh tế.
Thứ hai, Tích cực phát triển đề ra yêu cầu mở rộng hợp tác kinh tế
khoa học kỹ thuật với các nước ngoài hệ thống XHCN, các tổ chức quốc tế và
nhân nước ngoài trên sở bình đẳng và cùng lợi. Nhà nước ta chủ trương tăng
cường mở rộng quan hệ hữu nghị với Thụy Điển, Phần Lan, Pháp, Ôxtrâylia,
Nhật Bản với các nước phương Tây khác trên sở bình đẳng cùng lợi.
Chính phủ ta tiếp tục bàn bạc với Mỹ giải quyết các vấn đề nhân đạo do chiến tranh
để lại và sẵn sàng cải thiện quan hệ với Mỹ vì lợi ích của hoà bình, ổn định Đông
Nam Á.
Bên cạnh đó, Tăng cường đoàn kết của phong trào cộng sản công nhân
quốc tế trên sở chủ nghĩa Mác - Lênin chủ nghĩa quốc tế sản; củng cố sự
hợp tác giữa các đảng anh em trong cuộc đấu tranh cho hòa bình, độc lập dân tộc,
dân chủ chủ nghĩa hội. Mở rộng quan hệ với các tổ chức quốc tế, ủng hộ
mạnh mẽ phong trào đấu tranh giải phóng độc lập dân tộc chống chủ nghĩa đế
quốc, chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa phân biệt chủng tộc. Mở rộng quan hệ với tất
cả các nước trên nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình. Trên tinh thần bình đẳng, bảo
đảm độc lập, chủ quyền tôn trọng lẫn nhau, sẵn sàng đàm phán để giải quyết
những vấn đề thuộc quan hệ giữa Việt Nam với Trung Quốc, bình thường hóa quan
hệ khôi phục tình hữu nghị giữa hai nước, lợi ích của nhân dân hai nước,
hòa bình ở Đông - Nam á và trên thế giới.
- Nghị quyết số 13:
Tư duy của Đảng ta có bước chuyển quan trọng tại Nghị quyết số 13 của Bộ
Chính trị (tháng 5/1988). Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 13 về nhiệm vụ chính
sách đối ngoại trong tình hình mới với mục tiêu chiến lược lợi ích cao nhất của
Đảng và nhân dân ta là củng cố và giữ vững hòa bình để tập trung sức xây dựng và
phát triển kinh tế; đề ra chủ trương kiên quyết chủ động chuyển cuộc đấu tranh từ
9
tình trạng đối đầu sang đấu tranh và hợp tác trong cùng tồn tại hoà bình; lợi dụng sự
phát triển của cách mạng khoa học - kỹ thuật và xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế thế
giới để tranh thủ vị trí lợi nhất trong phân công lao động quốc tế; kiên quyết mở
rộng quan hệ hợp tác quốc tế, ra sức đa dạng hóa quan hệ đối ngoại. Theo đó, Đảng
nêu trạng thái “đấu tranh hợp tác trong cùng tồn tại hòa bình” nhận định
“với một nền kinh tế mạnh, một nền quốc phòng vừa đủ mạnh cùng với sự mở rộng
quan hệ hợp tác quốc tế, chúng ta sẽ càng nhiều khả năng giữ vững độc lập
xây dựng thành công xã hội chủ nghĩa hơn”.
Nghị quyết 13 đánh dấu sự đổi mới duy quan hệ quốc tế, quan hệ đối
ngoại theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá. Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị thể
hiện sự đổi mới tư duy của Đảng về nhiều vấn đề then chốt thuộc lĩnh vực đối ngoại
như: quan hệ chính trị quốc tế; mục tiêu đối ngoại; an ninh phát triển; đoàn kết
quốc tế và tập hợp lực lượng trong quan hệ quốc tế của Việt Nam. Phương châm đối
ngoại “thêm bạn, bớt thù” được hình thành nhằm tiếp tục mở rộng hơn nữa quan hệ
đối ngoại với các nước, các tổ chức quốc tế ngoài phe XHCN trên sở đề cao lợi
ích quốc gia dân tộc của Việt Nam. Sự chuyển hướng này đã đặt nền móng hình
thành đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa
quan hệ quốc tế. Trên lĩnh vực kinh tế đối ngoại, từ năm 1989, Đảng chủ trương xóa
bỏ tình trạng độc quyền trong sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu. So với chủ
trương của Đại hội V "Nhà nước độc quyền ngoại thương trung ương thống
nhất quản công tác ngoại thương" thì đây bước đổi mới đầu tiên trên lĩnh vực
kinh tế đối ngoại của Việt Nam.
Có thể thấy, đất nước lúc đó từng bước mở rộng hợp tác kinh tế ra bên ngoài,
không chỉ quan hệ với các nước trong khối hội chủ nghĩa. Thời kỳ Bộ trưởng
Nguyễn Duy Trinh (1965 – 1980), Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch (1980 – 1991) dành
mối quan tâm lớn cho việc này. Nhờ vậy, Việt Nam mở ra được ODA với Nhật Bản,
lập quan hệ ngoại giao với nhiều nước, bình thường hoá và thiết lập quan hệ với các
tổ chức kinh tế quốc tế như IMF, World Bank. Việt Nam cũng chủ trương sớm
hướng tới bình thường hoá quan hệ với Mỹ. Tháng 9/1990, Bộ trưởng Nguyễn
Thạch đã gặp Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ James Baker New York, bàn việc bình
thường hóa quan hệ hai nước.
* Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (1991)
- Bối cảnh Đại hội:
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam được
tiến hành vào tháng 6-1991, trong bối cảnh quốc tế trong nước đang những
diễn biến phức tạp. Đó là những biến động đã và đang xảy ra ở các nước xã hội chủ
nghĩa, sự tiến công nhiều phía vào chủ nghĩahội, vào chủ nghĩa Mác - Lênin
Đảng Cộng sản, những âm mưu và thủ đoạn của các thế lực thù địch quốc tế hòng
10
xóa bỏ chủ nghĩa hội hiện thực sự hoang mang, dao động trong một bộ phận
lớn những người cộng sản trên thế giới đã tác động mạnh đến tư tưởng tình cảm
của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên nhân dân Việt Nam. Đất nước ta
cũng phải đương đầu với các hoạt động phá hoại của các lực lượng thù địch cả
trong và ngoài nước. Tình hình kinh tế và đời sống của nhân dân vẫn còn khó khăn,
đất nước vẫn trong tình trạng khủng hoảng kinh tế xã hội. Tuy nhiên, công cuộc đổi
mới được Đảng ta đề ra từ Đại hội lần thứ VI (12/1986), bước đầu đã đạt được
những thành tựu đáng kể, nhờ đó mà nước ta đã đứng vững và tiếp tục phát triển.
- Nội dung Đại hội VII:
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (tháng 6-1991) đề ra chủ
trương "hợp tác bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các nước, không phân biệt chế
độ chính trị - xã hội khác nhau trên cơ sở các nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình", với
phương châm "Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới,
phấn đấu hòa bình, độc lập phát triển". Từ đó hình thành nên chính sách đối
ngoại theo hướng “đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại.
Đảng khẳng định thế giới vẫn trong thời đại quá độ lên chủ nghĩa hội,
đồng thời chỉ những xu thế lớn như quốc tế hóa, dân chủ hóa, xu thế hòa bình,
hợp tác trong quan hệ quốc tế. Chủ trương đối ngoại của Việt Nam được khẳng định
tại Đại hội VII (1991), theo đó Việt Nam muốn là bạn, đối tác với các nước trên
thế giới mở rộng, đa phương hóa quan hệ kinh tế đối ngoại. Đại hội còn nhấn
mạnh: “Cần nhạy bén dự báo được những diễn biến phức tạp và thay đổi sâu sắc
trong quan hệ quốc tế để những chủ trương đối ngoại phù hợp.” Đây khâu đột
phá trong việc thực hiện chủ trương hội nhập quốc tế. Đại hội lần thứ VII của Đảng
chủ trương gắn thị trường trong nước với thị trường thế giới, giải quyết tốt mối
quan hệ giữa thị trường trong nước thị trường ngoài nước chính sách bảo
vệ hàng nội địa và Đại hội cũng đã xác định nguyên tắc cơ bản của hội nhập kinh tế
quốc tế.
Đại hội VII đã đổi mới chính sách đối ngoại với các đối tác cụ thể. Với Lào
và Campuchia, thực hiện đổi mới phương thức hợp tác, chú trọng hiệu quả trên tinh
thần bình đẳng. Với Trung Quốc, chủ trương thúc đẩy bình thường hóa quan hệ,
từng bước mở rộng hợp tác Việt - Trung. Trong quan hệ với khu vực, Đảng chủ
trương phát triển quan hệ hữu nghị với các nước Đông Nam Á châu Á - Thái
Bình Dương, phấn đấu cho một Đông Nam Á hoà bình, hữu nghị hợp tác. Đối
với Hoa Kỳ, Đảng nhấn mạnh yêu cầu thúc đẩy quá trình bình thường hóa quan hệ
Việt Nam - Hoa Kỳ. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa hội được Đại hội VII của Đảng thông qua xác định quan hệ hữu nghị
hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới một trong những đặc trưng
bản của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng.
11
Với những nội dung được quyết nghị, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII
được đánh giá là “Đại hội của trí tuệ - đổi mới - dân chủ - kỷ cương - đoàn kết.”
- Hội nghị Trung ương 3 khóa VII
Trong nhiệm kỳ Đại hội VII, quá trình đổi mới duy về đối ngoại đa
phương của Đảng Cộng sản Việt Nam được thể hiện rất tại Hội nghị Trung ương
3 khóa VII (năm 1992). Hội nghị lần thứ 3 của Trung ương (khoá 7) tháng 6- 1992
nhấn mạnh yêu cầu: Đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế; mở rộng cửa để
thu hút vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý của nước ngoài, tiếp cận thị trường thế
giới, trên sở bảo đảm an ninh quốc gia, tài nguyên, môi trường; hạn chế thấp
nhất các tiêu cực phát sinh trong quá trình mở cửa.
Hội nghị đã chỉ ra nhiệm vụ trước mắtkhai thông mối quan hệ với các
chế đa phương trên thế giới như Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới
(WB), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB); mở rộng quan hệ với các tổ chức hợp
tác khu vực, trước hết khu vực châu Á - Thái Bình Dương trước tiên
ASEAN. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 khóa VII đã đánh dấu bước tiến mới
trong tư duy về ngoại giao đa phương của Đảng, đó là mở rộng quan hệ kinh tế với
nhiều nước, nhiều tổ chức khu vực thế giới, không phân biệt chế độ chính trị
cũng như trình độ phát triển. Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII
(tháng 1-1994) chủ trương triển khai mạnh mẽ và đồng bộ đường lối đối ngoại độc
lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa đa phương hóa quan hệ đối ngoại, hội nhập
quốc tế.
- Trong năm 1991, có các sự kiện đã diễn ra:
+ Ngày 9/2/1991: Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 25-NQ/TW về đổi mới tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên.
+ Ngày 30/3/1991: Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 26-NQ/TW về khoa học và công
nghệ trong sự nghiệp đổi mới.
+ Ngày 7 đến 13/5/1991: Tổng thư Nguyễn Văn Linh thăm làm việc tại Liên
Xô.
+ Tháng 8/1991: Đồng chí Văn Kiệt được bầu giữ chức Chủ tịch Hội đồng Bộ
trưởng (tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa VIII)
+ Ngày 12 13/9/1991: Hội nghị đầu nước ngoài vào Việt Nam với tên gọi
“Việt Nam con hổ thức giấc”, đâyHội nghị đầu tiên về chủ đề này được tổ chức
tại Mỹ.
+ Ngày 4/11/1991: Việt Nam được kết nạp thành viên thứ 156 của Tổ chức Cảnh
sát quốc tế (Interpol)
12
+ Ngày 5 đến 11/11/1991: Tổng thư Đỗ Mười Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng
Võ Văn Kiệt thăm chính thức Trung Quốc. Đây là một sự kiện ý nghĩa lớn, đánh
dấu sự bình thường hóa quan hệ Việt Nam, Trung Quốc.
Thế giới quan mới về thời đại cục diện thế giới đã mở đường, tạo điều
kiện để Việt Nam phá thế bao vây cô lập, phát triển rộng rãi quan hệ đối ngoại. Việt
Nam đã lần lượt bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc năm 1991, với Mỹ năm
1995, thúc đẩy quan hệ với các nước láng giềng, khu vực các nước quan trọng
trên thế giới và gia nhập ASEAN năm 1995.
Như vậy, đường lối đối ngoại của Việt Nam từ Đại hội VI đến Đại hội VII đã
chuyển biến lớn trong nhận thức; chuyển từ đường lối đối ngoại mang đậm
tưởng ý thức hệ sang đường lối đối ngoại coi trọng lợi ích quốc gia tưởng
chính trị thực tế. Quan điểm, chủ trương đối ngoại rộng mở được đề ra từ Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, sau đó được các Nghị quyết Đại hội và Hội
nghị Trung ương từ khóa VI đến khóa VII phát triển đã hình thành đường lối đối
ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế.
2.2. Giai đoạn 1996 – 2010
* Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (Tháng 6/1996)
- Bối cảnh Đại hội:
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam diễn ra
trong bối cảnh nguy chiến tranh thế giới huỷ diệt bị đẩy lùi, nhưng xung đột
trang, chiến tranh cục bộ, xung đột về dân tộc, sắc tộc tôn giáo chạy đua
trang, hoạt động can thiệp, lật đổ, khủng bố vẫn xảy ra nhiều nơi. Những năm
cuối thế kỷ XX, cách mạng khoa học và công nghệ phát triển nhanh với trình đô Ž cao
hơn trước, tăng nhanh lực lượng sản xuất, đồng thời thúc đẩy quá trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế thế giới, quốc tế hoá nền kinh tế và đời sống xã hội. Chủ nghĩa xã hô Ži
và phong trào cách mạng thế giới lâm vào thoái trào. Khủng hoảng tài chính, tiền tệ
các nước Đông Nam Á châu Á lan Žng trong khu vực, tác đô Žng xấu đến nền
kinh tế nước ta. Công cuộc đổi mới ở nước ta đã tiến hành được 10 năm và đạt được
nhiều thành tựu quan trọng về mọi mặt, tạo được nhiều tiền đề cần thiết cho công
cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đất nước thoát khỏi khủng hoảng
kinh tế - hội, cải thiện một bước đời sống vật chất của đông đảo nhân dân, giữ
vững ổn định chính trị, quốc phòng, an ninh được củng cố. Tuy nhiên, Việt Nam
vẫn là nước nghèo và kém phát triển, đối diện với các nguy cơ tụt hậu, tham nhũng,
nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa.
Đại hội diễn ra từ ngày 28-6 đến 1-7-1996, tại Hội trường Ba Đình, Nội.
Dự Đại hội 1.198 đại biểu đại diện cho gần 2 triệu 130 nghìn đảng viên trong cả
nước, Đại hội đã thông qua các văn kiện chính trị quan trọng bầu Đỗ Mười tiếp
13
tục làm Tổng thư Đảng, BCH TW Đảng khoá VIII bao gồm 170 uỷ viên. Trong
sự chuyển biến của thế giới khu vực , Đại hội VIII (1996) đã khẳng định tính
đúng đắn đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa phương hoá đa dạng
hoá các quan hệ đối ngoại.
- Nội dung Đại hội (Tháng 6/1996):
Nhiệm vụ đối ngoại trong thời gian tới là củng cố môi trường hòa bình và tạo
điều kiện quốc tế thuận lợi hơn nữa để đẩy mạnh phát triển kinh tế- hội, công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phục vụ sự nghiệp xây dựng bảo vệ Tổ quốc,
đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội
Chủ trương “xây dựng nền kinh tế mở” “đẩy nhanh quá trình hội nhập
kinh tế khu vực và thế giới”. Tiếp tục thực hiện chính sách đối ngoại độc lập tự chủ,
rộng mở, đa phương hóa và đa dạng hóa với tinh thần Việt Nam muốn là bạn của tất
cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển
Mở rộng quan hệ quốc tế, hợp tác nhiều mặt, song phương và đa phương với
các nước, các tổ chức quốc tế khu vực trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ
quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau,
bình đẳng, cùng lợi, thông qua thương lượng để tìm những giải pháp phù hợp
giải quyết các vấn đề tồn tại và các tranh chấp, đảm bảo hòa bình, ổn định an ninh,
hợp tác và phát triển
Xác định quan điểm đối ngoại với các nhóm đối tác: Ra sức tăng cường
quan hệ với các nước láng giềng và các nước trong tổ chức ASEAN. Cụ thể:
+ Không ngừng củng cố quan hệ với các nước bạn bè truyền thống
+ Coi trọng quan hệ với các nước phát triển các trung tâm kinh tế- chính trị trên
thế giới, đồng thời luôn luôn nêu cao tinh thần đoàn kết anh em với các nước đang
phát triển ở Châu Âu, châu Phi, Mỹ Latinh, với phong trào không liên kết.
+ Tăng cường quan hệ với các tổ chức Liên hợp quốc các tổ chức quốc tế khác.
Tích cực hoạt động ở các diễn đàn quốc tế, tham gia giải quyết các vấn đề toàn cầu.
Ủng hộ cuộc đấu tranh chống khí hạt nhân các phương tiện giết người hàng
loạt khác.
Đặc biệt chủ trương đối ngoại của Đại hội VIII đặc điểm mới so với
đại hội VII như sau:
Phát triển quan hệ với các đảng cộng sản công nhân, các lực lượng cách mạng,
độc lập dân tộc và tiến bộ; thiết lập mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền và
các đảng khác.
14
Quán triệt yêu cầu mở rộng quan hệ đối ngoại nhân dân, quan hệ với các tổ chức phi
chính phủ, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ rộng rãi của nhân dân các nước, góp
phần thúc đẩy xu thế hoà bình, hợp tác, phát triển.
Lần đầu tiên, trên lĩnh vực kinh tế đối ngoại, Đảng đưa ra chủ trương: “Thử nghiệm
để tiến tới thực hiện đầu tư ra nước ngoài”
Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương, khóa VIII (12-
1997) chỉ rõ:
+ Thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách thu hút các nguồn lực bên ngoài, coi các
doanh nghiệp được nước ngoài đầu vào nước ta một bộ phận của nền kinh tế
nước ta, nhưng phải có cơ chế quản lý chặt chẽ.
Mở rộng nhiều hình thức thu hút đầu nước ngoài, chủ yếu đầu trực
tiếp ( tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước hợp tác, liên doanh với nước
ngoài); áp dụng từng bước mức độ các hình thức các hình thức đầu gián
tiếp ( nước ngoài góp cổ phần, mua cổ phiếu của các sở trong nước). Khuyến
khích mạnh mẽ việc thu hút đầu tư nước ngoài vào các ngành công nghiệp chế biến
xuất khẩu công nghệ cao, công nghiệp khí, điện tử những ngành ta thế
mạnh về nguyên liệu lao động, nhanh chóng phát triển các ngành công nghiệp
chế biến ngang tầm quốc tế. Chú trọng thu hút các nhà đầu tiềm năng lớn về
tài chính nắm công nghệ nguồn, không chỉ nhằm vào những dự án lớn phải
chú ý cả những dự án vừa và nhỏ nhưng công nghệ hiện đại
Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, đơn giản hóa thủ tục hành chính, từng
bước tạo ra mặt bằng pháp luật áp dụng thống nhất chính sách thuế, các loại giá
cả dịch vụ đối với nhà đầu trong ngoài nước. Bổ sung các chính sách ưu đãi
thiết thực, sức hấp dẫn cao, nhất đối với các vùng ngành cần dành ưu tiên
như giảm giá thuê đất, giảm thuế thu nhập đối với các chuyên gia nhà quản
nước ngoài đến làm việc tại Việt Nam.. Mở rộng đến đâu cần quản lý chặt chẽ đến
đó.
+ Tích cực và chủ động thâm nhập và mở rộng thị trường quốc tế
Đề ra chủ trương tiến hành khẩn trương, vững chắc việc đàm phán Hiệp định
Thương mại Mỹ, Gia nhập APEC và WTO. Giữ vững mở rộng thị trường đã tạo
lập được với các nước trong khu vực cộng đồng châu Âu, khôi phục thị trường
Nga các nước Đông Âu, phát triển quan hệ thương mại chính ngạch với Trung
Quốc, tăng cường quan hệ buôn bán , hợp tác Ấn Độ, mở rộng thị trường Mỹ, tìm
thị trường mới ở Trung Cận Đông, châu Phi, Mỹ Latinh. Chú trọng đa phương hóa
quan hệ thương mại, giảm sự tập trung cao vào một vài loại đối tác và việc mua bán
qua thị trường trung gian
15
Tuy nhiên, nền kinh tế phát triển chưa vững chắc, hiệu quả và sức cạnh tranh
thấp. Chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế bình quân trong 5 năm mà Đại hô Ži VIII đề ra là 9-
10% đã không đạt. Các nguy cơ Ži nghị giữa nhiệm kỳ của Đảng (1-1994) đã
nêu ra vẫn là những thách thức lớn của cách mạng nước ta.
- Nội dung Đại hội:
Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương
hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế với phương châm: “Việt Nam sẵn sàng là bạn,
đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc
lập và phát triển”.
Nhiệm vụ đối ngoại là tiếp tục giữ vững môi trường hòa bình và tạo các điều
kiện quốc tế thuận lợi để đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm độc lập chủ quyền quốc
gia, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới
hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Mở rộng quan hệ với các nước vùng lãnh thổ, các trung tâm chính trị,
kinh tế quốc tế lớn, các tổ chức quốc tế khu vực theo các nguyên tắc tôn trọng
độc lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của
nhau, không dùng lực hoặc đe dọa dùng lực; bình đẳng cùng lợi; giải
quyết các bất đồng tranh chấp bằng thương lượng hòa bình; phản đối mọi âm
mưu và hành động gây sức ép, áp đặt và cường quyền.
Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa
nội lực
Nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã
hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, giữ vững an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc
văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường.
Ngoài ra, Đại hội còn đưa ra chủ trương: Xây dựng quan hệ đối tác. “Chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực,
nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế bảo đảm độc lập, tự chủ định hướng hội
chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc; an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc,
bảo vệ môi trường”. => Đây sự đánh dấu bước phát triển về chất trong tiến trình
quan hệ quốc tế của Đảng ở thời kỳ đổi mới.
Coi trọng phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước hội chủ
nghĩa các nước láng giềng. Nâng cao hiệu quả chất lượng hợp tác với các
nước ASEAN. Tiếp tục mở rộng quan hệ với các nước bạn truyền thống, các
nước độc lập dân tộc, các nước đang phát triển châu Á, châu Phi, Trung Đông
Mỹ Latinh, các nước trong Phong trào Không liên kết. Thúc đẩy quan hệ đa dạng
với các nước phát triển và các tổ chức quốc tế.
17
Tích cực tham gia giải quyết các vấn đề toàn cầu. Ủng hộ cùng nhân dân
thế giới đấu tranh bảo vệ hòa bình, chống nguy cơ chiến tranh và chạy đua vũ trang;
góp phần xây dựng trật tự chính trị, kinh tế quốc tế dân chủ, công bằng.
Củng cố tăng cường quan hệ đoàn kết hợp tác với các đảng cộng sản
công nhân, với các đảng cánh tả, các phong trào giải phóng độc lập dân tộc,
với các phong trào cách mạng và tiến bộ trên thế giới.
Mở rộng hơn nữa công tác đối ngoại nhân dân, tăng cường quan hệ song
phương và đa phương với các tổ chức nhân dân các nước, nâng cao hiệu quả hợp tác
với các tổ chức phi chính phủ quốc gia và quốc tế.
Tăng cường nâng cao hiệu quả của công tác thông tin đối ngoại văn
hóa đối ngoại. Bồi dưỡng, rèn luyện bản lĩnh chính trị, năng lực, đạo đức, phẩm
chất của đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại, kể cả kinh tế đối ngoại. Hoàn thiện
chế quản thống nhất các hoạt động đối ngoại, tạo thành sức mạnh tổng hợp,
nâng cao hiệu quả của công tác đối ngoại.
Tháng 11/2001, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết riêng về hội nhập kinh tế quốc tế.
Nghị quyết đề ra 9 nhiệm vụ cụ thể và 6 biện pháp tổ chức thực hiện
Hội nghị Trung ương 8, khóa IX (tháng 7/2003) đã ra Nghị quyết về chiến
lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới nhằm đánh giá toàn diện, sâu sắc cục diện
thế giới, khu vực từ 1991 đến nay; chỉ ra một cách có hệ thống những thành tựu, bài
học kinh nghiệm về đối ngoại. Đây một mốc hết sức quan trọng trong nhận thức,
định hướng cho chính sách đối ngoại và hoạt động quốc tế của Đảng và Nhà nước ta
trong thời gian tới.
Hội nghị lần thứ 9 ban chấp hành Trung ương khóa IX ( 5-1-2004) nhấn
mạnh yêu cầu: chủ động khẩn trương hơn trong hội nhập kinh tế quốc tế, chuẩn
bị tốt các điều kiện trong nước để thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế đa phương,
song phương sớm gia nhập WTO, tạo môi trường đầu tư, kinh doanh bình đẳng,
minh bạch, ổn định, thông thoáng, tính cạnh tranh cao so với khu vực; thu hút
mạnh đầu tư nước ngoài.
* Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (2006)
- Bối cảnh Đại hội:
Kinh tế thế giới khu vực tiếp tục phục hồi phát triển nhưng tiềm ẩn
những yếu tố khó lường. Toàn cầu hoá kinh tế tạo ra Ži phát triển nhưng chứa
đựng nhiều yếu tố gây khó khăn, thách thức lớn, nhất với các quốc gia đang phát
triển. Chiến tranh cục Ž, xung đô Žt vũ trang, hoạt đô Žng can thiệp, khủng bố, tranh
chấp biên giới, lãnh thổ, biển đảo… tiếp tục diễn ra ở nhiều nơi. Nhiều vấn đề toàn
cầu bức xúc đòi hỏi các quốc gia các tổ chức quốc tế phối hợp cùng giải quyết.
18
Khu vực châu Á-Thái Bình Dương, Đông Nam Á tiếp tục phát triển nhưng tiềm ẩn
những nhân tố gây mất ổn định.
Sau 20 năm đổi mới, Việt Nam đạt được nhiều thành tựu to lớn ý nghĩa
lịch sử. Đất nước thay đổi toàn diện với thế lực, uy tín quốc tế tăng lên nhiều.
Tuy nhiên, các nguy Ži nghị giữa nhiệm kỳ của Đảng đã xác định vẫn
những thách thức lớn.
- Nội dung Đại hội (Tháng 6/2006) đã khẳng định:
+ Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình hợp tác và phát
triển; chính sách đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế.
+ Đồng thời đề ra chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế”.
+ Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế hoàn toàn chủ động quyết định đường
lối,chính sách phát triển kinh tế – xã hội nói chung, chủ trương, chính sách hội nhập
kinh tế quốc tế nói riêng, phân tích lực chọn phương án hành động đúng, dự báo
được tình huống thuận lợi và khó khăn khi hội nhập kinh tế quốc tế.
+ Tích cực hội nhập kinh tế quốc tế khẩn trương chuẩn bị, điều chỉnh, đổi mới
bên trong, từ phương thức lãnh đạo, khẩn trương xây dựng lộ trình, kế hoạch, đẩy
mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới cơ chế quản lý, hoàn chỉnh hệ thống pháp
luật; nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệpnền kinh tế; tích cực nhưng
phải thận trọng, vững chắc.
+ Đưa các quan hệ quốc tế đã được thiết lập vào chiều sâu, ổn định, bền vững. Phát
triển quan hệ với tất cả các nước, các vùng lãnh thổ trên thế giới các tổ chức
quốc tế theo các nguyên tắc: tôn trọng độc lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ,
không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; không dùng lực hoặc đe dọa
dùng lực; giải quyết các bất đồng tranh chấp thông qua thương lượng hòa
bình; tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng và cùng có lợi.
+ Phát triển công tác đối ngoại nhân dân theo phương châm "chủ động, linh hoạt,
sáng tạo hiệu quả". Tích cực tham gia các diễn đàn hoạt động của nhân dân
thế giới. Tăng cường vận động viện trợ nâng cao hiệu quả hợp tác với các tổ
chức phi chính phủ nước ngoài để phát triển kinh tế - xã hội.
+ Chủ động tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình, phù hợp với chiến
lược phát triển đất nước từ nay đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020. Chuẩn bị
tốt các điều kiện để kết các hiệp định thương mại tự do song phương đa
phương. Thúc đẩy quan hệ hợp tác toàn diện hiệu quả với các nước ASEAN,
các nước châu Á - Thái Bình Dương... Củng cố và phát triển quan hệ hợp tác song
phương tin cậy với các đối tác chiến lược; khai thác có hiệu quả các cơ hội và giảm
tối đa những thách thức, rủi ro khi nước ta thành viên Tổ chức Thương mại thế
giới (WTO).
19
mại và đầu tư, mở rộng thị trường, khai thác hiệu quả các chế hợp tác quốc tế,
các nguồn lực về vốn, khoa học - công nghệ, trình độ quản lý tiên tiến.
Tham gia các cơ chế hợp tác chính trị, an ninh song phương và đa phương vì
lợi ích quốc gia trên sở tôn trọng các nguyên tắc bản của luật pháp quốc tế,
Hiến chương Liên hợp quốc. Thực hiện tốt công việc tại các tổ chức quốc tế, đặc
biệt là Liên hợp quốc. Tích cực hợp tác cùng các nước, các tổ chức khu vực và quốc
tế trong việc đối phó với những thách thức an ninh phi truyền thống, và nhấttình
trạng biến đổi khí hậu; sẵn sàng đối thoại với các nước, các tổ chức quốc tếkhu
vực liên quan về vấn đề dân chủ, nhân quyền; chủ động, kiên quyết đấu tranh,
làm thất bại mọi âm mưu, hành động can thiệp vào công việc nội bộ, xâm phạm độc
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia ổn định chính trị
của Việt Nam.
Thúc đẩy giải quyết các vấn đề còn tồn tại về biên giới, lãnh thổ. Củng cố,
phát triển quan hệ hợp tác, hữu nghị truyền thống với các nước láng giềng có chung
biên giới. Phấn đấu cùng các nước ASEAN xây dựng Đông Nam Á thành khu vực
hoà bình, ổn định, hợp tác và phát triển phồn vinh.
Phát triển quan hệ với các đảng cộng sản, công nhân, đảng cánh tả, các đảng
cầm quyền những đảng khác trên cơ sbảo đảm lợi ích quốc gia, giữ vững độc
lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác phát triển (so với Đại hội X bổ
sung quan hệ với “những đảng khác” vì trên thực tế những năm qua, chúng ta đã
quan hệ với một số đảng khác, nhưng trên cơ sở bảo đảm lợi ích quốc gia, giữ vững
độc lập, tự chủ, vì hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển).
Bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, sự quản tập trung của Nhà
nước đối với các hoạt động đối ngoại. Phối hợp chặt chẽ hoạt động đối ngoại của
Đảng, ngoại giao Nhà nước ngoại giao nhân dân; giữa ngoại giao chính trị với
ngoại giao kinh tế và ngoại giao văn hoá; giữa đối ngoại với quốc phòng, an ninh.
Kế thừa đường lối đối ngoại của 25 năm Đổi mới, đường lối đối ngoại
Đại hội XI có những bổ sung, phát triển phù hợp với tình hình mới, thể hiện
những nội dung chính dưới đây:
, lần đầu tiên, mục tiêu đối ngoại “vì lợi ích quốc gia, dân tộc” đượcThứ nhất
nêu rõ trong phần đối ngoại của Cương lĩnh và Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng.
phát triển chủ trương “là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng Thứ hai,
đồng quốc tế” lên thành “là bạn, đối tác tin cậy thành viên trách nhiệm trong
cộng đồng quốc tế”. Từ đường lối đối ngoại trên cơ sở tuyên bố “muốn là bạn” (Đại
hội Đảng lần thứ VII), “sẵn sàng là bạn” (Đại hội Đảng lần thứ VIII), “là bạn và đối
tác tin cậy” (Đại hội Đảng lần thứ IX), Đại hội Đảng lần thứ XI hoàn chỉnh bổ
21
sung thêm cụm từ là “thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”. Nội hàm
này thể hiện bước trưởng thành của ngoại giao Việt Nam với sự tham gia ngày càng
tích cực, chủ động, có trách nhiệm của nước ta tại các cơ chế/tổ chức/diễn đàn khu
vực, đa phương toàn cầu (ngoại giao đa phương), góp phần củng cố, nâng cao vị
thế của Việt Nam trên trường quốc tế, bổ sung, hỗ trợ hiệu quả cho ngoại giao song
phương. Nội hàm mới này một trong những sở để xác định một trong những
ưu tiên đối ngoại trong thời gian tới là “xây dựng Cộng đồng ASEAN vững mạnh”
, Đại hội XI chuyển từ chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập kinhThứ ba
tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực khác” được thông
qua tại Đại hội X sang “chủ động tích cực hội nhập quốc tế” . Với chủ trương
này, hội nhập quốc tế không còn bó hẹp trong lĩnh vực kinh tế mà mở rộng ra tất cả
các lĩnh vực khác, kể cả chính trị, quốc phòng, an ninh và văn hóa-xã hội....
Với những phát triển mới trong đường lối đối ngoại Đại hội XI, chúng ta càng tin
tưởng chắc chắn rằng, sự nghiệp đối ngoại dưới sự lãnh đạo của Đảng sẽ tiếp tục
thu được những thắng lợi mới. Tuy nhiên, để đường lối sớm đi vào cuộc sống, cần
phải nỗ lực vượt bậc trong tất cả các khâu, từ cụ thể hóa đường lối thành chính
sách đến xây dựng và triển khai chiến lược, kế hoạch, đề án đối ngoại.
* Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng (2016)
- Bối cảnh Đại hội:
Trên thế giới: Trong những năm tới tình hình sẽ còn nhiều diễn biến rất phức
tạp, nhưng hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác phát triển vẫn xu thế
lớn. Quá trình toàn cầu hóa hội nhập quốc tế tiếp tục được đẩy mạnh. Hợp tác,
cạnh tranh, đấu tranh và sự tùy thuộc lẫn nhau giữa các nước, nhấtgiữa các nước
lớn ngày càng tăng. Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, đặc biệt là công nghệ
thông tin tiếp tục phát triển mạnh mẽ, thúc đẩy sự phát triển nhảy vọt trên nhiều lĩnh
vực, tạo ra cả thời cơ và thách thức đối với mọi quốc gia.
trong nước, thế lực, sức mạnh tổng hợp của đất nước tăng lên, uy tín
quốc tế của đất nước ngày càng được nâng cao, tạo ra những tiền đề quan trọng để
thực hiện nhiệm vụ xây dựng bảo vệ Tổ quốc. Kinh tế từng bước ra khỏi tình
trạng suy giảm, lấy lại đà tăng trưởng, nhưng vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức.
Kinh tế mô ổn định chưa vững chắc; nợ công tăng nhanh, nợ xấu đang giảm dần
nhưng còn ở mức cao, năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh kinh tế thấp.
Tình hình thế giới và trong nước cả thuận lợi, thời cơ khó khăn, thách
thức đan xen; đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới to lớn, phức tạp hơn đối với s
nghiệp đổi mới, phát triển đất nước bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn
22
định thương mại tự do thế hệ mới trong một kế hoạch tổng thể với lộ trình hợp lý,
phù hợp với lợi ích của đất nước. Đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối
tác, nhất là các đối tác chiến lược và các nước lớn có vai trò quan trọng đối với phát
triển và an ninh của đất nước, đưa khuôn khổ quan hệ đã xác lập vào thực chất. Chủ
động tham giaphát huy vai trò tại các chế đa phương, đặc biệt là ASEAN
Liên hợp quốc. Chủ động, tích cực tham gia các chế đa phương về quốc phòng,
an ninh, trong đó việc tham gia các hoạt động hợp tác mức cao hơn như hoạt
động gìn giữ hoà bình của Liên hợp quốc, diễn tập về an ninh phi truyền thống
các hoạt động khác. Đẩy mạnh hội nhập quốc tế trong lĩnh vực văn hóa, hội,
khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo và các lĩnh vực khác.
Tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo chiến lược, tham mưu về đối ngoại;
đổi mới nội dung, phương pháp, nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền đối ngoại;
chăm lo đào tạo, rèn luyện đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại; bồi dưỡng kiến
thức đối ngoại cho cán bộ chủ chốt các cấp.
Bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, sự quản tập trung của Nhà
nước đối với các hoạt động đối ngoại. Phối hợp chặt chẽ hoạt động đối ngoại của
Đảng, ngoại giao nhà nước đối ngoại nhân dân; giữa ngoại giao chính trị với
ngoại giao kinh tế và ngoại giao văn hóa; giữa đối ngoại với quốc phòng, an ninh.
Những điểm mới trong Văn kiện Đại hội XII đã góp phần khẳng định vị
thế vai trò chủ công, tuyến đầu của công tác đối ngoại trong sự nghiệp
bảo vệ Tổ quốc.
Thứ nhất, lần đầu tiên nhiệm vụ đối ngoại nằm trong các thành tố của chủ đề
Đại hội. Đó So với Đại hội XI, Đại hội XII đã bổ sung vào chủ đề nội dung “bảo
vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định” để nhấn mạnh tầm
quan trọng của công tác đối ngoại trong tổng thể đường lối phát triển đất nước
đồng thời nêu hai nhiệm vụ quan trọng nhất của đối ngoại bảo vệ Tổ quốc
giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để triển khai các nhiệm vụ xây dựng đất
nước trong 5 năm tới và các năm tiếp theo.
Thứ hai, Văn kiện Đại hội XII làm hơn phát triển mục tiêu đối ngoại
“vì lợi ích quốc gia, dân tộc” được nêu trong Văn kiện Đại hội XI thành “Bảo đảm
lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp
quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi.”
Thứ ba, Văn kiện lần đầu tiên nêu rõ: “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ
vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ
Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa.” Điều đó có nghĩa là lần đầu
tiên Đảng ta cụ thể hóa nội hàm của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
Đặc biệt, văn kiện Đại hội XII đã nhấn mạnh yêu cầu phát triển công tác đối
ngoại đa phương, đặt ra yêu cầu mới: công tác đối ngoại đa phương không chỉ phải
24
chuyển mạnh từ “tham dự” sang “chủ động tham gia,” nhất vào quá trình xây
dựng và định hình các quy tắc và luật lệ mới, còn phải phát huy vai trò của Việt
Nam tại các chế đa phương. Định hướng này cũng chỉ các chế đa phương
được ưu tiên trong 5 năm tới là ASEAN và Liên hợp quốc.
Đại hội XII của Đảng Đại hội “Đoàn kết-Dân chủ-Kỷ cương-Đổi mới”, tăng
cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; phát huy sức mạnh toàn dân tộc, dân
chủ xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; bảo vệ vững
chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu sớm đưa nước ta
bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
* Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng (2021)
- Bối cảnh Đại hội:
Tình hình thế giới: Trên thế giới, tình hình tiếp tục diễn biến hết sức nhanh
chóng, phức tạp, khó lường. Hoà bình, hợp tác phát triển vẫn xu thế lớn, song
đang đứng trước nhiều trở ngại, khó khăn; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn,
xung đột cục bộ tiếp tục diễn ra dưới nhiều hình thức, phức tạp quyết liệt hơn,
làm gia tăng rủi ro đối với môi trường chính trị, an ninh quốc tế. Thế giới lâm vào
khủng hoảng, suy thoái nghiêm trọng về mọi mặt do tác động của đại dịch Covid-
19. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhất công nghệ số phát triển mạnh
mẽ, tạo đột phá trên nhiều lĩnh vực, tạo ra cả thời cơ và thách thức đối với mọi quốc
gia, dân tộc.
Ở trong nước, sau 35 năm đổi mới, thế lực, sức mạnh tổng hợp quốc gia,
uy tín quốc tế của đất nước ngày càng được nâng cao, tạo ra những tiền đề quan
trọng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Năm năm tới, Việt Nam hội nhập quốc tế sâu, rộng hơn sẽ phải thực hiện đầy
đủ, hiệu quả các cam kết khi tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới.
Nền kinh tế phát triển chưa bền vững, còn nhiều hạn chế, yếu kém, đứng trước
nhiều khó khăn, thách thức mới do tác động của đại dịch Covid-19 khủng hoảng
kinh tế toàn cầu gây ra. Xu hướng già hoá dân số nhanh; tốc độ công nghiệp hoá, đô
thị hoá tăng mạnh; biến đổi khí hậu gay gắt, phức tạp... ngày càng tác động mạnh
đến sự phát triển của đất nước.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam chính
thức khai mạc sáng ngày 26/01/2021, tại Trung tâm Hội nghị quốc gia, Thủ đô
Nội.
- Nội dung Đại hội:
Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị,
hợp tác phát triển, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ đối ngoại. Bảo đảm trên
hết và trước hết lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc bản của luật
25
các nguyên tắc bản của Hiến chương Liên hợp quốc luật pháp quốc tế, bình
đẳng, hợp tác, cùng có lợi”.
Thứ : So với Văn kiện đại hội XII, chủ trương xây dựng nền ngoại giao
trong Văn kiện Đại hội XIII được đánh giá bước tiến mới tính đột phá khi
khẳng định: “Xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại với ba trụ cột là đối ngoại
đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân”.Đồng thời, nếu Văn kiện XII mới
chỉ đặt ra yêu cầu: “Chăm lo đào tạo, rèn luyện đội ngũ cán bộ làm công tác đối
ngoại; bồi dưỡng kiến thức đối ngoại cho cán bộ chủ chốt các cấp” thì Văn kiện Đại
hội XIII đã đặt ra yêu cầu cao n cụ thể hơn: “Nâng cao bản lĩnh, phẩm chất,
năng lực, phong cách chuyên nghiệp, đổi mới sáng tạo của đội ngũ cán bộ làm công
tác đối ngoại và hội nhập quốc tế”.
Thứ năm: Văn kiện Đại hội XIII bổ sung nội dung “toàn diện, sâu rộng”
trong quá trình hội nhập quốc tế so với Văn kiện Đại hội XII khi nhấn mạnh: “Thúc
đẩy hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, linh hoạt, hiệu quả lợi ích quốc gia
dân tộc, bảo đảm độc lập, tự chủ, chủ quyền quốc gia”.Bên cạnh đó, để nâng cao
hơn nữa tính chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, Đại hội XIII nêu rõ: “Tích cực
triển khai các cam kết khu vực và quốc tế, lồng ghép với các chiến lược, chính sách,
kế hoạch chương trình phát triển kinh tế - hội. Chủ động tham gia, tích cực
đóng góp, nâng cao vai trò của Việt Nam trong xây dựng, định hình các thể chế đa
phương và trật tự chính trị - kinh tế quốc tế, thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế và
các hiệp định thương mại đã ký kết”.
Thứ sáu, trong văn kiện Đại hội XIII cũng nhấn mạnh việc xây dựng nền
ngoại giao toàn diện hiện đại. Đây một điểm rất mới trong văn kiện Đại hội
lần này. Ngoại giao toàn diện dựa trên ba trụ cột: đối ngoại Đảng, Ngoại giao Nhà
nước đối ngoại nhân dân nhấn mạnh đến sự phối hợp nhuần nhuyễn giữa ba
trụ cột đó. Toàn diện không chỉ về chủ thể đó toàn diện cả về hình thức
lĩnh vực, ví dụ như ngoại giao kinh tế, ngoại giao chính trị, ngoại giao văn hóa và cả
về đối tượng thúc đẩy quan hệ. Tính hiện đại của ngoại giao thể hiện là mong muốn
nâng tầm tính hiện đại ngoại giao về phương thức triển khai bộ máy, kể cả con
người làm công tác đối ngoại.
Như vậy, những điểm mới trên chính sự phát triển luận của Đảng ta về hoạt
động đối ngoại và hội nhập quốc tế trước bối cảnh mới của tình hình thế giới, khu
vực và trước những yêu cầu, nhiệm vụ mới đặt ra trong nước.
Chương 3: Đánh giá việc thực hiện đổi mới trong hội nhập quốc tế
3.1. Đánh giá việc thực hiện
28
3.1.1. Kết quả đạt được
Trải qua gần 30 năm thực hiện đường lối đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã
hội, kể từ Ðại hội VI (năm 1986), và hơn 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) đến nay, Việt Nam
đã thu được những thành tựu to lớn, hết sức quan trọng. Thực hiện đường lối đổi
mới, với mô hình kinh tế tổng quát là xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, đất nước ta đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo được
những tiền đề cần thiết để chuyển sang thời kỳ phát triển mới - thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
* Về kinh tế:
Giai đoạn 1986- 2010:Thực hiện đường lối đổi mới, đất nước ra khỏi khủng hoảng,
kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng nhanh
Giai đoạn 1986 1995: phá thế bao vây cấm vận, đưa đất nước ra khỏi
khủng hoảng: chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hóa cơ bản hoàn thành, chuyển sang
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Nhà nước chủ trương phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành
theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế dần dần khắc phục
được những yếu kém vànhững bước phát triển, tốc độ tăng trưởng đạt tương đối
cao, liên tục toàn diện, hầu hết các chỉ tiêu chủ yếu đều vượt mức: GDP bình
quân tăng 8,2%/năm; giá trị sản xuất công nghiệp tăng 13,3%/năm; nông nghiệp
tăng 4,5%/năm; lĩnh vực dịch vụ tăng 12%/năm; tổng sản lượng lương thực 5 năm
(1991 - 1995) đạt 125,4 triệu tấn, tăng 27% so với giai đoạn 1986 1990. Hầu hết
các lĩnh vực kinh tế đều đạt nhịp độ tăng trưởng tương đối khá.
Giai đoạn 1996 2010: Đây giai đoạn đánh dấu bước phát triển quan
trọng của kinh tế thời kỳ mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Mặc dù cùng chịu tác động của khủng hoảng tài chính - kinh tế khu vực và thiên tai
nghiêm trọng xảy ra liên tiếp, đặt nền kinh tế nước ta trước những thử thách khốc
liệt, tuy nhiên, Việt Nam vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng khá nhờ vào việc triển
khai hiệu quả Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 Kế hoạch 5
năm 2001 - 2005 tại Đại hội IX của Đảng.
Kết quả GDP bình quân của cả giai đoạn 1996 - 2010 đạt 7%; trong đó,
nông, lâm, ngư nghiệp phát triển liên tục, đặc biệt là sản xuất lương thực. Giá trị sản
xuất công nghiệp bình quân hằng năm tăng 13.5%; các ngành dịch vụ, xuất khẩu
nhập khẩu đều phát triển. Nước ta đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, từ nhóm
nước thu nhập thấp đã trở thành nước thu nhập trung bình (thấp). Hơn nữa còn
thu hút vốn đầu nước ngoài vào Việt Nam rất cao. Tổng vốn FDI thực hiện đạt
gần 45 tỷ USD, vượt 77% so với kế hoạch đề ra.
29
Nhìn chung, các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế đều bước phát triển khá,
trong đó sự phát triển ổn định trong ngành nông nghiệp, nhất là sản xuất lương thực
đã bảo đảm an ninh lương thực quốc gia; sản phẩm công nghiệp phát triển ngày
càng đa dạng phong phú về chủng loại, chất lượng được cải thiện, từng bước
nâng cao khả năng cạnh tranh, bảo đảm cung cầu của nền kinh tế, giữ vững thị
trường trong nước và mở rộng thị trường xuất khẩu; chú trọng đầu tư phát triển một
số ngành công nghiệp mới, công nghệ cao; khu vực dịch vụ tốc độ tăng trưởng
ổn định.
Giai đoạn 2011-nay: Đưa quan hệ đi vào chiều sâu và hội nhập quốc tế toàn diện.
Trong giai đoạn 2011-2019, GDP tăng 6,3%/năm, trong đó năm 2018 tăng
7,08% mức tăng cao nhất kể từ năm 2008. GDP bình quân đầu người năm
2019 đạt 2.715 USD, gấp 15 lần năm 1990; thu nhập bình quân đầu người 1 tháng
đạt 4.294,5 nghìn đồng, gấp 12 lần năm 2002. Chất lượng tăng trưởng kinh tế dần
dịch chuyển sang chiều sâu, thể hiện mức đóng góp của năng suất các nhân tố
tổng hợp (TFP) trong tăng trưởng kinh tế ngày một lớn. Năng suất lao động (NSLĐ)
ngày càng được cải thiện đáng kể.
Trong giai đoạn 2016-2019, NSLĐ toàn nền kinh tế tăng 5,86%/năm, cao
hơn tốc độ 4,35%/năm của giai đoạn 2011-2015. cấu kinh tế nước ta đã bước
đầu chuyển dịch theo hướng hiện đại. Tỷ trọng các ngành, trình độ công nghệ sản
xuất, cấu lao động đã chuyển dịch theo hướng tích cực; tỷ trọng lao động qua
đào tạo của các ngành kinh tế đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu phát triển kinh tế
– xã hội và hội nhập quốc tế.
Hoạt động kinh tế đối ngoại phát triển toàn diện và sâu rộng, đưa nước ta hội
nhập ngày càng đầy đủ với kinh tế khu vực thế giới. Tổng mức lưu chuyển hàng
hóa ngoại thương thực hiện trong giai đoạn 2011-2019 đạt 3.100,3 tỷ USD, gấp 20,2
lần giai đoạn 1991-2000 gấp 3,6 lần giai đoạn 2001-2010. Tỷ lệ tổng kim ngạch
xuất nhập khẩu so với GDP từ 112,5% năm 2000 tăng lên 142,2% năm 2005;
152,2% năm 2010 và 210,4% vào năm 2019. Điều này cho thấy nền kinh tế nước ta
có độ mở ngày càng cao và tăng lên tương đối nhanh, nước ta đã khai thác được thế
mạnh của kinh tế trong nước tranh thủ được thị trường thế giới. Kể từ khi thực
hiện Luật Đầu tư nước ngoài từ năm 1988, thu hút đầu tư nước ngoài vào nước ta đã
đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ. Năm 2019, s dự án đầu trực tiếp nước
ngoài đạt 4.028 dự án với tổng số vốn đăng ký đạt 38.951,7 triệu USD, tương ứng
gấp 19,1 lần và 24,3 lần so với giai đoạn 1988-1990. Đầu tư trực tiếp nước ngoài trở
thành kênh huy động vốn quan trọng cho sự phát triển kinh tế- hội, tác dụng
to lớn trong việc thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, tạo thêm nhiều việc làm, nâng cao năng lực quản trình độ
công nghệ cho nền kinh tế. Đặc biệt, hoạt động đầu trực tiếp nước ngoài đã thúc
30
đẩy việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại giữa nước ta với các nước trong khu
vực và trên thế giới.
Vị thế của Việt Nam thay đổi đáng kể trên thế giới và trong khu vực ASEAN.
Năm 2019, Việt Nam đứng thứ 8 thế giới và thứ 2 trong khu vực ASEAN về tốc độ
tăng trưởng GDP;một trong 30 nước mức tăng trưởng xuất, nhập khẩu cao và
là nền kinh tế quy mô xuất khẩu thứ 22 trên thế giới. Việt Nam đã vượt trên các
quốc gia trong khu vực Đông Nam Á về thu hút vốn đầu trực tiếp nước ngoài,
xếp hạng thứ 25 thế giới về hấp dẫn vốn FDI. Chỉ số Năng lực cạnh tranh toàn cầu
(GCI) của Việt Nam năm 2019 tăng lên 10 bậc so với năm trước, xếp thứ 67 trong
số 141 quốc gia và vùng lãnh thổ; chỉ số HDI xếp hạng 117 trong số 177 quốc gia,
vùng lãnh thổ. khía cạnh ngoại giao kinh tế, đến nay đã trên 70 nước công
nhận Việt Namnền kinh tế thị trường. Trong nhiều năm qua, Việt Nam tham gia
tích cực vào việc đàm phán cũng như kết, phê chuẩn các Hiệp định thương mại
tự do (FTA) với 16 FTA song phương đa phương. Đặc biệt, ngày 30/3/2020,
Nghị viện châu Âu đã thông qua FTA giữa EU và Việt Nam (EVFTA) Quốc hội
nước ta phê chuẩn Hiệp định này vào ngày 08/6/2020. Điều này không chỉ góp phần
thúc đẩy thương mại đầu cho nền kinh tế Việt Nam, còn thể hiện sự chủ
động của Việt Nam trong việc hình thành hệ thống thương mại quốc tế. Tính đến
nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 189 quốc gia trên thế giới.
Giai đoạn 2020- nay được xem năm lịch sử, đầy biến động và “sóng gió”,
thể thấy rằng, kinh tế thế giới liên kết kinh tế quốc tế diễn biến phức tạp,
nhiều rủi ro, đan xen giữa các mảng màu “sáng”, “tối”. Kinh tế thế giới suy thoái
nặng nề, thương mại toàn cầu sụt giảm nghiêm trọng, hầu hết các trung tâm kinh tế
tăng trưởng âm. Tất nhiên, Việt Nam cũng không nằm ngoài sự ảnh hưởng nghiêm
trọng từ đại dịch Covid-19 này. Tăng trưởng âm của một số ngành dịch vụ chiếm tỷ
trọng lớn đã làm giảm mức tăng chung của khu vực dịch vụ toàn bộ nền kinh tế.
Ngành bán buôn, bán lẻ giảm 0,21% so với năm trước, làm giảm 0,02 điểm phần
trăm trong tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế; ngành vận tải kho
bãi giảm 5,02%, làm giảm 0,3 điểm phần trăm; ngành dịch vụ lưu trú ăn uống
giảm mạnh 20,81%, làm giảm 0,51 điểm phần trăm. Đi kèm với những thách thức
đó, Đảng và nhà nước ta cũng không ngừng đưa thực hiện các phương châm thích
ứng an toàn, linh hoạt kiểm soát hiệu quả dịch bệnh nên dù trong bối cảnh khó khăn
đó, nền kinh tế Việt Nam vẫn những “điểm sáng” rất bản tính đến cuối năm
2021:
+ Ngành y tế hoạt động trợ giúp hội đạt tốc độ tăng cao nhất trong khu vực
dịch vụ với mức tăng 42,75%, đóng góp 0,55 điểm phần trăm; hoạt động tài chính,
ngân hàng và bảo hiểm tăng 9,42%, đóng góp 0,52 điểm phần trăm; ngành thông tin
và truyền thông tăng 5,97%, đóng góp 0,36 điểm phần trăm.
31
+ Năng suất lao động của toàn nền kinh tế theo giá hiện hành năm 2021 ước tính đạt
171,3 triệu đồng/lao động (tương đương 7.398 USD/lao động, tăng 538 USD so với
năm 2020). Theo giá so sánh, năng suất lao động năm 2021 tăng 4,71% do trình độ
của người lao động được cải thiện (tỷ l lao động qua đào tạo bằng, chứng chỉ
năm 2021 đạt 26,1%, cao hơn mức 25,3% của năm 2020).
+ Năm 2021, kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam đã đạt mức kỷ lục mới, với
tổng giá trị 668,5 tỷ USD, tăng 22,6% so với năm 2020, trong đó kim ngạch xuất
khẩu hàng hóa ước đạt 336,25 tỷ USD (tăng 19% so với năm 2020), kim ngạch
nhập khẩu hàng hóa ước đạt 332,25 tỷ USD (tăng 26,5% so với năm 2020), tiếp tục
điểm sáng trong bức tranh kinh tế Việt Nam. Cùng với việc tháng 12, ước xuất
siêu đạt 1,5 tỷ USD, đã giúp cho kim ngạch ngoại thương của Việt Nam trong năm
2021 sđảo chiều ngoạn mục, xuất siêu cả năm ước đạt 4 tỷ USD. Điểm sáng
của ngoại thương năm 2021 là kết quả của sự nỗ lực của các doanh nghiệp trong bối
cảnh đại dịch, đồng thời cũng kết quả của sự nắm bắt thời từ các Hiệp định
thương mại (FTA) được các doanh nghiệp Việt Nam tận dụng có hiệu quả.
Cơ cấu kinh tế chuyển biến tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
gắn với sản xuất thị trường
Về cấu kinh tế tiếp tục được chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP giảm dần, cấu trồng trọtchăn
nuôi đã chuyển dịch theo hướng tiến bộ, tăng tỷ trọng các sản phẩm có năng suất
hiệu quả kinh tế cao, các sản phẩm giá trị xuất khẩu. Tỷ trọng công nghiệp
xây dựng tăng nhanh và liên tục với thiết bị, công nghệ ngày càng hiện đại. Tỷ trọng
khu vực dịch vụ tăng.
Nông nghiệp có sự biến đổi quan trọng, đã chuyển từ độc canh lúa, năng suất
thấp và thiếu hụt lớn, sang không những đủ dùng trong nước, còn xuất khẩu gạo với
khối lượng lớn, đứng thứ hai thế giới, góp phần vào an ninh lương thực quốc tế;
xuất khẩu phê, cao su, hạt điều, hạt tiêu, thủy sản với khối lượng lớn đứng thứ
hạng cao trên thế giới.
Các ngành dịch vụ đã phát triển đa dạng hơn, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu
cầu của sản xuất và đời sống: ngành du lịch, bưu chính viễn thông phát triển với tốc
độ nhanh; các ngành dịch vụ tài chính, ngân hàng, vấn pháp lý;... bước phát
triển theo hướng tiến bộ, hiệu quả.
* Về chính trị, quốc phòng và an ninh
Hội nhập quốc tế về chính trị, quốc phòng an ninh trong những năm qua
đã có những bước chuyển căn bản và đi vào chiều sâu:
Một , giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của đất
nước, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững an ninh
32
chính trị trật tự an toànhội.Thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ củng cố an ninh,
QP với chống "diễn biến hòa bình", bạo loạn lật đổ; hiệu hóa hoạt động của các
đối tượng phản động trong ngoài nước lợi dụng các vấn đề dân tộc, tôn giáo,
nhân quyền, để gây mất ổn định.
Đấu tranh bảo vệ quan điểm, đường lối đúng đắn của Đảng; phê phán, bảo vệ
các quan điểm sai trái đòi đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập dân chủ cực đoan,
phủ nhận thành tựu của quá khứ... Dân chủ trong Đảng tiến bộ. Từng bước sắp
xếp, kiện toàn hệ thống tổ chức của Đảng Nhà nước theo hướng tinh gọn, giảm
bớt đầu mối trung gian. Từng bước đổi mới phương thức lãnh đạo trên sở coi
trọng lãnh đạo thể chế hóa nghị quyết, lãnh đạo xây dựng luật pháp lệnh, khắc
phục tình trạng áp đặt, bao biện, làm thay.
Hai là, chất lượng tổng hợp, sức mạnh, trình độ khả năng sẵn sàng chiến
đấu của lực lượng trang nhân dân không ngừng được nâng cao. Xây dựng lực
lượng trang, đặc biệt quân đội công an theo hướng chính quy, tinh nhuệ,
từng bước hiện đại.
Chú trọng xây dựng lực lượng trang nhân dân vững mạnh cả về chính trị,
tư tưởng tổ chức, xứng đáng lực lượng nòng cốt cho toàn dân trong thực hiện
nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Đặc biệt, chúng ta đã nhiều giải pháp mang tính đột
phá trong xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, làm cơ sở để nâng cao chất
lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của Quân đội nhân dân:
+ Việc đổi mới công tác huấn luyện - đào tạo, sẵn sàng chiến đấu, xây dựng nền nếp
chính quy, quản kỹ thuật,… được đẩy mạnh, sự chuyển biến mới về chất
lượng.
+ Công tác hậu cần, kỹ thuật được thực hiện tốt, nhất là bảo đảm cho các đơn vị làm
nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu trên tuyến biển, đảo.
+ Công tác nghiên cứu khoa học quân sự, khoa học công nghệ quân sự, khoa học
hội và nhân văn quân sự được chú trọng và có bước phát triển mới, trọng tâm hướng
vào các vấn đề về chiến lược QS, QP trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ
quốc; các loại hình tác chiến chiến lược, chiến dịch và phương án xử lý các mối đe
dọa an ninh truyền thốngan ninh phi truyền thống, bảo đảm sát thực tế, phù hợp
với điều kiện mới.
Ba là, phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây
dựng hoàn thiện Nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa. Việc xây dựng Nhà
nước pháp quyền của dân do dân dân đã đạt được những kết quả bước
đầu.Quốc hội đẩy mạnh xây dựng luật pháp. Nền hành chính quốc gia được cải cách
một bước.Quốc hội đã từng bước hoàn thiện cấu tổ chức phương thức hoạt
động theo hình thức nhà nước pháp quyền XHCN. Từ năm 1986 đến năm 2005
Quốc hội thông qua gần 150 luật. Từ 2006 đến nay, thông qua 67 luật.
33
nguồn nhân lực chất lượng cao góp phần phục vụ sự nghiệp xây dựng, bảo vệ
phát triển đất nước.
Chất lượng giáo dục còn được các tổ chức quốc tế đánh giá cao. Việt Nam
hiện được xếp vào top 10 hệ thống giáo dục đổi mới hàng đầu của thế giới, theo báo
cáo “Tăng trưởng thông minh hơn: Học tập Phát triển công bằng Đông Á
Thái Bình Dương” năm 2018 của Ngân hàng Thế giới. Hay trong các Chương trình
đánh giá học sinh quốc tế, lứa tuổi 15 (PISA), học sinh nước ta đều đạt kết quả ấn
tượng, vượt qua mức trung bình của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD).
Các đội tuyển Olympic quốc tế đều đạt thứ hạng cao.
Các năm 2020 2021 đánh dấu bước chuyển đổi linh hoạt của hệ thống
giáo dục Việt Nam trong giai đoạn dịch bệnh. Với chủ trương “tạm dừng đến
trường, không ngừng việc học”, các cấp bậc học (trừ mầm non) đã chuyển sang
hình thức dạy học trực tuyến qua internet truyền hình, đây lần đầu tiên việc
dạy học trực tuyến được triển khai trên quy cả nước. Báo cáo PISA của OECD
công bố ngày 29/9/2020, đánh giá: “Việc học trực tuyến để phòng chống Covid-19
của Việt Nam nhiều điểm khả quan so với các quốc gia và vùng lãnh thổ khác”.
Đây nhận định xác đáng khi Việt Nam gần 80% học sinh, sinh viên học trực
tuyến, cao hơn mức trung bình 67,15% của các nước OECD, xếp thứ 17/200 quốc
gia và vùng lãnh thổ trên thế giới.
Trên sở những thành tựu đạt được trong 76 năm qua, Đại hội XIII của
Đảng đã định hướng phát triển giáo dục Việt Nam cho thời kỳ tới, trong đó một
số điểm nổi bật như: thay vì chỉ nhấn mạnh vào “phát triển nhanh giáo dục đào
tạo” như trước đây, Chiến lược phát triển kinh tế - hội giai đoạn 2021 - 2030 đề
cập trực tiếp việc “phát triển nguồn nhân lực, giáo dục đào tạo đáp ứng yêu cầu
nhân lực chất lượng cao của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hội nhập
quốc tế”.
* Về văn hóa – xã hội :
Văn hóa Việt Nam Nam thành quả hàng nghìn năm lao động sáng tạo đấu
tranh kiên cường dựng nước giữ nước của cộng đồng các dân tộc Việt Nam,
kết quả giao lưu và tiếp thu tinh hoa của nhiều nền văn minh thế giới. Văn hóa Việt
Nam tiếp tục được phát huy, đã góp phần quyết định vào những thắng lợi to lớn của
nhân dân ta trong sự nghiệp đổi mới.
Trong lĩnh vực này, Việt Nam mở cửa, trao đổi văn hóa, chia sẻ các giá trị
văn hóa, tinh thần với các quốc gia khác, tiếp thu các giá trị văn hóa tiến bộ của thế
giới để bổ sung và làm giàu nền văn hóa của dân tộc, quốc gia. Tham gia, thực hiện
Cộng đồng văn hóa - xã hội ASEAN, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của
Liên hợp quốc (UNESCO); ký kết, gia nhập điều ước quốc tế song phương, khu vực
và đa phương về hợp tác, phát triển lĩnh vực văn hóa. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng
35
chủ động tích cực tham gia các hoạt động, giao lưu văn hoá, nghệ thuật, thể thao với
hình thức song phương, khu vực thế giới. Qua quá trình hội nhập quốc tế sẽ làm
sâu sắc nội dung hợp tác, thực sự gắn kết bền vững giữa các quốc gia, thúc đẩy sự
gần gũi hơn về văn hoá, trong khi vẫn giữ được bản sắc riêng về văn hoá của từng
quốc gia. Hội nhập quốc tế về văn hoá cũng đồng thời tạo điều kiện để người dân
được thụ hưởng tốt hơn các giá trị văn hóa của nhân loại.
Hội nhập quốc tế giúp Việt Nam nâng cao chất lượng trong việc thực hiện
các vấn đề về hội. Văn hóa -hội sự chuyển biến tích cực; an sinh hội
được bảo bảo đảm, đời sống nhân dân ổn định với thu nhập bình quân trên đầu
người đạt trên 3700 USD năm 2021; tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ 9,88% năm 2015
xuống còn còn 2,75% năm 2020, trung bình giảm 1,43%/năm (chỉ tiêu: 1-
1,5%/năm),...
* Về khoa học – công nghệ
Năm 2020, Việt Nam tiếp tục giữ vững thứ hạng 42/131 quốc gia, vùng lãnh
thổ về Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu tiếp tục được xem hình mẫu của các
nước đang phát triển khác trong việc thiết lập đổi mới sáng tạo như một ưu tiên
quốc gia.
Hoạt động hợp tác quốc tế được triển khai hiệu quả trong bối cảnh đại
dịch COVID-19 thông qua các hình thức họp trực tuyến và làm việc từ xa. Đặc biệt,
trong năm Việt Nam đảm nhiệm chức Chủ tịch ASEAN 2020, Bộ đã tích cực thúc
đẩy hoạt động hợp tác về KHCN đổi mới sáng tạo, chủ động triển khai các hoạt
động trong danh mục sự kiện ASEAN 2020.
Hội nhập quốc tế làm cho lĩnh vực khoa học - công nghệ trong nước tiếp cận,
theo kịp trình độ tiên tiến của thế giới, tiếp thu được khoa học công nghệ mới và kỹ
năng quản tiên tiến trên nhiều lĩnh vực: Công nghiệp, nông nghiệp, kỹ thuật, văn
hóa – hội,… góp phần đào tạo cho đất nước có đội ngũ nguồn lực trình độ và
năng lực cao cả về chuyên môn lẫn quản lý thông qua đó nâng cao trình độ nghiên
cứu, sử dụng thành tựu khoa học công nghệ trong nước, rút ngắn khoảng cách
công nghệ của Việt Nam so với các quốc gia phát triển, cải thiện kết cấu hạ tầng kỹ
thuật, tăng cường tiềm lực khoa học công nghệ của Việt Nam. Hội nhập quốc tế
về khoa học - công nghệ thông qua phương thức phát triển quan hệ hợp tác khoa
học công nghệ với các quốc gia, tổ chức quốc tế vùng lãnh thổ các hình
thức khác nhau, trong đó có việc ký kết, thực hiện điều ước quốc tế trong lĩnh vực
khoa học công nghệ. Bên cạnh đó, cũng tăng cường kết, thực hiện các thỏa
thuận, hợp đồng hợp tác quốc tế về nghiên cứu khoa học, công nghệ với các quốc
gia, tổ chức, cá nhân nước ngoài.
3.1.2. Hạn chế và thách thức
* Hạn chế của công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế
36
Sự lãnh đạo của Đảng đối với công cuộc đổi mới đã đạt được nhiều thành
tựu to lớn tuy nhiên bên cạnh đó hội nhập quốc tế vẫn còn tồn tại những hạn chế:
- Trong một số lĩnh vực quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế vào những thời điểm
cụ thể, sự đổi mới tư duy còn chậm, chưa đáp ứng được tốt nhất yêu cầu phát triển
trong nước và phù hợp với những chuyển biến của tình hình thế giới.
- Hội nhập quốc tế còn thụ động, hiệu quả chưa cao; chưa khai thác và phát huy
hiệu quả lợi ích đan xen, ổn định, bền vững đối với các nước lớn và các đối tác quan
trọng.
- Việc xử lý mối quan hệ đối tác, đối tượng rất khó khăn vì liên quan đến quan hệ
quốc tế và lợi ích tổng thể quốc gia – dân tộc, cho nên trong một số trường hợp sự
giải quyết vẫn chưa thực sự tốt.
- Chưa có sự giải quyết đồng bộ, hữu hiệu để hạn chế tác động tiêu cực trong quá
trình mở rộng giao lưu, hợp tác và hội nhập quốc tế trong lĩnh vực thông tin, văn
hóa, tư tưởng và chính trị.
- Công tác nghiên cứu cơ bản, dự báo chiến lược trong lĩnh vực đối ngoại và hội
nhập quốc tế còn hạn chế. Có lúc còn lúng túng và bị động trước những ý đồ và
hành động của một số nước lớn, nắm bắt và xử lý chưa hiệu quả trong quan hệ với
một số nước láng giềng
- Công tác thông tin đối ngoại còn hạn chế, dự báo và xử lý một số vấn đề, diễn
biến trên thế giới và trong khu vực còn chậm, thiếu chủ động, thống nhất và hiệu
quả còn hạn chế, bỏ lỡ nhiều cơ hội.Việc triển khai thực hiệc các chủ trương, nghị
quyết về hội nhập quốc tế và thực hiện các thỏa thuận quốc tế chưa đầy đủ, hiệu quả
chưa cao.
- Báo cáo của Chính phủ về tình hình kinh tế - xã hội năm 2018 do Thủ tướng
Nguyễn Xuân Phúc trình bày trước Quốc hội cũng đã chỉ ra những hạn chế của
công cuộc hội nhập quốc tế của nước ta:
+ Hội nhập quốc tế đã làm bộc lộ những yếu kém cơ bản của nền kinh tế. Cơ cấu
kinh tế và chất lượng tăng trưởng vẫn chưa được cải thiện về căn bản. Tăng trưởng
thời gian qua phần nhiều dựa vào các yếu tố như tín dụng, lao động rẻ mà thiếu sự
đóng góp đáng kể của việc gia tăng năng suất lao động hay hàm lượng tri thức, công
nghệ.
+ Một số địa phương lúng túng trong việc triển khai công tác hội nhập kinh tế quốc
tế. Vẫn tồn tại khoảng cách khá xa về năng lực và thiếu sự gắn kết, hỗ trợ giữa khu
vực FDI và khu vực doanh nghiệp trong nước, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa.
37
+ Công tác thông tin truyền thông về hội nhập, năng lực giải quyết tranh chấp
thương mại, đầu tư quốc tế còn hạn chế, chưa tận dụng được hết các cơ hội do hiệp
định FTA mang lại.
- Ngoài ra còn sự phân hóa giàu nghèo và bất công xã hội cũng gia tăng, áp lực gia
tăng dân số còn khá lớn và gây ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế - xã hội và hội
nhập quốc tế.
Qua đó ta có thể thấy được rằng công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế vẫn
chưa phát huy đầy đủ sức mạnh tổng hợp trong hoạt động đối ngoại.
* Những thách thức đặt ra đối với nước ta trong công cuộc đổi mới
Mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ đưa lại những lợi ích mà còn đặt
nước ta trước nhiều thử thách. Nếu chúng ta không có biện pháp ứng phó tốt thì sự
thua thông minh, chính sách không khéo thì sẽ hạn chế được thua thiệt, dành được
lợi ích nhiều hơn cho đất nước.
- Về kinh tế:
Việt Nam là một nước có nền kinh tế đang phát triển, mặc dù đã có những
bước tiến quan trọng về tăng trưởng nền kinh tế song chất lượng tăng trưởng, hiệu
quả sản xuất, sức cạnh tranh của các sản phẩm, các doanh nghiệp và của nền kinh tế
còn thấp. Kinh tế Việt Nam phát triển chưa ổn định, bền vững. Nợ công, thâm hụt
ngân sách nhà nước cao, kéo dài. Doanh nghiệp trong nước 95-96% là doanh nghiệp
nhỏ, trình độ công nghệ thấp. Nền kinh tế cơ bản còn phát triển theo chiều rộng, dựa
vào vốn đầu tư, tài nguyên thiên nhiên, lao động phổ thông, chuyển dịch sang phát
triển theo chiều sâu dựa trên khoa học – công nghệ và nguồn nhân lực chất lượng
cao còn chậm. Năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh kinh tế thấp, chuyển
biến chậm Thể chế kinh tế nước ta đang còn quá phức tạp và rườm rà khiến các nhà.
đầu tư e ngại khi đầu tư vào Việt Nam.
Hội nhập quốc tế, kinh tế Việt Nam đứng trước thách thức sẽ chịu tác động
trực tiếp, nhanh chóng từ những biến động kinh tế từ bên ngoài, từ những biến động
trên thị trường trên khu vực, thế giới về giá cả, lãi suất, tỷ giá của các đồng tiền,
nhất là những đồng tiền có ảnh hưởng lớn; từ những thay đổi của các luồng hàng
hóa, tài chính, đầu tư quốc tế và nghiêm trọng hơn là chịu sự tác động, ảnh hưởng
rất nhanh của các cuộc khủng hoảng kinh tế, tài chính khu vực và trên thế giới.
Hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng sẽ đặt doanh nghiệp Việt Nam, các sản
phẩm hàng hóa của Việt Nam trước thách thức phải cạnh tranh quyết liệt với các
doanh nghiệp, các sản phẩm hàng hóa của nước ngoài không chỉ ở thị trường nước
ngoài mà ngay cả ở thị trường trong nước của Việt Nam; trong khi các doanh
nghiệp Việt Nam phổ biến là doanh nghiệp nhỏ và vừa, trình độ công nghệ thấp,
năng lực tài chính hạn chế, phải cạnh tranh với những doanh nghiệp lớn, công nghệ
38
cao, tiềm lực tài chính hùng hậu, có những sản phẩm có thương hiệu nổi tiếng trên
thế giới.
Một thách thức nữa đặt ra cho Việt Nam đó là trình độ khoa học - công nghệ
rất cao, rất mới, diễn ra trên diện rất rộng, hầu như tất cả các lĩnh vực kinh tế, phạm
vi tác động rất lớn của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Để nắm bắt được cơ
hội, đòi hỏi phải đáp ứng được đồng thời tất cả các yêu cầu đặt ra, đòi hỏi đất nước
cũng phải có trình độ phát triển cao về khoa học - công nghệ, có nguồn nhân lực
chất lượng cao, từ cán bộ nghiên cứu khoa học, sáng tạo công nghệ, thiết kế sản
phẩm đến những người trực tiếp sản xuất; đòi hỏi cả những thay đổi tâm lý, nếp
sống của các tầng lớp xã hội, thay đổi tổ chức, quản lý của hệ thống chính quyền
các cấp, các ngành.
Ngoài ra, trong hội nhập kinh tế quốc tế, nhiệm vụ phát triển khu vực kinh tế
tư nhân cũng đòi hỏi phải giải quyết nhiều vấn đề về nhận thức, cơ chế, chính sách,
… Về cơ chế bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, nước ta còn nhiều khó khăn về nhãn hiệu
thương mại, bản quyền tác giả, bảo vệ thiết kế công nghiệp người dân chưa
thói quen tuân thủ quyền sở hữu trí tuệ.
- Về chính trị:
Nước ta trong tiến trình hội nhập cũng đang phải đối diện trước thách thức
của một số nguy đe dọa độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ,
sự lựa chọn định hướng chính trị, vai trò của nhà nước,… Đã xuất hiện những mưu
đồ lấy sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước để hạ thấp chủ quyền quốc gia; lấy một
thị trường không biên giới để phủ nhận tính bất khả xâm phạm của toàn vẹn lãnh
thổ quốc gia; lấy các thiết chế quốc tế làm mô hình siêu nhà nước đứng trên các nhà
nước quốc gia, áp đặt các giá trị dân chủ nhân quyền phương Tây trong quan hệ
quốc tế, đưa ra thuyết như nhân quyền cao hơn chủ quyền”,… Bên cạnh đó hội
nhập quốc tế cũng làm bộc lộ nhiều bất cập của nền hành chính quốc gia. Khi gia
nhập WTO nền hành chính quốc gia chắc chắn sẽ phải sự thay đổi công khai
hơn, minh bạch và hiệu quả hơn bởi một trong những nguyên tắc chủ đạo của WTO
là minh bạch hóa. Đó phải là nền hành chính vì quyền lợi chính đáng của mọi người
dân, trong đó lấy người dân làm trọng tâm phục vụ, khắc phục mọi biểu hiện trì trệ,
thờ ơ trách nhiệm, nếu không tạo lập được một nền hành chính như thế không
những không tận dụng được các hội của việc hội nhập WTO còn không
chống được việc lãng phí nguồn lực,…
- Về văn hóa – xã hội
+ hội nhập quốc tế mở rộng giao lưu trong điều kiện bùng nổ thông tinVăn hóa:
hiện nay bên cạnh những mặt tốt thì những cái xấu cũng du nhập vào; đặt nước ta
trước nguy bị các giá trị ngoại lai (trong đó lối sống thực dụng, chạy theo
đồng tiền), nhất các giá trị văn hoá phương Tây xâm nhập ạt, làm tổn hại bản
39
Hai là, quá trình hội nhập quốc tế trên mọi lĩnh vực cần xuất phát từ yêu cầu
bên trong của đất nước, phù hợp với sự chuẩn bị mức độ sẵn sàng của các chủ
thể trên từng lĩnh vực khi tham gia hội nhập. Tham gia hội nhập không để rơi vào bị
động, chạy theo.
Ba là, cần sự thống nhất về quan điểm, nhận thức trong việc đề ra chủ
trương, mục tiêu hội nhập cách thức hành động. Xây dựng các căn cứ khoa học,
pháp lý và thực tiễn về việc hội nhập quốc tế trên từng lĩnh vực phương thức hội
nhập nhằm đảm bảo được tầm nhìn chiến lược i hạn về mục tiêu theo từng lĩnh
vực hội nhập quốc tế.
Bốn là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến thông tin nhằm nâng cao
nhận thức của toàn hội về hội nhập quốc tế của Việt Nam nói chung các cam
kết hội nhập ở từng lĩnh vực, với từng chủ thể hội nhập nói riêng. Việc tuyên truyền
cần được thực hiện linh hoạt, chủ động, phù hợp qua nhiều kênh thông tin khác
nhau, đồng bộ phải tính định hướng cao. Các đối tượng khác nhau (cơ quan
nhà nước, doanh nghiệp, người dân...) cần được cung cấp những thông tin theo
những cách phù hợp khác nhau để đảm bảo hiệu quả của công tác tuyên truyền.
Năm là, quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, đòi hỏi mức độ cam
kết tham gia hội nhập ngày càng cao cả về phạm vi mức độ hội nhập. vậy,
phải chủ động xây dựng, điều chỉnh, hoàn thiện khuôn khổ hành lang pháp lý trong
nước để đáp ứng nhu cầu phát triển trong nước, đồng thời hỗ trợ tận dụng tốt
nhất các cơ hội, điều kiện quốc tế mà tiến trình hội nhập quốc tế đem lại.
Sáu là, huy động và củng cố sức mạnh vật chất với huy động và phát huy sức
mạnh tinh thần; kết hợp sức mạnh tự thân, nội lực, sức mạnh dân tộc với sự đồng
tình, củng cố của bạn bè quốc tế, sức mạnh thời đại để thực hiện việc hội nhập thực
chất, hiệu quả. Đặc biệt, cần chú trọng phát triển nguồn nhân lực tham gia hội nhập
cả về chuyên môn, luật pháp, ngoại ngữ, văn hóa.
Bảy là, nắm vững tận dụng tốt thời cơ, giành thắng lợi trên từng mặt trận
hội nhập. Quá trình hội nhập cần đi vững chắc theo từng cấp độ từ nhỏ đến lớn, đưa
các mối quan hệ đi vào chiều sâu nâng cấp các khuôn khổ hợp tác một cách bền
vững. Thực tế cho thấy, trong quá trình hội nhập của Việt Nam, từ việc gia nhập
ASEAN (1995), gia nhập ASEM (1996), APEC (1998), WTO (2002), với hội nhập
kinh tế quốc tế… giờ đây Việt Nam đã, đang mở rộng hội nhập trong các lĩnh vực
khác từ chính trị, văn hóa, xã hội, giáo dục đến an ninh, quốc phòng, khoa học, công
nghệ.
Tám là, ứng xử khôn khéo, linh hoạt giữa hai mặt hợp tácđấu tranh trong
hội nhập quốc tế theo tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh “dĩ bất biến, ứng vạn biến”.
Kiên định về nguyên tắc, linh hoạt về sách lược, mọi chủ trương, hoạt động hội
nhập phải kiên trì, kiên định nguyên tắc độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, đặt
41
lợi ích dân tộc lên trên hết. Đồng thời, phải linh hoạt, mềm dẻo trong đàm phán, giải
quyết các vấn đề bất đồng, những nội dung chưa tạo được tiếng nói chung.
Chín là, hội nhập vừa theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa, song phải
tính chọn lọc cao. Nghĩa là, bất cứ lĩnh vực nào lợi cho quốc gia, nhân dân thì
cần khai thác triệt để. Tuy nhiên, cần sự lựa chọn lĩnh vực, mặt hàng, sản phẩm
thích hợp với nhu cầu của thị trường thế giới lợi thế so sánh của Việt Nam để
việc hội nhập, hợp tác đạt được lợi ích nhiều nhất cho quốc gia.
Mười là, hội nhập quốc tế phải gắn liền với việc xây dựng một hội văn
minh, dưới sự quản của nhà nước pháp quyềnhội chủ nghĩa luôn đảm bảo
sự lãnh đạo tập trung thống nhất của Đảng. Trong quá trình hội nhập cầnsự phối
hợp chặt chẽ giữa các hình thức, phương thức hội nhập, tạo thành mặt trận hội nhập,
hợp tác, toàn diện, góp phần giữ vững môi trường hòa bình, thúc đẩy sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất
toàn vẹn lãnh thổ.
3.2.2. Giải pháp thúc đẩy hội nhập quốc tế toàn diện
Để hội nhập quốc tế toàn diện trong giai đoạn mớihiệu quả cần triển khai
thực hiện hệ thống các giải pháp sau:
Một là, đẩy mạnh tuyên truyền sâu rộng trong toàn Đảng, toàn quân toàn
dân về yêu cầu hội nhập quốc tế, về các hội thách thức, về mục tiêu, phương
hướng, nhiệm vụ trọng yếu của hội nhập quốc tế trong từng ngành, lĩnh vực để
thống nhất nhận thức và hành động, tạo nên sức mạnh tổng hợp trong quá trình hội
nhập quốc tế của cả hệ thống chính trị từ Trung ương đến địa phương, của toàn dân,
doanh nhân, doanh nghiệp, đội ngũ trí thức trong xã hội.
Hai là, nhanh chóng hoàn thiện hệ thống chế, chính sách về hội nhập
quốc tế, trước hết là hội nhập kinh tế quốc tế một cách toàn diện, đồng bộ trên cơ sở
phù hợp với Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước và chủ trương, đường lối đối ngoại
của Đảng; điều chỉnh, bổ sung hoàn chỉnh các chính sách hội nhập quốc tế cho phù
hợp với thực tiễn phát triển của đất nước và các cam kết quốc tế.
Ba là, chú trọng nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia qua việc đẩy mạnh
hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa, trọng tâm tạo
ra môi trường kinh doanh thuận lợi bình đẳng cho mọi tổ chức, doanh nghiệp,
người dân tham gia phát triển sản xuất kinh doanh; phát triển kết cấu hạ tầng đồng
bộ, hiện đại; phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất nguồn nhân lực chất lượng
cao; tạo chế chính sách khuyến khích các tổ chức, doanh nghiệp đầu cho
nghiên cứu khoa học, đổi mới công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực.v.v...
Bốn là, đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối tác, nhất là các đối
tác tầm ảnh hưởng chiến lược quan trọng đối với sự phát triển an ninh của
42
Việt Nam, đưa các khuôn khổ quan hệ đã được xác lập đi vào thực chất chiều
sâu, tạo sự đan xen gắn kết lợi ích giữa Việt Nam với các đối tác một cách bình
đẳng. Chủ động trong việc lựa chọn đối tác xây dựng phương án đàm phán với
từng đối tác trên cơ sở cùng có lợi.
Năm là, các bộ, ngành, địa phương cần chủ động xây dựng các chương trình,
kế hoạch toàn diện và cụ thể trong việc thực hiện Nghị quyết số 22 của Bộ Chính trị
về hội nhập quốc tế trong bối cảnh thế giới cũng như trong nước đang có nhiều thay
đổi lớn. Tăng cường phân cấp, nâng cao trách nhiệm quản lý, chỉ đạo của các
quan quản nhà nước chế tài xử phạt đối với các trường hợp vi phạm. Chú
trọng hơn đến công tác kiểm tra, giám sát quá trình thực hiện chủ trương, chính sách
hội nhập.
Sáu là, thực hiện hiệu quả các cam kết quốc tế Việt Nam đã thỏa
thuận. Xây dựng triển khai chiến lược hội nhập trên mọi lĩnh vực theo kế hoạch
tổng thể với lộ trình hợp lý, phù hợp với lợi ích quốc gia và khả năng của đất nước.
Tích cực và trách nhiệm hơn trong việc tham gia các thể chế hội nhập toàn cầu. Chủ
động tích cực tham gia các thể chế đa phương, góp phần xây dựng trật tự chính
trị, kinh tế thế giới theo hướng công bằng, dân chủ, bình đẳng, cùng có lợi.
Bảy là, đẩy mạnh nâng cao năng lực thực thi hội nhập quốc tế qua việc kiện
toàn, củng cố và phát triển bộ máy, đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại, hội nhập
quốc tế. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chuyên trách, nguồn nhân
lực chất lượng cao bản lĩnh chính trị vững vàng, tri thức, kỹ năng hội nhập,
nắm vững nghiệp vụ, giỏi ngoại ngữ đáp ứng yêu cầu của công tác hội nhập trong
giai đoạn mới.
43
sử” qua 34 năm đổi mới để càng vững tin và kiên định vào con đường chủ nghĩa xã
hội mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã chọn.
45
| 1/47

Preview text:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN BÀI TẬP LỚN
Môn: Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam
CHỦ ĐỀ: QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI QUAN ĐIỂM
CỦA ĐẢNG VỀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ Ở NƯỚC
TA TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI TỪ 1986 ĐẾN NAY Hà Nội – 2021 MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..................................................................................................................1
NỘI DUNG..............................................................................................................3
Chương 1: Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn........................................................3
1.1. Cơ sở lý luận................................................................................................3
1.1.1 Khái niệm hội nhập quốc tế:..................................................................3
1.1.2 Quan điểm của Mác-Lênin về các vấn đề chung của hội nhập...............3
1.1.3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về các vấn đề hội nhập quốc tế...............4
1.2. Cơ sở thực tiễn.............................................................................................4
1.2.1. Vấn đề hội nhập quốc tế của VN trước thời kỳ đổi mới........................5
1.2.2. Tính cấp thiết phải thay đổi quan điểm về hội nhập ở Việt Nam...........6
1.2.3. Tầm quan trọng của hội nhập quốc tế đối với nước ta trong thời kỳ đổi
mới..................................................................................................................6
Chương 2: Quá trình đổi mới quan điểm về hội nhập quốc tế ở nước ta trong
thời kỳ mới từ 1986
..............................................................................................7
2.1. Giai đoạn 1986 – 1995.................................................................................7
2.2. Giai đoạn 1996 – 2010..............................................................................13
2.3. Giai đoạn 2011 - nay..................................................................................19
Chương 3: Đánh giá việc thực hiện đổi mới trong hội nhập quốc tế..............28
3.1. Đánh giá việc thực hiện.............................................................................28
3.1.1. Kết quả đạt được..................................................................................28
3.1.2. Hạn chế và thách thức..........................................................................36
3.2. Bài học và giải pháp thúc đẩy hội nhập quốc tế toàn diện của Việt Nam...40
3.2.1. Bài học kinh nghiệm về hội nhập quốc tế ở Việt Nam.........................40
3.2.2. Giải pháp thúc đẩy hội nhập quốc tế toàn diện....................................41
TỔNG KẾT............................................................................................................43 MỞ ĐẦU
Thế kỉ XX đã qua với những dấu ấn kinh tế đầy ấn tượng của quá trình toàn
cầu hoá lực lượng sản xuất, quá trình này được biểu hiện rõ nét ở sự sát nhập của
những công ty xuyên quốc gia hàng đầu thế giới như Boing, Mercedes,
Nissan... và đặc biệt ở sự xuất hiện của các tổ chức kinh tế và thương mại mang tính
khu vực,và toàn cầu như WTO, APEC, ASEAN... Dưới sức ép của toàn cầu hoá,
nền kinh tế của mỗi quốc gia cũng có sự biến chuyển mạnh mẽ và nhanh chóng.
Quá trình này mở ra những triển vọng to lớn của việc thúc đẩy tăng trưởng ở mỗi
quốc gia, nhưng đồng thời trên phương diện quản lý, cũng đặt ra những thách thức
to lớn đối với các chính phủ.
Theo xu thế chung của thế giới, Việt Nam đã và đang từng bước cố gắng chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế. Đây không phải là một mục tiêu nhiệm vụ nhất thời
mà là vấn đề mang tính chất sống còn đối với nền kinh tế Việt Nam hiện nay cũng
như sau này. Bởi một nước mà đi ngược với xu hướng chung của thời đại sẽ trở nên
lạc hậu và bị cô lập, sớm hay muộn nước đó sẽ bị loại bỏ trên đấu trường quốc tế.
Hơn thế nữa, một nước đang phát triển, lại vừa trải qua chiến tranh tàn khốc, ác
liệt… thì việc chủ động hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới thì lại càng cần
thiết hơn bao giờ hết. Trong quá trình hội nhập, với nội lực dồi dào sẵn có cùng với
ngoại lực sẽ tạo ra thời cơ phát triển kinh tế. Việt Nam sẽ mở rộng được thị trường
xuất nhập khẩu, thu hút được vốn đầu tư nước ngoài, tiếp thu được khoa học công
nghệ tiên tiến, những kinh nghiệm quý báu của các nước kinh tế phát triển và tạo
được môi trường thuận lợi để phát triển kinh tế. Tuy nhiên, một vấn đề bao giờ cũng
có hai mặt đối lập. Hội nhập kinh tế quốc tế mang đến cho Việt Nam rất nhiều thời
cơ thuận lợi nhưng cũng đem lại không ít khó khăn thử thách. Văn kiện Đại hội toàn
quốc lần thứ XI của Đảng khẳng định: “Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy và thành
viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hoà bình, độc
lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ trên thế giới”. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta
sẽ từng bước khắc phục những khó khăn để đưa đất nước phát triển. Hội nhập kinh
tế quốc tế là tất yếu khách quan đối với Việt Nam.
Cuộc cải cách này sẽ giúp cho Việt Nam huy động được các nguồn lực nội
sinh, tăng cường sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trên chính thị
trường nội địa,tạo tiền đề cho cạnh tranh quốc tế.Hội nhập vừa là cơ hội cũng vừa là
thách thức ,những trở ngại nảy sinh do bản thân tiến trình cải cách, cùng với sức ép
của khủng hoảng kinh tế và tài chính khu vực, đang có ảnh hưởng ngày càng sâu
rộng và đặt ra trách nhiệm nặng nề cho bộ máy quản Nhà Nước cũng như cho toàn
thể chế xã hội. Do vậy, có thể nói rằng hiện nay Việt Nam thực sự đang ở trong thời
điểm bước ngoặt của việc đánh giá lại toàn bộ các nguồn lực phát triển, và nhất là
các quan điểm và định hướng phát triển đất nước sao cho phù hợp với sự phát triển 1
chung của thế giới, mà trong đó hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam là yếu tố quan
trọng để thúc đẩy kinh tế phát triển.
Trong phạm vi bài tập lớn này, chúng em xin được trình bày: “Quá trình đổi
mới quan điểm về hội nhập quốc tế ở nước ta trong thời kỳ mới từ 1986
Do trình độ nhận thức về vấn đề này còn hạn chế nên bài viết không tránh
khỏi những thiếu sót, chúng em rất mong nhận được những nhận xét góp ý của cô
giáo để bài viết được hoàn chỉnh hơn. 2 NỘI DUNG
Chương 1: Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1 Khái niệm hội nhập quốc tế:
Hội nhập quốc tế là quá trình liên kết, gắn kết giữa các quốc gia/vùng lãnh
thổ với nhau thông qua việc tham gia các tổ chức, thiết chế, cơ chế, hoạt động hợp
tác quốc tế vì mục tiêu phát triển của bản thân mỗi quốc gia/vùng lãnh thổ đó và
nhằm tạo thành sức mạnh tập thể giải quyết những vấn đề chung mà các bên cùng
quan tâm. Hội nhập quốc tế theo đúng nghĩa đầy đủ là hội nhập trên tất cả lĩnh vực
khác nhau của đời sống xã hội.
Về bản chất , hội nhập quốc tế chính là một hình thức phát triển cao của hợp
tác quốc tế nhằm đạt được một mục tiêu hoặc 1 lợi ích chung nào đó.
Cụ thể hơn, quá trình hội nhập quốc tế của một quốc gia có thể hợp tác, cạnh
tranh và đấu tranh,... với các bộ phận cấu thành khác nhau trong “hệ thống”, bao
gồm cả việc gia nhập, rút khỏi các “phân hệ” khác nhau trong hệ thống, chứ không
phải đơn thuần là một hình thức phát triển cao hơn của “hợp tác quốc tế”. Tất cả các
hoạt động này đều là hoạt động có chủ đích nhằm phát triển quốc gia, khẳng định
bản sắc quốc gia, giành vị thế xứng đáng cho quốc gia trong hệ thống, tham gia
hoàn thiện và phát triển hệ thống,...
1.1.2 Quan điểm của Mác-Lênin về các vấn đề chung của hội nhập
Thực tế lịch sử đã chứng minh từ bản chất của học thuyết khoa học Mácxít -
Lêninnít, cũng như từ kinh nghiệm lịch sử của phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế đã chỉ ra rằng, công cuộc cách mạng và xây dựng chủ nghĩa xã hội của một
quốc gia muốn giành thắng lợi thì đảng cộng sản nước đó phải căn cứ vào tình hình
cụ thể, thực tiễn lịch sử để vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tìm ra con
đường cách mạng riêng của mình. Hội nhập quốc tế cũng là một mắt xích trong
công cuộc cách mạng và xây dựng chủ nghĩa xã hội của mỗi quốc gia, do vậy cũng
cần phải nắm rõ tình hình nước mình và đề ra hướng đi đúng đắn riêng.
Cách mạng Tháng Mười thành công bởi V.I.Lênin đã trên cơ sở nắm chắc
tình hình nước Nga, tìm ra được con đường phù hợp. Cụ thể hơn với vấn đề hội
nhập quốc tế, Lênin đã xác định đây là yếu tố tất yếu. V.I.Lênin lấy nguyên tắc đoàn
kết quốc tế vô sản vì mục đích chính nghĩa làm nguyên tắc trong hoạt động đối
ngoại của Đảng Công nhân dân chủ-xã hội Nga. Không chỉ nhấn mạnh đến đối
ngoại chính trị, trong bối cảnh nền kinh tế còn gặp nhiều khó khăn, V.I.Lênin đã chỉ
ra rằng, mở cửa là nhu cầu khách quan để phát triển kinh tế ở mỗi nước và trên 3
phạm vi thế giới. Ngoài ra V.I.Lênin cũng rất chú trọng là giao lưu văn hóa giữa
các nước vì nó có ý nghĩa rất lớn đối với công tác thông tin, tuyên truyền và đối ngoại.
1.1.3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về các vấn đề hội nhập quốc tế
Chủ tịch Hồ Chí Minh trong toàn bộ cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng Hồ Chí
Minh từ lúc ra đi tìm đường cứu nước đến tận cuối đời đều phản ánh tầm nhìn xa,
trông rộng, luôn đổi mới, hội nhập và phát triển. Người đã tiếp thu tư tưởng Mác -
Lênin và vận dụng vào thực tiễn Việt Nam với tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo.
Quan điểm của HCM về hội nhập quốc tế cũng như đối ngoại nói chung là phải đặt
lợi ích của quốc gia, của dân tộc lên trên hết. Phải kiên định độc lập, tự chủ với
chân lý “không có gì quý hơn độc lập, tự do!”, “dựa vào sức mình là chính”, “muốn
người ta giúp cho thì trước mình phải tự giúp lấy mình đã”, “một dân tộc không tự
lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc
lập”; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Phương châm của người là
“dĩ bất biến ứng vạn biến”, trong đó, thực hiện mục tiêu của chủ nghĩa xã hội “dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” luôn là cái “bất biến”. Cái “vạn
biến” là phải linh hoạt, khôn khéo trong bối cảnh tình hình thế giới đang có nhiều biến động.
Muốn hoàn thành mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh” thì phải đổi mới và phát triển. Mà muốn đổi mới, phát triển thì phải tích cực
hội nhập quốc tế, “muốn làm cách mạng thắng lợi thì phải... thực hiện thêm bầu
bạn, bớt kẻ thù” . Bên cạnh đó, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, “Nước ta là một bộ
phận của thế giới. Tình hình của nước ta có ảnh hưởng đến thế giới, mà tình hình
thế giới cũng có quan hệ đến nước ta” , nhưng phải độc lập, tự chủ, phải khôn khéo,
phải có những biện pháp của riêng mình, vì “muốn người ta giúp cho, thì trước
mình phải tự giúp lấy mình đã”. Có chính sách đối ngoại rộng mở, hợp tác, hòa bình
và quan hệ tốt; tránh đối đầu, không gây thù oán với một ai. Trong quan hệ với các
nước, các tổ chức quốc tế, cần tăng điểm tương đồng, hạn chế bất đồng, khai thác
mọi khả năng có thể để phát huy sức mạnh của thời đại. Trong quan hệ với bên
ngoài, cần “phải nhìn cho rộng, suy cho kỹ”, tỉnh táo để có những đối sách khôn
khéo trước mắt và lâu dài.
1.2. Cơ sở thực tiễn
Tình hình thế giới từ giữa thập kỷ 80 thế kỷ XX:
Từ giữa những năm 1980, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ tiếp tục
phát triển mạnh mẽ, tác động sâu sắc đến mọi mặt đời sống của các quốc gia, dân
tộc. Các nước xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng sâu sắc. Đến đầu những năm
1990, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô sụp đổ, dẫn đến những biến đổi to lớn về 4
quan hệ quốc tế. Trật tự thế giới được hình thành từ sau chiến tranh thế giới thứ hai
trên cơ sở hai khối đối lập do Liên Xô và Hoa Kỳ đứng đầu (trật tự thế giới hai cực)
tan rã, mở ra thời kỳ hình thành một trật tự thế giới mới.
Trên phạm vi thế giới, những cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột, tranh chấp
vẫn còn, nhưng xu thế chung của thế giới là hoà bình và hợp tác phát triển. Các
quốc gia, các tổ chức và lực lượng chính trị quốc tế thực hiện điều chỉnh chiến lược
đối nội, đối ngoại và phương thức hành động cho phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ
bên trong và đặc điểm của thế giới.
Xu thế chạy đua phát triển kinh tế khiến các nước, nhất là những nước đang
phát triển đã đổi mới tư duy đối ngoại, thực hiện chính sách đa phương hoá, đa dạng
hoá quan hệ quốc tế; mở rộng và tăng cường liên kết, hợp tác với các nước phát
triển để tranh thủ vốn, kỹ thuật, công nghệ, mở rộng thị trường, học tập kinh
nghiệm tổ chức, quản lý sản xuất kinh doanh.Các nước đổi mới tư duy về quan
niệm sức mạnh, vị thế quốc gia. Thay thế cách đánh giá cũ, chủ yếu dựa vào thế
mạnh quân sự bằng các tiêu chí tổng hợp, trong đó sức mạnh kinh tế được đặt ở vị
trí quan trọng hàng đầu.
Bên cạnh đó quan hệ Việt-Mỹ là một trong những mẫu điển hình của sự
thăng trầm từ “đối đầu thù địch” đến “đối tác toàn diện” mang tính chu kỳ của 2
thập niên lịch sử. Từ năm 1955-1975, Mỹ đã kéo quân, đưa vũ khí vào Miền Nam
gây ra cuộc chiến tranh thảm khốc ở Việt Nam. Hàng triệu người Việt Nam cùng
với khoảng hơn 58.000 lính Mỹ đã chết trong cuộc chiến tranh phi nghĩa do chính
Mỹ gây ra. Hệ lụy của cuộc chiến và hậu quả của nó để lại sau hơn 45 năm vẫn còn
nhiều vấn đề chưa thể khắc phục.
Sau khi Mỹ rút quân khỏi Miền Nam Việt Nam, năm 1975 Việt Nam đã hoàn
thành nhiệm vụ giải phóng, thống nhất Tổ quốc. Trong 2 thập niên tiếp theo (1975-
1995), quan hệ Việt-Mỹ cực kỳ căng thẳng. Dường như ôm hận trong cuộc chiến
tranh thất bại duy nhất được tiến hành ngoài lãnh thổ, người Mỹ tìm mọi cách để lật
đổ chế độ ở Việt Nam với phương châm “Cộng sản đã dùng bom, đạn để đuổi
người Mỹ ra khỏi Sài Gòn, người Mỹ sẽ dùng đôla để đuổi Cộng sản ra khỏi Hà
Nội
”. Chính quyền Mỹ qua nhiều thế hệ lãnh đạo đã sử dụng biện pháp bao vây,
cấm vận về kinh tế, chính trị với mục tiêu làm cho Việt Nam kiệt quệ về kinh tế, suy
kiệt về chính trị. Không những thế, họ còn hậu thuẫn cho các tổ chức phản động cả
ở trong và ngoài nước tìm cách gây bạo loạn, lật đổ chính quyền…
1.2.1. Vấn đề hội nhập quốc tế của VN trước thời kỳ đổi mới
Trong mười năm trước đổi mới, quan hệ đối ngoại của Việt Nam với các
nước xã hội chủ nghĩa được tăng cường, trong đó đặc biệt là với Liên Xô. Kể từ
năm 1977, một số nước tư bản mở quan hệ hợp tác kinh tế với Việt Nam. Với các 5
nước khác thuộc khu vực Đông Nam Á: Cuối năm 1976, Philippin và Thái Lan là
nước cuối cùng trong tổ chức ASEAN thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam.
Những kết quả đối ngoại trên đây có ý nghĩa rất quan trọng đối với cách
mạng Việt Nam. Sự tăng cường hợp tác toàn diện với các nước xã hội chủ nghĩa và
mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế với cả các nước ngoài hệ thống xã hội chủ nghĩa đã
tranh thủ được nguồn viện trợ đáng kể, góp phần khôi phục đất nước sau chiến
tranh; việc trở thành thành viên chính thức của Quỹ tiền tệ quốc tế, Ngân hàng thế
giới, Ngân hàng phát triển châu Á và việc trở thành thành viên chính thức của Liên
hợp quốc, tham gia tích cực vào các hoạt động của Phong trào không liên kết, đã
tranh thủ được sự ủng hộ, hợp tác của các nước, các tổ chức quốc tế, đồng thời phát
huy được vai trò của nước ta trên trường quốc tế.
Việc thiết lập quan hệ ngoại giao với các nước còn lại trong tổ chức ASEAN
đã tạo thuận lợi để triển khai các hoạt động đối ngoại trong giai đoạn sau, nhằm xây
dựng Đông Nam Á trở thành khu vực hoà bình, hữu nghị và hợp tác.
1.2.2. Tính cấp thiết phải thay đổi quan điểm về hội nhập ở Việt Nam
Trong thời gian này, trên thế giới và khu vực diễn ra sự chuyển biến sâu sắc.
Quan hệ chính trị quốc tế cũng có những thay đổi và tác động mạnh mẽ đến chiến
lược đối ngoại của các quốc gia dân tộc, trong đó có Việt Nam.
Trong bối cảnh đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng được diễn
ra từ ngày 15 - 18/12/1986 tại Hà Nội. Với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, “nói rõ
sự thật”, “đổi mới tư duy”, Đảng đã đánh giá khách quan tình hình đất nước, thừa
nhận những sai lầm trong xây dựng và phát triển là “chủ quan, duy ý chí” và đề ra
chủ trương đổi mới toàn diện.
Về đối ngoại, mục tiêu của chính sách đối ngoại được Đại hội xác định là
phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, phấn đấu giữ gìn hòa bình ở
Đông Dương, góp phần giữ vững hòa bình ở Đông Nam Á và trên thế giới, tăng
cường quan hệ hữu nghị hợp tác với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa, “tranh
thủ điều kiện quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ
Tổ quốc”. Những điểm mới về tư duy đối ngoại được trình bày trong đại hội VI của
Đảng được trình bày trong phần tiếp theo.
1.2.3. Tầm quan trọng của hội nhập quốc tế đối với nước ta trong thời kỳ đổi mới
Hội nhập quốc tế là xu thế tất yếu khách quan trong thế giới ngày nay. Đối
với các nước đang và kém phát triển (trong đó có Việt Nam) thì hội nhập quốc tế là
con đường tốt nhất để rút ngắn khoảng cách tụt hậu so với các nước khác và có điều
kiện phát huy hơn nữa những lợi thế so sánh của mình trong phân công lao động và
hợp tác quốc tế.Chính sự hội nhập này đã đem lại cho quốc gia nhiều lợi ích đáng kể. Cụ thể: 6
Thứ nhất, hội nhập quốc tế đã góp phần quan trọng vào việc tạo dựng môi
trường hòa bình, ổn định, thuận lợi cho phát triển đất nước
Thứ hai, hội nhập quốc tế trở thành một động lực quan trọng góp phần thúc
đẩy đổi mới toàn diện trong nước, phát triển kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng
trưởng và nâng cao năng lực cạnh tranh của nước ta trong thời gian qua.
Thứ ba, hội nhập quốc tế đã góp phần hết sức quan trọng vào việc giữ vững
chủ quyền lãnh thổ, biển, đảo, bảo vệ an ninh tổ quốc
Thứ tư, các hoạt động hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng, nhất là đối
ngoại đa phương, đã góp phần không ngừng nâng cao vị thế và vai trò của đất nước trên trường quốc tế.
Thứ năm, cùng quá trình hội nhập quốc tế theo phương châm “lấy người dân
và doanh nghiệp làm trung tâm”, địa phương, doanh nghiệp và người dân ta ngày
càng có điều kiện tham gia và tận dụng các cơ hội mà hội nhập quốc tế mang lại.
Tiếp đến là những nhân tố thúc đẩy hình thành và phát triển việc hội nhập quốc tế
Hội nhập quốc tế xuất phát từ những cơ sở kinh tế xã hội hiện thực của thế
giới hiện đại. Đó là những yếu tố khách quan không phụ thuộc vào ý chí của quốc
gia nào. Điều đó đặt hội nhập kinh tế quốc tế như một tất yếu mang tính thời đại.
- Cách mạng khoa học công nghệ diễn ra mạnh mẽ đã phá vỡ địa giới giữa các quốc gia
- Sự phát triển của phân công lao động quốc tế
- Sự phát triển mạnh mẽ của các công ty xuyên quốc gia
- Ảnh hưởng của các tổ chức kinh tế, tài chính quốc tế
- Xu hướng đối thoại, hợp tác đã thay thế cho đối đầu
Chương 2: Quá trình đổi mới quan điểm về hội nhập quốc tế ở nước
ta trong thời kỳ mới từ 1986

2.1. Giai đoạn 1986 – 1995
* Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (1986) - Bối cảnh Đại hội:
Tình hình thế giới: Giữa thập kỷ 80 của thế kỷ XX, trên thế giới và khu vực
diễn ra sự chuyển biến sâu sắc. Các nước XHCN tiến hành cải cách, cải tổ, đổi mới,
Liên Xô, và Đông Âu sụp đổ, trật tự thế giới từ 2 cực thành đơn cực (Mĩ). Chiến
tranh khu vực, xung đột vũ trang, sắc tộc, tôn giáo diễn ra ở nhiều nơi song xu thế 7
chung vẫn là hợp tác và phát triển. Toàn cầu hoá trên thế giới đang diễn ra rất mạnh
mẽ và tác động to lớn đến sự thay đổi của thế giới. Cuộc cách mạng khoa học - kỹ
thuật diễn ra mạnh mẽ, tạo thành bước phát triển nhảy vọt của lực lượng sản xuất và
đẩy nhanh quá trình quốc tế hoá các lực lượng sản xuất.
Trong nước: Tiếp tục xây dựng CNXH, xây dựng chế độ làm chủ tập thể, nền
kinh tế mới, nền văn hóa mới và con người mới XHCN gắn với sự nghiệp bảo vệ Tổ
quốc. Tình hình kinh tế - xã hội đang có những khó khăn gay gắt; sản xuất tăng
chậm; hiệu quả sản xuất và đầu tư thấp, các thế lực thù địch bao vây, cấm vận về
kinh tế và chính trị, đất nước rơi vào khủng hoảng KT-XH; nhân dân giảm lòng tin
đối với sự lãnh đạo của Đảng và điều hành của Nhà nước. Nhìn chung, chúng ta
chưa thực hiện được mục tiêu tổng quát do Đại hội lần thứ V đề ra là về cơ bản ổn
định tình hình kinh tế - xã hội, ổn định đời sống nhân dân.
Trong bối cảnh đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng được diễn ra từ
ngày 15 - 18/12/1986 tại Hà Nội. - Nội dung Đại hội:
Với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, “nói rõ sự thật”, “đổi mới tư duy”,
Đảng đã đánh giá khách quan tình hình đất nước, thừa nhận những sai lầm trong
xây dựng và phát triển là “chủ quan, duy ý chí” và đề ra chủ trương đổi mới toàn diện.
Xuất phát từ tình hình đó và trên cơ sở nhận thức đặc điểm nổi bật của thế
giới là cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật đang diễn ra mạnh mẽ, đẩy nhanh quá
trình quốc tế hóa lực lượng sản xuất, Đảng ta nhận định: "Xu thế mở rộng phân
công, hợp tác giữa các nước, kể cả các nước có chế độ kinh tế - xã hội khác nhau,
cũng là những điều kiện rất quan trọng đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội
của nước ta". Từ đó, Đảng chủ trương phải biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại trong điều kiện mới và đề ra yêu cầu mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế
với các nước ngoài hệ thống xã hội chủ nghĩa, với các nước công nghiệp phát triển,
các tổ chức quốc tế và tư nhân nước ngoài trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi;
sử dụng tốt mọi khả năng mở rộng quan hệ thương mại, hợp tác kinh tế và khoa
học, kỹ thuật với bên ngoài để phục vụ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội”
Đại hội đại biểu lần thứ VI của Đảng đã quyết định đổi mới toàn diện đất
nước, mở ra một bước ngoặt mới trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế:
Thứ nhất, Muốn kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, nước ta
phải tham gia sự phân công lao động quốc tế; trước hết và chủ yếu là với Liên Xô,
Lào và Campuchia, với các nước khác trong cộng đồng XHCN.
Tham gia ngày càng rộng rãi vào sự phân công lao động quốc tế, trước hết và
chủ yếu là phát triển và củng cố quan hệ đặc biệt giữa ba nước Việt Nam, Lào và 8
Campuchia. Đảng ta nhận thức sâu sắc rằng: phát triển và củng cố mối quan hệ đặc
biệt giữa ba nước Đông Dương, đoàn kết và tôn trọng độc lập, chủ quyền của mỗi
nước, hợp tác toàn diện, giúp đỡ lẫn nhau xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là quy luật
sống còn và phát triển của cả ba dân tộc anh em. Bằng những biện pháp thiết thực
và có hiệu quả, chúng ta ra sức phát triển quan hệ giữa nước ta với Lào và
Campuchia, làm cho mỗi nước và cả ba nước ngày càng vững mạnh, làm thất bại
âm mưu và thủ đoạn chia rẽ của kẻ thù. Đoàn kết và hợp tác toàn diện với Liên Xô
là hòn đá tảng trong chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta; phát triển quan
hệ hữu nghị và hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác, với các nước
khác trong Hội đồng tương trợ kinh tế; góp phần tăng cường sức mạnh và phát huy
ảnh hưởng của cộng đồng xã hội chủ nghĩa. Chủ động cùng các nước anh em xây
dựng và thực hiện chương trình của Hội đồng tương trợ kinh tế giúp đỡ Việt Nam,
chương trình tổng hợp tiến bộ khoa học - kỹ thuật đến năm 2000 của Hội đồng tương trợ kinh tế.
Thứ hai, Tích cực phát triển và đề ra yêu cầu mở rộng hợp tác kinh tế và
khoa học – kỹ thuật với các nước ngoài hệ thống XHCN, các tổ chức quốc tế và tư
nhân nước ngoài trên cơ sở bình đẳng và cùng có lợi. Nhà nước ta chủ trương tăng
cường và mở rộng quan hệ hữu nghị với Thụy Điển, Phần Lan, Pháp, Ôxtrâylia,
Nhật Bản và với các nước phương Tây khác trên cơ sở bình đẳng và cùng có lợi.
Chính phủ ta tiếp tục bàn bạc với Mỹ giải quyết các vấn đề nhân đạo do chiến tranh
để lại và sẵn sàng cải thiện quan hệ với Mỹ vì lợi ích của hoà bình, ổn định ở Đông Nam Á.
Bên cạnh đó, Tăng cường đoàn kết của phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản; củng cố sự
hợp tác giữa các đảng anh em trong cuộc đấu tranh cho hòa bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Mở rộng quan hệ với các tổ chức quốc tế, ủng hộ
mạnh mẽ phong trào đấu tranh giải phóng và độc lập dân tộc chống chủ nghĩa đế
quốc, chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa phân biệt chủng tộc. Mở rộng quan hệ với tất
cả các nước trên nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình. Trên tinh thần bình đẳng, bảo
đảm độc lập, chủ quyền và tôn trọng lẫn nhau, sẵn sàng đàm phán để giải quyết
những vấn đề thuộc quan hệ giữa Việt Nam với Trung Quốc, bình thường hóa quan
hệ và khôi phục tình hữu nghị giữa hai nước, vì lợi ích của nhân dân hai nước, vì
hòa bình ở Đông - Nam á và trên thế giới. - Nghị quyết số 13:
Tư duy của Đảng ta có bước chuyển quan trọng tại Nghị quyết số 13 của Bộ
Chính trị (tháng 5/1988). Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 13 về nhiệm vụ và chính
sách đối ngoại trong tình hình mới với mục tiêu chiến lược và lợi ích cao nhất của
Đảng và nhân dân ta là củng cố và giữ vững hòa bình để tập trung sức xây dựng và
phát triển kinh tế; đề ra chủ trương kiên quyết chủ động chuyển cuộc đấu tranh từ 9
tình trạng đối đầu sang đấu tranh và hợp tác trong cùng tồn tại hoà bình; lợi dụng sự
phát triển của cách mạng khoa học - kỹ thuật và xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế thế
giới để tranh thủ vị trí có lợi nhất trong phân công lao động quốc tế; kiên quyết mở
rộng quan hệ hợp tác quốc tế, ra sức đa dạng hóa quan hệ đối ngoại. Theo đó, Đảng
nêu rõ trạng thái “đấu tranh và hợp tác trong cùng tồn tại hòa bình” và nhận định
“với một nền kinh tế mạnh, một nền quốc phòng vừa đủ mạnh cùng với sự mở rộng
quan hệ hợp tác quốc tế, chúng ta sẽ càng có nhiều khả năng giữ vững độc lập và
xây dựng thành công xã hội chủ nghĩa hơn”.
Nghị quyết 13 đánh dấu sự đổi mới tư duy quan hệ quốc tế, quan hệ đối
ngoại theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá. Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị thể
hiện sự đổi mới tư duy của Đảng về nhiều vấn đề then chốt thuộc lĩnh vực đối ngoại
như: quan hệ chính trị quốc tế; mục tiêu đối ngoại; an ninh và phát triển; đoàn kết
quốc tế và tập hợp lực lượng trong quan hệ quốc tế của Việt Nam. Phương châm đối
ngoại “thêm bạn, bớt thù” được hình thành nhằm tiếp tục mở rộng hơn nữa quan hệ
đối ngoại với các nước, các tổ chức quốc tế ngoài phe XHCN trên cơ sở đề cao lợi
ích quốc gia dân tộc của Việt Nam. Sự chuyển hướng này đã đặt nền móng hình
thành đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa
quan hệ quốc tế. Trên lĩnh vực kinh tế đối ngoại, từ năm 1989, Đảng chủ trương xóa
bỏ tình trạng độc quyền trong sản xuất và kinh doanh xuất nhập khẩu. So với chủ
trương của Đại hội V là "Nhà nước độc quyền ngoại thương và trung ương thống
nhất quản lý công tác ngoại thương" thì đây là bước đổi mới đầu tiên trên lĩnh vực
kinh tế đối ngoại của Việt Nam.
Có thể thấy, đất nước lúc đó từng bước mở rộng hợp tác kinh tế ra bên ngoài,
không chỉ quan hệ với các nước trong khối xã hội chủ nghĩa. Thời kỳ Bộ trưởng
Nguyễn Duy Trinh (1965 – 1980), Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch (1980 – 1991) dành
mối quan tâm lớn cho việc này. Nhờ vậy, Việt Nam mở ra được ODA với Nhật Bản,
lập quan hệ ngoại giao với nhiều nước, bình thường hoá và thiết lập quan hệ với các
tổ chức kinh tế quốc tế như IMF, World Bank. Việt Nam cũng chủ trương sớm
hướng tới bình thường hoá quan hệ với Mỹ. Tháng 9/1990, Bộ trưởng Nguyễn Cơ
Thạch đã gặp Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ James Baker ở New York, bàn việc bình
thường hóa quan hệ hai nước.
* Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (1991) - Bối cảnh Đại hội:
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam được
tiến hành vào tháng 6-1991, trong bối cảnh quốc tế và trong nước đang có những
diễn biến phức tạp. Đó là những biến động đã và đang xảy ra ở các nước xã hội chủ
nghĩa, sự tiến công nhiều phía vào chủ nghĩa xã hội, vào chủ nghĩa Mác - Lênin và
Đảng Cộng sản, những âm mưu và thủ đoạn của các thế lực thù địch quốc tế hòng 10
xóa bỏ chủ nghĩa xã hội hiện thực và sự hoang mang, dao động trong một bộ phận
lớn những người cộng sản trên thế giới đã tác động mạnh đến tư tưởng và tình cảm
của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và nhân dân Việt Nam. Đất nước ta
cũng phải đương đầu với các hoạt động phá hoại của các lực lượng thù địch ở cả
trong và ngoài nước. Tình hình kinh tế và đời sống của nhân dân vẫn còn khó khăn,
đất nước vẫn trong tình trạng khủng hoảng kinh tế xã hội. Tuy nhiên, công cuộc đổi
mới được Đảng ta đề ra từ Đại hội lần thứ VI (12/1986), bước đầu đã đạt được
những thành tựu đáng kể, nhờ đó mà nước ta đã đứng vững và tiếp tục phát triển.
- Nội dung Đại hội VII:
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (tháng 6-1991) đề ra chủ
trương "hợp tác bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các nước, không phân biệt chế
độ chính trị - xã hội khác nhau trên cơ sở các nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình", với
phương châm "Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới,
phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển
". Từ đó hình thành nên chính sách đối
ngoại theo hướng “đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại.
Đảng khẳng định thế giới vẫn trong thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
đồng thời chỉ rõ những xu thế lớn như quốc tế hóa, dân chủ hóa, xu thế hòa bình,
hợp tác trong quan hệ quốc tế. Chủ trương đối ngoại của Việt Nam được khẳng định
tại Đại hội VII (1991), theo đó Việt Nam muốn là bạn, là đối tác với các nước trên
thế giới và mở rộng, đa phương hóa quan hệ kinh tế đối ngoại. Đại hội còn nhấn
mạnh: “Cần nhạy bén và dự báo được những diễn biến phức tạp và thay đổi sâu sắc
trong quan hệ quốc tế để có những chủ trương đối ngoại phù hợp.” Đây là khâu đột
phá trong việc thực hiện chủ trương hội nhập quốc tế. Đại hội lần thứ VII của Đảng
chủ trương gắn thị trường trong nước với thị trường thế giới, giải quyết tốt mối
quan hệ giữa thị trường trong nước và thị trường ngoài nước và có chính sách bảo
vệ hàng nội địa và Đại hội cũng đã xác định nguyên tắc cơ bản của hội nhập kinh tế quốc tế.
Đại hội VII đã đổi mới chính sách đối ngoại với các đối tác cụ thể. Với Lào
và Campuchia, thực hiện đổi mới phương thức hợp tác, chú trọng hiệu quả trên tinh
thần bình đẳng. Với Trung Quốc, chủ trương thúc đẩy bình thường hóa quan hệ,
từng bước mở rộng hợp tác Việt - Trung. Trong quan hệ với khu vực, Đảng chủ
trương phát triển quan hệ hữu nghị với các nước Đông Nam Á và châu Á - Thái
Bình Dương, phấn đấu cho một Đông Nam Á hoà bình, hữu nghị và hợp tác. Đối
với Hoa Kỳ, Đảng nhấn mạnh yêu cầu thúc đẩy quá trình bình thường hóa quan hệ
Việt Nam - Hoa Kỳ. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội được Đại hội VII của Đảng thông qua xác định quan hệ hữu nghị và
hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới là một trong những đặc trưng cơ
bản của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng. 11
Với những nội dung được quyết nghị, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII
được đánh giá là “Đại hội của trí tuệ - đổi mới - dân chủ - kỷ cương - đoàn kết.”
- Hội nghị Trung ương 3 khóa VII
Trong nhiệm kỳ Đại hội VII, quá trình đổi mới tư duy về đối ngoại đa
phương của Đảng Cộng sản Việt Nam được thể hiện rất rõ tại Hội nghị Trung ương
3 khóa VII (năm 1992). Hội nghị lần thứ 3 của Trung ương (khoá 7) tháng 6- 1992
nhấn mạnh yêu cầu: Đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế; mở rộng cửa để
thu hút vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý của nước ngoài, tiếp cận thị trường thế
giới, trên cơ sở bảo đảm an ninh quốc gia, tài nguyên, môi trường; hạn chế thấp
nhất các tiêu cực phát sinh trong quá trình mở cửa.
Hội nghị đã chỉ ra nhiệm vụ trước mắt là khai thông mối quan hệ với các cơ
chế đa phương trên thế giới như Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới
(WB), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB); mở rộng quan hệ với các tổ chức hợp
tác khu vực, trước hết là khu vực châu Á - Thái Bình Dương mà trước tiên là
ASEAN. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 khóa VII đã đánh dấu bước tiến mới
trong tư duy về ngoại giao đa phương của Đảng, đó là mở rộng quan hệ kinh tế với
nhiều nước, nhiều tổ chức khu vực và thế giới, không phân biệt chế độ chính trị
cũng như trình độ phát triển. Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII
(tháng 1-1994) chủ trương triển khai mạnh mẽ và đồng bộ đường lối đối ngoại độc
lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa và đa phương hóa quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế.
- Trong năm 1991, có các sự kiện đã diễn ra:
+ Ngày 9/2/1991: Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 25-NQ/TW về đổi mới và tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên.
+ Ngày 30/3/1991: Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 26-NQ/TW về khoa học và công
nghệ trong sự nghiệp đổi mới.
+ Ngày 7 đến 13/5/1991: Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh thăm và làm việc tại Liên Xô.
+ Tháng 8/1991: Đồng chí Võ Văn Kiệt được bầu giữ chức Chủ tịch Hội đồng Bộ
trưởng (tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa VIII)
+ Ngày 12 và 13/9/1991: Hội nghị đầu tư nước ngoài vào Việt Nam với tên gọi
“Việt Nam con hổ thức giấc”, đây là Hội nghị đầu tiên về chủ đề này được tổ chức tại Mỹ.
+ Ngày 4/11/1991: Việt Nam được kết nạp là thành viên thứ 156 của Tổ chức Cảnh sát quốc tế (Interpol) 12
+ Ngày 5 đến 11/11/1991: Tổng Bí thư Đỗ Mười và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng
Võ Văn Kiệt thăm chính thức Trung Quốc. Đây là một sự kiện có ý nghĩa lớn, đánh
dấu sự bình thường hóa quan hệ Việt Nam, Trung Quốc.
Thế giới quan mới về thời đại và cục diện thế giới đã mở đường, tạo điều
kiện để Việt Nam phá thế bao vây cô lập, phát triển rộng rãi quan hệ đối ngoại. Việt
Nam đã lần lượt bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc năm 1991, với Mỹ năm
1995, thúc đẩy quan hệ với các nước láng giềng, khu vực và các nước quan trọng
trên thế giới và gia nhập ASEAN năm 1995.
Như vậy, đường lối đối ngoại của Việt Nam từ Đại hội VI đến Đại hội VII đã
có chuyển biến lớn trong nhận thức; chuyển từ đường lối đối ngoại mang đậm tư
tưởng ý thức hệ sang đường lối đối ngoại coi trọng lợi ích quốc gia và tư tưởng
chính trị thực tế. Quan điểm, chủ trương đối ngoại rộng mở được đề ra từ Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, sau đó được các Nghị quyết Đại hội và Hội
nghị Trung ương từ khóa VI đến khóa VII phát triển đã hình thành đường lối đối
ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế.
2.2. Giai đoạn 1996 – 2010
* Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (Tháng 6/1996) - Bối cảnh Đại hội:
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam diễn ra
trong bối cảnh nguy cơ chiến tranh thế giới huỷ diệt bị đẩy lùi, nhưng xung đột vũ
trang, chiến tranh cục bộ, xung đột về dân tộc, sắc tộc và tôn giáo chạy đua vũ
trang, hoạt động can thiệp, lật đổ, khủng bố vẫn xảy ra ở nhiều nơi. Những năm
cuối thế kỷ XX, cách mạng khoa học và công nghệ phát triển nhanh với trình đô Ž cao
hơn trước, tăng nhanh lực lượng sản xuất, đồng thời thúc đẩy quá trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế thế giới, quốc tế hoá nền kinh tế và đời sống xã hội. Chủ nghĩa xã hô Ži
và phong trào cách mạng thế giới lâm vào thoái trào. Khủng hoảng tài chính, tiền tệ
ở các nước Đông Nam Á và châu Á lan rô Žng trong khu vực, tác đô Žng xấu đến nền
kinh tế nước ta. Công cuộc đổi mới ở nước ta đã tiến hành được 10 năm và đạt được
nhiều thành tựu quan trọng về mọi mặt, tạo được nhiều tiền đề cần thiết cho công
cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đất nước thoát khỏi khủng hoảng
kinh tế - xã hội, cải thiện một bước đời sống vật chất của đông đảo nhân dân, giữ
vững ổn định chính trị, quốc phòng, an ninh được củng cố. Tuy nhiên, Việt Nam
vẫn là nước nghèo và kém phát triển, đối diện với các nguy cơ tụt hậu, tham nhũng,
nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa.
Đại hội diễn ra từ ngày 28-6 đến 1-7-1996, tại Hội trường Ba Đình, Hà Nội.
Dự Đại hội có 1.198 đại biểu đại diện cho gần 2 triệu 130 nghìn đảng viên trong cả
nước, Đại hội đã thông qua các văn kiện chính trị quan trọng và bầu Đỗ Mười tiếp 13
tục làm Tổng Bí thư Đảng, BCH TW Đảng khoá VIII bao gồm 170 uỷ viên. Trong
sự chuyển biến của thế giới và khu vực , Đại hội VIII (1996) đã khẳng định tính
đúng đắn đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa phương hoá và đa dạng
hoá các quan hệ đối ngoại.
- Nội dung Đại hội (Tháng 6/1996):
Nhiệm vụ đối ngoại trong thời gian tới là củng cố môi trường hòa bình và tạo
điều kiện quốc tế thuận lợi hơn nữa để đẩy mạnh phát triển kinh tế- xã hội, công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội
Chủ trương “xây dựng nền kinh tế mở” và “đẩy nhanh quá trình hội nhập
kinh tế khu vực và thế giới”. Tiếp tục thực hiện chính sách đối ngoại độc lập tự chủ,
rộng mở, đa phương hóa và đa dạng hóa với tinh thần Việt Nam muốn là bạn của tất
cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển
Mở rộng quan hệ quốc tế, hợp tác nhiều mặt, song phương và đa phương với
các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ
quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau,
bình đẳng, cùng có lợi, thông qua thương lượng để tìm những giải pháp phù hợp
giải quyết các vấn đề tồn tại và các tranh chấp, đảm bảo hòa bình, ổn định an ninh, hợp tác và phát triển
Xác định rõ quan điểm đối ngoại với các nhóm đối tác: Ra sức tăng cường
quan hệ với các nước láng giềng và các nước trong tổ chức ASEAN. Cụ thể:
+ Không ngừng củng cố quan hệ với các nước bạn bè truyền thống
+ Coi trọng quan hệ với các nước phát triển và các trung tâm kinh tế- chính trị trên
thế giới, đồng thời luôn luôn nêu cao tinh thần đoàn kết anh em với các nước đang
phát triển ở Châu Âu, châu Phi, Mỹ Latinh, với phong trào không liên kết.
+ Tăng cường quan hệ với các tổ chức Liên hợp quốc và các tổ chức quốc tế khác.
Tích cực hoạt động ở các diễn đàn quốc tế, tham gia giải quyết các vấn đề toàn cầu.
Ủng hộ cuộc đấu tranh chống vũ khí hạt nhân và các phương tiện giết người hàng loạt khác.
Đặc biệt chủ trương đối ngoại của Đại hội VIII có đặc điểm mới so với
đại hội VII như sau:
 Phát triển quan hệ với các đảng cộng sản và công nhân, các lực lượng cách mạng,
độc lập dân tộc và tiến bộ; thiết lập và mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền và các đảng khác. 14
 Quán triệt yêu cầu mở rộng quan hệ đối ngoại nhân dân, quan hệ với các tổ chức phi
chính phủ, tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ rộng rãi của nhân dân các nước, góp
phần thúc đẩy xu thế hoà bình, hợp tác, phát triển.
 Lần đầu tiên, trên lĩnh vực kinh tế đối ngoại, Đảng đưa ra chủ trương: “Thử nghiệm
để tiến tới thực hiện đầu tư ra nước ngoài”
Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương, khóa VIII (12- 1997) chỉ rõ:
+ Thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách thu hút các nguồn lực bên ngoài, coi các
doanh nghiệp được nước ngoài đầu tư vào nước ta là một bộ phận của nền kinh tế
nước ta, nhưng phải có cơ chế quản lý chặt chẽ.
Mở rộng nhiều hình thức thu hút đầu tư nước ngoài, chủ yếu là đầu tư trực
tiếp ( tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước hợp tác, liên doanh với nước
ngoài); áp dụng từng bước và có mức độ các hình thức các hình thức đầu tư gián
tiếp ( nước ngoài góp cổ phần, mua cổ phiếu của các cơ sở trong nước). Khuyến
khích mạnh mẽ việc thu hút đầu tư nước ngoài vào các ngành công nghiệp chế biến
xuất khẩu và công nghệ cao, công nghiệp cơ khí, điện tử những ngành ta có thế
mạnh về nguyên liệu và lao động, nhanh chóng phát triển các ngành công nghiệp
chế biến ngang tầm quốc tế. Chú trọng thu hút các nhà đầu tư có tiềm năng lớn về
tài chính và nắm công nghệ nguồn, không chỉ nhằm vào những dự án lớn mà phải
chú ý cả những dự án vừa và nhỏ nhưng công nghệ hiện đại
Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, đơn giản hóa thủ tục hành chính, từng
bước tạo ra mặt bằng pháp luật và áp dụng thống nhất chính sách thuế, các loại giá
cả dịch vụ đối với nhà đầu tư trong và ngoài nước. Bổ sung các chính sách ưu đãi
thiết thực, có sức hấp dẫn cao, nhất là đối với các vùng và ngành cần dành ưu tiên
như giảm giá thuê đất, giảm thuế thu nhập đối với các chuyên gia và nhà quản lý
nước ngoài đến làm việc tại Việt Nam.. Mở rộng đến đâu cần quản lý chặt chẽ đến đó.
+ Tích cực và chủ động thâm nhập và mở rộng thị trường quốc tế
Đề ra chủ trương tiến hành khẩn trương, vững chắc việc đàm phán Hiệp định
Thương mại Mỹ, Gia nhập APEC và WTO. Giữ vững và mở rộng thị trường đã tạo
lập được với các nước trong khu vực và cộng đồng châu Âu, khôi phục thị trường
Nga và các nước Đông Âu, phát triển quan hệ thương mại chính ngạch với Trung
Quốc, tăng cường quan hệ buôn bán , hợp tác Ấn Độ, mở rộng thị trường Mỹ, tìm
thị trường mới ở Trung Cận Đông, châu Phi, Mỹ Latinh. Chú trọng đa phương hóa
quan hệ thương mại, giảm sự tập trung cao vào một vài loại đối tác và việc mua bán qua thị trường trung gian 15
Tuy nhiên, nền kinh tế phát triển chưa vững chắc, hiệu quả và sức cạnh tranh
thấp. Chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế bình quân trong 5 năm mà Đại hô Ži VIII đề ra là 9-
10% đã không đạt. Các nguy cơ mà Hô Ži nghị giữa nhiệm kỳ của Đảng (1-1994) đã
nêu ra vẫn là những thách thức lớn của cách mạng nước ta. - Nội dung Đại hội:
Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương
hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế với phương châm: “Việt Nam sẵn sàng là bạn,
là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”.
Nhiệm vụ đối ngoại là tiếp tục giữ vững môi trường hòa bình và tạo các điều
kiện quốc tế thuận lợi để đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm độc lập và chủ quyền quốc
gia, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì
hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Mở rộng quan hệ với các nước và vùng lãnh thổ, các trung tâm chính trị,
kinh tế quốc tế lớn, các tổ chức quốc tế và khu vực theo các nguyên tắc tôn trọng
độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của
nhau, không dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực; bình đẳng và cùng có lợi; giải
quyết các bất đồng và tranh chấp bằng thương lượng hòa bình; phản đối mọi âm
mưu và hành động gây sức ép, áp đặt và cường quyền.
Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực
Nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã
hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, giữ vững an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc
văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường.
Ngoài ra, Đại hội còn đưa ra chủ trương: Xây dựng quan hệ đối tác. “Chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực,
nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế bảo đảm độc lập, tự chủ và định hướng xã hội
chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc; an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc,
bảo vệ môi trường”. => Đây là sự đánh dấu bước phát triển về chất trong tiến trình
quan hệ quốc tế của Đảng ở thời kỳ đổi mới.
Coi trọng và phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước xã hội chủ
nghĩa và các nước láng giềng. Nâng cao hiệu quả và chất lượng hợp tác với các
nước ASEAN. Tiếp tục mở rộng quan hệ với các nước bạn bè truyền thống, các
nước độc lập dân tộc, các nước đang phát triển ở châu Á, châu Phi, Trung Đông và
Mỹ Latinh, các nước trong Phong trào Không liên kết. Thúc đẩy quan hệ đa dạng
với các nước phát triển và các tổ chức quốc tế. 17
Tích cực tham gia giải quyết các vấn đề toàn cầu. Ủng hộ và cùng nhân dân
thế giới đấu tranh bảo vệ hòa bình, chống nguy cơ chiến tranh và chạy đua vũ trang;
góp phần xây dựng trật tự chính trị, kinh tế quốc tế dân chủ, công bằng.
Củng cố và tăng cường quan hệ đoàn kết và hợp tác với các đảng cộng sản
và công nhân, với các đảng cánh tả, các phong trào giải phóng và độc lập dân tộc,
với các phong trào cách mạng và tiến bộ trên thế giới.
Mở rộng hơn nữa công tác đối ngoại nhân dân, tăng cường quan hệ song
phương và đa phương với các tổ chức nhân dân các nước, nâng cao hiệu quả hợp tác
với các tổ chức phi chính phủ quốc gia và quốc tế.
Tăng cường và nâng cao hiệu quả của công tác thông tin đối ngoại và văn
hóa đối ngoại. Bồi dưỡng, rèn luyện bản lĩnh chính trị, năng lực, đạo đức, phẩm
chất của đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại, kể cả kinh tế đối ngoại. Hoàn thiện
cơ chế quản lý thống nhất các hoạt động đối ngoại, tạo thành sức mạnh tổng hợp,
nâng cao hiệu quả của công tác đối ngoại.
Tháng 11/2001, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết riêng về hội nhập kinh tế quốc tế.
Nghị quyết đề ra 9 nhiệm vụ cụ thể và 6 biện pháp tổ chức thực hiện
Hội nghị Trung ương 8, khóa IX (tháng 7/2003) đã ra Nghị quyết về chiến
lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới nhằm đánh giá toàn diện, sâu sắc cục diện
thế giới, khu vực từ 1991 đến nay; chỉ ra một cách có hệ thống những thành tựu, bài
học kinh nghiệm về đối ngoại. Đây là một mốc hết sức quan trọng trong nhận thức,
định hướng cho chính sách đối ngoại và hoạt động quốc tế của Đảng và Nhà nước ta trong thời gian tới.
Hội nghị lần thứ 9 ban chấp hành Trung ương khóa IX ( 5-1-2004) nhấn
mạnh yêu cầu: chủ động và khẩn trương hơn trong hội nhập kinh tế quốc tế, chuẩn
bị tốt các điều kiện trong nước để thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế đa phương,
song phương và sớm gia nhập WTO, tạo môi trường đầu tư, kinh doanh bình đẳng,
minh bạch, ổn định, thông thoáng, có tính cạnh tranh cao so với khu vực; thu hút
mạnh đầu tư nước ngoài.
* Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (2006) - Bối cảnh Đại hội:
Kinh tế thế giới và khu vực tiếp tục phục hồi và phát triển nhưng tiềm ẩn
những yếu tố khó lường. Toàn cầu hoá kinh tế tạo ra cơ hô Ži phát triển nhưng chứa
đựng nhiều yếu tố gây khó khăn, thách thức lớn, nhất là với các quốc gia đang phát
triển. Chiến tranh cục bô Ž, xung đô Žt vũ trang, hoạt đô Žng can thiệp, khủng bố, tranh
chấp biên giới, lãnh thổ, biển đảo… tiếp tục diễn ra ở nhiều nơi. Nhiều vấn đề toàn
cầu bức xúc đòi hỏi các quốc gia và các tổ chức quốc tế phối hợp cùng giải quyết. 18
Khu vực châu Á-Thái Bình Dương, Đông Nam Á tiếp tục phát triển nhưng tiềm ẩn
những nhân tố gây mất ổn định.
Sau 20 năm đổi mới, Việt Nam đạt được nhiều thành tựu to lớn có ý nghĩa
lịch sử. Đất nước thay đổi toàn diện với thế và lực, uy tín quốc tế tăng lên nhiều.
Tuy nhiên, các nguy cơ mà Hô Ži nghị giữa nhiệm kỳ của Đảng đã xác định vẫn là những thách thức lớn.
- Nội dung Đại hội (Tháng 6/2006) đã khẳng định:
+ Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình hợp tác và phát
triển; chính sách đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế.
+ Đồng thời đề ra chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế”.
+ Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế là hoàn toàn chủ động quyết định đường
lối,chính sách phát triển kinh tế – xã hội nói chung, chủ trương, chính sách hội nhập
kinh tế quốc tế nói riêng, phân tích lực chọn phương án hành động đúng, dự báo
được tình huống thuận lợi và khó khăn khi hội nhập kinh tế quốc tế.
+ Tích cực hội nhập kinh tế quốc tế là khẩn trương chuẩn bị, điều chỉnh, đổi mới
bên trong, từ phương thức lãnh đạo, khẩn trương xây dựng lộ trình, kế hoạch, đẩy
mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới cơ chế quản lý, hoàn chỉnh hệ thống pháp
luật; nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và nền kinh tế; tích cực nhưng
phải thận trọng, vững chắc.
+ Đưa các quan hệ quốc tế đã được thiết lập vào chiều sâu, ổn định, bền vững. Phát
triển quan hệ với tất cả các nước, các vùng lãnh thổ trên thế giới và các tổ chức
quốc tế theo các nguyên tắc: tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ,
không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; không dùng vũ lực hoặc đe dọa
dùng vũ lực; giải quyết các bất đồng và tranh chấp thông qua thương lượng hòa
bình; tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng và cùng có lợi.
+ Phát triển công tác đối ngoại nhân dân theo phương châm "chủ động, linh hoạt,
sáng tạo và hiệu quả". Tích cực tham gia các diễn đàn và hoạt động của nhân dân
thế giới. Tăng cường vận động viện trợ và nâng cao hiệu quả hợp tác với các tổ
chức phi chính phủ nước ngoài để phát triển kinh tế - xã hội.
+ Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình, phù hợp với chiến
lược phát triển đất nước từ nay đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020. Chuẩn bị
tốt các điều kiện để ký kết các hiệp định thương mại tự do song phương và đa
phương. Thúc đẩy quan hệ hợp tác toàn diện và có hiệu quả với các nước ASEAN,
các nước châu Á - Thái Bình Dương... Củng cố và phát triển quan hệ hợp tác song
phương tin cậy với các đối tác chiến lược; khai thác có hiệu quả các cơ hội và giảm
tối đa những thách thức, rủi ro khi nước ta là thành viên Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). 19
mại và đầu tư, mở rộng thị trường, khai thác hiệu quả các cơ chế hợp tác quốc tế,
các nguồn lực về vốn, khoa học - công nghệ, trình độ quản lý tiên tiến.
Tham gia các cơ chế hợp tác chính trị, an ninh song phương và đa phương vì
lợi ích quốc gia trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế,
Hiến chương Liên hợp quốc. Thực hiện tốt công việc tại các tổ chức quốc tế, đặc
biệt là Liên hợp quốc. Tích cực hợp tác cùng các nước, các tổ chức khu vực và quốc
tế trong việc đối phó với những thách thức an ninh phi truyền thống, và nhất là tình
trạng biến đổi khí hậu; sẵn sàng đối thoại với các nước, các tổ chức quốc tế và khu
vực có liên quan về vấn đề dân chủ, nhân quyền; chủ động, kiên quyết đấu tranh,
làm thất bại mọi âm mưu, hành động can thiệp vào công việc nội bộ, xâm phạm độc
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia và ổn định chính trị của Việt Nam.
Thúc đẩy giải quyết các vấn đề còn tồn tại về biên giới, lãnh thổ. Củng cố,
phát triển quan hệ hợp tác, hữu nghị truyền thống với các nước láng giềng có chung
biên giới. Phấn đấu cùng các nước ASEAN xây dựng Đông Nam Á thành khu vực
hoà bình, ổn định, hợp tác và phát triển phồn vinh.
Phát triển quan hệ với các đảng cộng sản, công nhân, đảng cánh tả, các đảng
cầm quyền và những đảng khác trên cơ sở bảo đảm lợi ích quốc gia, giữ vững độc
lập, tự chủ, vì hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển (so với Đại hội X có bổ
sung quan hệ với “những đảng khác” vì trên thực tế những năm qua, chúng ta đã có
quan hệ với một số đảng khác, nhưng trên cơ sở bảo đảm lợi ích quốc gia, giữ vững
độc lập, tự chủ, vì hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển).
Bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung của Nhà
nước đối với các hoạt động đối ngoại. Phối hợp chặt chẽ hoạt động đối ngoại của
Đảng, ngoại giao Nhà nước và ngoại giao nhân dân; giữa ngoại giao chính trị với
ngoại giao kinh tế và ngoại giao văn hoá; giữa đối ngoại với quốc phòng, an ninh.
Kế thừa đường lối đối ngoại của 25 năm Đổi mới, đường lối đối ngoại
Đại hội XI có những bổ sung, phát triển phù hợp với tình hình mới, thể hiện ở
những nội dung chính dưới đây:

Thứ nhất, lần đầu tiên, mục tiêu đối ngoại “vì lợi ích quốc gia, dân tộc” được
nêu rõ trong phần đối ngoại của Cương lĩnh và Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng.
Thứ hai, phát triển chủ
trương “là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng
đồng quốc tế” lên thành “là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong
cộng đồng quốc tế”. Từ đường lối đối ngoại trên cơ sở tuyên bố “muốn là bạn” (Đại
hội Đảng lần thứ VII), “sẵn sàng là bạn” (Đại hội Đảng lần thứ VIII), “là bạn và đối
tác tin cậy” (Đại hội Đảng lần thứ IX), Đại hội Đảng lần thứ XI hoàn chỉnh và bổ 21
sung thêm cụm từ là “thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”. Nội hàm
này thể hiện bước trưởng thành của ngoại giao Việt Nam với sự tham gia ngày càng
tích cực, chủ động, có trách nhiệm của nước ta tại các cơ chế/tổ chức/diễn đàn khu
vực, đa phương và toàn cầu (ngoại giao đa phương), góp phần củng cố, nâng cao vị
thế của Việt Nam trên trường quốc tế, bổ sung, hỗ trợ hiệu quả cho ngoại giao song
phương. Nội hàm mới này là một trong những cơ sở để xác định một trong những
ưu tiên đối ngoại trong thời gian tới là “xây dựng Cộng đồng ASEAN vững mạnh”
Thứ ba, Đại hội XI chuyển từ chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập kinh
tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực khác” được thông
qua tại Đại hội X sang “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế” . Với chủ trương
này, hội nhập quốc tế không còn bó hẹp trong lĩnh vực kinh tế mà mở rộng ra tất cả
các lĩnh vực khác, kể cả chính trị, quốc phòng, an ninh và văn hóa-xã hội....
Với những phát triển mới trong đường lối đối ngoại Đại hội XI, chúng ta càng tin
tưởng chắc chắn rằng, sự nghiệp đối ngoại dưới sự lãnh đạo của Đảng sẽ tiếp tục
thu được những thắng lợi mới. Tuy nhiên, để đường lối sớm đi vào cuộc sống, cần
phải có nỗ lực vượt bậc trong tất cả các khâu, từ cụ thể hóa đường lối thành chính
sách đến xây dựng và triển khai chiến lược, kế hoạch, đề án đối ngoại.
* Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng (2016) - Bối cảnh Đại hội:
Trên thế giới: Trong những năm tới tình hình sẽ còn nhiều diễn biến rất phức
tạp, nhưng hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế
lớn. Quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục được đẩy mạnh. Hợp tác,
cạnh tranh, đấu tranh và sự tùy thuộc lẫn nhau giữa các nước, nhất là giữa các nước
lớn ngày càng tăng. Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, đặc biệt là công nghệ
thông tin tiếp tục phát triển mạnh mẽ, thúc đẩy sự phát triển nhảy vọt trên nhiều lĩnh
vực, tạo ra cả thời cơ và thách thức đối với mọi quốc gia.
Ở trong nước, thế và lực, sức mạnh tổng hợp của đất nước tăng lên, uy tín
quốc tế của đất nước ngày càng được nâng cao, tạo ra những tiền đề quan trọng để
thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Kinh tế từng bước ra khỏi tình
trạng suy giảm, lấy lại đà tăng trưởng, nhưng vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức.
Kinh tế vĩ mô ổn định chưa vững chắc; nợ công tăng nhanh, nợ xấu đang giảm dần
nhưng còn ở mức cao, năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh kinh tế thấp.
Tình hình thế giới và trong nước có cả thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách
thức đan xen; đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới to lớn, phức tạp hơn đối với sự
nghiệp đổi mới, phát triển đất nước và bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn 22
định thương mại tự do thế hệ mới trong một kế hoạch tổng thể với lộ trình hợp lý,
phù hợp với lợi ích của đất nước. Đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối
tác, nhất là các đối tác chiến lược và các nước lớn có vai trò quan trọng đối với phát
triển và an ninh của đất nước, đưa khuôn khổ quan hệ đã xác lập vào thực chất. Chủ
động tham gia và phát huy vai trò tại các cơ chế đa phương, đặc biệt là ASEAN và
Liên hợp quốc. Chủ động, tích cực tham gia các cơ chế đa phương về quốc phòng,
an ninh, trong đó có việc tham gia các hoạt động hợp tác ở mức cao hơn như hoạt
động gìn giữ hoà bình của Liên hợp quốc, diễn tập về an ninh phi truyền thống và
các hoạt động khác. Đẩy mạnh hội nhập quốc tế trong lĩnh vực văn hóa, xã hội,
khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo và các lĩnh vực khác.
Tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo chiến lược, tham mưu về đối ngoại;
đổi mới nội dung, phương pháp, nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền đối ngoại;
chăm lo đào tạo, rèn luyện đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại; bồi dưỡng kiến
thức đối ngoại cho cán bộ chủ chốt các cấp.
Bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung của Nhà
nước đối với các hoạt động đối ngoại. Phối hợp chặt chẽ hoạt động đối ngoại của
Đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân; giữa ngoại giao chính trị với
ngoại giao kinh tế và ngoại giao văn hóa; giữa đối ngoại với quốc phòng, an ninh.
Những điểm mới trong Văn kiện Đại hội XII đã góp phần khẳng định vị
thế và vai trò chủ công, là tuyến đầu của công tác đối ngoại trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
Thứ nhất, lần đầu tiên nhiệm vụ đối ngoại nằm trong các thành tố của chủ đề
Đại hội. Đó là So với Đại hội XI, Đại hội XII đã bổ sung vào chủ đề nội dung “bảo
vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định” để nhấn mạnh tầm
quan trọng của công tác đối ngoại trong tổng thể đường lối phát triển đất nước và
đồng thời nêu rõ hai nhiệm vụ quan trọng nhất của đối ngoại là bảo vệ Tổ quốc và
giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để triển khai các nhiệm vụ xây dựng đất
nước trong 5 năm tới và các năm tiếp theo.
Thứ hai, Văn kiện Đại hội XII làm rõ hơn và phát triển mục tiêu đối ngoại
“vì lợi ích quốc gia, dân tộc” được nêu trong Văn kiện Đại hội XI thành “Bảo đảm
lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp
quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi.”
Thứ ba, Văn kiện lần đầu tiên nêu rõ: “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ
vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ
Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa.” Điều đó có nghĩa là lần đầu
tiên Đảng ta cụ thể hóa nội hàm của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
Đặc biệt, văn kiện Đại hội XII đã nhấn mạnh yêu cầu phát triển công tác đối
ngoại đa phương, đặt ra yêu cầu mới: công tác đối ngoại đa phương không chỉ phải 24
chuyển mạnh từ “tham dự” sang “chủ động tham gia,” nhất là vào quá trình xây
dựng và định hình các quy tắc và luật lệ mới, mà còn phải phát huy vai trò của Việt
Nam tại các cơ chế đa phương. Định hướng này cũng chỉ rõ các cơ chế đa phương
được ưu tiên trong 5 năm tới là ASEAN và Liên hợp quốc.
⇒ Đại hội XII của Đảng là Đại hội “Đoàn kết-Dân chủ-Kỷ cương-Đổi mới”, tăng
cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; phát huy sức mạnh toàn dân tộc, dân
chủ xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; bảo vệ vững
chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu sớm đưa nước ta cơ
bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
* Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng (2021) - Bối cảnh Đại hội:
Tình hình thế giới: Trên thế giới, tình hình tiếp tục diễn biến hết sức nhanh
chóng, phức tạp, khó lường. Hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, song
đang đứng trước nhiều trở ngại, khó khăn; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn,
xung đột cục bộ tiếp tục diễn ra dưới nhiều hình thức, phức tạp và quyết liệt hơn,
làm gia tăng rủi ro đối với môi trường chính trị, an ninh quốc tế. Thế giới lâm vào
khủng hoảng, suy thoái nghiêm trọng về mọi mặt do tác động của đại dịch Covid-
19. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhất là công nghệ số phát triển mạnh
mẽ, tạo đột phá trên nhiều lĩnh vực, tạo ra cả thời cơ và thách thức đối với mọi quốc gia, dân tộc.
Ở trong nước, sau 35 năm đổi mới, thế và lực, sức mạnh tổng hợp quốc gia,
uy tín quốc tế của đất nước ngày càng được nâng cao, tạo ra những tiền đề quan
trọng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Năm năm tới, Việt Nam hội nhập quốc tế sâu, rộng hơn sẽ phải thực hiện đầy
đủ, hiệu quả các cam kết khi tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới.
Nền kinh tế phát triển chưa bền vững, còn nhiều hạn chế, yếu kém, đứng trước
nhiều khó khăn, thách thức mới do tác động của đại dịch Covid-19 và khủng hoảng
kinh tế toàn cầu gây ra. Xu hướng già hoá dân số nhanh; tốc độ công nghiệp hoá, đô
thị hoá tăng mạnh; biến đổi khí hậu gay gắt, phức tạp... ngày càng tác động mạnh
đến sự phát triển của đất nước.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam chính
thức khai mạc sáng ngày 26/01/2021, tại Trung tâm Hội nghị quốc gia, Thủ đô Hà Nội. - Nội dung Đại hội:
Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị,
hợp tác và phát triển, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ đối ngoại. Bảo đảm trên
hết và trước hết lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật 25
các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình
đẳng, hợp tác, cùng có lợi”.
Thứ tư: So với Văn kiện đại hội XII, chủ trương xây dựng nền ngoại giao
trong Văn kiện Đại hội XIII được đánh giá là bước tiến mới có tính đột phá khi
khẳng định: “Xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại với ba trụ cột là đối ngoại
đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân”.Đồng thời, nếu Văn kiện XII mới
chỉ đặt ra yêu cầu: “Chăm lo đào tạo, rèn luyện đội ngũ cán bộ làm công tác đối
ngoại; bồi dưỡng kiến thức đối ngoại cho cán bộ chủ chốt các cấp” thì Văn kiện Đại
hội XIII đã đặt ra yêu cầu cao hơn và cụ thể hơn: “Nâng cao bản lĩnh, phẩm chất,
năng lực, phong cách chuyên nghiệp, đổi mới sáng tạo của đội ngũ cán bộ làm công
tác đối ngoại và hội nhập quốc tế”.
Thứ năm: Văn kiện Đại hội XIII bổ sung nội dung “toàn diện, sâu rộng”
trong quá trình hội nhập quốc tế so với Văn kiện Đại hội XII khi nhấn mạnh: “Thúc
đẩy hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, linh hoạt, hiệu quả vì lợi ích quốc gia –
dân tộc, bảo đảm độc lập, tự chủ, chủ quyền quốc gia”.Bên cạnh đó, để nâng cao
hơn nữa tính chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, Đại hội XIII nêu rõ: “Tích cực
triển khai các cam kết khu vực và quốc tế, lồng ghép với các chiến lược, chính sách,
kế hoạch và chương trình phát triển kinh tế - xã hội. Chủ động tham gia, tích cực
đóng góp, nâng cao vai trò của Việt Nam trong xây dựng, định hình các thể chế đa
phương và trật tự chính trị - kinh tế quốc tế, thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế và
các hiệp định thương mại đã ký kết”.
Thứ sáu, trong văn kiện Đại hội XIII cũng nhấn mạnh việc xây dựng nền
ngoại giao toàn diện và hiện đại. Đây là một điểm rất mới trong văn kiện Đại hội
lần này. Ngoại giao toàn diện dựa trên ba trụ cột: đối ngoại Đảng, Ngoại giao Nhà
nước và đối ngoại nhân dân và nhấn mạnh đến sự phối hợp nhuần nhuyễn giữa ba
trụ cột đó. Toàn diện không chỉ là về chủ thể đó mà toàn diện cả về hình thức và
lĩnh vực, ví dụ như ngoại giao kinh tế, ngoại giao chính trị, ngoại giao văn hóa và cả
về đối tượng thúc đẩy quan hệ. Tính hiện đại của ngoại giao thể hiện là mong muốn
nâng tầm tính hiện đại ngoại giao về phương thức triển khai và bộ máy, kể cả con
người làm công tác đối ngoại.
⇒ Như vậy, những điểm mới trên chính là sự phát triển lý luận của Đảng ta về hoạt
động đối ngoại và hội nhập quốc tế trước bối cảnh mới của tình hình thế giới, khu
vực và trước những yêu cầu, nhiệm vụ mới đặt ra trong nước.
Chương 3: Đánh giá việc thực hiện đổi mới trong hội nhập quốc tế
3.1. Đánh giá việc thực hiện 28
3.1.1. Kết quả đạt được
Trải qua gần 30 năm thực hiện đường lối đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã
hội, kể từ Ðại hội VI (năm 1986), và hơn 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) đến nay, Việt Nam
đã thu được những thành tựu to lớn, hết sức quan trọng. Thực hiện đường lối đổi
mới, với mô hình kinh tế tổng quát là xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, đất nước ta đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo được
những tiền đề cần thiết để chuyển sang thời kỳ phát triển mới - thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa. * Về kinh tế:
Giai đoạn 1986- 2010:Thực hiện đường lối đổi mới, đất nước ra khỏi khủng hoảng,
kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng nhanh

Giai đoạn 1986 – 1995: phá thế bao vây cấm vận, đưa đất nước ra khỏi
khủng hoảng: chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hóa cơ bản hoàn thành, chuyển sang
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Nhà nước chủ trương phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành
theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế dần dần khắc phục
được những yếu kém và có những bước phát triển, tốc độ tăng trưởng đạt tương đối
cao, liên tục và toàn diện, hầu hết các chỉ tiêu chủ yếu đều vượt mức: GDP bình
quân tăng 8,2%/năm; giá trị sản xuất công nghiệp tăng 13,3%/năm; nông nghiệp
tăng 4,5%/năm; lĩnh vực dịch vụ tăng 12%/năm; tổng sản lượng lương thực 5 năm
(1991 - 1995) đạt 125,4 triệu tấn, tăng 27% so với giai đoạn 1986 – 1990. Hầu hết
các lĩnh vực kinh tế đều đạt nhịp độ tăng trưởng tương đối khá.
Giai đoạn 1996 – 2010: Đây là giai đoạn đánh dấu bước phát triển quan
trọng của kinh tế thời kỳ mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Mặc dù cùng chịu tác động của khủng hoảng tài chính - kinh tế khu vực và thiên tai
nghiêm trọng xảy ra liên tiếp, đặt nền kinh tế nước ta trước những thử thách khốc
liệt, tuy nhiên, Việt Nam vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng khá nhờ vào việc triển
khai có hiệu quả Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 và Kế hoạch 5
năm 2001 - 2005 tại Đại hội IX của Đảng.
Kết quả là GDP bình quân của cả giai đoạn 1996 - 2010 đạt 7%; trong đó,
nông, lâm, ngư nghiệp phát triển liên tục, đặc biệt là sản xuất lương thực. Giá trị sản
xuất công nghiệp bình quân hằng năm tăng 13.5%; các ngành dịch vụ, xuất khẩu và
nhập khẩu đều phát triển. Nước ta đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, từ nhóm
nước thu nhập thấp đã trở thành nước có thu nhập trung bình (thấp). Hơn nữa còn
thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam rất cao. Tổng vốn FDI thực hiện đạt
gần 45 tỷ USD, vượt 77% so với kế hoạch đề ra. 29
⇒ Nhìn chung, các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế đều có bước phát triển khá,
trong đó sự phát triển ổn định trong ngành nông nghiệp, nhất là sản xuất lương thực
đã bảo đảm an ninh lương thực quốc gia; sản phẩm công nghiệp phát triển ngày
càng đa dạng và phong phú về chủng loại, chất lượng được cải thiện, từng bước
nâng cao khả năng cạnh tranh, bảo đảm cung cầu của nền kinh tế, giữ vững thị
trường trong nước và mở rộng thị trường xuất khẩu; chú trọng đầu tư phát triển một
số ngành công nghiệp mới, công nghệ cao; khu vực dịch vụ có tốc độ tăng trưởng ổn định.
Giai đoạn 2011-nay: Đưa quan hệ đi vào chiều sâu và hội nhập quốc tế toàn diện.
Trong giai đoạn 2011-2019, GDP tăng 6,3%/năm, trong đó năm 2018 tăng
7,08% và là mức tăng cao nhất kể từ năm 2008. GDP bình quân đầu người năm
2019 đạt 2.715 USD, gấp 15 lần năm 1990; thu nhập bình quân đầu người 1 tháng
đạt 4.294,5 nghìn đồng, gấp 12 lần năm 2002. Chất lượng tăng trưởng kinh tế dần
dịch chuyển sang chiều sâu, thể hiện ở mức đóng góp của năng suất các nhân tố
tổng hợp (TFP) trong tăng trưởng kinh tế ngày một lớn. Năng suất lao động (NSLĐ)
ngày càng được cải thiện đáng kể.
Trong giai đoạn 2016-2019, NSLĐ toàn nền kinh tế tăng 5,86%/năm, cao
hơn tốc độ 4,35%/năm của giai đoạn 2011-2015. Cơ cấu kinh tế nước ta đã bước
đầu chuyển dịch theo hướng hiện đại. Tỷ trọng các ngành, trình độ công nghệ sản
xuất, cơ cấu lao động đã chuyển dịch theo hướng tích cực; tỷ trọng lao động qua
đào tạo của các ngành kinh tế đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu phát triển kinh tế
– xã hội và hội nhập quốc tế.
Hoạt động kinh tế đối ngoại phát triển toàn diện và sâu rộng, đưa nước ta hội
nhập ngày càng đầy đủ với kinh tế khu vực và thế giới. Tổng mức lưu chuyển hàng
hóa ngoại thương thực hiện trong giai đoạn 2011-2019 đạt 3.100,3 tỷ USD, gấp 20,2
lần giai đoạn 1991-2000 và gấp 3,6 lần giai đoạn 2001-2010. Tỷ lệ tổng kim ngạch
xuất nhập khẩu so với GDP từ 112,5% năm 2000 tăng lên 142,2% năm 2005;
152,2% năm 2010 và 210,4% vào năm 2019. Điều này cho thấy nền kinh tế nước ta
có độ mở ngày càng cao và tăng lên tương đối nhanh, nước ta đã khai thác được thế
mạnh của kinh tế trong nước và tranh thủ được thị trường thế giới. Kể từ khi thực
hiện Luật Đầu tư nước ngoài từ năm 1988, thu hút đầu tư nước ngoài vào nước ta đã
đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ. Năm 2019, số dự án đầu tư trực tiếp nước
ngoài đạt 4.028 dự án với tổng số vốn đăng ký đạt 38.951,7 triệu USD, tương ứng
gấp 19,1 lần và 24,3 lần so với giai đoạn 1988-1990. Đầu tư trực tiếp nước ngoài trở
thành kênh huy động vốn quan trọng cho sự phát triển kinh tế- xã hội, có tác dụng
to lớn trong việc thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, tạo thêm nhiều việc làm, nâng cao năng lực quản lý và trình độ
công nghệ cho nền kinh tế. Đặc biệt, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã thúc 30
đẩy việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại giữa nước ta với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Vị thế của Việt Nam thay đổi đáng kể trên thế giới và trong khu vực ASEAN.
Năm 2019, Việt Nam đứng thứ 8 thế giới và thứ 2 trong khu vực ASEAN về tốc độ
tăng trưởng GDP; là một trong 30 nước có mức tăng trưởng xuất, nhập khẩu cao và
là nền kinh tế có quy mô xuất khẩu thứ 22 trên thế giới. Việt Nam đã vượt trên các
quốc gia trong khu vực Đông Nam Á về thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài,
xếp hạng thứ 25 thế giới về hấp dẫn vốn FDI. Chỉ số Năng lực cạnh tranh toàn cầu
(GCI) của Việt Nam năm 2019 tăng lên 10 bậc so với năm trước, xếp thứ 67 trong
số 141 quốc gia và vùng lãnh thổ; chỉ số HDI xếp hạng 117 trong số 177 quốc gia,
vùng lãnh thổ. Ở khía cạnh ngoại giao kinh tế, đến nay đã có trên 70 nước công
nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường. Trong nhiều năm qua, Việt Nam tham gia
tích cực vào việc đàm phán cũng như ký kết, phê chuẩn các Hiệp định thương mại
tự do (FTA) với 16 FTA song phương và đa phương. Đặc biệt, ngày 30/3/2020,
Nghị viện châu Âu đã thông qua FTA giữa EU và Việt Nam (EVFTA) và Quốc hội
nước ta phê chuẩn Hiệp định này vào ngày 08/6/2020. Điều này không chỉ góp phần
thúc đẩy thương mại và đầu tư cho nền kinh tế Việt Nam, mà còn thể hiện sự chủ
động của Việt Nam trong việc hình thành hệ thống thương mại quốc tế. Tính đến
nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 189 quốc gia trên thế giới.
Giai đoạn 2020- nay được xem là năm lịch sử, đầy biến động và “sóng gió”,
có thể thấy rằng, kinh tế thế giới và liên kết kinh tế quốc tế diễn biến phức tạp,
nhiều rủi ro, đan xen giữa các mảng màu “sáng”, “tối”. Kinh tế thế giới suy thoái
nặng nề, thương mại toàn cầu sụt giảm nghiêm trọng, hầu hết các trung tâm kinh tế
tăng trưởng âm. Tất nhiên, Việt Nam cũng không nằm ngoài sự ảnh hưởng nghiêm
trọng từ đại dịch Covid-19 này. Tăng trưởng âm của một số ngành dịch vụ chiếm tỷ
trọng lớn đã làm giảm mức tăng chung của khu vực dịch vụ và toàn bộ nền kinh tế.
Ngành bán buôn, bán lẻ giảm 0,21% so với năm trước, làm giảm 0,02 điểm phần
trăm trong tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế; ngành vận tải kho
bãi giảm 5,02%, làm giảm 0,3 điểm phần trăm; ngành dịch vụ lưu trú và ăn uống
giảm mạnh 20,81%, làm giảm 0,51 điểm phần trăm. Đi kèm với những thách thức
đó, Đảng và nhà nước ta cũng không ngừng đưa thực hiện các phương châm thích
ứng an toàn, linh hoạt kiểm soát hiệu quả dịch bệnh nên dù trong bối cảnh khó khăn
đó, nền kinh tế Việt Nam vẫn có những “điểm sáng” rất cơ bản tính đến cuối năm 2021:
+ Ngành y tế và hoạt động trợ giúp xã hội đạt tốc độ tăng cao nhất trong khu vực
dịch vụ với mức tăng 42,75%, đóng góp 0,55 điểm phần trăm; hoạt động tài chính,
ngân hàng và bảo hiểm tăng 9,42%, đóng góp 0,52 điểm phần trăm; ngành thông tin
và truyền thông tăng 5,97%, đóng góp 0,36 điểm phần trăm. 31
+ Năng suất lao động của toàn nền kinh tế theo giá hiện hành năm 2021 ước tính đạt
171,3 triệu đồng/lao động (tương đương 7.398 USD/lao động, tăng 538 USD so với
năm 2020). Theo giá so sánh, năng suất lao động năm 2021 tăng 4,71% do trình độ
của người lao động được cải thiện (tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng, chứng chỉ
năm 2021 đạt 26,1%, cao hơn mức 25,3% của năm 2020).
+ Năm 2021, kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam đã đạt mức kỷ lục mới, với
tổng giá trị 668,5 tỷ USD, tăng 22,6% so với năm 2020, trong đó kim ngạch xuất
khẩu hàng hóa ước đạt 336,25 tỷ USD (tăng 19% so với năm 2020), kim ngạch
nhập khẩu hàng hóa ước đạt 332,25 tỷ USD (tăng 26,5% so với năm 2020), tiếp tục
là điểm sáng trong bức tranh kinh tế Việt Nam. Cùng với việc tháng 12, ước xuất
siêu đạt 1,5 tỷ USD, đã giúp cho kim ngạch ngoại thương của Việt Nam trong năm
2021 có sự đảo chiều ngoạn mục, xuất siêu cả năm ước đạt 4 tỷ USD. Điểm sáng
của ngoại thương năm 2021 là kết quả của sự nỗ lực của các doanh nghiệp trong bối
cảnh đại dịch, đồng thời cũng là kết quả của sự nắm bắt thời cơ từ các Hiệp định
thương mại (FTA) được các doanh nghiệp Việt Nam tận dụng có hiệu quả.
Cơ cấu kinh tế chuyển biến tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
gắn với sản xuất thị trường

Về cơ cấu kinh tế tiếp tục được chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP giảm dần, cơ cấu trồng trọt và chăn
nuôi đã chuyển dịch theo hướng tiến bộ, tăng tỷ trọng các sản phẩm có năng suất và
hiệu quả kinh tế cao, các sản phẩm có giá trị xuất khẩu. Tỷ trọng công nghiệp và
xây dựng tăng nhanh và liên tục với thiết bị, công nghệ ngày càng hiện đại. Tỷ trọng khu vực dịch vụ tăng.
Nông nghiệp có sự biến đổi quan trọng, đã chuyển từ độc canh lúa, năng suất
thấp và thiếu hụt lớn, sang không những đủ dùng trong nước, còn xuất khẩu gạo với
khối lượng lớn, đứng thứ hai thế giới, góp phần vào an ninh lương thực quốc tế;
xuất khẩu cà phê, cao su, hạt điều, hạt tiêu, thủy sản với khối lượng lớn đứng thứ hạng cao trên thế giới.
Các ngành dịch vụ đã phát triển đa dạng hơn, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu
cầu của sản xuất và đời sống: ngành du lịch, bưu chính viễn thông phát triển với tốc
độ nhanh; các ngành dịch vụ tài chính, ngân hàng, tư vấn pháp lý;... có bước phát
triển theo hướng tiến bộ, hiệu quả.
* Về chính trị, quốc phòng và an ninh
Hội nhập quốc tế về chính trị, quốc phòng và an ninh trong những năm qua
đã có những bước chuyển căn bản và đi vào chiều sâu:
Một là, giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của đất
nước, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững an ninh 32
chính trị và trật tự an toàn xã hội.Thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ củng cố an ninh,
QP với chống "diễn biến hòa bình", bạo loạn lật đổ; vô hiệu hóa hoạt động của các
đối tượng phản động trong và ngoài nước lợi dụng các vấn đề dân tộc, tôn giáo,
nhân quyền, để gây mất ổn định.
Đấu tranh bảo vệ quan điểm, đường lối đúng đắn của Đảng; phê phán, bảo vệ
các quan điểm sai trái đòi đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập dân chủ cực đoan,
phủ nhận thành tựu của quá khứ... Dân chủ trong Đảng có tiến bộ. Từng bước sắp
xếp, kiện toàn hệ thống tổ chức của Đảng và Nhà nước theo hướng tinh gọn, giảm
bớt đầu mối trung gian. Từng bước đổi mới phương thức lãnh đạo trên cơ sở coi
trọng lãnh đạo thể chế hóa nghị quyết, lãnh đạo xây dựng luật và pháp lệnh, khắc
phục tình trạng áp đặt, bao biện, làm thay.
Hai là, chất lượng tổng hợp, sức mạnh, trình độ và khả năng sẵn sàng chiến
đấu của lực lượng vũ trang nhân dân không ngừng được nâng cao. Xây dựng lực
lượng vũ trang, đặc biệt là quân đội và công an theo hướng chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.
Chú trọng xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh cả về chính trị,
tư tưởng và tổ chức, xứng đáng là lực lượng nòng cốt cho toàn dân trong thực hiện
nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Đặc biệt, chúng ta đã có nhiều giải pháp mang tính đột
phá trong xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, làm cơ sở để nâng cao chất
lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của Quân đội nhân dân:
+ Việc đổi mới công tác huấn luyện - đào tạo, sẵn sàng chiến đấu, xây dựng nền nếp
chính quy, quản lý kỹ thuật,… được đẩy mạnh, có sự chuyển biến mới về chất lượng.
+ Công tác hậu cần, kỹ thuật được thực hiện tốt, nhất là bảo đảm cho các đơn vị làm
nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu trên tuyến biển, đảo.
+ Công tác nghiên cứu khoa học quân sự, khoa học công nghệ quân sự, khoa học xã
hội và nhân văn quân sự được chú trọng và có bước phát triển mới, trọng tâm hướng
vào các vấn đề về chiến lược QS, QP trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ
quốc; các loại hình tác chiến chiến lược, chiến dịch và phương án xử lý các mối đe
dọa an ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống, bảo đảm sát thực tế, phù hợp với điều kiện mới.
Ba là, phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây
dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Việc xây dựng Nhà
nước pháp quyền của dân do dân và vì dân đã đạt được những kết quả bước
đầu.Quốc hội đẩy mạnh xây dựng luật pháp. Nền hành chính quốc gia được cải cách
một bước.Quốc hội đã từng bước hoàn thiện cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt
động theo hình thức nhà nước pháp quyền XHCN. Từ năm 1986 đến năm 2005
Quốc hội thông qua gần 150 luật. Từ 2006 đến nay, thông qua 67 luật. 33
nguồn nhân lực chất lượng cao góp phần phục vụ sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước.
Chất lượng giáo dục còn được các tổ chức quốc tế đánh giá cao. Việt Nam
hiện được xếp vào top 10 hệ thống giáo dục đổi mới hàng đầu của thế giới, theo báo
cáo “Tăng trưởng thông minh hơn: Học tập và Phát triển công bằng ở Đông Á –
Thái Bình Dương” năm 2018 của Ngân hàng Thế giới. Hay trong các Chương trình
đánh giá học sinh quốc tế, lứa tuổi 15 (PISA), học sinh nước ta đều đạt kết quả ấn
tượng, vượt qua mức trung bình của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD).
Các đội tuyển Olympic quốc tế đều đạt thứ hạng cao.
Các năm 2020 và 2021 đánh dấu bước chuyển đổi linh hoạt của hệ thống
giáo dục Việt Nam trong giai đoạn dịch bệnh. Với chủ trương “tạm dừng đến
trường, không ngừng việc học”, các cấp bậc học (trừ mầm non) đã chuyển sang
hình thức dạy học trực tuyến qua internet và truyền hình, đây là lần đầu tiên việc
dạy học trực tuyến được triển khai trên quy mô cả nước. Báo cáo PISA của OECD
công bố ngày 29/9/2020, đánh giá: “Việc học trực tuyến để phòng chống Covid-19
của Việt Nam có nhiều điểm khả quan so với các quốc gia và vùng lãnh thổ khác”.
Đây là nhận định xác đáng khi Việt Nam có gần 80% học sinh, sinh viên học trực
tuyến, cao hơn mức trung bình 67,15% của các nước OECD, xếp thứ 17/200 quốc
gia và vùng lãnh thổ trên thế giới.
Trên cơ sở những thành tựu đạt được trong 76 năm qua, Đại hội XIII của
Đảng đã định hướng phát triển giáo dục Việt Nam cho thời kỳ tới, trong đó có một
số điểm nổi bật như: thay vì chỉ nhấn mạnh vào “phát triển nhanh giáo dục và đào
tạo” như trước đây, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021 - 2030 đề
cập trực tiếp việc “phát triển nguồn nhân lực, giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu
nhân lực chất lượng cao của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế”.
* Về văn hóa – xã hội :
Văn hóa Việt Nam Nam là thành quả hàng nghìn năm lao động sáng tạo đấu
tranh kiên cường dựng nước và giữ nước của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, là
kết quả giao lưu và tiếp thu tinh hoa của nhiều nền văn minh thế giới. Văn hóa Việt
Nam tiếp tục được phát huy, đã góp phần quyết định vào những thắng lợi to lớn của
nhân dân ta trong sự nghiệp đổi mới.
Trong lĩnh vực này, Việt Nam mở cửa, trao đổi văn hóa, chia sẻ các giá trị
văn hóa, tinh thần với các quốc gia khác, tiếp thu các giá trị văn hóa tiến bộ của thế
giới để bổ sung và làm giàu nền văn hóa của dân tộc, quốc gia. Tham gia, thực hiện
Cộng đồng văn hóa - xã hội ASEAN, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của
Liên hợp quốc (UNESCO); ký kết, gia nhập điều ước quốc tế song phương, khu vực
và đa phương về hợp tác, phát triển lĩnh vực văn hóa. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng 35
chủ động tích cực tham gia các hoạt động, giao lưu văn hoá, nghệ thuật, thể thao với
hình thức song phương, khu vực và thế giới. Qua quá trình hội nhập quốc tế sẽ làm
sâu sắc nội dung hợp tác, thực sự gắn kết bền vững giữa các quốc gia, thúc đẩy sự
gần gũi hơn về văn hoá, trong khi vẫn giữ được bản sắc riêng về văn hoá của từng
quốc gia. Hội nhập quốc tế về văn hoá cũng đồng thời tạo điều kiện để người dân
được thụ hưởng tốt hơn các giá trị văn hóa của nhân loại.
Hội nhập quốc tế giúp Việt Nam nâng cao chất lượng trong việc thực hiện
các vấn đề về xã hội. Văn hóa - xã hội có sự chuyển biến tích cực; an sinh xã hội
được bảo bảo đảm, đời sống nhân dân ổn định với thu nhập bình quân trên đầu
người đạt trên 3700 USD năm 2021; tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ 9,88% năm 2015
xuống còn còn 2,75% năm 2020, trung bình giảm 1,43%/năm (chỉ tiêu: 1- 1,5%/năm),...
* Về khoa học – công nghệ
Năm 2020, Việt Nam tiếp tục giữ vững thứ hạng 42/131 quốc gia, vùng lãnh
thổ về Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu và tiếp tục được xem là hình mẫu của các
nước đang phát triển khác trong việc thiết lập đổi mới sáng tạo như một ưu tiên quốc gia.
Hoạt động hợp tác quốc tế được triển khai có hiệu quả trong bối cảnh đại
dịch COVID-19 thông qua các hình thức họp trực tuyến và làm việc từ xa. Đặc biệt,
trong năm Việt Nam đảm nhiệm chức Chủ tịch ASEAN 2020, Bộ đã tích cực thúc
đẩy hoạt động hợp tác về KHCN và đổi mới sáng tạo, chủ động triển khai các hoạt
động trong danh mục sự kiện ASEAN 2020.
Hội nhập quốc tế làm cho lĩnh vực khoa học - công nghệ trong nước tiếp cận,
theo kịp trình độ tiên tiến của thế giới, tiếp thu được khoa học công nghệ mới và kỹ
năng quản lý tiên tiến trên nhiều lĩnh vực: Công nghiệp, nông nghiệp, kỹ thuật, văn
hóa – xã hội,… góp phần đào tạo cho đất nước có đội ngũ nguồn lực có trình độ và
năng lực cao cả về chuyên môn lẫn quản lý thông qua đó nâng cao trình độ nghiên
cứu, sử dụng thành tựu khoa học – công nghệ ở trong nước, rút ngắn khoảng cách
công nghệ của Việt Nam so với các quốc gia phát triển, cải thiện kết cấu hạ tầng kỹ
thuật, tăng cường tiềm lực khoa học và công nghệ của Việt Nam. Hội nhập quốc tế
về khoa học - công nghệ thông qua phương thức phát triển quan hệ hợp tác khoa
học và công nghệ với các quốc gia, tổ chức quốc tế và vùng lãnh thổ ở các hình
thức khác nhau, trong đó có việc ký kết, thực hiện điều ước quốc tế trong lĩnh vực
khoa học và công nghệ. Bên cạnh đó, cũng tăng cường ký kết, thực hiện các thỏa
thuận, hợp đồng hợp tác quốc tế về nghiên cứu khoa học, công nghệ với các quốc
gia, tổ chức, cá nhân nước ngoài.
3.1.2. Hạn chế và thách thức
* Hạn chế của công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế 36
Sự lãnh đạo của Đảng đối với công cuộc đổi mới đã đạt được nhiều thành
tựu to lớn tuy nhiên bên cạnh đó hội nhập quốc tế vẫn còn tồn tại những hạn chế:
- Trong một số lĩnh vực quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế vào những thời điểm
cụ thể, sự đổi mới tư duy còn chậm, chưa đáp ứng được tốt nhất yêu cầu phát triển
trong nước và phù hợp với những chuyển biến của tình hình thế giới.
- Hội nhập quốc tế còn thụ động, hiệu quả chưa cao; chưa khai thác và phát huy
hiệu quả lợi ích đan xen, ổn định, bền vững đối với các nước lớn và các đối tác quan trọng.
- Việc xử lý mối quan hệ đối tác, đối tượng rất khó khăn vì liên quan đến quan hệ
quốc tế và lợi ích tổng thể quốc gia – dân tộc, cho nên trong một số trường hợp sự
giải quyết vẫn chưa thực sự tốt.
- Chưa có sự giải quyết đồng bộ, hữu hiệu để hạn chế tác động tiêu cực trong quá
trình mở rộng giao lưu, hợp tác và hội nhập quốc tế trong lĩnh vực thông tin, văn
hóa, tư tưởng và chính trị.
- Công tác nghiên cứu cơ bản, dự báo chiến lược trong lĩnh vực đối ngoại và hội
nhập quốc tế còn hạn chế. Có lúc còn lúng túng và bị động trước những ý đồ và
hành động của một số nước lớn, nắm bắt và xử lý chưa hiệu quả trong quan hệ với
một số nước láng giềng
- Công tác thông tin đối ngoại còn hạn chế, dự báo và xử lý một số vấn đề, diễn
biến trên thế giới và trong khu vực còn chậm, thiếu chủ động, thống nhất và hiệu
quả còn hạn chế, bỏ lỡ nhiều cơ hội.Việc triển khai thực hiệc các chủ trương, nghị
quyết về hội nhập quốc tế và thực hiện các thỏa thuận quốc tế chưa đầy đủ, hiệu quả chưa cao.
- Báo cáo của Chính phủ về tình hình kinh tế - xã hội năm 2018 do Thủ tướng
Nguyễn Xuân Phúc trình bày trước Quốc hội cũng đã chỉ ra những hạn chế của
công cuộc hội nhập quốc tế của nước ta:
+ Hội nhập quốc tế đã làm bộc lộ những yếu kém cơ bản của nền kinh tế. Cơ cấu
kinh tế và chất lượng tăng trưởng vẫn chưa được cải thiện về căn bản. Tăng trưởng
thời gian qua phần nhiều dựa vào các yếu tố như tín dụng, lao động rẻ mà thiếu sự
đóng góp đáng kể của việc gia tăng năng suất lao động hay hàm lượng tri thức, công nghệ.
+ Một số địa phương lúng túng trong việc triển khai công tác hội nhập kinh tế quốc
tế. Vẫn tồn tại khoảng cách khá xa về năng lực và thiếu sự gắn kết, hỗ trợ giữa khu
vực FDI và khu vực doanh nghiệp trong nước, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa. 37
+ Công tác thông tin truyền thông về hội nhập, năng lực giải quyết tranh chấp
thương mại, đầu tư quốc tế còn hạn chế, chưa tận dụng được hết các cơ hội do hiệp định FTA mang lại.
- Ngoài ra còn sự phân hóa giàu nghèo và bất công xã hội cũng gia tăng, áp lực gia
tăng dân số còn khá lớn và gây ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế.
Qua đó ta có thể thấy được rằng công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế vẫn
chưa phát huy đầy đủ sức mạnh tổng hợp trong hoạt động đối ngoại.
* Những thách thức đặt ra đối với nước ta trong công cuộc đổi mới
Mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ đưa lại những lợi ích mà còn đặt
nước ta trước nhiều thử thách. Nếu chúng ta không có biện pháp ứng phó tốt thì sự
thua thông minh, chính sách không khéo thì sẽ hạn chế được thua thiệt, dành được
lợi ích nhiều hơn cho đất nước. - Về kinh tế:
Việt Nam là một nước có nền kinh tế đang phát triển, mặc dù đã có những
bước tiến quan trọng về tăng trưởng nền kinh tế song chất lượng tăng trưởng, hiệu
quả sản xuất, sức cạnh tranh của các sản phẩm, các doanh nghiệp và của nền kinh tế
còn thấp. Kinh tế Việt Nam phát triển chưa ổn định, bền vững. Nợ công, thâm hụt
ngân sách nhà nước cao, kéo dài. Doanh nghiệp trong nước 95-96% là doanh nghiệp
nhỏ, trình độ công nghệ thấp. Nền kinh tế cơ bản còn phát triển theo chiều rộng, dựa
vào vốn đầu tư, tài nguyên thiên nhiên, lao động phổ thông, chuyển dịch sang phát
triển theo chiều sâu dựa trên khoa học – công nghệ và nguồn nhân lực chất lượng
cao còn chậm. Năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh kinh tế thấp, chuyển
biến chậm. Thể chế kinh tế nước ta đang còn quá phức tạp và rườm rà khiến các nhà
đầu tư e ngại khi đầu tư vào Việt Nam.
Hội nhập quốc tế, kinh tế Việt Nam đứng trước thách thức sẽ chịu tác động
trực tiếp, nhanh chóng từ những biến động kinh tế từ bên ngoài, từ những biến động
trên thị trường trên khu vực, thế giới về giá cả, lãi suất, tỷ giá của các đồng tiền,
nhất là những đồng tiền có ảnh hưởng lớn; từ những thay đổi của các luồng hàng
hóa, tài chính, đầu tư quốc tế và nghiêm trọng hơn là chịu sự tác động, ảnh hưởng
rất nhanh của các cuộc khủng hoảng kinh tế, tài chính khu vực và trên thế giới.
Hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng sẽ đặt doanh nghiệp Việt Nam, các sản
phẩm hàng hóa của Việt Nam trước thách thức phải cạnh tranh quyết liệt với các
doanh nghiệp, các sản phẩm hàng hóa của nước ngoài không chỉ ở thị trường nước
ngoài mà ngay cả ở thị trường trong nước của Việt Nam; trong khi các doanh
nghiệp Việt Nam phổ biến là doanh nghiệp nhỏ và vừa, trình độ công nghệ thấp,
năng lực tài chính hạn chế, phải cạnh tranh với những doanh nghiệp lớn, công nghệ 38
cao, tiềm lực tài chính hùng hậu, có những sản phẩm có thương hiệu nổi tiếng trên thế giới.
Một thách thức nữa đặt ra cho Việt Nam đó là trình độ khoa học - công nghệ
rất cao, rất mới, diễn ra trên diện rất rộng, hầu như tất cả các lĩnh vực kinh tế, phạm
vi tác động rất lớn của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Để nắm bắt được cơ
hội, đòi hỏi phải đáp ứng được đồng thời tất cả các yêu cầu đặt ra, đòi hỏi đất nước
cũng phải có trình độ phát triển cao về khoa học - công nghệ, có nguồn nhân lực
chất lượng cao, từ cán bộ nghiên cứu khoa học, sáng tạo công nghệ, thiết kế sản
phẩm đến những người trực tiếp sản xuất; đòi hỏi cả những thay đổi tâm lý, nếp
sống của các tầng lớp xã hội, thay đổi tổ chức, quản lý của hệ thống chính quyền các cấp, các ngành.
Ngoài ra, trong hội nhập kinh tế quốc tế, nhiệm vụ phát triển khu vực kinh tế
tư nhân cũng đòi hỏi phải giải quyết nhiều vấn đề về nhận thức, cơ chế, chính sách,
… Về cơ chế bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, nước ta còn nhiều khó khăn về nhãn hiệu
thương mại, bản quyền tác giả, bảo vệ thiết kế công nghiệp và người dân chưa có
thói quen tuân thủ quyền sở hữu trí tuệ. - Về chính trị:
Nước ta trong tiến trình hội nhập cũng đang phải đối diện trước thách thức
của một số nguy cơ đe dọa độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ,
sự lựa chọn định hướng chính trị, vai trò của nhà nước,… Đã xuất hiện những mưu
đồ lấy sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước để hạ thấp chủ quyền quốc gia; lấy một
thị trường không biên giới để phủ nhận tính bất khả xâm phạm của toàn vẹn lãnh
thổ quốc gia; lấy các thiết chế quốc tế làm mô hình siêu nhà nước đứng trên các nhà
nước quốc gia, áp đặt các giá trị dân chủ và nhân quyền phương Tây trong quan hệ
quốc tế, đưa ra thuyết như “ nhân quyền cao hơn chủ quyền”,… Bên cạnh đó hội
nhập quốc tế cũng làm bộc lộ nhiều bất cập của nền hành chính quốc gia. Khi gia
nhập WTO nền hành chính quốc gia chắc chắn sẽ phải có sự thay đổi công khai
hơn, minh bạch và hiệu quả hơn bởi một trong những nguyên tắc chủ đạo của WTO
là minh bạch hóa. Đó phải là nền hành chính vì quyền lợi chính đáng của mọi người
dân, trong đó lấy người dân làm trọng tâm phục vụ, khắc phục mọi biểu hiện trì trệ,
thờ ơ vô trách nhiệm, nếu không tạo lập được một nền hành chính như thế không
những không tận dụng được các cơ hội của việc hội nhập WTO mà còn không
chống được việc lãng phí nguồn lực,…
- Về văn hóa – xã hội + Văn hóa: hội
nhập quốc tế mở rộng giao lưu trong điều kiện bùng nổ thông tin
hiện nay bên cạnh những mặt tốt thì những cái xấu cũng du nhập vào; đặt nước ta
trước nguy cơ bị các giá trị ngoại lai (trong đó có lối sống thực dụng, chạy theo
đồng tiền), nhất là các giá trị văn hoá phương Tây xâm nhập ồ ạt, làm tổn hại bản 39
Hai là, quá trình hội nhập quốc tế trên mọi lĩnh vực cần xuất phát từ yêu cầu
bên trong của đất nước, phù hợp với sự chuẩn bị và mức độ sẵn sàng của các chủ
thể trên từng lĩnh vực khi tham gia hội nhập. Tham gia hội nhập không để rơi vào bị động, chạy theo.
Ba là, cần có sự thống nhất về quan điểm, nhận thức trong việc đề ra chủ
trương, mục tiêu hội nhập và cách thức hành động. Xây dựng các căn cứ khoa học,
pháp lý và thực tiễn về việc hội nhập quốc tế trên từng lĩnh vực và phương thức hội
nhập nhằm đảm bảo được tầm nhìn chiến lược dài hạn về mục tiêu theo từng lĩnh
vực hội nhập quốc tế.
Bốn là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến thông tin nhằm nâng cao
nhận thức của toàn xã hội về hội nhập quốc tế của Việt Nam nói chung và các cam
kết hội nhập ở từng lĩnh vực, với từng chủ thể hội nhập nói riêng. Việc tuyên truyền
cần được thực hiện linh hoạt, chủ động, phù hợp qua nhiều kênh thông tin khác
nhau, đồng bộ và phải có tính định hướng cao. Các đối tượng khác nhau (cơ quan
nhà nước, doanh nghiệp, người dân...) cần được cung cấp những thông tin theo
những cách phù hợp khác nhau để đảm bảo hiệu quả của công tác tuyên truyền.
Năm là, quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, đòi hỏi mức độ cam
kết tham gia hội nhập ngày càng cao cả về phạm vi và mức độ hội nhập. Vì vậy,
phải chủ động xây dựng, điều chỉnh, hoàn thiện khuôn khổ hành lang pháp lý trong
nước để đáp ứng nhu cầu phát triển trong nước, đồng thời hỗ trợ và tận dụng tốt
nhất các cơ hội, điều kiện quốc tế mà tiến trình hội nhập quốc tế đem lại.
Sáu là, huy động và củng cố sức mạnh vật chất với huy động và phát huy sức
mạnh tinh thần; kết hợp sức mạnh tự thân, nội lực, sức mạnh dân tộc với sự đồng
tình, củng cố của bạn bè quốc tế, sức mạnh thời đại để thực hiện việc hội nhập thực
chất, hiệu quả. Đặc biệt, cần chú trọng phát triển nguồn nhân lực tham gia hội nhập
cả về chuyên môn, luật pháp, ngoại ngữ, văn hóa.
Bảy là, nắm vững và tận dụng tốt thời cơ, giành thắng lợi trên từng mặt trận
hội nhập. Quá trình hội nhập cần đi vững chắc theo từng cấp độ từ nhỏ đến lớn, đưa
các mối quan hệ đi vào chiều sâu và nâng cấp các khuôn khổ hợp tác một cách bền
vững. Thực tế cho thấy, trong quá trình hội nhập của Việt Nam, từ việc gia nhập
ASEAN (1995), gia nhập ASEM (1996), APEC (1998), WTO (2002), với hội nhập
kinh tế quốc tế… giờ đây Việt Nam đã, đang mở rộng hội nhập trong các lĩnh vực
khác từ chính trị, văn hóa, xã hội, giáo dục đến an ninh, quốc phòng, khoa học, công nghệ.
Tám là, ứng xử khôn khéo, linh hoạt giữa hai mặt hợp tác và đấu tranh trong
hội nhập quốc tế theo tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh “dĩ bất biến, ứng vạn biến”.
Kiên định về nguyên tắc, linh hoạt về sách lược, mọi chủ trương, hoạt động hội
nhập phải kiên trì, kiên định nguyên tắc độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, đặt 41
lợi ích dân tộc lên trên hết. Đồng thời, phải linh hoạt, mềm dẻo trong đàm phán, giải
quyết các vấn đề bất đồng, những nội dung chưa tạo được tiếng nói chung.
Chín là, hội nhập vừa theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa, song phải có
tính chọn lọc cao. Nghĩa là, bất cứ lĩnh vực nào có lợi cho quốc gia, nhân dân thì
cần khai thác triệt để. Tuy nhiên, cần có sự lựa chọn lĩnh vực, mặt hàng, sản phẩm
thích hợp với nhu cầu của thị trường thế giới và lợi thế so sánh của Việt Nam để
việc hội nhập, hợp tác đạt được lợi ích nhiều nhất cho quốc gia.
Mười là, hội nhập quốc tế phải gắn liền với việc xây dựng một xã hội văn
minh, dưới sự quản lý của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và luôn đảm bảo
sự lãnh đạo tập trung thống nhất của Đảng. Trong quá trình hội nhập cần có sự phối
hợp chặt chẽ giữa các hình thức, phương thức hội nhập, tạo thành mặt trận hội nhập,
hợp tác, toàn diện, góp phần giữ vững môi trường hòa bình, thúc đẩy sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.
3.2.2. Giải pháp thúc đẩy hội nhập quốc tế toàn diện
Để hội nhập quốc tế toàn diện trong giai đoạn mới có hiệu quả cần triển khai
thực hiện hệ thống các giải pháp sau:
Một là, đẩy mạnh tuyên truyền sâu rộng trong toàn Đảng, toàn quân và toàn
dân về yêu cầu hội nhập quốc tế, về các cơ hội và thách thức, về mục tiêu, phương
hướng, nhiệm vụ trọng yếu của hội nhập quốc tế trong từng ngành, lĩnh vực để
thống nhất nhận thức và hành động, tạo nên sức mạnh tổng hợp trong quá trình hội
nhập quốc tế của cả hệ thống chính trị từ Trung ương đến địa phương, của toàn dân,
doanh nhân, doanh nghiệp, đội ngũ trí thức trong xã hội.
Hai là, nhanh chóng hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách về hội nhập
quốc tế, trước hết là hội nhập kinh tế quốc tế một cách toàn diện, đồng bộ trên cơ sở
phù hợp với Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước và chủ trương, đường lối đối ngoại
của Đảng; điều chỉnh, bổ sung hoàn chỉnh các chính sách hội nhập quốc tế cho phù
hợp với thực tiễn phát triển của đất nước và các cam kết quốc tế.
Ba là, chú trọng nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia qua việc đẩy mạnh
hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm là tạo
ra môi trường kinh doanh thuận lợi và bình đẳng cho mọi tổ chức, doanh nghiệp,
người dân tham gia phát triển sản xuất kinh doanh; phát triển kết cấu hạ tầng đồng
bộ, hiện đại; phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng
cao; tạo cơ chế chính sách khuyến khích các tổ chức, doanh nghiệp đầu tư cho
nghiên cứu khoa học, đổi mới công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực.v.v...
Bốn là, đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối tác, nhất là các đối
tác có tầm ảnh hưởng chiến lược quan trọng đối với sự phát triển và an ninh của 42
Việt Nam, đưa các khuôn khổ quan hệ đã được xác lập đi vào thực chất có chiều
sâu, tạo sự đan xen gắn kết lợi ích giữa Việt Nam với các đối tác một cách bình
đẳng. Chủ động trong việc lựa chọn đối tác và xây dựng phương án đàm phán với
từng đối tác trên cơ sở cùng có lợi.
Năm là, các bộ, ngành, địa phương cần chủ động xây dựng các chương trình,
kế hoạch toàn diện và cụ thể trong việc thực hiện Nghị quyết số 22 của Bộ Chính trị
về hội nhập quốc tế trong bối cảnh thế giới cũng như trong nước đang có nhiều thay
đổi lớn. Tăng cường phân cấp, nâng cao trách nhiệm quản lý, chỉ đạo của các cơ
quan quản lý nhà nước và chế tài xử phạt đối với các trường hợp vi phạm. Chú
trọng hơn đến công tác kiểm tra, giám sát quá trình thực hiện chủ trương, chính sách hội nhập.
Sáu là, thực hiện hiệu quả các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký thỏa
thuận. Xây dựng và triển khai chiến lược hội nhập trên mọi lĩnh vực theo kế hoạch
tổng thể với lộ trình hợp lý, phù hợp với lợi ích quốc gia và khả năng của đất nước.
Tích cực và trách nhiệm hơn trong việc tham gia các thể chế hội nhập toàn cầu. Chủ
động và tích cực tham gia các thể chế đa phương, góp phần xây dựng trật tự chính
trị, kinh tế thế giới theo hướng công bằng, dân chủ, bình đẳng, cùng có lợi.
Bảy là, đẩy mạnh nâng cao năng lực thực thi hội nhập quốc tế qua việc kiện
toàn, củng cố và phát triển bộ máy, đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại, hội nhập
quốc tế. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chuyên trách, nguồn nhân
lực chất lượng cao có bản lĩnh chính trị vững vàng, có tri thức, kỹ năng hội nhập,
nắm vững nghiệp vụ, giỏi ngoại ngữ đáp ứng yêu cầu của công tác hội nhập trong giai đoạn mới. 43
sử” qua 34 năm đổi mới để càng vững tin và kiên định vào con đường chủ nghĩa xã
hội mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã chọn. 45