-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Quan điểm, chính sách dân tộc và tôn giáo - Tư tưởng Hồ Chí Minh | Đại học Tài chính - Quản trị kinh doanh
Việt Nam là một quốc gia thống nhất gồm nhiều dân tộc và có nhiều tôngiáo chung sống. Đại đoàn kết là truyền thống quý báu của mọi người dân ViệtNam nói chung, trong đó có đồng bào các tôn giáo và đồng bào các dân tộc nóiriêng. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Tư tưởng Hồ Chí Minh (TTHCM012) 23 tài liệu
Đại học Tài chính - Quản trị kinh doanh 228 tài liệu
Quan điểm, chính sách dân tộc và tôn giáo - Tư tưởng Hồ Chí Minh | Đại học Tài chính - Quản trị kinh doanh
Việt Nam là một quốc gia thống nhất gồm nhiều dân tộc và có nhiều tôngiáo chung sống. Đại đoàn kết là truyền thống quý báu của mọi người dân ViệtNam nói chung, trong đó có đồng bào các tôn giáo và đồng bào các dân tộc nóiriêng. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Tư tưởng Hồ Chí Minh (TTHCM012) 23 tài liệu
Trường: Đại học Tài chính - Quản trị kinh doanh 228 tài liệu
Thông tin:
Tác giả:
Tài liệu khác của Đại học Tài chính - Quản trị kinh doanh
Preview text:
LỜI NÓI ĐẦU
Việt Nam là một quốc gia thống nhất gồm nhiều dân tộc và có nhiều tôn
giáo chung sống. Đại đoàn kết là truyền thống quý báu của mọi người dân Việt
Nam nói chung, trong đó có đồng bào các tôn giáo và đồng bào các dân tộc nói
riêng. Đảng, Nhà nước ta xác định cùng với vấn đề tôn giáo, vấn đề dân tộc và
đoàn kết các dân tộc luôn là vấn đề chiến lược có tầm quan trọng đặc biệt trong
sự nghiệp cách mạng. Thực hiện tốt chính sách dân tộc, tôn giáo, phát huy
truyền thống và sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc là một đảm bảo
quan trọng cho thắng lợi sự nghiệp cách mạng của toàn Đảng, toàn dân và toàn
quân ta. Tinh thần đó được Đảng, Nhà nước ta thể hiện bằng các quan điểm,
chính sách phù hợp với từng giai đoạn cách mạng và không ngừng được bổ
sung, phát triển cho phù hợp với thực tiễn của Việt Nam. 2
Phần một: Ý ĐỊNH BÀI GIẢNG
I. MỤC ĐÍCH - YÊU CẦU 1. Mục đích
- Giáo dục cho hạ sĩ quan - binh sĩ nắm được những vấn đề cơ bản về tình
hình dân tộc, tôn giáo ở nước ta; quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước
ta về công tác dân tộc, tôn giáo trong tình hình mới.
- Nâng cao trách nhiệm quân nhân trong thực hiện chính sách dân tộc, tôn
giáo của Đảng và Nhà nước, góp phần đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ
đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để chống phá cách mạng Việt Nam. 2. Yêu cầu
Chấp hành nghiêm quy định của lớp học, chú ý lắng nghe, ghi chép bài
đầy đủ, trong giờ học tích cực phát biểu xây dựng bài.
II. NỘI DUNG: Gồm 3 phần
Phần I. Quan điểm, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta trong tình hình mới.
Phần II. Quan điểm, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta trong tình hình mới.
Phần III. Trách nhiệm của quân đội và quân nhân thực hiện chính sách
dân tộc, tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta trong tình hình mới. Trọng tâm: Phần I, II
Trọng điểm: Điểm 2 (Phần I); Điểm 2 (Phần II) III. ĐỐI TƯỢNG
Chiến sĩ nhập ngũ năm 2022 IV. THỜI GIAN
- Thời gian của bài: 07.00
- Thời gian lên lớp: 04.00
- Thơi gian ôn luyện, thảo luận: 03.00 V. PHƯƠNG PHÁP
1. Người dạy: Sử dụng phương pháp thuyết trình, đàm thoại kết hợp với
phương tiện trình chiếu Powerpoint.
2. Người học: Nghe quan sát, ghi chép bài đầy đủ làm cơ sở ôn luyện, thảo luận và kiểm tra. VI. ĐỊA ĐIỂM
Tại phòng sinh hoạt chung của Đại đội VII. TÀI LIỆU
Tài liệu học tập chính trị của Hạ sĩ quan – Binh sĩ, NXB Quân đội nhân
dân, Hà Nội năm 2021 (Từ trang 278 – 306). 3 Phần hai : NỘI DUNG
I. QUAN ĐIỂM, CHÍNH SÁCH DÂN TỘC CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC
TA TRONG TÌNH HÌNH MỚI (01.05).
1. Một số đặc điểm, tình hình dân tộc ở Việt Nam (00.20)
Việt Nam là quốc gia dân tộc thống nhất gồm 54 dân tộc (trong đó dân tộc
Kinh chiếm đa số, 53 dân tộc thiểu số với khoảng hơn 14 triệu người, chiếm
khoảng 14,7% dân số cả nước, các dân tộc thiểu số cư trú chủ yếu ở vùng miền
núi, vùng sâu vùng xa, vùng biên giới), cùng cư trú tồn tại và phát triển trên lãnh
thổ Việt Nam, đã sớm hình thành các đặc điểm cơ bản:
- Các dân tộc trong cộng đồng dân tộc Việt Nam chung sống hòa hợp,
đoàn kết trong đấu tranh chế ngự thiên nhiên, chống ngoại xâm, xây dựng và phát triển đất nước.
Vị trí: Đây là đặc điểm cơ bản, nổi bật trong quan hệ giữa các dân tộc ở Việt Nam.
Tại sao? Các dân tộc trong cộng đồng dân tộc lại chung sống hoà hợp,
đoàn kết. Biểu hiện....như thế nào?
-> Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, do yêu cầu khách
quan của công cuộc đấu tranh chống thiên tai, địch họa. Ngay từ thuở khai sinh,
các dân tộc đã phải cố kết, chung sức, chung lòng chống chọi với thiên nhiên;
tinh thần đoàn kết càng được phát huy cao độ trong lịch sử đấu tranh chống giặc
ngoại xâm, giải phóng dân tộc.
Ví dụ: Xây dựng các hệ thống thuỷ lợi, đê, đập, khắc phục
hậu quả do bão lụt, hạn hán gây ra (hệ thống đê sông Hồng từ
thời nhà Lý, Trần Lê Sơ, Nguyễn đến nay chiều dài 1.314 km)
-> Các dân tộc Việt Nam đều có chung cội nguồn (như chúng ta được biết
về truyền thuyết mẹ Âu Cơ và Lạc Long Quân; mẹ Âu Cơ sinh một trăm con, 50
theo mẹ lên non, 50 theo cha xuống biển), các dân tộc Việt Nam đều chịu ảnh
hưởng chung của điều kiện tự nhiên, xã hội, chung vận mệnh dân tộc, chung lợi
ích cơ bản- quyền được tồn tại và phát triển. Do đó đoàn kết thống nhất đã trở
thành giá trị truyền thống quý báu của dân tộc.
-> Bác Hồ đã từng nói: “Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán,
Giarai hay Ê đê, Xê Đăng hay Ba Na và các dân tộc thiểu số khác đều là con
cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng
khổ cùng nhau, no đói giúp nhau”. Hiện nay dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam, truyền thống đoàn kết, thống nhất dân tộc không ngừng
được củng cố, phát triển và là một trong những nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Ví dụ: Cách mạng Tháng Tám năm 1945, chiến thắng Điện Biên Phủ năm
1954, Đại thắng Mùa Xuân năm 1975 chính là sức mạnh của
khối đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam vì mục tiêu độc lập dân
tộc, thống nhất đất nước.
Như vậy: Đoàn kết trong đấu tranh chế ngự thiên nhiên, trong lao động
sản xuất, trong chiến đấu là một truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc Việt 4
Nam, được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước. Các
yếu tố ấy đã tạo nên đặc điểm - cộng đồng dân tộc Việt Nam chung sống hòa
hợp, đoàn kết trên lãnh thổ Việt Nam.
- Các dân tộc có quy mô dân số khác nhau, cư trú xen kẽ nhau, nhưng
không có sự phân chia lãnh thổ và chế độ xã hội riêng.
Vị trí: Đặc điểm này phản ánh mối quan hệ đoàn kết, thống nhất của cộng
đồng dân tộc Việt Nam trong một quốc gia thống nhất. Biểu hiện:
-> Các dân tộc thiểu số cư trú xen kẽ trên địa bàn rộng lớn,chủ yếu là
miền núi, biên giới, hải đảo. Không có dân tộc thiểu số nào cư trú duy nhất trên
một địa bàn mà không xen kẽ với một vài dân tộc khác. Những năm gần đây,
gắn liền với sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, tính chất đan xen đó càng tăng
lên. Hiện nay, ở miền núi hầu như không có tỉnh, huyện nào chỉ có một dân tộc
cư trú. Nhiều tỉnh có trên 20 dân tộc như: Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái, Hà
Giang, Lâm Đồng, Gia Lai, Kom Tum…
-> Tất cả các dân tộc thiểu số cư trú dù là miền núi, biên giới hay hải
đảo... đều sống chung trong lãnh thổ thống nhất Việt Nam, đều sống trong cùng
một thể chế chính trị chung và đều phải tuân thủ, chấp hành và thực hiện theo
đúng Hiến Pháp, pháp luật Việt Nam, mọi tổ chức chính trị xã hội ở đó đều đặt
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đều vì thống nhất, vẹn toàn lãnh
thổ, vì mục tiêu “ Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”
- Mỗi dân tộc có bản sắc văn hóa riêng, tạo nên nền văn hóa Việt Nam đa
dạng, phong phú, thống nhất. Khẳng định:
Nền văn hóa dân tộc Việt Nam như một bức tranh đa sắc màu, trong đó mỗi
dân tộc đều có phong tục, tập quán, tâm lý, lối sống, tín ngưỡng tôn giáo mang tính
đặc thù, tạo nên những sắc thái và văn hóa riêng của từng dân tộc, tồn tại và phát
triển trong tính đa dạng và thống nhất của nền văn hóa dân tộc Việt Nam.
- Sự đa dạng về sắc thái văn hóa:
+ Văn hóa ở: Người Kinh ở nhà nền đất; đồng bào các dân tộc thường ở nhà sàn bằng gỗ.
+ Văn hóa mặc: Mỗi dân tộc thường có trang phục truyền thống riêng. Thời
xưa đàn ông người Kinh thường mặc quần áo dài; còn đàn ông các dân tộc thiểu
số thường đóng khố. Hay dân tộc Thái có trang phục của người Thái đen, Thái trắng.
+ Kho tàng văn hóa dân gian rất phong phú có giá trị nghệ thuật lớn.
Câu hỏi: Đồng chí cho biết người Kinh có những loại hình nghệ thuật nổi tiếng nào?
Người Mường có hội xuống đồng; hội cầu mưa; lễ cơm mới. Người Thái
có: múa xòe; múa sạp; ném còn; người Xơ Đăng ở Tây Nguyên có nhà Rông là 5
nơi giao lưu, sinh hoạt văn hóa. Người Kinh có những loại hình nghệ thuật nổi
tiếng như: Hát Chèo, hát Xoan, Quan họ, Chầu văn...
- Tính thống nhất của nền văn hóa:
Sự đa dạng về sắc thái văn hóa đều bị chi phối bởi những giá trị cốt lõi nhất
của văn hóa Việt Nam. Đó là tinh thần đoàn kết, cố kết cộng động; lối sống
thương người như thể thương thân; tinh thần cần cù, chịu khó trong lao động;
nhân nghĩa khoan dung, thủy chung, yêu chuộng hòa bình...
Như vậy: Mỗi dân tộc mặc dù có sự khác nhau về quy mô dân số, về trình
độ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội nhưng đều có bản sắc văn hóa truyền thống
riêng (tiếng nói, chữ viết, VH-NT, kiến trúc, phong tục, tập quán ....) với nhiều
giá trị tốt đẹp. Do đó, nền văn hóa Việt nam với sự hợp thành của 54 bản sắc văn
hóa dân tộc, vừa có tính đa dạng, vừa có tính thống nhất.
Định hướng tư tưởng: Sự đa dạng về sắc thái văn hóa là cơ sở để phân
biệt tộc người này với tộc người khác (người Tày khác người Nùng...). Sự thống
nhất của nền văn hóa là cơ sở phân biệt dân tộc này với dân tộc khác (dân tộc
Việt Nam khác dân tộc Trung Quốc, Nhật Bản...). Vì vậy, mất độc lập chúng ta
có thể giành lại được, mất đi nền văn hóa thì mãi mãi không thể giành lại được.
Cho nên phải kiên quyết đấu tranh với các hiện tượng lai căng văn hóa hiện nay
đang làm mai một đi truyền thống văn hóa dân tộc như: Lối sống thực dụng;
ngôn ngữ phản cảm, chung sống tập thể; xăm lên cơ thể nhiều hình thù kỳ quái;
nghiện hút ma túy; đánh bạc trên mạng, sống ảo, các phong tục tập quán lạc hậu...
- Địa bàn cư trú của các dân tộc thiểu số có vị trí chiến lược đặc biệt
quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hóa, an ninh, quốc phòng, đối ngoại và bảo
vệ môi trường sinh thái.
Tại sao? Có vị trí chiến lược........
-> Xuất phát từ vị trí địa lý tự nhiên: Nơi sinh sống của các dân tộc thiểu
số thường là ở những nơi giáp ranh dọc tuyến biên giới phía Bắc, phía Tây và
Tây Nam, những nơi này có nhiều cửa ngõ thông thương giữa nước ta với các
nước trong khu vực và trên thế giới; cho nên chính nơi này là nơi giao nhau giữa
các hệ thống chính trị xã hội quốc gia, nơi giao lưu, trao đổi về kinh tế; nơi giao
thoa về các nền văn hóa. Đồng thời nơi này chính là nơi có những cột mốc quan
trọng đánh dấu chủ quyền đất nước, do đó cũng là nơi cần quan tâm xây dựng
quốc phòng, an ninh và làm công tác đối ngoại.
-> Xuất phát từ âm mưu thủ đoạn của kẻ thù: Từ vị trí địa lý tự nhiên như
vậy đã trở thành nơi mà các tổ chức cá nhân, phần tử phản động muốn tập trung
lôi kéo ly khai, kích động, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc để chống phá cách mạng nước ta. 6
-> Nơi đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống là nơi có nguồn tài nguyên
phong phú đa dạng, có hệ thống rừng phòng hộ, rừng đặc dụng phục vụ cho sự
nghiệp phát triển của đất nước. Hiện nay miền núi là địa bàn tiềm năng, mang
tính chiến lược, cơ bản cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Khẳng định:
Chính vì thế các dân tộc thiểu số có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng
về chính trị, kinh tế, văn hóa, an ninh, quốc phòng, đối ngoại và bảo vệ môi trường sinh thái.
- Trình độ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội giữa các dân tộc còn chênh
lệnh, khác biệt, nhiều vấn đề dân tộc đang nổi lên.
Biểu hiện như thế nào?:
-> Tỷ lệ hộ đói nghèo ở nhiều vùng dân tộc và miền núi còn cao hơn so
với bình quân chung cả nước, khoảng cách chênh lệnh về mức sống, về trình độ
phát triển kinh tế - xã hội giữa các dân tộc, giữa các vùng ngày càng gia tăng...
-> Chất lượng, hiệu quả giáo dục đào tạo còn thấp, công tác chăm sóc sức
khỏe cho đồng bào còn gặp nhiều khó khăn, một số bản sắc tốt đẹp trong văn
hóa của các dân tộc đang bị mai một, một sốt tập quán lạc hậu, mê tín dị đoan có xu hướng phát triển....
Tại sao? lại còn có sự chênh lệch......
-> Do địa bàn cư trú, phong tục tập quán và tâm lý, lối sống của các dân
tộc, nên trình độ phát triển kinh tế, xã hội của vùng, miền, dân tộc không đồng
đều. Một số dân tộc có dân số ít, ở vùng sâu, vùng xa, điều kiện kinh tế, xã hội
còn gặp khó khăn, như Si La, Pu Péo, Rơ Măm, Brau, Ơ Đu,…
-> Do tình trạng du canh, du cư, di dân tự do vẫn diễn biến phức tạp; một
số nơi, đồng bào thiếu đất sản xuất, thiếu nước, thiếu tư liệu sản xuất. Kết cấu hạ
tầng (điện, đường, trường, trạm, dịch vụ) ở vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách
mạng đã được đầu tư, nâng cấp phát triển, nhưng vẫn còn khó khăn; nhiều nơi
môi trường sinh thái tiếp tục bị suy thoái, tình trạng tàn phá rừng, khai thác tài
nguyên bừa bãi chưa được ngăn chặn triệt để.
-> Hệ thống chính trị cơ sở ở vùng đồng bào dân tộc và miền núi còn yếu,
tỷ lệ cán bộ có trình độ cao đẳng, đại học còn ít. Năng lực, trình độ cán bộ xã,
phường còn hạn chế, số lượng đảng viên là người dân tộc thiểu số còn thấp, vẫn
còn thôn bản chưa có đảng viên. Cấp ủy, chính quyền, mặt trận Tổ quốc và đoàn
thể ở nhiều nơi chưa sát dân, chưa tập hợp được đồng bào. Nguy cơ tiềm ẩn:
Các thế lực thù địch luôn tìm cách lợi dụng khó khăn về đời sống, trình độ
dân trí thấp của đồng bào để kích động tư tưởng ly khai, tự trị, phá hoại truyền
thống đoàn kết, thống nhất của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, gây mất ổn
định chính trị, nhất là trên các địa bàn chiến lược trọng điểm như Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ.
+ Tình hình nhiễm HIV-ADIS ngày càng tăng trong vùng đồng bào dân
tộc thiểu số; buôn bán hàng giả, hàng cấm, lừa gạt, buôn bán phụ nữ và trẻ em,
đặc biệt là tình trạng buôn bán, vận chuyển ma túy ở vùng đồng bào dân tộc và 7
miền núi tiếp tục diễn biến rất phức tạp. Các đối tượng tội phạm ma túy thường
lôi kéo đồng bào dân tộc thiểu số vào các hoạt động mua bán, vận chuyển và sử
dụng các loại ma túy với thủ đoạn hết sức tinh vi, xảo quyệt và manh động. Để
đối phó với các lực lượng chức năng, chúng sẵn sàng dùng vũ khí nóng chống
trả quyết liệt khi bị phát hiện, truy đuổi, bắt giữ.
=> Tóm lại: Tóm lại, những đặc điểm trên vừa là thuận lợi, vừa là khó
khăn thách thức trong phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây
dựng và phát triển đất nước. Chính vì vậy, đòi hỏi Đảng ta cần phải đề ra những
quan điểm, chính sách cụ thể để phát huy những thuận lợi, khắc phục khó khăn
nhằm xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc góp phần bảo vệ vững chắc Tổ
quốc Việt Nam XHCN. Quan điểm chính sách đó là gì? Sau đây chúng ta cùng
chuyển sang nghiên cứu điểm 2
2. Quan điểm, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta trong tình hình mới (00.45)
a, Quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về vấn đề dân tộc, đoàn kết dân tộc
Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng xác định: “Tập trung hoàn
thiện và triển khai thực hiện tốt các chính sách dân tộc; có những chính sách
đặc thù giải quyết khó khăn cho đồng bào dân tộc thiểu số; thực hiện tốt đại
đoàn kết toàn dân tộc. Bảo đảm các dân tộc, bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và
giúp nhau cùng phát triển... Nghiêm trị mọi âm mưu, hành động chia rẽ, phá
hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc cản trở sự phát triển của đất nước”.
Có thể khái quát quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề dân tộc,
đoàn kết dân tộc ở một số nội dung cơ bản sau:
- Một là, dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu
dài; đồng thời là vấn đề cấp bách hiện nay.
Vị trí: Đây là quan điểm có vị trí ý nghĩa quan trọng thể hiện tính nguyên
tắc, là mục tiêu, điều kiện và động lực trong xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Thể hiện:
-> Ngay từ khi mới ra đời và trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng,
Đảng ta luôn xem vấn đề dân tộc, công tác dân tộc và đoàn kết các dân tộc có vị
trí chiến lược quan trọng trong cách mạng nước ta. Trên cơ sở đánh giá toàn
diện vấn đề dân tộc và xuất phát từ yêu cầu của tình hình mới, Đảng ta khẳng
định: Vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài,
đồng thời cũng là vấn đề cấp bách hiện nay của cách mạng Việt Nam.
-> Vấn đề dân tộc được xác định là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài có
tính xuyên suốt trong toàn bộ tiến trình phát triển của cách mạng nước ta, đồng
thời Đảng ta còn xác định đây là vấn đề cấp bách. Đây là luận điểm rất quan
trọng thể hiện tầm nhìn chiến lược và tư duy đổi mới trong bối cảnh quốc gia và
quốc tế của Đảng ta trong thời kỳ đổi mới.
Tại sao? Đảng xác định dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản. 8
-> Vị trí của vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là bộ phận hợp thành của
chiến lược phát triển đất nước. Đây là cơ sở rất quan trọng để từ đó định ra các
nguyên tắc cũng như chính sách của Đảng và Nhà nước ta về phát triển đất nước
nói chung, vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc nói riêng trong bối cảnh toàn cầu
hóa và hội nhập quốc tế
-> Trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đoàn kết các dân tộc đã
tạo nên sức mạnh to lớn để giành lại nền độc lập dân tộc, tự do cho Tổ quốc.
Trong công cuộc đổi mới, đoàn kết các dân tộc nhằm hướng tới mục tiêu “Dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Dưới sự lãnh đạo của Đảng,
các dân tộc ở nước ta được làm chủ vận mệnh của mình trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
-> Thực tiễn từ tình hình đặc điểm dân tộc ở Việt Nam hiện nay. Đó là cơ
sở để Đảng định ra đường lối lãnh đạo đất nước sát đúng, và đưa các nội dung
phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội....tới mọi người dân, mọi miền của Tổ quốc. Là
cơ sở để chúng ta thực hiện thắng lợi đường lối, chính sách dân tộc của Đảng
Tại sao? Đảng xác định dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề lâu dài.
-> Vị trí tầm quan trọng của dân tộc đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc: Ngay từ thời dựng nước, Việt Nam đã là quốc gia đa dân tộc. Trong
tiến trình phát triển hàng ngàn năm, các dân tộc luôn luôn sát cánh bên nhau xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc với truyền thống: “Bầu ơi thương lấy bí cùng; tuy rằng
khác giống nhưng chung một giàn”. Xuất phát từ đặc điểm đó, trong suốt chiều
dài lịch sử ông cha ta đã thực thi nhiều biện pháp nhằm giải quyết vấn đề dân
tộc trước yêu cầu phát triển quốc gia, để lại nhiều bài học quý giá cho hôm nay
khi giải quyết vấn đề dân tộc. Chính vì vậy, ngay từ khi mới ra đời, Đảng ta và
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định vấn đề dân tộc có vai trò và vị trí đặc biệt
quan trọng và là vấn đề lâu dài đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta.
Tại sao? Đảng xác định dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề cấp bách hiện nay.
-> Hiện nay các thế lực thù địch luôn tìm cách lợi dụng khó khăn về đời
sống, trình độ dân trí thấp của đồng bào dân tộc để kích động tư tưởng ly khai,
tự trị, phá hoại truyền thống đoàn kết, thống nhất của cộng đồng các dân tộc Việt
Nam, gây mất ổn định chính trị, nhất là trên các địa bàn chiến lược trọng điểm
như Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ.
Ví dụ: Nguyễn Công Đài, Lê Thị Công Nhân... trong tổ chức
phản động Việt Tân, ngoài việc tàng trữ các tài liệu có nội dung
xuyên tạc lịch sử dân tộc, bôi nhọ chế độ xã hội do Đảng Cộng
sản lãnh đạo và vu cáo, xuyên tạc chính sách Nhà nước đối với
tổ chức công đoàn, giai cấp công nhân Việt Nam. Ngoài ra, còn
nhiều lần trả lời phỏng vấn báo chí nước ngoài và đã viết, tán
phát tài liệu có nội dung tuyên truyền, kích động chống Nhà nước CHXHCN Việt Nam.
Như vậy, qua những vấn đề đã phân tích trên có thể khẳng định rằng dân
tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài; đồng thời là vấn đề 9
cấp bách hiện nay. Xuất phát từ đó Đảng, Nhà nước ta mới có chính sách cho
vấn đề dân tộc hiện nay
- Hai là, các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết,
tương trợ, giúp nhau cùng phát triển. Vị trí:
-> Là một nguyên tắc cơ bản về chính sách dân tộc của Đảng và Nhà
nước ta. Nguyên tắc này đã được thể hiện rõ trong tư tưởng Hồ Chí Minh và các
Hiến pháp ở nước ta. Hiến pháp đầu tiên ở nước ta năm 1946 đã khẳng định:
“Tất cả quyền binh trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân
biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo’’.
-> Trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đoàn kết các dân tộc đã
tạo nên sức mạnh to lớn để giành lại nền độc lập dân tộc, tự do cho Tổ quốc.
Trong công cuộc đổi mới, đoàn kết các dân tộc nhằm hướng tới mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Dưới sự lãnh đạo
của Đảng, các dân tộc ở nước ta được làm chủ vận mệnh của mình trong khối
đại đoàn kết toàn dân tộc. Đó chính là cơ sở để chúng ta thực hiện thắng lợi
đường lối, chính sách dân tộc của Đảng.
Nội dung thể hiện như thế nào?
-> Bình đẳng giữa các dân tộc là bình đẳng trên mọi lĩnh vực kinh tế,
chính trị, văn hóa. Bình đẳng còn thể hiện trong quyền phát triển, được đảm bảo
và tạo mọi điều kiện để các dân tộc thực hiện và có cơ hội phát triển bình đẳng với các dân tộc khác.
-> Đoàn kết yêu thương: Là một nguyên tắc cơ bản của chính sách dân
tộc mà Đảng ta xác định, coi đoàn kết dân tộc có ý nghĩa then chốt đối với sự
phát triển đất nước. Hồ Chí Minh đã nói: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết;
Thành công, thành công, đại thành công’’.
-> Tôn trọng nhau giữa các dân tộc là tôn trọng phong tục, tập quán, tâm
lý, lối sống, tín ngưỡng tôn giáo, những sắc thái và văn hóa riêng của từng dân tộc.
-> Giúp nhau cùng tiến bộ giữa các dân tộc:
Xuất phát từ một thực tế lịch sử là sự phát triển không đều giữa các dân
tộc khi xây dựng đất nước trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thực trạng phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta cho thấy, sự chênh lệch về phát
triển kinh tế - xã hội là một đặc điểm lớn.
Giúp nhau cùng tiến bộ là sự giúp đỡ của dân tộc này với dân tộc khác,
không phải là sự giúp đỡ một chiều. Giúp nhau cùng tiến bộ vừa là yêu cầu, vừa
là mục tiêu của sự phát triển, vì sự phát triển bền vững của cộng đồng quốc gia dân tộc.
Khẳng định: Bình đẳng là cơ sở để đoàn kết, đoàn kết là biểu hiện thực
hiện bình đẳng, tôn trọng và giúp nhau là điều kiện để thực hiện bình đẳng và
đoàn kết. Các nguyên tắc cơ bản trên có mối quan hệ mật thiết với nhau, được
xác định và triển khai đồng bộ trong quá trình xây dựng và triển khai thực hiện
chính sách dân tộc ở nước ta.
- Ba là, phát triển toàn diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh –
quốc phòng trên địa bàn vùng dân tộc và miền núi. 10
Đảng và Nhà nước ta ưu tiên phát triển kinh tế - xã hội, gắn tăng trưởng
kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội, thực hiện tốt chính sách dân tộc; quan
tâm phát triển, bồi dưỡng nguồn nhân lực; chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ dân
tộc thiểu số; giữ gìn và phát huy những giá trị, bản sắc văn hóa truyền thống các
dân tộc thiểu số trong sự nghiệp phát triển chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam thống nhất. Phân
tích: Đảng, Nhà nước ta luôn đặc biệt quan tâm phát triển toàn diện
vùng đồng bào DTTS và miền núi. Chủ trương nhất quán đó tiếp tục được khẳng
định, khi Bộ Chính trị ban hành Kết luận số 65 - KL/TW ngày 30/10/2019 về
tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 12/3/2003 của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa IX về công tác dân tộc trong tình hình mới, với đột phá
đầu tiên là Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng
DTTS và miền núi giai đoạn 2021 - 2030. Có thể nói đây là bước ngoặt, mang
tính lịch sử, thể hiện chủ trương nhất quán và quyết tâm của Đảng, Nhà nước
cho sự phát triển toàn diện vùng DTTS và miền núi.
- Bốn là, ưu tiên đầu tư phát triển kinh tế - xã hội các vùng dân tộc và
miền núi, trước hết, tập trung vào phát triển giao thông và cơ sở hạ tầng, xóa đói giảm nghèo. Thể hiện:
-> Tôn trọng những điểm khác biệt không trái với lợi ích chung của quốc
gia- dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống yêu nước, nhân nghĩa khoan
dung để tập hợp, đoàn kết mọi người Việt Nam ở trong và ngoài nước, tăng
cường đối thoại xã hội, đảm bảo thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
-> Các dân tộc thương yêu, tôn trọng, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; tôn
trọng lẫn nhau về lợi ích truyền thống, văn hóa, ngôn ngữ, phong tục tập quán
của các dân tộc; dân tộc có trình độ phát triển cao phải có trách nhiệm giúp
đỡ dân tộc có trình độ phát triển thấp; vùng kinh tế - xã hội phát triển phải
giúp đỡ vùng chậm phát triến, nhằm đảm bảo các dân tộc có điều kiện phát
triển toàn diện, tiến kịp trình độ phát triển chung của cả nước. Tránh tư tưởng,
kỳ thị dân tộc, tư tưởng ỷ lại trông chờ vào sự hỗ trợ của Trung ương và
tương trợ của dân tộc khác.
- Năm là, công tác dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc là nhiệm
vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của các cấp, các ngành, của toàn
bộ hệ thống chính trị. Vị trí:
-> Những quan điểm nêu trên vừa cơ bản, vừa có giá trị lâu dài trong công
tác dân tộc ở nước ta, gắn chặt với thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước. Các quan điểm là một thể thống nhất, nhấn mạnh tính chiến lược, nguyên
tắc và yêu cầu giải quyết vấn đề dân tộc của Đảng ta trong cách mạng Việt Nam. Thể hiện:
-> Trong thời kỳ đổi mới, nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết vấn đề dân
tộc, Đảng đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, như Nghị quyết 22-NQ/TW
ngày 27/11/1989 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách lớn phát 11
triển kinh tế-xã hội miền núi; Nghị quyết số 24/NQ/TW ngày 12/3/2003 của Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về công tác dân tộc; Chỉ thị số 49-CT/TW
ngày 20/10/2015 của Ban Bí thư về tăng cường và đổi mới công tác dân vận của
Đảng ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số…
-> Quan điểm, chủ trương, chính sách cơ bản của Đảng về dân tộc và
công tác dân tộc được thể chế hóa trong nhiều bộ luật, luật, pháp lệnh, nghị
định, nghị quyết, quyết định, chỉ thị, thông tư… của các cơ quan có thẩm quyền.
Có thể khẳng định, chính sách dân tộc của Đảng luôn được quán triệt và triển
khai thực hiện nhất quán trong mọi thời kỳ. Trong mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể,
chính sách dân tộc của Đảng luôn được bổ sung, hoàn thiện đáp ứng yêu cầu
thực tiễn và sự phát triển của đất nước.
-> Trên cơ sở tổng kết thực tiễn 30 năm đổi mới, Đại hội XIII của Đảng
tiếp tục khẳng định: “Đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược lâu dài trong sự
nghiệp cách mạng nước ta.”
-> Thực hiện chính sách dân tộc trong thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước
đã đề ra một loạt các chương trình, mục tiêu đối với vùng đồng bào các dân tộc
thiểu số và miền núi, Bộ Chính trị đã ban hành các Nghị quyết về phương hướng
phát triển kinh tế-xã hội và đảm bảo quốc phòng, an ninh đối với các tỉnh Tây
Nguyên, các tỉnh vùng Đồng bằng sông Cửu Long, vùng trung du và miền núi
Bắc Bộ, vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ. Ban Bí thư Trung ương
Đảng đã chỉ đạo các ban của Đảng, Ban cán sự đảng của các bộ, ngành liên quan
và cấp ủy các địa phương tiến hành sơ kết, tổng kết việc thực hiện các Chỉ thị,
Nghị quyết của Đảng về công tác dân tộc và đã ra nhiều kết luận quan trọng liên
quan đến công tác chỉ đạo thực hiện phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo quốc
phòng, an ninh đối với các vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống.
Ví dụ: Quân đội phát động các phong trào: “Quân đội
chung tay vì người nghèo không để ai bỏ lại phía sau”; “Quân
đội chung sức xây dựng nông thôn mới”.
Tóm lại, những quan điểm nêu trên vừa cơ bản, vừa có
giá trị lâu dài trong công tác dân tộc ở nước ta, gắn chặt với thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Vậy
chính sách về dân tộc và đoàn kết dân tộc của Đảng, Nhà
nước ta như thế nào? Sau đây chúng ta đi nghiên cứu điểm b.
b, Chính sách của Đảng, Nhà nước ta về vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc
Trong thời kỳ mới, Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện chính sách
dân tộc, đoàn kết dân tộc như sau:
Ngày 19/4/2009, làng văn hoá - du lịch các dân tộc Việt Nam đã vinh dự
được chọn là địa điểm để công bố ngày văn hoá các dân tộc Việt Nam. Đây là 1
ngày có ý nghĩa hết sức quan trọng để tôn vinh và toả sáng giá trị văn hoá các
dân tộc tại ngôi nhà chung của cộng đồng 54 dân tộc Việt Nam. Sự kiện này có 12
sức lan toả mạnh mẽ trong cả nước, thể hiện quan điểm, chính sách của Đảng và
Nhà nước ta về việc giữ vững và phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thực hiện chính sách dân tộc của Đảng
và Nhà nước ta trong thời kỳ mới cụ thể:
Một là, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo và nâng cao nhận thức, trách
nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng về công tác dân tộc, nhất là ở vùng đồng
bào dân tộc thiểu số và miền núi tr ong tình hình mới . Thể hiện:
-> Kiên trì thực hiện các quan điểm của Đảng về công tác dân tộc trong
các nghị quyết của Đảng; xác định công tác dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản,
lâu dài, cấp bách; là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và của cả hệ
thống chính trị. Công tác dân tộc và thực hiện các chương trình, chính sách dân
tộc phải là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, trong đó, phải tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng đối với công tác dân tộc, thực hiện đúng quan điểm của Đảng
“các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển”.
-> Các cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính
trị tiếp tục tập trung lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế - xã hội, ưu tiên phát
triển nguồn nhân lực, phát triển sản xuất, giảm nghèo và xây dựng kết cấu hạ
tầng. Đồng thời, giải quyết tốt các vấn đề xã hội, bảo tồn, phát triển văn hóa các dân tộc.
-> Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội bền vững với đảm bảo
quốc phòng, an ninh. Huy động, lồng ghép và sử dụng có hiệu quả các nguồn
lực để đầu tư, hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc, nhất là
vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, biên giới.
Hai là, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật liên quan đến đồng bào dân tộc thiểu số.
Các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh vùng dân
tộc miền núi phải toàn diện, hướng đến mục tiêu phát triển bền vững và phát huy
lợi thế, tiềm năng của vùng và tinh thần tự lực của đồng bào dân tộc thiểu số.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi;
tăng cường đồng thuận xã hội; củng cố lòng tin của đồng bào với Đảng và Nhà
nước, phát huy nội lực, vượt qua khó khăn, thách thức, hòa nhập phát triển cùng với đất nước.
Phân tích: Theo Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng tiếp tục xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật, bảo đảm cơ sở pháp lý ngày càng đầy đủ hơn cho
việc bảo vệ và thúc đẩy, phát triển các quyền con người, quyền công dân theo
tinh thần Hiến pháp năm 2013 và các công ước quốc tế mà Việt Nam tham gia,
yêu cầu tăng cường hoạt động lập pháp của Quốc hội như là điều kiện tiên quyết
để bảo đảm quyền con người. Trong đó, tập trung xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật bảo đảm các quyền con người về dân sự, chính trị; các quyền về
kinh tế, xã hội và văn hóa nói chung và quyền của nhóm đối tượng dân tộc thiểu số nói riêng.
-> Việc bảo đảm các quyền cho đồng bào DTTS phải được coi là đối
tượng ưu tiên trong việc hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền lợi của nhóm đối
tượng này. Không được có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào trong các quy định của
pháp luật và quyền lợi của người dân phải được bảo đảm trên thực tế trên các 13
lĩnh vực dân sự, chính trị, kinh tế - văn hóa - xã hội; thực hiện trên cơ sở nguyên
tắc bình đẳng giữa các dân tộc, bình đẳng trước pháp luật của công dân.
-> Việc bảo đảm các quyền của người dân phải được thể chế hóa bằng luật
pháp, được luật pháp tôn trọng, bảo vệ và có giá trị thực tiễn. Bảo đảm tính
thống nhất giữa pháp luật chung với những quy định mang tính đặc thù. Việc thể
chế hóa các nội dung quyền cụ thể căn cứ vào điều kiện, hoàn cảnh kinh tế - xã
hội cụ thể của đất nước, phù hợp trong từng giai đoạn.
-> Thực thi một cách đồng bộ và toàn diện các chương trình, chính sách
phát triển hạ tầng, kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo, cải thiện dịch vụ xã hội
và bảo tồn các giá trị văn hóa ở vùng dân tộc nhằm bảo đảm quyền kinh tế cho
mọi người, thực hiện công bằng xã hội và dần dần giảm sự phân cách giàu
nghèo giữa các vùng, các nhóm dân tộc. Cần có những chính sách đặc biệt để
tạo nên sự thay đổi toàn diện trong đời sống chính trị - kinh tế - văn hóa của
người dân một cách cơ bản theo các mục tiêu phát triển.
-> Xây dựng chế độ trách nhiệm thực thi nhiệm vụ của cán bộ công chức,
nhất là cán bộ công tác ở vùng DTTS, bảo đảm mỗi người có thể phát huy hết
năng lực cá nhân; đồng thời, xác định cụ thể trách nhiệm của mình trong quá
trình thực thi công vụ, giảm thiểu nguy cơ có thể xâm phạm các quyền của công
dân, quyền con người đối với đồng bào dân tộc là các đối tượng trình độ năng
lực pháp lý hạn chế, dễ bị tổn thương và ít có khả năng tự bảo vệ.
-> Xây dựng năng lực nội sinh là một ưu tiên để đồng bào dân tộc thực
thi, hội nhập trong chính sách phát triển quốc gia, biết tự chọn lọc, tự bảo vệ các
giá trị và quyền lợi cơ bản cá nhân cũng như cộng đồng trong khuôn khổ hệ
thống pháp luật nhà nước nói chung. Làm tốt công tác giáo dục, nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực, tăng cường nhận thức và phổ biến giáo dục pháp luật cho
các tầng lớp đồng bào dân tộc.
-> Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát trong thực thi pháp luật, chú
trọng đặc biệt đến công tác xét xử, công tác tư pháp. Tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng đối với cơ quan tư pháp để bảo đảm sự lãnh đạo chỉ đạo theo đường
lối, chủ trương lớn của Đảng ở tầm vĩ mô; tăng cường sự giám sát của Quốc hội,
Hội đồng nhân dân các cấp đối với cơ quan tư pháp và sự giám sát của đoàn thể,
tổ chức chính trị - xã hội trong thực thi pháp luật ở vùng dân tộc và chính sách dân tộc.
Ba là, phát huy mọi nguồn lực, khai thác tiềm năng, lợi thế để phát triển
bền vững vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.
Phân tích: Theo Kết luận số 65 - KL/TW về tiếp tục thực hiện Nghị quyết
số 24-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX về công tác dân
tộc trong tình hình mới. Bộ Chính trị yêu cầu phát huy mọi nguồn lực, khai thác
tiềm năng, lợi thế để phát triển bền vững vùng đồng bào dân tộc thiểu số và
miền núi; Ưu tiên nguồn lực nhà nước để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kinh
tế - xã hội, nhất là đường giao thông, công trình thuỷ lợi, chợ, trường học, trạm
y tế, nhà văn hoá phải được kiên cố hoá.
-> Phát huy mọi nguồn lực, khai thác tiềm năng, lợi thế để phát triển bền
vững vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; bảo đảm quốc phòng - an 14
ninh; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá tốt đẹp của các dân tộc. Tập trung giải
quyết có hiệu quả những vấn đề bức thiết. Rà soát, lồng ghép, sửa đổi, bổ sung
chính sách; nâng cao hiệu quả các chương trình, dự án; tăng cường hợp tác quốc
tế, đa dạng hoá và xã hội hoá nguồn lực để đầu tư phát triển vùng đồng bào dân
tộc thiểu số và miền núi. Thúc đẩy đào tạo nghề, tạo việc làm, nâng cao hiệu quả
và mở rộng vốn tín dụng ưu đãi đối với các dự án phát triển sản xuất, kinh doanh.
-> Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất hàng hoá,
phát huy thế mạnh của địa phương, phù hợp với văn hoá, tập quán từng dân tộc.
Hình thành và phát triển các vùng chuyên canh cây trồng, vật nuôi có năng suất,
chất lượng cao; nhân rộng các mô hình sản xuất hiệu quả, tạo sản phẩm đặc sản,
giá trị cao. Chú trọng phát triển liên vùng, rút ngắn khoảng cách phát triển giữa
các vùng. Quan tâm phát triển du lịch, nhất là du lịch sinh thái, gắn kết du lịch
với giữ gìn, phát huy giá trị văn hoá các dân tộc thiểu số.
-> Tập trung giải quyết cơ bản tình trạng thiếu đất sản xuất, đất ở, nhà ở,
nước sinh hoạt và tranh chấp, khiếu kiện về đất đai; đẩy nhanh việc hoàn thành
các dự án định canh, định cư mới gắn với quy hoạch sắp xếp, ổn định dân cư,
hạn chế và tiến tới chấm dứt tình trạng di cư tự phát. Đến năm 2025, giải quyết
cơ bản tình trạng thiếu đất sản xuất, đất ở cho đồng bào. Điều chỉnh cơ chế,
chính sách, định mức khoán bảo vệ rừng, tạo sinh kế cho người dân sống gần
rừng, bảo vệ môi trường sinh thái, không gian sinh sống của đồng bào.
-> Ưu tiên nguồn lực nhà nước để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế
- xã hội, nhất là đường giao thông, công trình thuỷ lợi, chợ, trường học, trạm y
tế, nhà văn hoá phải được kiên cố hoá; bảo đảm các hộ gia đình dân tộc thiểu số
được sử dụng điện lưới quốc gia, dịch vụ phát thanh, truyền hình, viễn thông,
tiếp cận công nghệ thông tin phục vụ nhu cầu sản xuất, sinh hoạt. Ban hành tiêu
chí nông thôn mới phù hợp với vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.
Phấn đấu đến năm 2030 không còn địa bàn khó khăn.
Bốn là, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất hàng
hóa, phát huy thế mạnh của địa phương, phù hợp với văn hóa, tập quán từng dân tộc.
Hình thành và phát triển các vùng chuyên canh cây trồng, vật nuôi có
năng suất, chất lượng cao; nhân rộng các mô hình sản xuất hiệu quả, tạo sản
phẩm đặc sản, giá trị cao.
Năm là, phát triển đồng bộ các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa, xã hội
vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.
Nâng cao chất lượng công tác giáo dục và đào tạo đối với vùng đồng bào
dân tộc thiểu số và miền núi.
Sáu là, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân
dân gắn với “thế trận lòng dân” vững chắc ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.
Chủ động nắm chắc tình hình, giải quyết những mâu thuẫn ngay từ cơ sở,
kiên quyết không để xảy ra các “điểm nóng”, “điểm phức tạp” về an ninh, trật
tự, đặc biệt ở các địa bàn chiến lược Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, Tây duyên hải miền Trung. 15
Bảy là, nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức đảng, chính quyền,
đoàn thể nhân dân, đội ngũ cán bộ cơ sở ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.
Tăng cường phát triển đảng viên là người dân tộc thiểu số và khắc phục
tình trạng không có tổ chức đảng và đảng viên ở các thôn, bản, nhất là đảng viên
là người dân tộc thiểu số ở những vùng trọng điểm, vùng đặc biệt khó khăn, vùng biên giới.
Tám là, nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về công tác dân tộc.
Rà soát, sửa đổi, bổ sung, lồng ghép, tích hợp các chính sách hiện hành để
hoàn thiện hệ thống chính sách liên quan đến đồng bào dân tộc thiểu số, vùng
đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, biển đảo.
Tóm lại, các quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà
nước ta về chính sách dân tộc góp phần tăng cường khối đại
đoàn kết toàn dân tộc và đấu tranh có hiệu quả với các quan
điểm sai trái muốn chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Vậy
quan điểm, chính sách tôn giáo như thế nào? Sau đây, chúng ta chuyển sang nghiên cứu phần
II. QUAN ĐIỂM, CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ
NƯỚC TA TRONG TÌNH HÌNH MỚI (01.05).
1. Một số đặc điểm, tình hình tôn giáo ở Việt Nam (00. 20)
Ở Việt Nam hiện nay, khoảng 95% dân số có đời sống tín ngưỡng, tôn
giáo. Nhà nước ta đã công nhận 14 tôn giáo và cấp đăng ký hoạt động cho 39 tổ
chức tôn giáo với hơn 100.000 chức sắc và nhà tu hành, gần 26.000 cơ sở thờ tự
và trên 30 triệu tín đồ, chiếm 1/3 dân số cả nước. Tình hình tôn giáo có các đặc trưng cụ thể:
- Việt Nam là một quốc gia có nhiều tín ngưỡng, tôn giáo, nhiều người có
tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau đang tồn tại.
Vị trí: Đặc điểm thể hiện sự đa dạng, phong phú của hoạt động tôn giáo ở Việt Nam. Thể hiện:
-> Việt Nam là nước đa tôn giáo. Trong đó: Phật giáo có trên 14 triệu tín
đồ, có mặt hầu hết ở các tỉnh, thành phố trên cả nước. Thiên chúa giáo có trên 6
triệu tín đồ, có mặt ở trên 50 tỉnh, thành phố. Cao đài có trên 3,5 triệu tín đồ, có mặt
chủ yếu ở các tỉnh Nam Bộ. Phật giáo Hòa hảo có gần 1,5 triệu tín đồ, tập trung
chủ yếu ở các tỉnh miền Tây Nam Bộ. Đạo Tin Lành có khoảng 1,5 triệu tín đồ,
tập trung ở các tỉnh: Đà Nẵng, Quảng Nam, Tp Hồ Chí Minh, Bến Tre, Long An,
Tây Nguyên và một số tỉnh phía Bắc. Hồi giáo gần 7 vạn tín đồ, tập trung chủ
yếu ở các tỉnh: An Giang, TP Hồ Chí Minh, Bình Thuận, Ninh Thuận... 16
-> Về cơ sở đào tạo: Giáo hội phật giáo có 4 học viện Phật giáo và gần 50
trường Cao đẳng, trung cấp phật học; giáo hội Công giáo có 6 Đại chủng viện
với hàng nghìn chủng sinh.
-> Sự đa dạng, phong phú về hoạt động tôn giáo đó còn thể hiện trong
một làng xã, thậm chí trong một dòng họ, một gia đình cũng đã có hoạt động của
1 số tôn giáo khác nhau. Nhưng tất cả đều rất hòa hợp, tôn trọng nhau, đoàn kết
cùng nhau trong cuộc sống. Hàng năm, cả nước có khoảng 8.500 lễ hội, tín
ngưỡng được tổ chức ở các quy mô khác nhau trên phạm vi cả nước Khẳng định:
Đặc điểm này khẳng định Việt Nam là một quốc gia đa tôn giáo, mọi hình
thức tôn giáo thì luôn được tự do, tôn trọng, bình đẳng,...
- Đại đa số tín đồ các tôn giáo là người lao động.
Nước ta là nước nông nghiệp, nông dân chiếm tỷ lệ rất lớn, nên tín đồ hầu
hết là nông dân cư trú trên địa bàn cả nước, một bộ phận tín đồ là đồng bào dân
tộc thiểu số theo các tôn giáo cư trú ở các địa bàn Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ.
- Trong công cuộc đổi mới đất nước, cơ bản chức sắc, chức việc và tín đồ
các tôn giáo tích cực thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước, hành đạo trong khuôn khổ Hiến Pháp, pháp luật, sống “tốt đời, đẹp đạo”.
Biểu hiện: Người có, cũng như không có tín ngưỡng, tôn giáo đều phát
huy tinh thần yêu nước, gắn bó với dân tộc, góp phần xây dựng khối đại đoàn
kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa. Những giá trị đó được thể hiện ở giáo lý và phương châm hành đạo của các tôn giáo như:
-> Phật giáo cho rằng đời là khổ, con đường để giải thoát là thực hành
điều thiện gây nhân lành.
-> Đạo Cao Đài quy định người tín đồ phải khắc kỷ tu thân, kiềm chế các
ham muốn trái đạo đức truyền thống.
-> Phật giáo Hòa Hảo dạy tín đồ trau sửa thân tâm trở nên thiện mỹ đồng
thời cũng đào tạo nên mẫu người lý tưởng khi sống trong cộng đồng.
-> Trong mười điều răn đạo đức của Kitô giáo(Công giáo và Tin Lành), có
răn dạy tín đồ hãy thờ cha kính mẹ như Đức Chúa, Thiên Chúa không được giết
người, không được ngoại tình, không được trộm cắp...
-> Giáo lý của Hồi giáo (Việt Nam) nghiêm cấm các tín đồ thực hành mê
tín dị đoan; dùng các chất kích thích làm mê muội, không tự chủ được bản thân
như rượu chè, ma túy và mại dâm...
- Tuy nhiên, tình hình hoạt động tôn giáo còn có những diễn biến phức
tạp, tiềm ẩn các yếu tố có thể gây mất ổn định chính trị - xã hội. Biểu hiện:
-> Một số phần tử cực đoan trong tôn giáo đẩy mạnh củng cố tổ chức, phát triển
tín đồ, phô trương thanh thế, lợi dụng truyền đạo trái pháp luật, kích động tín đồ
đòi đất, cơ sở thờ tự của tôn giáo.
Ví dụ: Điển hình là lợi dụng sự cố môi trường ở các tỉnh
Miền Trung do Formosa gây ra, một số chức sắc cực đoan trong 17
Công giáo thuộc Giáo phận Vinh đã tổ chức, kích động giáo dân
tổ chức nhiều cuộc biểu tình, tuần hành dưới danh nghĩa “bảo
vệ môi trường”, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự tại các
địa phương, gây bức xúc, khó khăn trong đời sống nhân dân cả
người theo tôn giáo và người không theo tôn giáo.
-> Ở một số nơi, nhất là ở vùng dân tộc thiểu số (Tây Bắc, Tây Nguyên,
Tây Nam Bộ), một số người đã lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo kích động tín đồ
tham gia hoạt động gây rối, chống đối chính quyền, bạo lạn, đòi ly khai, phá
hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, gây mất ổn định chính trị - xã hội.
Ví dụ: Sự kiện “Vương quốc Mông” diễn ra ở tỉnh Điện
Biên vào tháng 5 năm 2011; bạo loạn ở Tây Nguyên vào các năm 2001, 2004, 2008...
-> Thành lập các hội đoàn tôn giáo mang yếu tố chính trị, kích động tín đồ
o ép, làm giảm vai trò, uy tín của đảng viên có đạo ở cơ sở. Còn có “tà đạo” phát
triển yếu tố mê tín dị đoan, phản văn hóa, trái với thuần phong mỹ tục của dân
tộc như; tà đạo Hà Mòn ở Tây Nguyên năm 2006; tà đạo Đức thánh chúa trời
được truyền vào Việt Nam năm 2001 và phát triển mạnh từ năm 2018 …
-> Các thế lực thù địch trong và ngoài nước triệt để lợi dụng hoạt động tín
ngưỡng, tôn giáo gắn với vấn đề dân tộc, dân chủ, nhân quyền để chống phá cách mạng nước ta. Cụ thể như:
-> Trong thời gian gần đây, một số thế lực thù địch vu cáo về cái gọi là
“Việt Nam lạm dụng nhân quyền đối với người Khmer ở các địa phương Tây
Nam Bộ”. Họ bịa đặt rằng chính phủ Việt Nam đang thực thi chính sách phân
biệt đối xử với người Khmer, rằng đồng bào Khmer không được tự do thực hiện
các quyền tự do tôn giáo...với những luận điệu vu cáo này, các thế lực chống đối
Việt Nam đã cố tình xuyên tạc cuộc sống hiện nay của đông đảo đồng bào
Khmer Nam Bộ nhằm phá hoại sự thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt
Nam, đòi tách Nam Bộ ra khỏi Việt Nam.
=> Tóm lại: Từ nội dung đặc điểm này đặt ra yêu cầu cho mỗi quân nhân
cần phải tích cực hơn nữa trong học tập nắm nội dung cơ bản của đặc điểm, tình
hình tôn giáo ở nước ta hiện nay nói chung, nơi địa bàn đóng quân, nơi đơn vị
làm nhiệm vụ và địa phương của mỗi quân nhân nói riêng. Từ đó nêu cao tinh
thần cảnh giác, ý thức trách nhiệm trong xây dựng đoàn kết tôn giáo. Đặc biệt là
đoàn kết giữa các đ/c theo tôn giáo và không theo tôn giáo trong đơn vị.
Hiện nay các thế lực thù địch trong và ngoài nước triệt để lợi dụng hoạt
động tín ngưỡng, tôn giáo gắn với vấn đề dân tộc, dân chủ, nhân quyền để chống
phá cách mạng nước ta. Vậy nước ta đã có những quan điểm chính sách như thế
nào sau đây chúng ta nghiên cứu phần
2. Quan điểm, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta trong
tình hình mới. (0045. )
Hoạt động tôn giáo và công tác tôn giáo phải nhằm tăng cường đoàn kết
đồng bào các tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức mạnh
tổng hợp của toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện 18
đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu “dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng xác định: “Vận động, đoàn kết,
tập hợp các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ sống “tốt đời đẹp đạo”, đóng góp
tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bảo đảm cho các tổ chức
tôn giáo hoạt động theo quy định pháp luật và hiến chương, điều lệ được Nhà
nước công nhận. Phát huy những giá trị văn hoá, đạo đức tốt đẹp và các nguồn
lực của các tôn giáo cho sự nghiệp phát triển đất nước. Kiên quyết đấu tranh và
xử lý nghiêm minh những đối tượng lợi dụng tôn giáo chống phá Đảng, Nhà
nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; chia rẽ, phá hoại đoàn kết tôn giáo và khối đại
đoàn kết toàn dân tộc”.
Có thể khái quát quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về tôn
giáo ở những nội dung cơ bản sau: Một là, t ín
ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân
dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Vị trí: Đây là quan điểm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng
thể hiện nhận thức và tư duy đúng đắn của Đảng về vấn đề tôn giáo.
Đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng,
theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường
theo đúng pháp luật. Các tôn giáo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, bình đẳng trước pháp luật. Thể hiện:
-> Quan điểm, chủ trương của Đảng về tín ngưỡng, tôn giáo và công tác tôn
giáo được thể hiện rõ nét trong Hiến pháp 1992, Hiến pháp 2013. Cụ thể: Hiến
pháp 2013 tiếp tục khẳng định “Mọi người có quyền bình đẳng theo hoặc không
theo một tôn giáo nào”, “Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tôn giáo”.
Nước ta hiện nay có 14 tôn giáo, với trên 30 triệu tín đồ, chiểm khoảng 1/3
dân số, 39 tổ chức tôn giáo; khoảng 95% dân số có đời sống tâm linh.
Tín ngưỡng tôn giáo hiện đang là nhu cầu tinh thần của một bộ phận đông
đảo nhân dân, sẽ tồn tại lâu dài cùng dân tộc và cùng với chế độ XHCN ở nước ta.
Tuy nhiên, tín ngưỡng tôn giáo đang có những biến đổi mạnh mẽ trước biến động
của thế giới, của xu thế toàn cầu và sự phát triển đi lên của đất nước.
Vì vậy, quán triệt quan điểm này cần khắc phục các biểu hiện: Chủ quan,
duy ý chí, phiến diện trong nhận thức và giải quyết vấn đề tôn giáo.
Hai là, Đảng, Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết toàn dâ n tộc .
Vị trí: Đây là quan điểm, chính sách quan trọng, thể hiện
tính đúng đắn của Đảng, Nhà nước ta, thực hiện tốt quan điểm
sẽ tạo ra động lực chủ yếu để phát triển kinh tế, xã hội đất nước. 19
Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau; đoàn kết đồng bào theo tôn
giáo và đồng bào không theo tôn giáo. Giữ gìn và phát huy những giá trị tích cực
của truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh những người có công với Tổ quốc và nhân dân.
Nghiêm cấm sự phân biệt đối xử với công dân vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo.
Đồng thời, nghiêm cấm lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động mê tín dị đoan,
hoạt động trái pháp luật và chính sách của Nhà nước, kích động chia rẽ nhân dân,
chia rẽ các dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia. Thể hiện:
-> Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau, đoàn kết đồng bào
không theo tôn giáo và đồng bào theo tôn giáo. Phát huy những giá trị văn hóa,
đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo, động viên các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín
đồ sống tốt đời, đẹp đạo, tham gia đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
-> Do vậy, thực hiện quan điểm này, một mặt phải đoàn kết đồng bào theo
những tôn giáo khác nhau; mặt khác, phải đoàn kết đồng bào theo tôn giáo và
đồng bào không theo tôn giáo, giải quyết tốt mối quan hệ người có tín ngưỡng
khác nhau với người theo chủ nghĩa vô thần. Quán triệt quan điểm này cần khắc
phục các biểu hiện như phân biệt đối xử, đố kỵ, mặc cảm vì lý do tín ngưỡng tôn
giáo và kiên quyết chống ấm mưu, thủ đoạn lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo, chia
rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc.
Ví dụ: Thực hiện nguyên tắc: “Dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” trong xây dựng
khối đại đoàn kết dân tộc trong thời kỳ mới.
Ba là, nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng.
Đây là tư tưởng chỉ đạo quan trọng nói lên thực chất của công tác tôn giáo
gắn với mục tiêu là dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Mục
tiêu trên chính là cơ sở để phát huy sự tương đồng, khắc phục sự khác biệt của quần chúng có đạo. Thể hiện:
-> Đối tượng của công tác vận động quần chúng bao gồm: Tín đồ, chức
sắc, nhà tu hành trong từng tôn giáo; đồng thời cũng phải vận động quần chúng
không có tôn giáo thực hiện chính sách tôn giáo.
-> Công tác vận động quần chúng trong công tác tôn giáo bao gồm: Công
tác giáo dục, tổ chức phong trào quần chúng, tổ chức các chương trình phát triển
kinh tế - xã hội và xây dựng hệ thống chính trị ở địa phương. Quán triệt quan
điểm này cần khắc phục các biểu hiện: Hành chính, quan liêu, cửa quyền, xa rời
quần chúng hoặc hữu khuynh theo đuôi quần chúng. Thể hiện:
-> Nhà nước ta đã có hiến pháp, pháp luật quy định về hoạt động tôn giáo,
chủ yếu là thực hiện vân động các tổ chức tôn giáo và giáo dân tích cực nâng
cao tinh thần yêu nước, xây dựng khu dân cư văn hoá an toàn lành mạnh. Thông
qua thực hiện tốt các chính sách kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, bảo đảm 20
lợi ích vật chất và tinh thần của nhân dân nói chung, trong đó có đồng bào các tôn giáo.
-> Nhà nước chỉ tiến hành xử lý những trường hợp là phần tử cơ hội, có tư
tưởng xuyên tạc đi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về vấn đề tôn
giáo, kích động nhân dân, gây chia rẽ lương- giáo, gây chia rẽ giữa giáo dân và chính quyền.
Bốn là, công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị .
Công tác tôn giáo liên quan đến mọi lĩnh vực, mọi mặt của đời sống xã
hội, mọi ngành mọi cấp từ Trung ương đến cơ sở. Trong công tác tôn giáo, Đảng
là nhân tố lãnh đạo toàn bộ hệ thống chính trị trong quá trình tiến hành công tác;
Nhà nước quản lý hoạt động tôn giáo và công tác tôn giáo theo quy định của
Hiến pháp, pháp luật; Mặt trận và các đoàn thể nhân dân quán triệt đường lối,
chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước về vận động quần chúng
thực hiện tốt chính sách tôn giáo. Quán triệt quan điểm này cần khắc phục các
biểu hiện: thiếu cộng tác, phối hợp chặt chẽ đồng bộ để phát huy sức mạnh tổng
hợp hoặc buông lỏng quản lý, lấn sân lẫn nhau. Thể hiên:
-> Từ việc Đảng định ra đường lối, sau đó các tổ chức cụ thể hoá thành
các biện pháp tổ chức thực hiện đồng bộ từ Trung ương đến địa phương. Trách
nhiệm của các cấp các ngành đối với công tác tôn giáo, thường xuyên quan tâm
tới các hoạt động của giáo dân, quan tâm chia sẻ những khó khăn, trong xây
dựng đời sống kinh tế, đời sống văn hoá...
Năm là, vấn đề theo đạo và truyền đạo. Thể hiện:
Mọi tín đồ đều có quyền tự do hành đạo tại gia đình và cơ sở thờ tự hợp
pháp theo quy định của pháp luật.
Các tổ chức tôn giáo được Nhà nước thừa nhận được hoạt động theo pháp
luật và được pháp luật bảo hộ, được hoạt động tôn giáo, mở trường đào tạo chức
sắc, nhà tu hành, xuất bản kinh sách và giữ gìn, sửa chữa, xây dựng cơ sở thờ tự
tôn giáo của mình theo đúng quy định của pháp luật.
Việc theo đạo, truyền đạo cũng như mọi hoạt động tôn giáo khác đều phải
tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; không được lợi dụng tôn giáo tuyên truyền tà
đạo, hoạt động mê tín dị đoan, không được ép buộc người dân theo đạo. Nghiêm
cấm các tổ chức truyền đạo, người truyền đạo và các cách thức truyền đạo trái
phép, vi phạm các quy định của Hiến pháp và pháp luật. Quán triệt quan điểm
này cần khắc phục các biểu hiện như can thiệp thô bạo vào công việc nội bộ
thuần túy tôn giáo; buông lỏng quản lý trước các hành vi vi phạm các quy định
của Hiến pháp, pháp luật trong hoạt động tôn giáo.
Ví dụ: “Hội thánh Đức Chúa trời Mẹ” được cho là một loại dị giáo, tà
đạo, là tôn giáo hoạt động trái phép, gây phức tạp về an ninh chính trị, trật tự
an toàn xã hội ở nhiều địa phương trong nước ta. “Hội thánh Đức Chúa trời
Mẹ” tuyên truyền cho “tín đồ” đập bỏ bát hương, bàn thờ, không thờ cúng tổ
tiên, ông bà; bỏ chồng con, bỏ bê công việc, học hành, mang tiền đi phụng sự tổ
chức, gây chia rẽ trong gia đình, dòng họ…