-
Thông tin
-
Quiz
Quan điểm của C.Mác – Ph.Ăngghen, V.I.Lênnin về chủ nghĩa quốc tế vô sản và sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam | Tiểu luận Xây dựng đảng
Những người đặt nền móng cho chủ nghĩa quốc tế có thể kể đến như I. Kant với phương án “hòa bình vĩnh viễn” (Chủ nghĩa thế giới/ Cosmopolitanism - mô hình nhà nước thế giới) hay mô hình xã hội toàn cầu của những người theo chủ nghĩa xã hội không tưởng. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Xây dựng Đảng 56 tài liệu
Học viện Báo chí và Tuyên truyền 2.5 K tài liệu
Quan điểm của C.Mác – Ph.Ăngghen, V.I.Lênnin về chủ nghĩa quốc tế vô sản và sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam | Tiểu luận Xây dựng đảng
Những người đặt nền móng cho chủ nghĩa quốc tế có thể kể đến như I. Kant với phương án “hòa bình vĩnh viễn” (Chủ nghĩa thế giới/ Cosmopolitanism - mô hình nhà nước thế giới) hay mô hình xã hội toàn cầu của những người theo chủ nghĩa xã hội không tưởng. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Môn: Xây dựng Đảng 56 tài liệu
Trường: Học viện Báo chí và Tuyên truyền 2.5 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:




















Tài liệu khác của Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Preview text:
1
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN ------------------------- TI ỂU LUẬN
MÔN HỌC: XÂY DỰNG ĐẢNG
ĐỀ TÀI: Quan điểm của C.Mác – Ph.Ăngghen, V.I.Lênnin về chủ
nghĩa quốc tế vô sản và sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam
Sinh viên: Nguyễn Hoài Thu Trang
Mã số sinh viên: 2055270100
Lớp: Quản lý kinh tế A2 K40 2
Hà nội, ngày 01 tháng 06 năm 2021
PHẦN MỞ ĐẦU............................................................................................................4
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu.....................................................................4
2. Mục đích và nhiệm vụ..........................................................................................5
2.1. Mục đích...........................................................................................................5
2.2. Nhiệm vụ...........................................................................................................5
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu........................................................................5
3.1. Đối tượng nghiên cứu.......................................................................................5
3.2. Phạm vi nghiên cứu..........................................................................................5
4. Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu...............................................................6
4.1. Cơ sở lý luận.....................................................................................................6
4.2. Phương pháp nghiên cứu..................................................................................6
PHẦN NỘI DUNG........................................................................................................7
I. Quan điểm của C.Mác – Ph.Ăngghen, V.I.Lênnin về chủ nghĩa quốc tế vô
sản.....................................................................................................................7
1.Khái niệm về chủ nghĩa quốc tế, chủ nghĩa quốc tế vô sản..............................7
2. Chủ nghĩa quốc tế vô sản là ý thức về sự thống nhất lợi ích giai cấp của những người vô sản trên toàn thế
giới....................................................................9
3. Chủ nghĩa quốc tế vô sản là ý thức về sự thống nhất lợi ích giai cấp của những người vô sản trên toàn thế
giới..................................................................11 3
4. Chủ nghĩa quốc tế vô sản là sự thống nhất về mục tiêu quốc tế của giai
cấp công nhân với việc họ trở thành giai cấp đại biểu cho lợi ích của dân tộc...12
5. Chủ nghĩa quốc tế vô sản là sự thống nhất nhận thức lý luận về sứ
mệnh lịch sử thế giới của giai cấp công nhân.....................................................13
6. Chủ nghĩa quốc tế vô sản là sự phối hợp hành động cách mạng của giai
cấp công nhân ở các nước trên toàn thế giới......................................................14
II. Sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam...............................................16
1. Vận dụng, phát triển sáng tạo về lực lượng cách
mạng.......................16
2. Vận dụng, phát triển nhận thức lý luận về thời kỳ quá độ..................16
PHẦN KẾT LUẬN......................................................................................................18
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................................18 4 PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong kỷ nguyên thông tin và toàn cầu hóa, chủ nghĩa quốc tế hiện đang có
được nền tảng hiện thực để bám rễ và phát triển. Chúng ta đang đối mặt với một
thực tế là: bên cạnh những tương tác giữa các nhà nước, quan hệ quốc tế còn
được cấu thành từ mạng lưới quan hệ và trao đổi hoạt động của các chủ thể
xuyên quốc gia, các chủ thể phi nhà nước (nonstate actors) đến từ hai khu vực: dân sự và thị trường.
Những người đặt nền móng cho chủ nghĩa quốc tế có thể kể đến như I. Kant
với phương án “hòa bình vĩnh viễn” (Chủ nghĩa thế giới/ Cosmopolitanism - mô
hình nhà nước thế giới) hay mô hình xã hội toàn cầu của những người theo chủ
nghĩa xã hội không tưởng...
Tuy nhiên, chỉ đến C.Mác, chủ nghĩa quốc tế mới thật sự phát triển lên một
cấp độ mới về chất. Bởi đây là mô hình không dựa vào “nhà nước - dân tộc”,
không lấy “nhà nước - dân tộc” làm trung tâm và làm đơn vị của hệ thống - như
đã từng có trước đây. Thay vào đó, Ông coi giai cấp vô sản là một chủ thể quan
hệ quốc tế cơ bản. Mạng lưới liên kết xuyên quốc gia của những người công
nhân sẽ tạo ra sức mạnh để xóa bỏ hệ thống quan hệ quốc tế đương thời vốn lấy
nhà nước - dân tộc làm trung tâm. Mệnh đề “Vô sản toàn thế giới liên hiệp lại”
trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” đã trở thành khẩu hiệu của Quốc tế 5
cộng sản I do C.Mác sáng lập. Trong chủ nghĩa quốc tế vô sản của C.Mác, đã
không có chỗ cho các nhà nước - dân tộc.
Bất chấp sự khác biệt về quốc gia, chủng tộc hay văn hóa, giai cấp công
nhân ở tất cả các nước đều có lợi ích giống nhau. Họ (giai cấp công nhân) đại
diện cho lực lượng sản xuất tiến bộ, có tính xã hội hóa cao, vượt ra khỏi khuôn
khổ nhỏ hẹp được vạch ra bởi các đường biên giới quốc gia, và do đó, họ đối
lập với bên kia là giai cấp tư sản - những người đại diện cho quan hệ sản xuất
dựa trên tư hữu và được hậu thuẫn bởi nhà nước - dân tộc.
Chính vì lẽ đó, em đã quyết định lựa chọn đề tài: “ Quan điểm của C.Mác –
Ph.Ăngghen, V.I.Lênnin về chủ nghĩa quốc tế vô sản và sự vận dụng của Đảng
Cộng sản Việt Nam ” là đề tài tiểu luận kết thúc học phần Xây Dựng Đảng.
2. Mục đích và nhiệm vụ 2.1 Mục đích
Nghiên cứu quan điểm của C.Mác – Ph.Ăngghen, V.I.Lênnin về chủ
nghĩa quốc tế vô sản, từ đó nghiên cứu sự vận dụng của Đảng Cộng sản
Việt Nam trong công cuộc đấu tranh, giành lại độc lập chủ quyền, xây dựng đất nước. 2.2 Nhiệm vụ
- Phân tích rõ quan điểm của C.Mác – Ph.Ăngghen, V.I.Lênnin về chủ nghĩa quốc tế vô sản.
- Phân tích sự vận dụng quan điểm về chủ nghĩa vô sản của Đảng Cộng
sản Việt Nam vào thực tiễn Cách mạng Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu 6
Bài luận nghiên cứu về nội dung quan điểm của C.Mác – Ph.Ăngghen,
V.I.Lênnin về chủ nghĩa quốc tế vô sản và ý nghĩa của nó, sự vận dụng nó
vào thực tiễn Cách mạng Việt Nam của Đảng Cộng sản Việt Nam. 3.2 Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung: nội dung quan điểm của C.Mác – Ph.Ăngghen,
V.I.Lênnin về chủ nghĩa quốc tế vô sản và nội dung sự vận dụng của
Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Phạm vi thời gian: Bài luận nghiên cứu trong khoảng thời gian thế kỉ XX.
- Phạm vi không gian: Bài luận nghiên cứu quan điểm của C.Mác –
Ph.Ăngghen, V.I.Lênnin về chủ nghĩa quốc tế vô sản trên toàn thế giới và
sự vận dụng của Đảng Cộng sản ở Việt Nam.
4. Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu. 4.1 Cơ sở lý luận
Vận dụng chủ nghĩa duy vật lịch sử và phép biện chứng của chủ nghĩa
Mác – Lênin, tư tưởng của Hồ Chí Minh và những quan điểm của Đảng
làm cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu.
4.2 Phương pháp nghiên cứu
Bài luận sử dụng các phương pháp lịch sử, logic, so sánh. 7 PHẦN NỘI DUNG I.
Quan điểm của C.Mác – Ph.Ăngghen, V.I.Lênnin về chủ nghĩa quốc tế
1. Khái niệm về chủ nghĩa quốc tế, chủ nghĩa quốc tế vô sản
Trong khoa học chính trị, khái niệm “chủ nhĩa quốc tế”/ (Internationalism)
dùng để chỉ quan điểm và thực tiễn của sự hợp tác xuyên/liên quốc gia hoặc hợp tác toàn cầu.
Thứ nhất, những người theo quan điểm chủ nghĩa quốc tế cho rằng: loài
người có những lợi ích chung vượt qua khuôn khổ về chủng tộc, dân tộc, nhà
nước, văn hóa; đơn cử như các lợi ích đến từ việc bảo vệ môi trường, bảo vệ các
giá trị nhân đạo, tính đa dạng văn hóa, sức khỏe cộng đồng, xóa đói nghèo,
chống bất bình đẳng giới... Bởi vậy, sự hợp tác vượt qua những ranh giới nói
trên để thực hiện những lợi ích chung là một xu hướng phát triển tất yếu của
nhân loại; chỉ có điều nó đến sớm hay muộn mà thôi.
Thứ hai, họ cũng cho rằng: hợp tác tạo ra sức mạnh và lợi ích nhiều hơn so
với những gì xung đột mang lại. Điều này đã được chứng thực bởi trạng thái của
các xã hội nằm trong lòng nhà nước - dân tộc (nation-state): các xã hội có liên
kết ổn định, hòa bình luôn tốt hơn các xã hội xung đột và chiến tranh. Tuy
nhiên, sự liên kết và hợp tác như vậy lại chưa được áp dụng thỏa đáng trong môi
trường quan hệ quốc tế truyền thống. Cho đến nay, quan hệ giữa các nhà nước -
dân tộc về cơ bản vẫn mang nặng sắc thái “vô chính phủ”, “tự lực” và “cạnh 8
tranh”…Ý tưởng này của chủ nghĩa quốc tế đã đặt nền móng cho sự hình thành
Quốc Hội Liên (trước đó) và Liên Hợp quốc (hiện nay).
Trong kỷ nguyên thông tin và toàn cầu hóa, chủ nghĩa quốc tế hiện đang có
được nền tảng hiện thực để bám rễ và phát triển. Chúng ta đang đối mặt với một
thực tế là: bên cạnh những tương tác giữa các nhà nước, quan hệ quốc tế còn
được cấu thành từ mạng lưới quan hệ và trao đổi hoạt động của các chủ thể
xuyên quốc gia, các chủ thể phi nhà nước (nonstate actors) đến từ hai khu vực: dân sự và thị trường.
Những người đặt nền móng cho chủ nghĩa quốc tế có thể kể đến như I. Kant
với phương án “hòa bình vĩnh viễn” (Chủ nghĩa thế giới/ Cosmopolitanism - mô
hình nhà nước thế giới) hay mô hình xã hội toàn cầu của những người theo chủ
nghĩa xã hội không tưởng...
Tuy nhiên, chỉ đến C.Mác, chủ nghĩa quốc tế mới thật sự phát triển lên một
cấp độ mới về chất. Bởi đây là mô hình không dựa vào “nhà nước - dân tộc”,
không lấy “nhà nước - dân tộc” làm trung tâm và làm đơn vị của hệ thống - như
đã từng có trước đây. Thay vào đó, Ông coi giai cấp vô sản là một chủ thể quan
hệ quốc tế cơ bản. Mạng lưới liên kết xuyên quốc gia của những người công
nhân sẽ tạo ra sức mạnh để xóa bỏ hệ thống quan hệ quốc tế đương thời vốn lấy
nhà nước - dân tộc làm trung tâm. Mệnh đề “Vô sản toàn thế giới liên hiệp lại”
trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” đã trở thành khẩu hiệu của Quốc tế
cộng sản I do C.Mác sáng lập. Trong chủ nghĩa quốc tế vô sản của C.Mác, đã
không có chỗ cho các nhà nước - dân tộc.
Bất chấp sự khác biệt về quốc gia, chủng tộc hay văn hóa, giai cấp công
nhân ở tất cả các nước đều có lợi ích giống nhau. Họ (giai cấp công nhân) đại
diện cho lực lượng sản xuất tiến bộ, có tính xã hội hóa cao, vượt ra khỏi khuôn
khổ nhỏ hẹp được vạch ra bởi các đường biên giới quốc gia, và do đó, họ đối
lập với bên kia là giai cấp tư sản - những người đại diện cho quan hệ sản xuất
dựa trên tư hữu và được hậu thuẫn bởi nhà nước - dân tộc. 9
Đây là cơ sở khách quan để giai cấp vô sản có được chủ nghĩa quốc tế đích
thực; điều mà giai cấp tư sản không thể có, bởi tính quy định cố hữu của giai
cấp tư sản là “tư hữu” mà không phải là “xã hội”.
Cũng theo lôgic trên, để cuộc cách mạng vô sản thành công, đòi hỏi phải có
sự phối hợp quốc tế (toàn thế giới) của những người công nhân. Cách mạng vô
sản không thể nổ ra ở một nước mà phải diễn ra đồng loạt trong sự tương tác và
hỗ trợ lẫn nhau trên toàn thế giới. Ý tưởng này đã thúc đẩy C.Mác khởi xướng
một cơ chế phối hợp hành động cho giai cấp vô sản của các nước trên thế giới -
đó chính là Quốc tế Cộng sản I.
Như vậy, có thể thấy quan niệm của C.Mác về chủ nghĩa quốc tế khác hẳn
với các lý thuyết về quan hệ quốc tế lấy nhà nước - dân tộc làm trung tâm. Về
thực chất nó là lý thuyết nhằm xóa bỏ hệ thống này để thay vào đó là trao quyền
lực cho mạng lưới xuyên quốc gia của giai cấp vô sản nhằm thực hiện một sứ
mệnh cao cả là xóa bỏ mọi chế độ người bóc lột người, xóa bỏ giai cấp, và dĩ
nhiên là xóa bỏ luôn công cụ trấn áp của giai cấp thống trị dưới hình thái nhà nước.
Có thể khái quát những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ
nghĩa quốc tế vô sản như sau: “ Sự đoàn kết, thống nhất về ý chí và đội ngũ của
giai cấp công nhân chính là nội dung cơ bản, nguyên tắc hàng đầu ”. Tuyên
ngôn của Đảng Cộng sản do C.Mác và Ph.Ăngghen thay mặt Liên đoàn những
người cộng sản viết và được công bố vào tháng 3-1848 có lời kết như lời kêu
gọi và cũng là mệnh lệnh hành động của tất cả những người vô sản trên thế
giới: Công nhân toàn thế giới hãy liên hiệp lại! Đây là điểm mà những người
nghiên cứu về chủ nghĩa Mác đều thống nhất khi đề cập đến nội dung của chủ nghĩa quốc tế vô sản.
2. Chủ nghĩa quốc tế vô sản là ý thức về sự thống nhất lợi ích giai
cấp của những người vô sản trên toàn thế giới. 10
Ý thức về sự thống nhất này xuất phát trước hết từ địa vị kinh tế xã hội
của họ. Mác chỉ ra rằng chính phương thức sản xuất đại công nghiệp TBCN là
nguyên nhân khách quan của thuộc tính này.
“Nói chung, công nghiệp lớn tạo ra ở khắp nơi những quan hệ như nhau
giữa các giai cấp xã hội và do đó xóa bỏ tính chất riêng biệt của những dân tộc
khác nhau. Và sau hết, trong khi giai cấp tư sản của mỗi dân tộc còn duy trì
những lợi ích dân tộc riêng biệt thì công nghiệp lớn lại tạo ra một giai cấp cùng
có những lợi ích như nhau trong tất cả các dân tộc, một giai cấp không còn tính
riêng biệt dân tộc nữa...”.
Lênin đã làm rõ vấn đề này thông qua việc phân tích tính chất xã hội hóa
ở phạm vi thế giới của công nghiệp hiện đại: “Thực vậy, việc sản xuất cho một
thị trường rộng lớn ở trong nước và trên thế giới, việc phát triển mối liên hệ
thương nghiệp chặt chẽ về mua bán nguyên liệu và vật liệu phụ giữa các miền
trong nước và giữa các nước với nhau, bước tiến bộ vĩ đại về kỹ thuật, việc tập
trung sản xuất và nhân khẩu trong những xí nghiệp lớn, truyền thống cổ hủ của
chế độ gia trưởng bị phá vỡ, lớp dân cư di động được tạo ra, mức nhu cầu và
trình độ văn hóa của công nhân được nâng cao, - tất cả những cái đó đều là
những nhân tố của quá trình tư bản chủ nghĩa, quá trình làm cho sản xuất ở
trong nước ngày càng được xã hội hóa, và do đấy, làm cho người tham gia sản
xuất cũng ngày càng được xã hội hóa”.
Sự thống nhất đó cũng làm thành nền tảng cho mối liên hệ bình đẳng về
lợi ích, tinh thần trách nhiệm với sự nghiệp chung của giai cấp công nhân ở các
quốc gia - dân tộc: “Muốn cho các dân tộc có thể thực sự đoàn kết lại thì họ
phải có những lợi ích chung. Muốn cho những lợi ích của họ trở thành lợi ích
chung thì những quan hệ sở hữu hiện có phải bị thủ tiêu, bởi lẽ những quan hệ
sở hữu hiện có tạo điều kiện cho một số dân tộc này bóc lột một số dân tộc
khác; chỉ có giai cấp công nhân là thiết tha với việc thủ tiêu những quan hệ sở
hữu hiện tồn. Duy chỉ có mình nó mới có thể làm được việc này. Giai cấp vô
sản chiến thắng giai cấp tư sản đồng thời còn có nghĩa là khắc phục tất cả những 11
cuộc xung đột dân tộc và xung đột công nghiệp hiện nay đang sinh ra sự thù hằn
giữa các dân tộc. Vì vậy mà thắng lợi của giai cấp vô sản đối với giai cấp tư sản
đồng thời còn là dấu hiệu giải phóng tất cả các dân tộc bị áp bức” .
3. Chủ nghĩa quốc tế vô sản là sự thống nhất về tư tưởng trong giai cấp công nhân.
Mác khẳng định: “Sự thống trị của tư bản là có tính chất quốc tế. Chính
vì thế, cuộc đấu tranh của công nhân ở tất cả các nước để tự giải phóng, chỉ có
thể thành công được, nếu công nhân cùng nhau đấu tranh chống lại tư bản quốc tế”.
Sự thống nhất về tư tưởng có được không phải chỉ từ sự đồng cảm của
những người cùng bị tư bản bóc lột, mà còn từ sự phát triển trí tuệ, từ cuộc đấu
tranh tư tưởng nội bộ thông qua tranh luận. Trong Lời tựa viết cho bản tiếng
Đức của Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, tái bản năm 1890, Ph.Ăngghen đã
nhấn mạnh: “Để đạt tới thắng lợi cuối cùng của những nguyên lý đã đề ra trong
“Tuyên ngôn”, Mác chỉ tin tưởng vào sự phát triển trí tuệ của giai cấp công
nhân, sự phát triển mà hành động chung và tranh luận chung nhất định sẽ mang lại”.
Nó còn xuất hiện từ sự giáo dục lâu dài, chu đáo và kỹ lưỡng của các tổ
chức chính trị của giai cấp công nhân. Lênin viết: “... muốn cho cách mạng vô
sản thắng lợi thì phải giáo dục lâu dài cho công nhân tinh thần bình đẳng và hữu
nghị dân tộc đầy đủ nhất”(6). Lênin còn nói: “Thắng lợi của cách mạng vô sản
thế giới đòi hỏi giai cấp công nhân các nước tiên tiến phải hết sức tin cậy lẫn
nhau, đoàn kết anh em hết sức chặt chẽ với nhau và phải hết sức nhất trí trong
các hành động cách mạng của họ”.
Và sự thống nhất ấy có được, còn từ chiều sâu của nhận thức về nhu cầu
phát triển của nhân loại: “... đối lập với xã hội cũ cùng với sự bần cùng về kinh 12
tế và sự điên rồ về chính trị của nó đang xuất hiện một xã hội mới mà nguyên
tắc quốc tế phải là hòa bình, bởi vì cùng một nguyên tắc giống nhau ngự trị ở tất
cả các dân tộc - lao động!”
4. Chủ nghĩa quốc tế vô sản là sự thống nhất về mục tiêu quốc tế
của giai cấp công nhân với việc họ trở thành giai cấp đại biểu
cho lợi ích của dân tộc.
Đó là sự thống nhất về ý chí và hành động của công nhân. Ăngghen viết:
“Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại!”, một khẩu hiệu công khai tuyên bố tính
chất quốc tế của cuộc đấu tranh, và ngày nay, “giai cấp vô sản chiến đấu ở tất cả
các nước đều ghi khẩu hiệu đó trên lá cờ của mình”(9). Và theo đó: “Cuộc đấu
tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản, dù về mặt nội dung, không
phải là một cuộc đấu tranh dân tộc, nhưng lúc đầu lại mang hình thức đấu tranh
dân tộc. Đương nhiên là trước hết, giai cấp vô sản mỗi nước phải thanh toán
xong giai cấp tư sản nước mình đã”.
Chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân phù hợp cơ bản về lợi ích và
với những xu hướng tiến bộ của vấn đề dân tộc hiện đại. Trong Lời tựa cho lần
xuất bản Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản bằng tiếng Ý năm 1893, Ăngghen coi
nhiệm vụ giải quyết vấn đề độc lập dân tộc như một tiền đề để giai cấp công
nhân thực hiện tốt chủ nghĩa quốc tế: “Không khôi phục lại độc lập và thống
nhất cho từng dân tộc thì về phương diện quốc tế, không thể thực hiện được sự
đoàn kết của giai cấp vô sản và sự hợp tác hòa bình và tự giác giữa các dân tộc
đó để đạt tới mục đích chung ”. Trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, Lênin đã phát
hiện ra sự gắn bó về lợi ích giữa giai cấp công nhân và các dân tộc trong quá
trình đấu tranh để tự giải phóng. Từ đó Người đã phát triển khẩu hiệu hành động
chiến lược của Tuyên ngôn thành: Giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức
trên toàn thế giới hãy đoàn kết lại! “Đối lập với thế giới cũ, cái thế giới của áp
bức dân tộc, của sự phân tranh dân tộc hoặc của sự tách biệt giữa các dân tộc,
công nhân đưa ra một thế giới mới, một thế giới trong đó những người lao động 13
thuộc mọi dân tộc đoàn kết với nhau, trong đó không có chỗ cho bất cứ một đặc
quyền đặc lợi nào, cũng như không có chỗ cho bất cứ một sự áp bức nào giữa người với người ”.
Chủ nghĩa quốc tế vô sản không chấp nhận, không điều hòa với các thứ
chủ nghĩa dân tộc. Lênin viết: “Chủ nghĩa Mác không thể điều hòa được với chủ
nghĩa dân tộc, dù là chủ nghĩa dân tộc “công bằng”, “thuần khiết”, tinh vi và
văn minh đến đâu đi nữa. Thay cho mọi chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa Mác đưa
ra chủ nghĩa quốc tế...” vì “Chúng ta phản đối những mối hằn thù dân tộc,
những mối bất hòa dân tộc, sự biệt lập dân tộc. Chúng ta là những người quốc tế
chủ nghĩa”. Theo đó, “trước hết cần phải giữ vững tinh thần quốc tế chân chính,
tinh thần đó sẽ loại trừ sự xuất hiện của mọi thứ chủ nghĩa sô-vanh...”
5. Chủ nghĩa quốc tế vô sản là sự thống nhất nhận thức lý luận về
sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp công nhân.
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân chính là hạt nhân lý luận - khoa
học cho sự đoàn kết và hợp tác hành động của công nhân thế giới. Những
nguyên lý lý luận ấy là sự đúc kết từ thực tiễn. “Chủ nghĩa cộng sản nảy sinh ra
từ nền đại công nghiệp và những hậu quả của đại công nghiệp, từ sự xuất hiện
của thị trường thế giới và cuộc cạnh tranh không thể kìm hãm được do sự xuất
hiện của thị trường thế giới gây ra; từ những cuộc khủng hoảng thương nghiệp
ngày càng có tính chất phá hoại và tính chất phổ biến và giờ đây đã hoàn toàn
trở thành những cuộc khủng hoảng của thị trường thế giới; từ sự hình thành ra
giai cấp vô sản và sự tích tụ của tư bản; và từ cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai
cấp vô sản và giai cấp tư sản do đó mà nảy sinh ra”.
Nó chỉ ra sứ mệnh giải phóng toàn nhân loại của giai cấp công nhân hiện
đại: “... lịch sử của cuộc đấu tranh giai cấp đó hiện nay đã phát triển tới giai
đoạn trong đó giai cấp bị bóc lột và bị áp bức, tức là giai cấp vô sản, không còn
có thể tự giải phóng khỏi ách của giai cấp bóc lột và áp bức mình, tức là giai cấp 14
tư sản, nếu không đồng thời và vĩnh viễn giải phóng toàn xã hội khỏi ách bóc
lột, áp bức, khỏi sự phân chia giai cấp và đấu tranh giai cấp”.
Lý luận về giai cấp công nhân còn xuất phát từ kinh nghiệm đấu tranh
chính trị. Mác viết: “... chúng ta hãy nhớ một nguyên tắc cơ bản của Quốc tế: sự
đoàn kết. Chúng ta sẽ đạt được mục đích vĩ đại mà chúng ta đang hướng tới,
nếu chúng ta củng cố vững chắc nguyên tắc đầy sức sống ấy trong tất cả các
công nhân ở tất cả các nước. Cách mạng là phải đoàn kết, kinh nghiệm lớn lao
của Công xã Pa-ri đã dạy chúng ta như thế; Công xã Pa-ri sở dĩ thất bại vì tất cả
những trung tâm chính như Béc-lin, Ma-đrít,v.v., đã không đồng thời bùng nổ
một phong trào cách mạng to lớn tương xứng với trình độ đấu tranh cao của giai cấp vô sản Pa-ri”.
6. Chủ nghĩa quốc tế vô sản là sự phối hợp hành động cách mạng
của giai cấp công nhân ở các nước trên toàn thế giới.
Tổ chức quốc tế của giai cấp công nhân là biểu hiện đầu tiên về sự phối
hợp hành động của giai cấp vô sản. Tổ chức ấy được sinh ra từ giác ngộ về giai
cấp. Việc hình thành một trung tâm quốc tế để lãnh đạo cuộc đấu tranh của giai
cấp công nhân ở các nước, từ đó thúc đẩy sự ra đời của chính đảng của giai cấp
công nhân ở từng nước là sứ mệnh hàng đầu của các tổ chức quốc tế của những
người cộng sản. “Liên đoàn những người cộng sản” là tổ chức đầu tiên được
thành lập trên cơ sở của sự giác ngộ lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học do Mác
và Ăngghen xây dựng. Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (3-1848) được coi là
“bản khai sinh” của tổ chức quốc tế đầu tiên này. Những nguyên lý mà Mác và
Ăngghen trình bày trong tác phẩm này là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho
toàn bộ hoạt động phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Từ đó đến nay, về
mặt tổ chức quốc tế, giai cấp công nhân và những người cộng sản trên toàn thế
giới đã có nhiều sáng tạo về hình thức tổ chức: từ các tổ chức như Quốc tế I
(1864 - 1889), Quốc tế II (1889 - 1914), Quốc tế III (Quốc tế cộng sản 1919 -
1943) đến các hình thức tổ chức quốc tế tương đương như Cục thông tin quốc 15
tế, Hội nghị các đảng cộng sản và công nhân quốc tế, Diễn đàn thường niên của
các đảng cộng sản và công nhân quốc tế v.v.. Mác, Ăngghen và Lênin là những
lãnh tụ đã dành nhiều công sức, trí tuệ cho việc xây dựng những tổ chức quốc tế
đầu tiên và định ra cương lĩnh chiến đấu, lý luận chỉ đạo cho phong trào công
nhân thế giới - biểu hiện sinh động chủ nghĩa quốc tế vô sản.
Sự phối hợp hành động cách mạng có nhiều biểu hiện, gần gũi nhất là sự
ủng hộ, giúp đỡ, phối hợp hành động giữa giai cấp công nhân của các dân tộc đã
được đoàn kết lại. Lênin từng trao nhiệm vụ cho Quốc tế III: “Trong tất cả các
nước thuộc địa và các nước lạc hậu, không những chúng ta phải đào tạo những
cán bộ độc lập, xây dựng nên những tổ chức đảng, không những phải tiến hành
tuyên truyền ngay từ giờ cho việc tổ chức các Xô-viết nông dân và cố gắng làm
cho các Xô-viết đó phù hợp với những hoàn cảnh tiền tư bản chủ nghĩa, mà
Quốc tế cộng sản còn phải xác định và chứng minh trên lý luận cho một nguyên
tắc là: với sự giúp đỡ của giai cấp vô sản các nước tiên tiến, các nước lạc hậu có
thể tiến tới chế độ xô-viết, và qua những giai đoạn phát triển nhất định, tiến tới
chủ nghĩa cộng sản, không phải trái qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”.
Sự phối hợp hành động ấy còn bao gồm cả sự kết hợp cuộc cách mạng
của giai cấp công nhân chính quốc với các phong trào dân tộc, dân chủ. “Cuộc
cách mạng xã hội chỉ có thể tiến hành được dưới hình thức một thời đại kết hợp
cuộc nội chiến của giai cấp vô sản chống giai cấp tư sản trong các nước tiên
tiến, với cả một loạt phong trào dân chủ và cách mạng, kể cả những phong trào
giải phóng dân tộc trong các nước chưa phát triển, lạc hậu và bị áp bức”.
Sự thống nhất, phối hợp hành động của giai cấp vô sản ở các nước cũng
chấp nhận những sự khác biệt về chi tiết khi vận dụng các nguyên lý của chủ
nghĩa quốc tế. Lênin từng nhắc nhở: “Chừng nào mà giữa các dân tộc và các
nước vẫn còn những sự khác nhau về dân tộc và về chế độ nhà nước - những sự
khác nhau này, ngay cả khi nền chuyên chính của giai cấp vô sản đã được thiết
lập trên phạm vi toàn thế giới, cũng vẫn còn tồn tại trong một thời gian lâu, rất 16
lâu, - thì chừng đó, sự thống nhất sách lược quốc tế của phong trào công nhân
cộng sản ở tất cả các nước vẫn không đòi hỏi phải xóa bỏ mọi mầu sắc khác
nhau..., mà nó đòi hỏi phải áp dụng những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa
cộng sản. (Chính quyền xô-viết và chuyên chính vô sản) sao cho những nguyên
tắc ấy được cải biến đúng đắn trong những vấn đề chi tiết, được làm cho phù
hợp, cho thích hợp với những đặc điểm dân tộc và đặc điểm nhà nước - dân tộc”.
Như vậy, chủ nghĩa quốc tế vô sản là một hệ thống lý luận chỉ đạo giai
cấp công nhân quốc tế về chính trị, tư tưởng, tổ chức và hành động trong quá
trình cùng nhau thực hiện sứ mệnh mà lịch sử trao cho: đấu tranh xóa bỏ
CNTB và xây dựng thành công CNXH, chủ nghĩa cộng sản trên phạm vi toàn thế giới. II.
Sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam
1. Vận dụng, phát triển sáng tạo về lực lượng cách mạng
Trong giai đoạn ĐQCN, V.I.Lênin nêu khẩu hiệu “Giai cấp vô sản và các
dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại!”. Hồ Chí Minh nhấn mạnh:
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
Thành công, thành công, đại thành công”19.
Khẩu hiệu đoàn kết của Hồ Chí Minh chứa đựng ba tầng đoàn kết: đoàn kết
trong Đảng, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế và tỷ lệ thuận giữa sức mạnh
đoàn kết và khả năng thành công. Người chỉ rõ: “Vì bị áp bức mà sinh ra cách
mệnh, cho nên ai mà bị áp bức càng nặng thì lòng cách mệnh càng bền, chí cách
mệnh càng quyết”20. Khái niệm “dân tộc cách mệnh” trong di sản tư tưởng Hồ
Chí Minh chứa đựng một hàm lượng khoa học, sáng tạo lớn trong việc tổ chức
lực lượng cách mạng, chính xác là xây dựng chiến lược đại đoàn kết toàn dân
tộc. Toàn thể dân tộc Việt Nam bị áp bức đồng tâm hiê •p lực đánh đuổi thực dân 17
Pháp, “thà chết được tự do hơn sống làm nô lệ”. Người cũng luôn khẳng định
tinh thần “bốn phương vô sản đều là anh em”.
2. Vận dụng, phát triển nhận thức lý luận về thời kỳ quá độ
Việt Nam cùng loại hình phương thức quá độ gián tiếp như nước Nga,
nhưng với những đặc điểm một nước thuộc địa, tiến trình cách mạng Việt Nam
từ giải phóng dân tộc đến dân chủ nhân dân, xây dựng CNXH là sự kế tục một
cách mật thiết, đan xen, đồng thời, mặt này trong mặt kia trong cùng một quá
trình vận động các mặt kinh tế-xã hội theo định hướng XHCN. Tất nhiên có
trọng tâm, ở mỗi bước có mặt nổi lên chi phối, không thể “vượt bỏ giai đoạn”,
nhưng cũng không thể “từ từ từng bước”. Đặc điểm đó của chế độ dân chủ nhân
dân, đồng thời cũng liên quan đến đặc điểm của thời kỳ quá độ của một thứ
cách mạng điển hình. Quá độ lên CNXH ở Việt Nam là như thế và nhất định
phải như thế. Chế độ dân chủ nhân dân có thể gọi là “quá độ của quá độ”. Nó
không phải là một chặng đường của thời kỳ quá độ, nhưng là một chế độ có tính
chất quá độ, ít nhiều làm chức năng của thời kỳ quá độ.
Theo Hồ Chí Minh, “đặc điểm to nhất của ta trong thời kỳ quá độ là từ
một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh
qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”21. Nói đặc điểm to nhất có thể hiểu là
khó khăn, phức tạp nhất, một cuộc chiến đấu khổng lồ. Nói tiến thẳng là theo
tinh thần của chủ nghĩa Lênin về con đường phát triển bỏ qua chế độ TBCN
trong những điều kiện lịch sử cho phép. Nhưng bỏ qua không có nghĩa là đốt
cháy giai đoạn, chủ quan, nóng vội, phiêu lưu làm ẩu, duy ý chí.
Đặc điểm to nhất chứa đựng trong đó mâu thuẫn cơ bản của thời kỳ quá
độ ở nước ta là mâu thuẫn giữa một bên là yêu cầu, đòi hỏi tất yếu của CNXH
phải có một nền công nghiệp hiện đại, nông nghiệp hiện đại, văn hóa khoa học
tiên tiến với một bên là trình độ thấp kém, lạc hậu do thực dân, phong kiến để 18
lại. Thực tế lạc hậu của xã hội Việt Nam cho thấy thời kỳ quá độ ở nước ta xuất
hiện hệ thống mâu thuẫn đan xen, phức tạp, vừa mang tính đối kháng vừa mang
tính không đối kháng, xét đến cùng đó là mâu thuẫn giữa con đường XHCN và con đường tự phát TBCN.
Quá độ lên CNXH ở Việt Nam trong điều kiện đồng thời tiến hành hai
chiến lược cách mạng, thực hiện hai quy luật trên một ý nghĩa nào đó là “trái
ngược” nhau: xóa bỏ và xây dựng. Chúng ta phải vừa cải tạo vừa xây dựng, vừa
sản xuất vừa chiến đấu. Điều này chưa có tiền lệ. Theo Giáo sư Nhật Bản, Singô
Sibata, “một trong những cống hiến quan trọng của Cụ Hồ Chí Minh và của
Đảng Lao động Việt Nam là đã đề ra lý luận về xây dựng chủ nghĩa xã hội trong
khi vẫn tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân. Theo tôi được biết, Đảng Lao
động Việt Nam là đảng đầu tiên trong các đảng mácxít trên thế giới áp dụng lý luận này”. PHẦN KẾT LUẬN
Trong bối cảnh chính trị mới của thế giới hiện nay, chủ nghĩa quốc tế vô
sản vẫn là quy luật vận động phát triển và thắng lợi của cuộc đấu tranh của giai
cấp công nhân trên toàn thế giới. Dĩ nhiên, cần thấy rằng, đã và đang xuất hiện
nhiều thách thức, khó khăn mới từ chiến lược toàn cầu của chủ nghĩa đế quốc,
từ “chủ nghĩa tự do mới” và chủ nghĩa quốc gia - dân tộc hiện đại... Thực tế đó
đòi hỏi mỗi đảng cộng sản và toàn thể phong trào công nhân thế giới cần phải
nỗ lực, đoàn kết và sáng tạo để vượt qua. Trung thành và vận dụng sáng tạo chủ
nghĩa quốc tế vô sản trong điều kiện mới vẫn là phương châm hành động của chúng ta.
Những phân tích nêu trên chứng minh, làm rõ khẳng định của Đảng:
“Trong khi giải quyết những vấn đề của cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã góp phần phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin trên nhiều vấn đề quan trọng, 19
đặc biệt là lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc và tiến lên chủ nghĩa xã hội
ở các nước thuộc địa và phụ thuộc”. TÀI LIỆU THAM KHẢO
C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.87-88.
V.I.Lênin: Toàn tập, t.3, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1976, tr.694.
C.Mác và Ph.Ăngghen: Sđd, t.4, tr.526-527, 611.
V.I.Lênin: Sđd, t.2, tr.115.
C.Mác và Ph.Ăngghen: Tuyển tập, t.I, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1980, tr.524, 534, 432-433, 517.
V.I.Lênin: Sđd, t.26, tr.132. Sđd,t.38, tr.132.
C.Mác và Ph.Ăngghen: Tuyển tập, t.III, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1980, tr.641, 634.
V.I.Lênin: Sđd, t.23, tr.194.
C.Mác và Ph.Ăngghen: Tuyển tập, t.IV, Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1980, tr.212.
V.I.Lênin: Sđd, t.41, tr.294-295, 96. 20